Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

CHỦ NGHĨA cơ hội TRONG tác PHẨM làm gì ý NGHĨA đối với CUỘC đấu TRANH CHỐNG CHỦ NGHĨA cơ hội ở nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (103.47 KB, 18 trang )

Thu hoạch tác phẩm:
tác phẩm làm gì với vấn đề nguồn gốc, bản chất,
đặc điểm chủ nghĩa cơ hội và cuộc đấu tranh đẩy lùi nó
trong công tác xây dựng đảng ta hiện nay
Nhằm mục đích chống lại và đánh bại khuynh hớng cơ hội chủ nghĩa của
phái kinh tế ở Nga, đồng thời cũng để chống chủ nghĩa cơ hội quốc tế, đặt cơ sở
cho việc thành lập một chính đảng tập trung thống nhất của giai cấp công nhân,
Lênin đã tập hợp các bài viết trong báo tia lửa với nhan đề bắt đầu từ đâu? từ
tháng 5 năm 1901 và viết tác phẩm làm gì?.Đợc xuất bản vào tháng 2 năm
1902. Trong tác phẩm Làm gì của mình, lần đầu tiển trong lịch sử Mác xít,
Lênin đã bóc trần triệt để nguồn gốc, bản chất, đặc điểm t tởng của chủ nghĩa cơ
hội.
Trong hoàn cảnh, chế độ nông nô bị bãi bỏ (1861), Chủ nghĩa t bản ở Nga
phát triển mạnh, nhng công nhân và nông dân Nga vẫn phải sống dới ách thống trị
tàn bạo của Nga hoàng. Công nhân và nông dân không đợc hởng một chút quyền
tự do chính trị nào.
GCCN Nga phát triển rất nhanh về số lợng từ 7 vạn (1965) sang đầu thế kỷ
XX tăng lên 3 triệu ngời và bắt đầu thức tỉnh để đấu tranh, lúc đầu bằng cách đập
phá máy móc, cửa kính trong xởng. Phá hoại phòng làm việc và các cửa hàng làm
việc của chủ , rồi họ dần hiểu rằng, muốn đấu tranh chống t bản thắng lợi, công
nhân phải có tổ chức và thông qua tổ chức. Vì lẽ đó, Hai tổ chức đầu tiên là: Hội
liên hiệp công nhân miền nam Nga thành lập ở ôđétxa (1875) , sau đó Hội liên
hiệp công nhân miền Bắc Nga (1878) ở pêtécbua. Nhng bị Nga hoàng đàn áp và
phá tan, còn phong trào công nhân càng phát triển lên cao, trong 5 năm(18811886) có tới 48 cuộc bãi công, số công nhân tham gia có tới 8 vạn ngời.
Nhờ cao trào công nhân trong nớc và chịu ảnh hởng của phong trào công
nhân Tây Âu, các tổ chức mácxít đầu tiên đợc thành lập ở Nga. Nhóm đầu tiên
gọi là: Nhóm giải phóng lao Động tổ chức ở giơnevơ do Plêkhanốp lãnh đạo,
nhóm này đã cố gắng và có nhiều hình thức để truyền bá chủ nghĩa Mác vào nớc
Nga, nhng lại bị Phái dân túy đang chiếm u thế trong công nhân tiên tiến và tầng



lớp tri thức có tinh thần cách mạng ngăn cản. Theo Phái dân túy, lực lợng cách
mạng chính là nông dân, và có thể lật đổ Nga hoàng bằng các cuộc bạo động của
nông dân, họ đã không hiểu gccn là lực lợng cơ bản của cách mạng, phủ nhận vai
trò của quần chúng nên không hoạt động cách mạng trong quần chúng công nhân
và nông dân. Với quan điểm và phơng pháp hoạt động nh thế, nên Phái dân túy đã
làm cho quần chúng lao động lạc hớng, sao nhãng cuộc đấu tranh chống lại giai
cấp áp bức bóc lột, lật đổ nền thống trị về chính trị của nó. Họ làm cho GCCN
không nhìn thấy vai trò của mình, và cản việc thành lập một chính Đảng độc lập
của GCCN. Vì vậy, muốn truyền bá chủ nghĩa Mác vào Nga thì phải đấu tranh
chống chủ nghĩa dân túy. Nhóm giải phóng lao động đã không đánh bại đợc t tởng của Phái dân túy, vì họ còn phạm những sai lầm nghiêm trọng, ngay trong
bản cơng lĩnh đầu tiên của họ còn ảnh hởng của Phái dân túy, họ không đả động
gì đến vai trò của giai cấp nông dân trong cách mạng, mà lại cho rằng giai cấp t
sản tự do Nga là một lực lợng cách mạng có thể ủng hộ cách mạng mặc dù sự ủng
hộ không vững trắc, hơn thế nữa họ cũng nh các tổ chức mácxít khác cha hề liên
hệ với phong trào công nhân (PTCN). Cho nên họ chỉ thành lập đợc Đảng dân chủ
xã hội Nga trên lí thuyết, cha kết hợp chủ nghĩa xã hội khoa học (CNXHKH) với
PTCN.
PTCN tự phát ngày càng phát triển mạnh ở Nga, đồng thời cũng đặt ra yêu
cầu phải kết hợp CNXHKH với PTCN. Lần đầu tiên ở Nga, Lênin đã tổ chức lại
các tổ chức của công nhân ở Pêtécbua thành hội liên hiệp chiến đấu giải phóng
giai cấp công nhân pêtécbua. Tổ chức đó là mầm mống chủ yếu, tổ chức tiền thân
của một đảng cách mạng dựa vào PTCN. Nhng không không bao lâu, hội bị chính
quyền Nga hoàng khủng bố. Lênin và các bạn chiến đấu của ngời bị bắt, trong
thành phần của ban lãnh đạo hội liên hiệp giai phóng GCCN ở Pêtécbua có sự
thay đổi lớn, một số nhân vật tự nhận là thanh niên còn lênin và các bạn chiến
đấu của ngời là già. Họ chủ trơng: công nhân chỉ nên đấu tranh về kinh tế
chống lại bọn chủ, còn đấu tranh chính trị là công việc của giai cấp t sản (GCTS)
tự do và quyền lãnh đạo cuộc đấu tranh chính trị nên để cho GCTS tự do. Đó là
phái kinh tế, bao gồm bộn cơ hội, thỏa hiệp đầu tiên trong hàng ngũ các tổ chức
mácxít ở Nga. Lênin cho rằng phái kinh tế là trung tâm chính sách thỏa hiệp và



chủ nghĩa cơ hội, nếu phái đó lãnh đạo phong trào công nhân có nghĩa là phong
trào cách mạng tan rã và chủ nghĩa Mác thất bại. Do đó, muốn thành lập đợc
chính đảng của GCCN phải đánh bại phái kinh tế.
Năm 1898, Đại hội lần 1 của Đảng công nhân dân chủ-xã hội Nga tuyên bố
thành lập Đảng. Đại hội không thông qua đợc cơng lĩnh và điều lệ, BCH TW do
đại hội bầu ra đều bị bắt. Nên sau Đại hội, sự dao động về t tởng, phân tán về tổ
chức của Đảng càng biểu hiện rõ rệt. Song điều đó không làm cho phong trào
công nhân chậm phát triển, mà yêu cầu cấp bách đòi hỏi phải thành lập một đảng
cách mạng tập trung thống nhất của GCCN, có đủ khả năng lãnh đạo PTCM, nhng
lại gặp rất nhiều khó khăn: Chính quyền Sa hoàng đàn áp dã man phong trào cách
mạng và dùng mọi thủ đoạn bỏ tù cho đi đày các cán bộ u tú của Đảng; Một số
lớn các ban chấp hành các địa phơng và cán bộ địa phơng quen làm việc trong
tình trạng lộn xộn về t tởng, phân tán về tổ chức, nên không thấy sự cần thiết cấp
bách của một đảng thống nhất tập trung; Trong Đảng lúc đó co một nhóm cơ quan
ngôn luận riêng (nh: báo T tởng công nhân và báo Sự nghiệp công nhân) đòi bào
chữa về mặt lí luận cho sự giao động về t tởng, phân tán về tổ chức, họ phản đối
việc thành lập một chính đảng cách mạng tập trung thống nhất. Nhóm đó chính là
phái kinh tế trong Đảng xã hội dân chủ xã hội Nga. Thực chất khuynh hớng của
phái kinh tế ở Nga lúc đó là phủ nhận vai trò lí luận cách mạng cách mạng, tức
là vai trò của CNXHKH. Sùng bái tính tự phát của PTCN, phủ nhận vai trò lãnh
đạo của Đảng đối với PTCN, phủ nhận CMVS và CCVS.
Từ những điều trên Lênin nhận thấy, muốn thành lập một chính đảng tập
trung thống nhất, trớc hết phải đánh bại các quan điểm t tởng cơ hội của phái
kinh tế biểu hiện chủ nghĩa cơ hội Béstanh ở Nga.
Tác phẩm làm gì ? bao gồm: Lời tựa, 5 chơng và phụ lục, với hơn 245
trang, đây là tác phẩm lớn. Trong tác phẩm Lênin vạnh trần bản chất, nguồn gốc,
đặc điểm của chủ nghĩa cơ hội, phê phán chủ nghĩa cơ hội sùng bái chủ nghĩa
công liên, mà thực chất là phủ nhận vai trò lí luận Mác xít, phủ nhận vai tò lãnh

đạo của đảng cách mạng, Lênin chỉ ra sự khác nhau căn bản về quan điểm nhiệm
vụ chính trị của đảng kiểu mới với đảng kiểu cũ theo quan điểm công liên chủ
nghĩa cơ hội lũng loạn. Đảng kiểu cũ cho rằng: đảng và giai cấp công nhân không


phải đi lật đổ nhà nớc t sản mà là thừa nhận nó, chỉ nên đấu tranh đòi những cải
cách về dân sinh, dân chủ trong khuân khổ chế độ đó. Ngời chỉ rõ: cuộc đấu
tranh kinh tế chống chính phủ đó là công liên chủ nghĩa, từ đó đến chính tri dân
chủ xã hội thì còn cách và rất xa, mục tiêu nhiệm vụ chính trị của đảng kiểu mới
là làm cách mạng vô sản, lật đổ chế độ t bản, thiết lập chuyên chính vô sản. Về
hình thức vcà tính chất đấu tranh không chỉ đơn thuần đấu tranh về kinh tế mà cơ
bản bao trùm và tập trung hơn là đấu tranh chính trị, không những là để đạt đợc
những điều kiện có lợi trong việc bán sức lao động, mà còn để thủ tiêu cái chế độ
xã hội nó bắt buộc những ngời tay trắng phải bán mình cho bọn nhà giầu 1;
Khảng định vai trò tầm quan trọng của lí luận cách mạng đối với phong trào công
nhân và Đảng dân chủ xã hội Nga, Lênin viết: chỉ Đảng nào đợc một lí luận tiên
phong hớng dẫn mới có khả năng làm tròn chiến sĩ tiên phong; Chỉ ra khâu quyết
định, mắt xích quan trọng nhất để thành lập đảng là phải ra đợc tờ báo chính trị
bất hợp pháp. Đây còn là tác phẩm chuyên khảo về xây dựng đảng và mang tính
bút chiến sâu sắc để đấu tranh đánh bại chủ nghĩa cơ hội. Những luận điểm trong
tác phẩm là bớc phát triển lớn trong học thuyết Mác - Lênin về Đảng cộng sản, đã
xác lập cơ sở chính trị t tởng, tổ chức của đảng kiểu mới, là tiêu trí để phân biệt
với các đảng dân chủ Tây âu đang bị lũng loạn.
Để nhận diện chủ nghĩa cơ hội, Lênin đã vạch rõ nguồn gốc, bản chất đặc
điểm của chủ nghĩa cơ hội nói chung và phái kinh tế ở Nga nói riêng.
Chủ nghĩa cơ hội xuất hiện ở trong hàng ngũ những ngời Dân chủ- xã hội
vào năm 1875, việc sát nhập hai tổ chức Tổng hội liên hiệp công nhân Đức của
Lát san vào Đảng Dân chủ - xã hội Đức do lít nếc lãnh đạo thanhd Đảng Công
nhân dân chủ-xã hội Đức tai gô ta với cơng lĩnh sai lầm về dờng lối thỏa hiệp
hữu khuynh, nhợng bộ phái lát san, đã làm xuất hiện mầm mống chủ nghĩa cơ

hội. đối với latsan cơng lĩnh về chính trị cơng lĩnh chính trị là đấu tranh cho
quyền phổ thông đầu phiếu, cơng lĩnh về kinh tế là đòi thành lập các nghiệp đoàn
do nhà nớc tự cấp. Phái latsan là tiền thân của chủ nghĩa cơ hội trong Đảng công
nhân xã hội dân chủ Đức và t tởng của phái này là một trong những nguồn gốc
của chủ nghĩa cơ hội.
1

Trang 82


Sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa cơ hội trong quốc tế hai cuối thế kỷ
XIX đầu thế kỷ XX không phải là một hiện tợng ngẫu nhiên, nó có nguồn gốc của
nó và nó phản ánh cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản và GCTS trong nội
bộ PTCS và PTCN ngày càng quyết liệt sâu sắc, sau khi Ăngghen mất bọn
Bestanh và những đai biểu của những trào lu thù địch với chủ nghĩa Mác trong
phonh trào dân chủ - xã hội Đức và quốc tế đã nấp dới chiêu bài tự do phê bình
để tiến hành xét lại chủ nghĩa Mác. Chúng đã xuyên tạc và phủ nhận những
nguyên lí Triết học, Kinh tế, Chính trị của chủ nghĩa Mác và thay những nguyên
lí đó bằng những lí luận t sản về điều hòa mâu thuẫn giai cấp, về sự hợp tác giai
cấp. Besctanh lí luận rằng dới chế độ t bản, công nhân không bị bần cùng hóa mà
còn đợc thờng xuyên cải thiện điều kiện hoạt động nh với giai cấp t sản tự do, nhờ
đó mà đã thu đợc những thắng lợi to lớn trong các cuộc tuyển cử và hoạt động
nghị trờng.
Lênin đã vạch rõ quan điểm của bestanh, chủ nghĩa cơ hội xết lại : ông ta
phủ nhận khả năng đem lại cho chủ nghĩa cơ họi một cơ sở khoa học và khả năng
chứng minh theo quan điểm duy vạt lịch sử, rằng chủ nghĩa xã hội là tất yếu
không thể tránh khỏi, ông ta phủ nhận tình trạng bần cùng hóa ngày càng tăng ,
phủ nhận sự vô sản hóa và tình trạng những mâu thuẫn TBCN ngày càng trầm
trọng ; ông ta tuyên bố rằng ngay cả quan niệm về mục đích cuối cùng cũng
không vững chắc gì và kiên quyết bác bỏ chuyên chính vô sản, ông tra phủ nhận

sự đói lập về nguyên tắc giữa chủ nghĩa tự do và chủ nghã xã hội, ông ta phủ nhận
đấu tranh giai cấp; cho là không thể áp dụng đợc lí luận đó vào một xã hội thực sự
dân chủ đợc quản lí theo ý chí của đa số vv..2
Nh vậy, về thực chất tự do phê bình của chr nghĩa xét lại là khuynh hớng
mang bản chất t sản đối với chủ nghĩa Mác, là đòi thay thees chủ nghĩa Mác chỉ
lấy ở chủ nghĩa Mác những điều gì mà gia cấp t sản có thể chấp nhận đợc , Lênin
chỉ rõ: ... tự do phê bình là tự do của khuynh hớng cơ hội chủ nghĩa trong đảng
dân chủ xã hội, là tự do biến Đảng dân chủ - xã hội thành một đảng dân chủ cải l-

2

tr 8.9


ơng, là tự do đa những t tởng t sản và những thành t sản vào trong chủ nghĩa xã
hội3, đó chính là bản chất của tự do phê bình
Chủ nghĩa cơ hội là ngời bạn đồng hành của chủ nghĩa xét lại, chúng giả
danh là những ngời Mác xít để chống lại chủ nghĩa Mác. quan điểm của chúng là
thỏa hiệp, cải lơng về mục đích về nhiệm vụ chính trị của GCCN và cuộc đấu
tranh của GCCN chống lại GCTS . điều đó có nghĩa là chúng chống lại cách mạng
vô sản, CCVS. Bản chất của CNCH là tuy không công khai phủ nhận chủ nghĩa
Mác nhng chumngs xuyên tạc hoài nghi chủ nghĩa Mác, chúng chỉ giữ lại hình
thức mà vứt bỏ nội dung, giữ lai thể xác mà vứt bỏ linh hồn của chủ nghĩa Mác ,
nh vậy, về bản chất CNCH và xét lại là một. Chúng có mỗi quan hệ chặt chẽ, tác
động và chuyển hóa lẫn nhau, chúng đều phủ nhận những nguyên lí cơ bản của
chủ nghĩa Mác, ranh giới giữa chúng là không phân biệt, chúng luôn ẩn mình,
luồn lách để phá hoại Đảng, phá hoại PTCS và PTCN
Sau khi Đảng dân xa hội Đức ra đời thì hàng loạt các đảng ở các nớc
khác đợc thành lập. Tính đến năm 1896, toàn châu âu đã có trên dới mời lăm nớc
có đảng của gia cấp công nhân và phần đều mang tên dân chủ- xã hội, đây là các

đảng Mác xít chân chính lấy chủ nghĩa Mác làm nền tảng t tơpngr lí luận. Sau khi
Ăngghen mất, CNCH xét lại do Becstanh và bọn phản động trong quốc tế II đã
lũng loạn các đảng dân chủ xã hội, biến các đảng từ một đảng chủ trơng cách
mạng xã hội thành một đảng dân chủ cải lơng xã hội những đảng này trở thành
đảng có t tởng mập mờ, mơ hồ, dao động, hoài nghi chủ nghĩa Mác, phản lại lợi
ích GCCN, phản bội PTCN, thỏa hiệp với GCTS
Bằng những hoạt động lí luận và thực tiễn, thông qua tác phẩm lí luận có
tính chiến đấu cao chống chủ nghĩa cơ hội, bằng sự ra đời của Đảng công nhân
dân chủ xã hội Nga và quốc tế III, các đamngr daan chủ xã hội bị phân hóa sâu
sắc. các đabgr phái tả là các đảng cộng sản kiên trì vận dụng và phát triển chủ
nghĩa Mác để thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình. Còn các đảng phái hữu là các
đảng dân chủ xã hội còn tồn tai cho đến ngày nay, các đảng này đặc biệt phát
triển vào những thập kỷ 80, 90 của thế kỷ XX và nhiều đảng đã nắm chính quyền
ở các nớc t sản. quan điểm của các đảng này về kinh tế là xây dựng một nền kinh
3

tr11


tế tộng hợp, trong đó kinh tế nhà nớc chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trên nền tảng kinh tế
t bảng chủ nghã, về chính trị chủ trơng điều hòa giai cấp, thỏa hiệp giai cấp, về xã
hội chủ trơng mở rộng bảo hiểm, bảo đảm đời sống tối thiểu cho ngời lao động,
đòi chích một tỉ lệ rất nhỏ trong lợi nhuận khổng lồ của GCTS để tăng phúc lợi
công cộng ... Tóm lại quan điểm của các đảng này là không triệt để, không nhất
quán.
Về nguồn gốc của chủ nghã cơ hội, Lênin chỉ rõ nó ra đời trên những điều
kiện kinh tế, điều kiện lịch sử, xã hội nhất định vào cuối thế kỷ XIX. Trong điều
kiện tơng đối ổn định hòa bình, chủ nghĩa t bản phát triển mạnh mẽ thẻ hiện rõ
tính chất u việt trong sản xuất vật chất. LLSX không lồ của CNTB đã tao ra một
khối lợng vật chất vô cùng to lớn vì vậy nó có điều để đáp ứng một phần những

yêu cầu đấu tranh đòi cải thiện đời sống của ngời lao động, sản xuất phát triển đòi
hỏi gia cấp t sản phải sự dụng một bộ phận GCCN làm quản lí, điều hành sản
xuất. Đây là những công tích cực, có tay nghề cao, có uy tín, khi tham gia vào quá
trình quản lí điều hành sản xuất, tầng lớp này trở thành một bộ phận gián tiếp
tham gia sản xuất và biến thành tẩng lớp trên của GCCN.
Bằng sự xâm chiếm thuộc địa và sản xuất phát triển, bọn t sản đã thu đợc
lợi nhuận béo bở. Chúng dùng một phần lợi nhuận ấy để trả lơng cho tầng lớp trên
của GCCN cao hơn những công nhân trực tiếp sản xuất nhằm mục đích mua
chuộc họ, trung thành với GCTS, lôi kéo họ làm tay sai cho chúng. Nh vậy trong
GCCN đã xuất hiện tầng lớp công nhân quý tộc, áo trắng, cổ cồn và thực tế tầng
lớp này chiếm tỷ lệ khá cao, nh ở Anh có đến 10-15% vàp đầu thees kỉ XX. Vậy
là trong cuộc đấu tranh để thoát khỏi qua cảnh khốn cùng do CNTB gây ra,
GCCN không thể không đồng thời chống lại những xu hớng cải lơng, cơ hội của
chính bộ phận công nhân bị CNTB làm cho biến chất.
Về nguòn gốc lịch sử, nh đã phân tích, đây là thời kì CNTB phát triển tơng
hòa bình, ổn định. Trong thời kì này (1870-1890), GCCN đã sáng tạo ra một hình
thức mới. Đấu tranh nghị trờng, thiên hớng này đợc nhiều Đảng dân chủ xã hội
áp dụng đã thắng lợi, nh ở Pháp, ở Đức, ở Aó,...và nh vậy có những đại biểu của
GCCN tham gia nghị viện t sản. những đại biểu này có trách nhiịem thông qua
hoạt động của nghị viện để đấu tranh đòi quyền lợi cho GCCN ; để giáo dục và


giác ngộ quần chúng, đấu tranh để xóa bỏ các tổ chức phản động do GCTS lập
gia. Nhng trong fđiều kiện đó, những đại biểu của GCCN dễ bnị GCTS lôi kéo
mua chuộc, hoạc vì quyền lợi cá nhân đã ngả theo chúng và thực tế bộn lãnh tụ cơ
hội chủ nghĩa đã tham gia chính quyền t sản phản động và sau này chúng là
những ngời ủng hộ chiến tranh thế giới lần thứ I .
Trong tác phẩm Lênin đã mỉa mai rằng: Thật vậy, nếu Đảng dân chủ xã
hội thực ra chỉ là một đảng cải lơng, thì những ngời xã hội chủ nghiã không
những có quyền tham gia mà còn phải luôn luôn có gắng để đợc tham gia nôi các

t sản. nền dân chủ, về thực chất có phải là thủ tiêu sự thống trị giai cấp, thì viêvj gì
mà một bọ trởng XHCN lại không dùng những bài diẽn văn về hợp tác giai cấp để
làm đẹp lòng thế giới t sản ? việc gì mà bộ trởng đó lại không giữ chức vụ của
mình, ngay cả sau khi ngững vụ cảnh binh tàn sát công nhân đã vạch rõ hàng
trăm hàng nghìn lần, thực chất của sự cộng tác dân chủ giữa các giai cấp ? việc gì
mà vị bộ trởng đó lại không đích thân tham gia chcs mừng Nga hoàng, kẻ mà
những ngời xã hội chủ nghĩa Pháp đã không gọi bằng cái tên nào khác, mà gọi là
tên treo cổ ngời, tên đánh ngời bàng roi da và tên bắt ngời đi đày4 và kết quả đấu
tranh nghị trờng của bọn cơ hội , xết lại cũng chỉ là: Nững cải cách nhỏ nhặt, nhỏ
đến nỗi mà ngời ta đã từng buộc đợc những chính phủ t sản phải làm nhiều hơn
nữa5; Mặt khác, hình thức đấu tranh nghị trờng, đấu tranh câu lạc bộ ... cùng với
sự lỏng lẻo về tổ chức của các đảng công nhân và các đảng dân chủ xã hội và với
thành phần rộng mở của công đoàn đã tạo thuận lợi cho GCTS len lỏi, cài cắm ngời của chúng vào trong Đảng để lũng loạn ngay trong nội bộ Đảng và PTCN.
Về nguồn gốc xã hội, những năm cuối thế kỉ XIX đánh dấu sự phát triển
chủ nghĩa Mác, lúc này chủ nghĩa Mác đã thắng lợi tuyệt đối với tất cả các hệ t tởng khác của PTCN. Chủ nghĩa Mác trở thành một hiện tợng mới lạ trong đời
sống chính tri xã hội ở các nớc Tây âu. chính vì vậy nó thu hút sự chú ý của các
tầng lớp thanh niên trí thức tiểu t sản gia nhập Đảng, nhng họ lại cha đợc nghiên
cứu kỹ chủ nghiã Mác, cha hiểu đúng chủ nghĩa Mác mà chỉ biết chủ nghĩa Mác
qua từng mẩu vụn vặt trình bày trong cac sách báo hợp pháp. điều đó có nghĩa là
Sđd, tr 10
Sđd, tr10

4
5


họ vào đảng một cách tự phát, cảm tính chứ hoàn toàn không phải giác ngộ mục
tiêu lí tởng của Đảng, tự nguyện đứng trong hàng ngũ của Đảng để hi sinh phấn
đấu cho mục tiêu lí tởng đó. Họ đã đem vào Đảng tính tự do vô chính phủ, tâm lí
do dự thiếu kiên quyết của t tởng tiểu t sản mà họ vẫn chua gột rửa đợc. Vì vậy

khi phong trào gặp khó khăn, gian khổ thì tất yếu họ sẽ giao động, mất lòng tin,
hoài nghi, từ giã lập trờng giai cấp công nhân thỏa hiệp với giai cấp t sản. điều
này Lênin chỉ ra rất rõ là: Việc tầng lớp các viện sĩ tham gia đông đảo vào
phong trào XHCN trong mấy năm gần đây đã đảm bảo cho chủ nghĩa becstanh đợc phổ biến nhanh tróng6.
Mặt khác GCTS và các thế lực thù địch thờng xuyên tiến hành tuyên
truyền, giáo dục chống lại các t tởng của Mác, vì vậy nó làm cho một bộ phận
giới trẻ trí thức tiểu t sản bịi ảnh hởng, cũng nh bằng việc phê bình chủ nghĩa
Mác đợc tiến hành trên các diễn đàn chính trị và trên giảng dờng đại học, trong
rất nhiều sách vở và tromng một loạt các trớc tác uyên bác, vì từ hàng chục năm
nay, nó đã đợc nhồi nhét một cách có hệ thống vào thế hệ trẻ của các tầng lớp có
học, nên không lấy gì làmlạ rằng khuynh hớng phê bình mới trong Đảng dân
chủ xã hội xuất hiện ra là để thành hình hẳn hoi 7. Lênin cho rằng về hình thức
chủ nghĩa cơ hội quốc tế đợc biểu hiện dới nhiều mầu sắc, nhiều dạng loại khác
nhau và những điều kiện chinh trị của từng nớc, nhng về bản chất nội dung thì
chúng giống hệt nhau nh đã nói ở phàn trên.
Phái kinh tế là chủ nghĩa cơ hội quốc tế đợc biểu hiện dới hình thức Chủ
nghĩa kinh tế ở Nga. Về bản chất nó hiện nguyên hình là chủ nghĩa cơ hội xét lại,
nó là mối nguy cơ đặc biệt đối với cách mạng Nga.
Chính vì đặc điểm là mập mờ, không định hình rõ ràng cụ thể, khó hiểu,
không rứt khoát nên chủ nghĩa cơ hội nói chung và phái kinh tế Nga nói riêng rất
sợ công bố rất sợ phê bình. Họ sợ công bố ngay cả cơng lĩnh của họ, cả những
điều mà họ nghĩ ra, viết ra và họ làm, Lênin viết: Tác giả những dòng này, ngời
đã góp phần vào việc phơi bày ra ánh sáng cái cơng lĩnh mới đó, đã có dịp nghe
thấy lời phàn nàn và trách móc rằng, bản tốm tắt những quan điểm của những
6
7

Sđd, tr 13
Sđd, tr 9



diễn giả, do họ phác ra, đã bị đem ra phổ biến bằng nhiều bản sao...và thậm trí lại
bị công bố trên báo trí cùng lời phản đối, sở dĩ chúng tôi nhắc đến tình hình đó,
chính vì nó vạch rõ một đặc điểm rất kì lạ của chủ nghĩa kinh tế ở nớc ta là sợ
công bố... đó đúng là một đặc điểm chủ nghĩa kinh tế nói chung chứ không phải
từng đặc diểm riêng của từng tác giả ..., đậc điểm ấu biểu hiện cả trong tờ T tởng
công nhân cả trong tờ Sự nghiệp công nhân... cũng nh đã đại biểu ở nhiều đại
biểu riêng lẻ của chủ nghĩa kinh tế chủ trơng thu hẹp và hạ thấp nhiệm vụ đấu
tranh chính trị của GCCN xuống trình độ của chủ nghĩa công liên. mục tiêu của
họ xa dời mục đích cuối cùng cảu GCCN. Mà trong tuyên ngôn Đảng cộng sản
C.Mác và Ăngghen đã xác định. H0ọ muốn cuộc đấu tranh của GCCN tập trung
vào tổ chức kinh tế, tố cáo tình trạng bất công ,về đời sống khổ cực của công nhân
ở trong phạm vi từng công xởng, từng nhà máy, từng nhành nghề nhất định, với
mục đích là đòi quyền lợi kinh tế để cải thiện điều kiện sinh sống và làm việccủa
mình. Vì vậymà Lênin gọi bọn họ là bộnbecstranh cải trang. Về tình trạng đó
trong tác phẩm Lênin chỉ rõ: đại đa số những ngời dân chủ xã hội Nga, t4rong
thời giaqn vừa qua, gần nh hoàn toàn bị thu hút vào tổ chức những sự tố cáo ấy về
các công xởng ... ngời ta quyên rằng thực ra hoạt động ấy, tự bản thân nó, cha
phải là dân chủ xã hội, mà chỉ là công liên chủ nghĩa mà thôi 8. Kết quả của việc
đấu tranh kinh tế đó chỉ đạt đến dậy cho ngời bán sức lao động biết bán thứ
hàng hóa ấy một cách có lợi hơn và biết đấu tranh chống ngời mua trên lĩnh vực
giao dịch thuần túy có tính chất mua bán9.
Phái kinh tế hạ thấp vai trò đấu tranh chính trị của GCCN, cho rằng đó
chỉ là một hình thức của đấu tranh kinh tế, đi sâu vào đấu tranh kinh tế mà thôi và
coi đấu tranh kinh tế là phơng sách duy nhất có thể áp dụng rộng rãi nhất và
chính điều này đã làm thu hẹp một cách tai hại đấu tranh chính trị.
Lênin chỉ rõ đối với những ngời dân chủ xã hôi chan chính phải tích cực
giáo dục chính trị lí luận chủ nghĩa Mác cho GCCN để nâng cao ý thức giác ngộ
chính trị, tổ chức họ đáu tranh trên tất cả các lĩnh vực của đời sống chính trị xã
hội coi đấu tranh kinh tế để phục vụ cho mục đích chính trị, nhằm lật đổ sự thống

8
9

Sđd, tr 17
Sđd, tr 71


trị của GCTS thiết lập quyền lực chính trị của GCCN. Lênin viết: Đảng dân chủ
xã hội đạt cuộc đấu tranh đòi những cải cách coi đó là các bộ phận của toàn
bộ- phụ thuộc vào cuộc đấu tranh cách mạng cho tự do vì chủ nghĩa xã hội 10 và
mục đích cuối cùng của GCCN và nhân dân lao động chỉ có thể thỏa mãn đợc
bằng một cuộc cách mạng chính trị thay thế chuyên chính của GCTS bằng
CCVS11.
Về mạt t tởng, Chủ nghĩa kinh tế ở Nga sùng bái tính tự phát của phong
trào công nhân. họ cho rằng phong trào tự phát ấy phát triển tất yếu sẽ tạo nên sự
giác ngộ xã hội chủ nghiã, tạo nên hệ t tởng độc lập của GCCN, bì vậy Đảng
không nên là một lực lợng lãnh đạo và can thiệp vào tính t3j phát của PTCN mà
phải chờ đợi phong trào đó phát triển. Từ đó họ hạ thấp vai trò của chủ nghĩa
Mác, tầm thờng hóa chủ nghĩa Mác, phủ nhận chủ nghhĩa Mác trong việc xây
dựng ý thức tự giác trong PTCN.
Lênin xác định rõ, hệ t tởng GCCN không thể tự phát sinh từ phong trào tự
phát của GCCN. Tính tự phát đó chỉ dẫn phong trào đến chỗ lệ thuộc, theo đuôi
GCTS, chỉ dãn đến làm nô lệ cho hệ t tởng t sản. lênin viết: Cong nhân trớc đây
không thể có ý thức dân chủ xã hội đợc. ý thức này chỉ có thể từ bên ngoài đa vào.
lịch sử tất cả các nớc chứng thực rằng dù cho lực lợng của độc bản thân mình thôi
thì giai cấp công nhân chỉ có thể đi dến ý thức công lien chủ nghã, tức là đi đến
chỗ tin rằng phải đoàn kết lại thành hội liên hiệp, phải đấu tranh chống nbọn chủ,
phải đòi hỏi chính phủ ban hành những luật này hay luật khác cần thiết cho công
nhân12. ngời cho rằng, chủ nghĩa Mác một hệ thống lí luận cách mạng khoa học
đó là kết quả phát triển lịch sử t tởng của nhân loại, do những nhà khoa học thuộc

tầng lớp hữu sản, những trí thức cách mạng có diều kiện học tập, nghiên cứu, phát
triển khái quát nên, hệ thống lí luận này phản ánh mục tiêu, quan điểm, lập trờng
của GCCN và PTCN . Chủ nghĩa Mác và phong trào cong nhân có cùng nguồn
gốc là phơng thức sản xuất TBCN, nhng lại xuất phát từ những tiền đề khác nhau,
vì vậy nó xuất hiẹn hoàn toàn dộc lập với phong trào tự phát của công nhân, để
PTCN phát triển thành phong trào tự giác thì phải làm cho chủ nghĩa Mác đợc
Sđd, tr 79
Sđd, tr 59
12
Sđd, tr 38
10
11


truyền bá thâm nhập vào giai cấp công nhân. đồng thời cũng phải đa chủ nghĩa
Mác đi vào tất cả các giai cấp trong dân c, phải cử các đội ngũ trong đội quân
của mình đi về tất cả các ngả. Lênin chỉ ra rằng giữa hệ t tởng XHCn và hệ t tởng
t sản luôn diễn ra cuộc đấu tranh gay gắt ... vấn đề đặt là chỉ nh thế này: Hệ t tởng t sản hoặc Hệ t tởng XHCN. Không có hệ t tởng trung gian..., vì vậy mọi sự
coi nhẹ hệ t tởng XHCN đều có nghĩa là tăng cờng hệ t tởng t sản13
Về mặt tổ chức, phái kinh tế cho rằng: Không cần thiết phải có một đảng
tập trung thống nhất, mà chủ trơng duy trì đanghr ở các tiểu tổ, địa phơng để tiến
hành đấu tranh chống bọn chủ và chính phủ với lối làm việc thủ công nghiệp. Vấn
đề hết sức trầm trọng nữa là: Chúng hạ thấp và thu hẹp vai trò công tác tổ chức
của đảng vào phạm vi chật hẹp. Chúng muốn Đảng trở thành một câu lạc bộ phù
hợp với đấu tranh nghị trờng, chúng muốn xây dựng Đảng là một tổ chức theo
kiểu đánh chống nghi tên, đánh đồng chức năng cuả Đảng với chức năng của
nghiệp đoàn, lẫn lộn Đảng với giai cấp và nh vậy thực chất là chúng ủng hộ quan
điểm bè phái chia rẽ trong Đảng.
Xuất phát từ mục đích chính trị cao cả của Đảng, Lênin cho rằng cuộc đấu
tranh chính trị của GCCN, của Đảng có quy mô to lớn, tính chất phức tạp quyết

liệt hơn nhiều so với cuộc đấu tranh kinh tế mà phái kinh tế chủ trơng. Lênin
phân biệt rõ Đảng với các tổ chức khác của GCCN: tổ chức của công nhân trớc
hết phải có tính nghề nghiệp; thứ hai phải càng rộng càng tốt..., trái lại tổ chức
của những ngời các mạng phải bao gồm trớc hết và chủ yếu là những ngời lấy
hoạt động cách mạng làm nghề nghiệp..., tất nhiên tổ chức ấy không phải quá
rộng và nó phải càng bí mật càng tốt14.
Nh vậy là rất rõ, Đảng phải bao gồm những cá nhân u tú, giác nhộ cao về
chủ nghĩa Mác tự động đứng vào hàng ngũ để đấu tranh cho mục tiêu lí tởng và
hoạt động cách manghj chuyên nghiệp. Đảng phải là một tổ chức chọn lọc, có
trình độ tổ chức chặt chẽ, kỷ luật nghiêm minh, là đội tiền phong của GCCN.
Lênin chủ trơng Đảng phải là một tổ tập trung thống nhất trong toàn Nga
có cơ quan lãnh đạo và tổ chức đồng bộ từ trung ơng tới cơ sở, đợc xây dựng và
13
14

Sđd, tr 50
Sđd, tr 143


hoạt đọng theo nguyên tắc thống nhất, thực hiện chế độ tập trung nghiêm ngặt.
Lênin đánh giá cao vai trò của tổ chức, ngời nói rằng: hãy cho tôi một tổ chức
những ngời cách mạng và chúng tôi sẽ đảo ngợc nớc Nga lên15. nh vậy trình độ
tổ chức chính là điều kiện để nâng cao sức mạnh của Đảng cách mạng của GCCN.
Từ lập trờng chính trị, quan điểm t tởng, nguyên tắc tổ chức nh vậy, nên
sách lợc đấu tranh của chủ nghĩa cơ hội nói chung, phái kinh tế nói riêng, đã
nói lên tính thiếu kiên định, thỏa hiệp, cải lơng, chỉ tập vào đấu trnh đòi quyền
dân sinh dân chủ, đòi quyền lợi kinh tế trong khuôn khổ chủ nghĩa t bản, từ bỏ
con đờng cách mạng cách mạng vô sản, để lật đổ GCTS, thiêt lập CCVS. Họ chỉ
quan tâm đấu tranh với quy mô tiểu tổ, phờng hội, nghiệp đoàn mà bổ qua việc
tập trung quy mô thống nhất toàn diện. Nội dung đấu trannh chống chế độ t bản

chỉ trêncơ sở những lợi ích hàng ngày, đến mục tiêu trớc mắt mà thôi, điều này đợc Lênin viết trong tác phẩm là: tính tự phát của nhnmgx ngời công nhân bị cám
dỗ bởi các lí lẽ cho rằng tăng thêm đợc dù là mỗi Rúp, một Côbếch cũng còn thân
thiết và quý giá hơn bất cứ CNXH và chính trị nào và cho rằng phải: đấu tranh vì
họ hiểu rằng làm nh thế không phải là cho những thế hẹ tơng lai nào đó mà là cho
bản thân họ và con cái họ.
Tác phẩm Làm gi của Lênin là một tác phẩm chuyên khảo về xây dựng
đảng và mang tính bút chiến sâu sắc để đấu tranh đánh bại những quan diểm của
chủ nghĩa kinh tế ở Nga. Những luận điểm trong tác phẩm là bớc phát triển lớn
trong học thuyết Mác về Đảng cộng sản, về cách mạng vô sản trong điều kiện
CNTB đã phát triển thành CNĐQ. Lênin đã xác lập cơ sở chính trị t tởng, tổ chức
cho sự ra đời của đảng kiểu mới, đồng xác lập những tiêu chuẩn để phân biệt giữa
đảng mác xít chân chínhvới các đảng dân chủ xã hội Tây âu đang bị chủ nghĩa cơ
hội lũng loạn. Làm gì là sự kề thừa, vận dụng sáng tạo và phát triển những t tởng C.Mác và Ăngghen thành một học thuyết hoàn chỉnh về chính Đảng câch
mạng của GCCN, đặt cơ sở ra đời và hoạt động của đảng Mác xít ở Nga và hàng
loạt các nớc sau này.
Nắm vững t tởng cơ bản của tác phẩm có ý nghiã đặc biệt quan trọng cho
hoạt động của các Đảng cộng sản trớc kia, cũng nh hiện nay và về sau. Bất kỳ một
15

Sđd, tr 162


Đảng nào không tuân thủ xa dời những nguyên tắc, những quan điiểm mà Lênin
đã nêu ra sẽ dơi vào chủ nghĩa cơ hội, xét lại. Thực tiễn phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế thế kỷ XX cho thấy, Đảng cộng sản Liên xô một đảng có bề
dầy lịch sử và truyền thống đấu tranh, đợc Lênin sáng lập và rèn luyện, nhng do
ban lãnh đạo Đảng phản bội lại giai cấp. Phản bội lại mục tiêu lí tởng, từ bỏ
những nguyên lí của chủ nghĩa Mác Lênin, thực hiện đổi mới một cách vô
nguyên tắc, thỏa hiệp với kẻ thù giai cấp bằng khẩu hiệu cải lơng ngôi nhà trung
châu âu nên đã dơi vào chủ nghĩa xét lại. điều đó đã làm Đảng công sản bị phân

liệt trong một thời gian và đi đến hoàn toàn tan dã.
Đảng cộng sản việt nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, là
ngời tổ chức và lãnh đạo cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân ta liên tcụ giành
đợc những thắng lợi vĩ đại. Suốt từ ngày Đảng ra đời đến nay, năng lực lãnh đạo
và sức chiến đấu của Đảng đã đợc lịch sử khảng định, là kết của quá trình không
ngừng xây dựng Đảng về mọi mặt chính tri, t tởng và tổ chức. Trung thành chủ
nghĩa Mác- Lênin, t tởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể
của cách mạng Việt Nam.
Trong lịch sử của Đảng cộng sản Việt Nam không xuất hiện chủ nghĩa cơ
hội xét lại với t cách là một trào lu chính trị r tởng, nh với nhiều Đảng cộng sản
khác, đặc biệt là các Đảng cộng sản ở các nớc châu âu, là vì: Ngay từ khi Đảng ra
đời các đảng viên của Đảng đã có sự thống nhất cao về mục tiêu là giải phóng dân
tộc, giải phóng nhân dân lao động; Trong lúc chủ nghĩa cơ hội quốc tế về cơ bản
bị đẩy lùi, không còn giữ vị trí thống trị, lũng lọan trong phong trào cộng sản,
quốc tế III đã đợc thành lập, chỉ đạo PTCS quốc tế một cách đúng đắn; Đảng ta
luôn có đờng lối chính trị đúng đắn, sáng tạo, có truyền thống đoàn kết gắn bó,
đội ngũ cán bộ Đảng viên có phẩm chất chính tri trị tốt, phán đấu hy sinh vì lí tởng. Tuy nhiên trong quá trình đấu tranh gian khổ phức tạp kéo dài, ở vào những
thời điểm bớc ngoặt của cách mạng, trong nội bộ Đảng có xuất hiện những t tởng
cơ hội, những biểu hiện của chủ nghĩa cơ hội dới nhiều mầu sắc khác nhau, với
những mức độ khác nhau.
Trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền điều trở ngại lớn nhất là nền
tảng t tởng trong Đảng còn nhiều di tích tiểu t sản, đầu cơ biệt phái, cha nhận


thức rõ địa vị của vô sản giai cấp trong cách mạng và chức trách của Đảng, là
nguyên nhân của hiện tợng xóa nhòa gianh giới giai cấp, hợp tác vô nguyên tắc
với các phần tử phản động để chúng lợi dụng lôi kéo. Hội nghị TW tháng 10 năm
1930 kết luận: Trong Đảng ta không có khuynh hớng cơ hội chủ nghĩa xét lại
nhng có những lệch lạc hữu và tả khuynh, phê phán những khuynh hớng tả,
hữu có tính chất tiểu t sản và tính giai cấp của Đảng để làm cho phong trào cách

mạng đi đúng phơng hớng và phát triển mạnh.
Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nớc, khi cuộc chiến đấu vào thời điểm
quyết liệt, đã có một số ngời khiếp hãi sức mạnh tàn bạo của kẻ thù xâm lợc, trớc
những hi sinh gian khổ của cuộc kháng chiến, đã giao động về chính trị, không
kiên định đờng lối đáu tranh giải phóng miền nam, sợ tiến hành đấu tranh vũ
trang, có ảo tởng về con đờng thỏa hiệp, chung sống hòa bình thi đua hòa
bình ...Từ cơ hội về chính trị, một số ngời đi tới hoạt động bè phái, chống đối về
tổ chức. Ban lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là chủ tịch hồ Chí Minh đã kiên trì đờng lối chống Mỹ cứu nớc, đấu tranh vạch trần đờng lối cơ hội hữu khuynh, tăng
cờng đoàn kết thống nhất t tởng và tổ chức trong Đảng, lãnh đậo dan tộc ta hoàn
thành vẻ vang sự nghiệp giải phóng miền nam, thống nhất đất nớc.
Bớc vào công cuộc đổi mới, với vô vàn khó khăn, phức tạp, có một số ngời
hjô hào đổi mới nhng xa dời nguyên tắc, từ bỏ định hớng xã hội chủ nghĩa; phủ
nhận vcai trò chủ đạo của kinh tế nhà nớc; đề cao vai trò diều tiết của kinh tế thị
trờng nhng coi nhẹ chứcc năng quản lí của nhà nớc xã hội chủ nghĩa, cổ vũ cho t
nhân hóa, tự do hóa t sản, tán dơng chủ nghĩa xã hội dân chủ... Đồng thời, nh một
sự phản ứng lại, ở phía khác xuất hiện những biểu hiện giáo điều, bám giữ những
quan niệm về mô hình cũ của CNXH, luyến tiếc cơ chế kế hoaqchj hóa tập trung
quan liêu bao cấp, có định kiến với nền kinh tế nhiều thành phần, dị ứng với cơ
chế thị trờng, coi nó đồng nghĩa với đi theo con đờng TBCN... Điều này vă kiện
đại họi Đảng VI của Đảng khảng định: Phải chống chủ nghĩa cơ hội dới mọi
hình thức, có thai độ nghiêm khắc đối với những kẻ xu thời vụ lợi, xu nịnh ....
Cơng lĩnh xây dựng đất nớc thời kỳ quá độ lên CNXH đợc thông qua tại Đại hội
VII của Đảng , phần về xây dựng Đảng đã nêu: Thờng xuyên phê bình và tự phê
bình, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội và mọi hành động chia


rẽ, bè phái, tại Đại hôi VIII nêu rõ, trong Đảng có những ngời có khuynh hớng
cơ hội và coi kiên quyết chống các biểu hiện cơ hội nh một việc làm cấp kíp, một
giải pháp quan trọng để gìn giữ đoàn kết trong các tổ chức Đảng . Tiếp đến Đại
hội IX khi nói về nhiệm vụ công tác giáo dục t tởng chính trị đã chỉ rõ cần chống

t tởng cơ hội, thực dụng.
T tởng cơ hội với những quan điểm sai trái bộc lộ tơng đối rõ nét chỉ có ở
một số rất ít ngời, nhng tính chất của nó rất nguy hiểm . nếu không đấu tranh phê
phán vạch trần sẽ có thể lây lan và lừa gạt những ngời thiếu kiên định về chính trị.
Đặc trng cơ bản của t tởng cơ hội là sự dao động, ngả nghiêng về chính trị,
không kiên định trên những vấn đề nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác lênin, t
tởng Hồ Chí Minh, đờng lối chính trị của Đảng, khi cách mạng thuânj lợi thì tỏ ra
cấp tiến, khi cách mạng khó khăn thì hoài nghi, thiếu lòng tin, thoái lui và thỏa
hiệp. Những ngời này ít bộc lộ quan điểm một cách rõ rằng, họ che dấu bộ mặt
thật, vừa tỏ ra ủng hộ đờng lối của Đảng, bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, thổi
phồng một phía trong đờng lối hợp với quan điểm của họ, vừa dới danh nghĩa đổi
mới t duy, bổ xung, cụ thể hóa đờng lối của Đảng , thêm chi tiết này, khía
cạnh nọ mà thực chất là sửa đổi cái cốt lõi của đờng lối. Những ngời có t tởng cơ
hội thờng mang trong mình chủ nghĩa cá nhân và đợc biểu hiện trong đời sống
hàng ngày, thông qua đạo đức lối sống.
T tởng cơ hội về chính trị và những biểu hiện cơ hội về đạo đức lối sống có
quan hệ gắn bó khăng khít với nhau tác động qua lại với nhau. Trong thực tiễn
những phần tử cơ hội về chính trị thờng tha hóa về lối sống, họ luôn tính toán thực
dụng, tìm cách gần gũi cấp trên, lựa chiều ăn nói, luồn lách hối lộ... với động cơ
cá nhân là tìm cơ hội thăng quan tiến chức, giành lấy quyền lực vì danh vọng và
quyền lợi cá nhân, họ là những con ngời sống không trung thực, xu thời vụ lợi,
gây bè kéo cánh, phá hoại sự đoàn kết trong Đảng. Họ là những ngời không tôn
trọng tổ chức, coi thờng tập thể, kiêu ngạo xa dời quần chúng, làm và báo cáo
không trung thực, thổi phồng thành tích, che dấu khuyết điểm. Khi không đạt đợc
mục đích thì họ bất mãn chống đối ... và ngợc lại, những cán bộ đảng viên không
chựu tu dỡng rèn luyện, khép mình vào tổ chức, dẫn đến suy thoái về đạo đức, xa
đọa về lối sống thì tất yếu lí tởng trong họ bị phai nhạt, tình cảm cách mạng bị


nguội lạnh, mất niềm tin xa ngã về chính trị xa dời nguyên tắc, dễ dàng tiếp thu

ảnh hởng t sản, bị kẻ thù lôi kéo vào con đờng phản bội lại Đảng, một biểu hiện
đáng lo ngại nữa, tuy nó không thuộc vào hai dạng trên là hiện nay trong Đảng có
một bộ phận Đảng viên trong sinh hoạt ngại đấu tranh, ngại phát biểu, họ chỉ
chăm chăm hoàn thành nhiệm vụ chuyên môn cá nhân mà không biết phát huy
vai trò lãnh đạo, đầu tầu gơng mẫu, tính tiên phong , lôi kéo quần chúng giác ngộ
của ngời Đảng viên.
Xét về thực chất họ là mgời giẫ ngộ mục tiêu, lí tởng cha sâu sắc, nắm vcà
thực hiện các nguyên tắc của Đảng cha nghiêm, thiếu bản lĩnh thj động, ý chí
chiến đấu kém... những biểu hiện của tởng cơ hội chủ nghĩa lúc nào cũng có nó
xuất hiện bởi nhiều yếu tố sâu xa và từng thời kỳ lịch sử, tùy từng trờng hợp cụ
thể mà nổi lên yếu tố này hay yếu tố kia.
Trớc hết t tởng cơ hội đợc nẩy sinh trong cuộc đấu tranh giai cấp gay go
quyết liệt. Cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, cũng nh công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội hiện nay là những thử thách so với bản lĩnh chính trị, sự kiên định
mục tiêu lí tởng của Đảng và tờng Đảng viên, mọi sự không kiên định ,dao động
hoài nghi, xa dời nguyên rtắc cả tả lẫn hữu là con đờng dẫn tới chủ nghĩa cơ hội.
Hai là, sự xụp đổ CNXH ở đông âu cà sự thoái trào của PTCSquốc tế có tác
dộng không nhỏ tới t tởng, tâm lí của bộ phận cán bộ đảng viên. họ không nhìn
thấy đó là sự xụp đổ củ mô hình CNXH, từ đó họ hoài nghi về mục tiêu lí tởng,
mất niềm tin vào sử tất thắng của CNXH, giao động về quan điểm lập trờng.
Ba là, Đảng ta là Đảng cầm quyền. Các vị trí lãnh đạo ttrong Đảng t5rong
xã hội do cac đảng viên nắm giữ vị trí lãng đạo, nếu không thờng xuyên tu dỡng,
ngời đảng viên sẽ ssay mê quyền lực, giữ quyền lực bằng mọi giá, lợi dụng quyền
lực chính trị để làm giầu bất chính, đặc biệt trong điều kiện kinh tế thị trờng hiện
nay, đã xuất hiện việc chạy chức chạy quyền, chạy lợi, chạy tội nh báo cáo của bộ
chính trị tai hội nhị TW6 Lần 2.
Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch điên cuồng chống phá cách
mạng nớc ta. Chúng không từ một thủ đoạn thâm độc nào để đạt đợc mục đích
xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng, xóa bỏ CNXH ở nớc ta. Chúng dùng chiến lợc
diễn biến hòa bình với nhiều thủ đoạn trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt là ttrên



lĩnh vực t tởng lí luận, chúng xuyên tạc chủ nghĩa Mác Lênin, t tởng Hồ Chí
Minh, tuyên truyền cho các giá trị của chủ nghĩa t bản.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta chủ trơng phát triển nền
kinh tế nhiều thành phần, đờng lối này đã dêm lại nhiều thành tựu quan trọng, đặc
biệt trên lĩnh vực kinh tế. Tuy nhiên cùng với những mặt trái, nó càng làm cho
giầu nghèo trong xã hội tăng lên. với nền kinh tế thành phần làm cho cơ cấu xã
hội, cơ cấu giai cấp không còng thuần nhất nh trớc, trong xã hội xuất hiện tầng
lớp t bản, ông chủ ... vì vậy đơng nhiên t tởng t sản và một số vi vô sản khác sẽ có
đất để tồn tại. điều này có ảnh hởng tiêu cực đến t tởng tâm lí xã hội.
Từ những cơ sỏ trên, sự xuất hiện t tởng cơ hội dới nhiều hình thức biểu
hiện khác nhau trong nội bộ Đảng sẽ không phải nhất thời ngẫu nhiên.
Để những t tởng cơ hội trong Đảng phát triển, dễ làm cho một số tổ chức
Đảng suy yếu cả về chính trị t tởng và tổ chức, làm cho uy tín của Đảng bị giảm
xút, tính chất của Đảng sẽ bị đe dọa. Những ngời cơ hội, biểu hiện cơ hội chủ
nghĩa không còn đủ tiêu chuẩn Đảng viên cả về chính trị và đạo đức cần phải kiên
quyết đa ra khỏi Đảng.
Vì vậy, việc chống mọi biểu hiện cơ hội là vấn đề đặt ra một cách cấp thiết
hiện nay cần phải: Vạch trần chủ nghĩa cơ hội, cũng nh những biểu hiện sâu xa
của chủ nghĩa cơ hội, sự nguy hại của nó đối xã hội với tổ chức Đảng, với bộ máy
nhà nớc, để mọi ngời nhận diện, để tự rèn luyện và xa tránh, khi thấy xuất hiện thì
đấu tranh loai bỏ vì lợi ích của đất nớc và sinh mệnh của Đảng; Tiếp tục thực hiện
cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng thật chặt chẽ có chất lợng, toàn diện
trên tất cả những lĩng vực theo đúng tinh thần ngị quyết TW6 (lần 2); Các tổ chức
Đảng làm tốt công tác quản lí cán bộ, quản lí Đảng viên trên tất cả các lãnh vực,
trong các mỗi quan hệ, thờng xuyên nắm chắc tình hình t tởng cán bộ Đảng viên.
Thực hiện nghiêm quy chế cán bộ, đặc biệt trong việc bổ nhiệm cán bộ chủ chốt,
không để những kẻ cơ hội về chính trị, thoái hóa về phẩm chất đạo đức, những kẻ
bất tài vào vị trí lãnh đạo; Giáo dục cho toàn Đảng, toàn dân kiên quyết với mục

tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, kiên định chủ nghĩa Mác Lênin, t tởng
Hồ Chí Minh, và sự lãnh đạo của Đảng, quán triệt đờng lối đỏi mới, phát huy sức
mạnh tổng hợp của toàn Đảng, toàn dân, phát huy chủ nghĩa yêu nớc, lòng tự hào


ý chí tự lập tự cờng của dân tộc. đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nguyên cứu lí luận,
làm rõ hơn nữa tính khoa học con đờng đi lên CNXH ở nớc ta; Chủ động tấn công
triển khai có hiệu quả cuộc đấu tranh trên mặt trận lí luận t tởng, làm thất bại
chiến lợc diễn biến hòa bìnhcủa chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch trên
lĩng vực t tởng lí luận, đẩy lùi t tởng cơ hội.
Tóm lại, từ tác phẩm Làm gì và thực tiễn cho thấy thờng xuyên chăm lo
xây dựng chỉnh đống Đảng làm cho Đảng vững mạnh về chính tri t tởng và tổ
chức là thiết bồi dỡng nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cáh mạng Việt Nam.

T tởng cơ hội về chính trị
Đặc chng cơ bản của chủ nghĩa cơ hội xét về khuynh hớng chính tri là sự
giao động vcề mục tiêu lí tởng và nguyên tắc xay dựng đảng, hoài nghi thiếu lòng
tin vào đờng lối chính trị của Đảng; tê liệt ý chí chiến đấu, mất cảnh giác cách
mạng ý thức bản lĩnh chính trị, thụ động khjông giám đấu tranh với nhqngx quan
điểm xết lại sai trái với cơng lĩnh đờng lôi chính trị của Đảng, khi gặp khó khăn
thì thoái lui thỏa
Chủ nghĩa cơ hội xét lại Bécstanh ra đời, phát triển nhanh chóng vào cuối
thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX không phải là ngẫu nhiên mà chính là: vào lúc chủ
nghĩa t bản phát triển tơng đối hòa bình, các hình thức đấu tranTrong tác phẩm le
Lênin đã dấu tranh không khoan nhợng với những t tởng của phái kinh tế, mà
Lênin coi là biến dạng của chr nghĩa cơ hội quốc tế và thực chất cuộc đấu tranh
của lê ni ở nga cũng chính là cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội đang lu hành
trong quốc tế hai .
Trớc hết Lênin vặt trần bản chất, nguồn gốc của chủ nghĩa quốc tế và phái
kinh tế . ngời chỉ rõ khẩu hiệu tự do phê bình mà Bécstanh nêu ra nhằm phê

bình, chủ nghĩa Mác là cũ kỹ giáo điều đó là mu toan xét lại chủ nghĩa Mác một
cách toàn diện, âm mu thay thế chủ nghĩa Mác với t cách là hệ t tởng của giai cấp
công nhân . đo là một lọai hình của chủ nghĩa cơ hội xét lại , Lênin phê bình chủ
nghĩa cơ hội hạ thấp lí luận và xuyên tặc t tởng của Mác về vai trò của lí luận ;
đồng thời khảng định vai trò vô cùng to lớn của lí luận chủ Mác đối với phong


trào công nhân và Đảng coong nhân dân chủ xã hội Nga và tất cả các đảng kiểu
mới nói riêng lê viết: chỉ Đảng nào đợc một lí luận tiên phong hớng dẫn mới có
khả năng làm tròn chiến sĩ tiên phong16đối với Đảng công nhân xã hội dân chủ
Nga một đảng mới đợc thành lập, đang ở trong quá trình phân tán về t tởng, phân
lẻ về tổ chức , cha có đợc sự tích lũy về lí luận cũng nh kinh nghiệm thực tiễn
trong việc lãnh đạo cách mạng thì việc trang bị những hệ thống lí luận quan điểm
t tởng của chủ nghĩa Mác-Lê nin là vấn đề vô cùng cấp thiết góp phần tao nên sự
thống nhất về chính trị, t tởng tổ chức trong đảng. Lí luận Mác là lí luận mang
bản chất cách mạng và khao học , phản ánh mục đích mục tiêu li tởng sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân . đồng thời nó chỉ ra con đờng và biện pháp đúng
hòa bình đợc sử dụng rộng rãi; thời kỳ mà chủ nghĩa Mác đã trở thành một
cái mốt rất hấp dẫn đối với tầng lớp thanh niên tiểu t sản trí thức; từ sự mua
chuộc tầng lớp trên của giai cấp công nhân bằng hình thức siêu lợi nhuận thuộc
địa. Chính những điều đó là những cơ sở về kinh tế, chính trị và xã hội đẻ ra, và
lớn lên của chủ nghĩa cơ hội. Nó phản ánh cuộc đấu tranh giai cấp giữa GCVS và
GCTS.

16

V.I.Lênin, toàn tập, Nxb,M.1974,Tập 6, tr32


Trớc đây, khi ảnh hởng của chủ nghĩa Mác cha rộng lớn thì những ngời cơ

hội chủ nghĩa đứng ngoài hàng ngũ của những ngời mácxít để chống lai chủ nghĩa
Mác chủ nghĩa cơ hội


ý nghĩa lí luận và thực tiễn của tác phẩm
Tác phẩm làm gì? có ý nghĩa to lớn đối với việc thành lập, xây dựng đảng
kiểu mới của giai cấp công nhân Nga và giai cấp công nhân quốc tế. Đóng vai trò
quan trọng trong việc tập hợp các tổ chức địa phơng xung quanh tờ báo tia lửa để
thực hiện kế hoạch



×