Tải bản đầy đủ (.pdf) (175 trang)

Phát triển bền vững các khu kinh tế ven biển vùng đồng bằng sông hồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.64 MB, 175 trang )

MỞ ĐẦU
1. Giới thiệu luận án
Theo cách tiếp cận hệ thống của chuyên ngành Phân bố lực lượng sản xuất và
phân vùng kinh tế, luận án Tiến sĩ kinh tế “Phát triển bền vững các khu kinh tế ven
biển vùng Đồng bằng sông Hồng” tập trung vào nghiên cứu những vấn đề quan trọng
sau đây:
+ Tổng hợp những vấn đề lý thuyết để tiến hành nghiên cứu luận án, bao gồm
nội dung, bản chất của phát triển bền vững khu kinh tế ven biển, các yếu tố ảnh hưởng
đến phát triển bền vững khu kinh tế ven biển, đánh giá phát triển bền vững đối với khu
kinh tế ven biển.
+ Đánh giá thực trạng phát triển các khu kinh tế ven biển vùng đồng bằng sông
Hồng trên quan điểm phát triển bền vững; Thử nghiệm đánh giá các tiêu chí bền vững
đối với các khu kinh tế ven biển vùng Đồng bằng sông Hồng.
+ Đề xuất định hướng và giải pháp để phát triển bền vững các khu kinh tế ven
biển vùng đồng bằng sông Hồng trong những năm tới.
Luận án có 180 trang, trong đó nội dung chính có 150 trang, 11 bảng và biểu
đồ, 16 hình, 8 phụ lục. Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và
phụ lục, nội dung của luận án được trình bày trong 4 chương như sau:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài (22 trang).
Trong chương này, tác giả tập trung khảo cứu các cơng trình nghiên cứu trong và
ngồi nước liên quan đến đề tài nghiên cứu của luận án ở 3 khía cạnh chính: (i) Một số
nghiên cứu liên quan đến chủ đề phát triển bền vững; (ii) Một số nghiên cứu liên quan
đến chủ đề phát triển khu kinh tế và khu kinh tế ven biển; (iii) Một số nghiên cứu liên
quan đến chủ đề phát triển kinh tế -xã hội vùng Đồng bằng sông Hồng.
Chương 2. Cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển bền vững các khu kinh tế
ven biển (48 trang). Trong chương này, trên cơ sở lý thuyết phát triển bền vững và hệ
thống các bộ tiêu chí như: Bộ tiêu chí phát triển bền vững của Liên Hợp Quốc và Bộ
chỉ tiêu giám sát, đánh giá phát triển bền vững địa phương của Việt Nam, tác giả đề
xuất hệ thống tiêu chí đánh giá phát triển bền vững các khu kinh tế ven biển theo hai
nhóm: (i) Tiêu chí đánh giá phát triển bền vững nội tại; (ii) Tiêu chí đánh giá tác động
lan tỏa. Đồng thời, tác giả cũng phân tích quá trình hình thành và phát triển khu kinh tế


của một số quốc gia trên thế giới như Trung Quốc, Hàn Quốc, Ấn Độ để rút ra bài học
kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc phát triển các khu kinh tế ven biển.
1


Chương 3. Thực trạng phát triển các khu kinh tế ven biển vùng đồng bằng
sông Hồng theo quan điểm bền vững (58 trang). Trong chương này, dựa trên hệ
thống tiêu chí đánh giá phát triển bền vững các khu kinh tế ven biển đã đề xuất ở
chương 2, tác giả tập trung phân tích tình hình phát triển các khu kinh tế ven biển ở
Việt Nam và ở vùng Đồng bằng sông Hồng trong thời gian qua; Thử nghiệm đánh giá
đánh giá các tiêu chí bền vững đối với các khu kinh tế ven biển vùng Đồng bằng sông
Hồng.
Chương 4. Định hướng và giải pháp phát triển các khu kinh tế ven biển vùng
Đồng bằng sông Hồng theo hướng bền vững đến năm 2020 và những năm tiếp theo
(22 trang). Trong chương này, tác giả đề xuất mơ hình quản lý, phương thức phát triển
và định hướng xây dựng các chính sách ưu đãi. Phần đề xuất giải pháp cụ thể, tác giả
chia thành 4 nhóm: (i) Giải pháp về thể chế; (ii) Giải pháp về kinh tế; (iii) Giải pháp về
xã hội; (iv) Giải pháp về môi trường.
Các kết quả chính mà luận án đã đạt được:
Luận án đã làm rõ các khái niệm về khu kinh tế, khu kinh tế ven biển; đồng thời
căn cứ trên khung lý thuyết phát triển bền vững (PTBV) và tiêu chí đánh giá PTBV,
Luận án đã luận giải nội hàm của PTBV các khu kinh tế ven biển từ góc độ chuyên
ngành Phân bố lực lượng sản xuất và phân vùng kinh tế theo hướng tiếp cận hiện đại;
làm rõ nội dung, bản chất của phát triển bền vững khu kinh tế ven biển; các yếu tố ảnh
hưởng đến phát triển bền vững khu kinh tế ven biển; đánh giá phát triển bền vững đối
với khu kinh tế ven biển; đề xuất hệ thống tiêu chí đánh giá phát triển bền vững các
khu kinh tế ven biển.
Trên cơ sở hệ thống tiêu chí đánh giá phát triển bền vững các khu kinh tế ven
biển đã đề xuất, Luận án đánh giá thực trạng phát triển các khu kinh tế ven biển Việt
Nam nói chung, vùng đồng bằng sơng Hồng nói riêng; thử nghiệm đánh giá các yếu tố

bền vững – không/ chưa bền vững của các khu kinh tế ven biển vùng đồng bằng sông
Hồng; chỉ ra những điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức đồng thời đề xuất định
hướng và giải pháp để phát triển bền vững các khu kinh tế ven biển vùng đồng bằng
sông Hồng trong những năm tới.

2. Lý do chọn đề tài
Việt Nam là một trong những quốc gia có nhiều lợi thế về tài ngun biển. Nằm
ở phía Tây Biển Đơng, Việt Nam có 28 tỉnh, thành phố có biển, với tổng chiều dài bờ
biển hơn 3.260 km, với hơn 1 triệu km2 vùng đặc quyền kinh tế (gấp 3 lần lãnh thổ
trên đất liền). Vùng biển, ven biển và hải đảo của Việt Nam là địa bàn chiến lược rất
2


quan trọng cả về kinh tế và an ninh - quốc phịng và có nhiều tiềm năng, lợi thế phát
triển. Vùng ven biển là nơi tập trung cao các hoạt động kinh tế và xã hội, nơi đây tập
trung gần 60% dân số, khoảng 50% đô thị lớn quan trọng và hầu hết các khu công
nghiệp lớn của cả nước. Thêm vào đó, vị trí biển của Việt Nam nằm ở trung tâm vùng
kinh tế Đông Á phát triển rất năng động cũng như gần một trong những đường hàng
hải quốc tế thuộc loại sôi động nhất thế giới. Vị thế này có tầm quan trọng cả về an
ninh cũng như kinh tế. Tiềm năng tài nguyên ở biển và ven biển khá phong phú, đa
dạng, trong đó có nhiều loại nổi trội như dầu khí, hải sản, điều kiện xây dựng cảng, du
lịch biển và ven biển… là những nguồn lực phát triển quan trọng.
Trong thời gian qua, việc khai thác tài nguyên biển đã góp phần thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân, tuy vậy, quy mơ kinh tế biển Việt Nam
vẫn cịn nhỏ bé. Việc quản lý, sử dụng biển, ven biển ở Việt Nam chưa thực sự hiệu
quả và bền vững. Tài nguyên biển và các nguồn lợi từ biển đang có xu hướng suy
giảm. Ở một số vùng, chất lượng nước biển cũng đang có xu hướng bị ơ nhiễm.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ Tư Ban chấp hành Trung ương Đảng Khóa X về
Chiến lược Biển Việt Nam đến năm 2020 với mục tiêu tổng quát “đến năm 2020, phấn
đấu đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển” là sự tiếp tục

đường lối đổi mới, mở cửa nền kinh tế trong tình hình mới. Chiến lược Biển Việt Nam
đến năm 2020 cũng xác định: phấn đấu đến năm 2020, kinh tế biển và ven biển đóng
góp khoảng 55% tổng GDP cả nước và 60% kim ngạch xuất nhập khẩu. Trong đó, các
khu kinh tế phấn đấu đưa mức đóng góp vào tổng GDP của cả nước khoảng từ 1520%, tạo ra việc làm phi nông nghiệp cho khoảng 1,3-1,5 triệu người.
Theo Đề án “Quy hoạch phát triển các khu kinh tế ven biển của Việt Nam đến
năm 2020” đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1353/QĐ-TTg
ngày 23/9/2008, đến nay đã hình thành hệ thống 15 khu kinh tế (KKT) của cả nước,
gồm: 2 KKT ở vùng Đồng bằng sông Hồng; 10 KKT ở vùng Duyên hải miền Trung; 3
KKT ở miền Nam. Tổng diện tích đất liền và mặt nước biển của 15 KKT là 697.800 ha.
Tuy nhiên, việc phát triển các KKTVB đang còn là vấn đề mới mẻ ở Việt Nam,
do vậy những nghiên cứu chuyên sâu về lĩnh vực này cịn rất ít. Chính vì vậy, việc
nghiên cứu luận cứ khoa học đối với sự phát triển bền vững các KKTVB vùng Đồng
bằng sông Hồng là vừa có tính lý luận vừa có tính thực tiễn cao. NCS hy vọng rằng
nghiên cứu này sẽ góp một phần nhỏ bé thảo luận khoa học về các giải pháp huy động
được tốt hơn nguồn lực để phát triển bền vững các KKTVB trong thời gian tới.

3. Mục đích nghiên cứu
3


Trên cơ sở hệ thống hóa và làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan
đến phát triển các KKTVB, luận án có đóng góp về mặt lý luận và học thuật, trong đó
đề xuất mới về nội dung, bản chất của phát triển bền vững KKTVB, các yếu tố ảnh
hưởng đến phát triển bền vững KKTVB, đánh giá phát triển bền vững đối với
KKTVB. Bên cạnh đó, luận án cũng đã có đóng góp về mặt thực tiễn, trong đó đề xuất
định hướng và giải pháp để phát triển bền vững các KKTVB vùng đồng bằng sơng
Hồng trong những năm tới.
Để đạt được mục đích trên, luận án tập trung thực hiện những nhiệm vụ sau
đây:
- Hệ thống hóa và làm rõ hơn cơ sở lý luận về phát triển các KKTVB theo

hướng phát triển bền vững.
- Đề xuất hệ thống tiêu chí đánh giá phát triển bền vững các KKTVB theo hai
nhóm: (i) Tiêu chí đánh giá phát triển bền vững nội tại; (ii) Tiêu chí đánh giá tác động
lan toả.
- Tìm hiểu kinh nghiệm thực tiễn của một số quốc gia đã thành công trong việc
phát triển các KKT (như Trung Quốc, Hàn Quốc, Ấn Độ), từ đó rút ra một số bài học
cho Việt Nam về phát triển các KKT theo hướng bền vững.
- Phân tích, đánh giá thực trạng tình hình phát triển các KKT ở nước ta nói
chung và các KKTVB vùng ĐBSH trong thời gian qua, bao gồm những kết quả đạt
được, những bất cập trong việc phát triển các KKTVB. Thử nghiệm đánh giá đánh giá
các tiêu chí bền vững đối với các khu kinh tế ven biển vùng Đồng bằng sơng Hồng
trên cơ sở hệ thống tiêu chí phát triển bền vững các KKTVB đã đề xuất.
- Đề xuất giải pháp chủ yếu nhằm phát triển các KKTVB vùng ĐBSH theo
hướng bền vững để đáp ứng yêu cầu thực hiện Chiến lược Biển Việt Nam đến năm
2020 và những năm tiếp theo.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là vấn đề phát triển bền vững các KKTVB
vùng ĐBSH, trong đó tập trung nghiên cứu vào hai KKTVB là Vân Đồn (tỉnh Quảng
Ninh) và Đình Vũ - Cát Hải (Hải Phịng). Trên cơ sở phân tích những lợi thế, chức
năng đặc thù và khả năng phát triển của các KKT này, tác giả đề xuất hệ thống những
tiêu chí cơ bản để đánh giá sự phát triển bền vững các KKTVB vùng ĐBSH tới năm
2020 trong quá trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
4


4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian, luận án nghiên cứu phát triển bền vững vùng Đồng bằng sông
Hồng, trong đó có 2 tỉnh, thành phố: Hải Phịng và Quảng Ninh là nơi có KKTVB. Về

thời gian, luận án nghiên cứu sự phát triển của các KKTVB vùng Đồng bằng sông
Hồng từ khi được thành lập đến nay, chủ yếu là từ năm 2010 đến 2015, ngoài ra, trong
một số phần của luận án sẽ sử dụng kết quả dự báo đến năm 2020 của các cơ quan dự
báo công bố gần đây.

4.3. Cách tiếp cận nghiên cứu
Tổng quát về cách tiếp cận nghiên cứu của đề tài luận án được thể hiện bằng sơ
đồ sau đây:

Nghiên cứu
lý luận KKT

Phương pháp chuyên gia

Khung lý
thuyết PTBV

Tiêu chí
PTBV

Nghiên cứu
kinh nghiệm
QT về phát
triển KKT
Thu thập
tài liệu,
số liệu

Phương pháp
dự báo

Bài học kinh
nghiệm cho
VN về phát
triển KKT

Đề xuất bộ tiêu chí PTBV
các KKT ven biển

Đề xuất định hướng, giải pháp

Hình 1. Khung tiếp cận và phương pháp tiếp cận nghiên cứu của đề tài
Nguồn: Đề xuất của tác giả

5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Câu hỏi nghiên cứu
Luận giải việc xây dựng các khu kinh tế vùng Đồng bằng sông Hồng dựa trên
những căn cứ lý thuyết và thực tiễn nào?
5


Cần có những điều kiện gì để tiến hành xây dựng các khu kinh tế ven biển?
Tiêu chí xác định vấn đề phát triển các khu kinh tế ven biển nhằm đảm bảo
mục tiêu phát triển bền vững là gì?
Những kết quả đã đạt được, những tồn tại trong phát triển các khu kinh tế ven
biển vùng Đồng bằng sông Hồng và nguyên nhân?
Định hướng và giải pháp thực hiện phát triển các khu kinh tế ven biển vùng
Đồng bằng sông Hồng theo hướng bền vững như thế nào?

5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu, trong đó chú trọng các

phương pháp sau đây:
- Phương pháp nghiên cứu tại bàn: Trong chương 1, tác giả sử dụng phương
pháp nghiên cứu tại bàn (desk study) nhằm hệ thống hóa, luận giải các vấn đề lý luận
và thực tiễn về phát triển KKT được sử dụng trong phần tổng quan tình hình nghiên
cứu có liên quan đến phát triển bền vững và phát triển bền vững các KKT để xác định
vấn đề nghiên cứu một cách toàn diện hơn. Luận án làm rõ khái niệm, định nghĩa về
KKT, đặc khu kinh tế, KKT ven biển, phát triển bền vững các KKTVB, cũng như đặc
điểm, vai trị của vùng Đồng bằng sơng Hồng trong sự phát triển chung của đất nước.
Từ việc nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế cũng như thực tiễn phát triển KKT tại Việt
Nam, luận án rút ra những bài học cho Việt Nam về các cơ chế, chính sách cần thiết để
phát triển KKT. Trên cơ sở tham khảo và nghiên cứu Bộ chỉ tiêu phát triển bền vững
của Liên Hợp Quốc và Hệ thống chỉ tiêu giám sát, đánh giá phát triển bền vững địa
phương của Việt Nam, tác giả đề xuất hệ thống tiêu chí đánh giá phát triển bền vững
KKT ven biển đến năm 2020.
- Phương pháp đánh giá tổng hợp (DPSIR): Trên cơ sở khung lý thuyết đã được
xây dựng ở chương 1, tác giả sử dụng phương pháp DPSIR chủ yếu trong phần đánh
giá thực trạng phát triển các KKT ở Việt Nam trong thời gian qua (chương 3) và đề
xuất giải pháp phát triển các KKTVB vùng Đồng bằng sông Hồng đến năm 2020 theo
hướng bền vững (chương 4). Phương pháp này được sử dụng dựa trên hệ thống
nguyên nhân - kết quả chặt chẽ, được áp dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực nghiên cứu
phát triển. Đây là phương pháp thường được sử dụng trong phân tích hiện trạng vấn đề
và đề xuất giải pháp cải thiện vấn đề, do vậy rất phù hợp trong việc phân tích hiện
trạng tình hình phát triển các KKTVB ở Việt Nam nói chung và vùng đồng bằng sơng
Hồng nói riêng, từ đó đề xuất giải pháp phát triển các KKTVB vùng Đồng bằng sông
Hồng trong thời gian tới.
6


- Phương pháp SWOT: Tác giả sử dụng phương pháp SWOT trong chương 3
để phân tích điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức của vùng Đồng bằng sông

Hồng; mục tiêu phát triển, tiềm năng và lợi thế của các KKT Vân Đồn và Đình Vũ Cát Hải,...
- Phương pháp quy nạp: Tác giả sử dụng phương pháp quy nạp trong chương 1
nhằm làm rõ các khái niệm về KKT, KKTVB, cũng như các bộ tiêu chí và các chỉ tiêu
phát triển bền vững đã được sử dụng trên thế giới và ở Việt Nam, qua đó đề xuất bộ
tiêu chí phát triển bền vững các KKTVB vùng ĐBSH.
- Phương pháp chuyên gia: Theo lý thuyết, phương pháp chuyên gia được áp
dụng có hiệu quả cho những đối tượng thiếu hay chưa đủ số liệu thống kê hoặc khơng
có số liệu nền, do vậy kết quả của phương pháp này chủ yếu phục vụ cho nhu cầu định
hướng, quản lý. Chính vì vậy, tác giả nhận thấy phương pháp chuyên gia sẽ thích hợp
trong đề tài này, bởi lẽ việc nghiên cứu vấn đề phát triển bền vững các khu kinh tế ven
biển là một chủ thể có tầm bao quát rộng mang tính chất liên ngành, nhưng lại khơng
có đủ số liệu thống kê. Tác giả sử dụng phương pháp chuyên gia để tham vấn và kiểm
nghiệm các luận chứng, phân tích, đánh giá thơng qua trao đổi với các chuyên gia
nghiên cứu về phát triển bền vững và phát triển các KKT mở, KKT tự do, cũng như
trao đổi với các nhà hoạch định chính sách tại các cuộc hội thảo về vấn đề phát triển
các KKTVB mà tác giả có cơ hội được tham dự. Những gợi ý chính sách của các
chuyên gia sẽ rất hữu ích cho tác giả trong quá trình đưa ra những giải pháp ở chương
4.
- Phương pháp phân tích chính sách: Tác giả sử dụng phương pháp này để giải
quyết các câu hỏi nghiên cứu: Vấn đề phát triển bền vững KKTVB cần giải pháp gì?
Phương hướng lựa chọn nào có thể giải quyết được vấn đề đó? Những tiêu chí nào có
thể đánh giá được KKTVB phát triển bền vững? Việc đạt được những tiêu chí này có
giải quyết được vấn đề phát triển bền vững KKTVB hay khơng?
- Ngồi ra, tác giả cũng sử dụng thêm một số phương pháp khác như phương
pháp thống kê mô tả và so sánh, dự báo xu thế phát triển,...

5.3. Nguồn số liệu
Nguồn số liệu sử dụng trong luận án chủ yếu là nguồn số liệu thứ cấp, bao gồm:

Số liệu thống kê của Tổng cục Thống kê và Cục Thống kê các tỉnh,

thành phố vùng ĐBSH;


Số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư; Sở Kế hoạch và Đầu tư và Ban
7


Quản lý KKT các tỉnh, thành phố Hải Phòng và Quảng Ninh;

Số liệu khảo sát của Trung tâm Thơng tin và Dự báo Kinh tế - xã hội
quốc gia, Viện Chiến lược phát triển, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương, Vụ
Quản lý khu kinh tế (thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư);

Các kết quả nghiên cứu đã được công bố tại các cuộc hội thảo, các bài
viết đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành.

8


CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1.

Một số nghiên cứu liên quan đến chủ đề Phát triển bền vững

Kể từ năm 1987, sau khi khái niệm “Phát triển bền vững” được chính thức cơng
bố trong Báo cáo Brundtland, chủ đề phát triển bền vững đã trở thành một nội dung
được các nhà nghiên cứu cũng như những nhà hoạch định chủ trương, chính sách ở các
quốc gia đặc biệt quan tâm. Theo đó, quan niệm về phát triển bền vững thường được
tiếp cận theo hai khía cạnh: Một là, phát triển bền vững là phát triển trong mối quan hệ

duy trì những giá trị mơi trường sống, coi giá trị môi trường sinh thái là một trong
những yếu tố cấu thành những giá trị cao nhất cần đạt tới của sự phát triển. Hai là,
phát triển bền vững là sự phát triển dài hạn, phát triển hôm nay không làm ảnh hưởng
tới mai sau.
Tổng hợp các tài liệu được công bố của các nhà nghiên cứu và các nhà hoạch định
chính sách trong lĩnh vực liên quan, tác giả nhận thấy có một số cơng trình nghiên cứu về
phát triển bền vững tiêu biểu sau đây:
Trong nghiên cứu của A.L.Mayer (2008) [87] cho rằng: Từ một khái niệm trừu
tượng, tính bền vững đã được nhanh chóng chuyển sang cơng cụ đo lường của hệ
thống nhân sinh (human-ecological systems) năng động. Nhiều chỉ tiêu kinh tế, xã hội
và mơi trường hiện có đã cho thấy tính bền vững hệ thống. Mayer đã đề xuất có thể
đánh giá phát triển bền vững theo 4 chiều được đặt trong một hệ trục tọa độ gồm trục
tung là chiều kinh tế (Economic dimensions); trục hoành là thời gian (Time).
Các chiều khác trong hệ tọa độ này gồm
có: Cơng nghệ (Technological dimensions); Sinh
thái (Ecological dimensions); Pháp luật/xã hội
(Legal/Social dimensions). Khi hệ thống quỹ đạo
(System trajectory) cân bằng giữa các chiều thì
đạt tới sự bền vững (Sustainable). Cịn nếu có
hiện tượng thảm họa (Catastrophic event) cắt hệ
thống quỹ đạo ở một điểm giữa của chiều kinh tế
và chiều cơng nghệ thì sẽ khơng đạt được sự bền Hình 1.1. Các chiều của bền
vững
vững (Not Sustainable).
Nguồn: Mayer, 2008:278

9


Tác giả M.O’Connor (2006) [88] lại có cách tiếp cận khác với Mayer khi trình

bày quan điểm hệ thống tổng thể về phát triển bền vững. Trong nghiên cứu của mình,
O'Connor đề xuất một mơ hình tứ giác như là "Bốn trụ cột" cho phát triển bền vững.
O'Connor cho rằng "phát triển bền vững được đặc trưng là sự gắn kết phát triển
(coevolution) của hệ thống gồm:
Kinh tế (Economic organisation), Xã
hội (Social organisation) và Hệ tự
nhiên/Môi
trường
(Natural
Systems
organisation), được thể hiện bằng các mục
tiêu chất lượng/hoạt động liên quan đến mỗi
một lĩnh vực". Lĩnh vực thứ tư là hệ thống
quy định thông qua lĩnh vực Chính trị
(System

Regulation

via

Political

organisation), được tác giả định nghĩa là
những quy định có vai trị điều chỉnh hoạt
Hình 1.2. Mơ hình tứ giác của sự động của lĩnh vực kinh tế và lĩnh vực xã hội
bền vững (được gọi là 4 trụ cột của và những mối quan hệ song hành với lĩnh
phát triển bền vững)
vực môi trường.
Nguồn: O’Connor, 2006:286
Trong khi đó tác giả Spangenberg (2002) [99] lại cho rằng: Sử dụng khái niệm

không gian môi trường và lăng kính của phát triển bền vững, mặc dù khá phức tạp,
nhưng có thể dễ dàng tuyên truyền và sử dụng như là một công cụ cho việc tập hợp sự
hỗ trợ cơng cộng đối với các chính sách phát triển bền vững. Ở tầm vĩ mô, không gian
môi trường và lăng kính của phát triển bền vững được áp dụng để xây dựng chỉ tiêu
quốc tế, khu vực và quốc gia. Ở cấp độ vi mô, hệ thống các chỉ tiêu phát triển bền
vững đối với hộ gia đình, cơng ty và cộng đồng địa phương cũng đã được xây dựng.
Các chỉ tiêu này cũng được sử dụng trong mô hình năng động, thể hiện năng lực của
họ để đánh giá tính bền vững của các chiến lược chính sách khác nhau.
Tại Diễn đàn phát triển công nghiệp bền vững do Văn phòng UNIDO tại Việt
Nam tổ chức vào tháng 5/2006, nhà nghiên cứu Phillipes Scholtes [40] nhận định rằng:
phát triển công nghiệp bền vững (SID) liên quan đến cả ba lĩnh vực là Kinh tế - Xã hội
- Môi trường và phát triển bền vững. Đây cũng chính là lĩnh vực chủ đạo trong chương
trình của UNIDO giai đoạn 2006-2010. Sau khi phân tích cơ cấu ngành cơng nghiệp
của Việt Nam giai đoạn 2001-2005 với mối đe dọa bị phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu,
10


các yêu cầu cần phải tuân thủ trong thời đại WTO, các cơ hội và thách thức đặt ra cho
ngành công nghiệp nước ta, tác giả này đã nhấn mạnh yếu tố tiêu dùng xanh - người
tiêu dùng sẽ là những nhân tố chính tác động làm thay đổi phát triển bền vững bằng
cách tạo áp lực với ngành công nghiệp phải thể hiện hành vi trách nhiệm đối với xã
hội.
Trong nghiên cứu của Atkinson và các cộng sự (1999) [73], tác giả cho rằng có
6 hệ thống chỉ tiêu cho phát triển bền vững, được chia thành 3 nhóm: hệ thống con
người; hệ thống hỗ trợ; và hệ thống tự nhiên. Trong đó:
● Hệ thống con người = phát triển cá nhân + hệ thống xã hội + hệ thống chính
phủ
● Hệ thống hỗ trợ = hệ thống kinh tế + hệ thống cơ sở hạ tầng
● Hệ thống tự nhiên = môi trường và hệ thống tài nguyên
Ba nhóm hệ thống trên đây tương ứng với ba nguồn vốn thường được sử dụng

trong phân tích tồn bộ hệ thống, đó là: vốn con người (human capital); vốn cấu trúc
(structural capital); vốn tự nhiên (natural capital).

Hình 1.1. Sáu hệ thống chỉ tiêu phát triển bền vững chủ yếu
Nguồn: Hartmut Bossel, 1999:17
Các chỉ tiêu cụ thể trong từng nhóm bao gồm:
• Phát triển cá nhân: Tự do cơng dân và quyền con người, bình đẳng, quyền tự
chủ cá nhân và quyền tự quyết, sức khỏe, quyền được làm việc, hòa nhập xã hội và sự
tham gia, giới tính và đẳng cấp cụ thể vai trò, tiêu chuẩn vật chất của cuộc sống, trình

11


độ, chun mơn, giáo dục người lớn, gia đình và cuộc sống, vui chơi và giải trí, nghệ
thuật.
• Hệ thống xã hội: Phát triển dân số, thành phần dân tộc, phân phối thu nhập và
cơ cấu giai cấp, các nhóm xã hội và các tổ chức, an sinh xã hội, chăm sóc y tế, bảo trợ
xã hội.
• Chính phủ: Chính phủ, hành chính, tài chính cơng và các loại thuế, tham gia
chính trị và dân chủ, giải quyết xung đột (quốc gia, quốc tế), chính sách nhân quyền,
chính sách dân số và di cư, hệ thống pháp luật, kiểm soát tội phạm, chính sách hỗ trợ
quốc tế, chính sách cơng nghệ.
• Cơ sở hạ tầng: Định cư, thành phố, giao thông vận tải, hệ thống cung cấp
(điện, nước, thực phẩm, hàng hóa, dịch vụ), xử lý chất thải, dịch vụ y tế, thông tin và
truyền thông, cơ sở vật chất cho giáo dục và đào tạo, khoa học, R&D.
• Hệ thống kinh tế: Sản xuất và tiêu thụ, tiền tệ, thương mại, lao động, việc làm,
thu nhập, thị trường, thương mại liên vùng.
• Tài ngun và mơi trường: Mơi trường tự nhiên, khí quyển và thủy quyển, tài
nguyên, hệ sinh thái, các lồi, cạn kiệt tài ngun khơng thể tái tạo, năng lượng tái tạo,
hấp thụ chất thải, tái chế vật liệu, ơ nhiễm, suy thối, năng lực chịu tải.

Cịn quan điểm của tác giả Richard J. Estes (1993) [91] trong nghiên cứu
Hướng tới phát triển bền vững: Từ lý thuyết đến hành động, là khái niệm phát triển
bền vững đại diện cho một đóng góp cơ bản và lâu dài về lý thuyết và thực tiễn phát
triển. Trong bài báo của mình, tác giả đã làm rõ: (i) Ý nghĩa của phát triển bền vững;
(ii) Xác định những cách tiếp cận khác nhau liên quan đến khái niệm phát triển bền
vững; (iii) Nhấn mạnh các giá trị cơ bản và mục tiêu của khái niệm; (iv) Xác định
những cản trở chủ yếu liên quan đến thực tiễn phát triển bền vững; (v) Phân tích một
số bất ổn liên quan đến sự phát triển tiếp tục của khái niệm. Cuối cùng, tác giả đề xuất
chương trình hành động để phát triển bền vững trên toàn cầu.
Ở Việt Nam, khái niệm “Phát triển bền vững” mặc dù xuất hiện chậm hơn, vào
khoảng cuối thập niên 80 đầu thập niên 90, nhưng lại sớm được thể hiện ở nhiều cấp
độ. Về mặt học thuật, thuật ngữ này được giới khoa học nước ta tiếp thu rất nhanh.
Trong các cuộc hội thảo chuyên ngành, thuật ngữ này được gắn vào hầu hết tất cả các
lĩnh vực, cả vĩ mô và vi mô như: Phát triển bền vững ngành công nghiệp/nông
nghiệp/thương mại; Phát triển bền vững ngành du lịch/xây dựng/thủy sản; Giảm nghèo
và Phát triển bền vững; Giáo dục vì sự phát triển bền vững; Phát triển đô thị bền vững;
Phát triển bền vững vùng ven các đô thị; Phát triển chè/hồ tiêu/cà phê bền vững; v.v...
12


Từ đó đến nay, đã có hàng loạt cơng trình nghiên cứu liên quan đến phát triển bền
vững, có thể kể đến một số cơng trình nghiên cứu tiêu biểu sau đây:
Dựa trên một số kết quả nghiên cứu chính của đề tài cấp nhà nước KX04.11/1115 đang được triển khai “Phát triển bền vững của Việt Nam trong bối cảnh mới của
tồn cầu hóa, hội nhập quốc tế và biến đổi khí hậu” (thuộc Chương trình cấp nhà nước
KX 04/11-15 của Hội đồng Lý luận Trung ương), nhóm tác giả Ngô Thắng Lợi và Vũ
Thành Hưởng (2014) [32] đã đi sâu vào đánh giá khía cạnh phát triển bền vững được
đưa ra và thực hiện trong mơ hình cơng nghiệp hóa ở Việt Nam như thế nào, bao gồm
từ quá trình phát triển nhận thức của Đảng về gắn cơng nghiệp hóa với phát triển bền
vững, đến những vấn đề đặt ra về gắn phát triển bền vững trong q trình thực hiện
cơng nghiệp hóa. Cuối cùng, các tác giả đưa ra một số kiến nghị chính nhằm gắn phát

triển bền vững trong quá trình tiếp tục thực hiện cơng nghiệp hóa trong các điều kiện
mới của tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế.
Ở khía cạnh lồng ghép tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường, trong nghiên
cứu của mình, tác giả Lê Thu Hoa (2014) [22] nhận định: Cùng với quá trình phát triển
về nhận thức và hành động trên quy mơ tồn cầu, tư duy và nhận thức của Đảng và
Nhà nước ta về gắn tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường, tài ngun và ứng phó
với biến đổi khí hậu, khơng ngừng đổi mới và hoàn thiện. Tuy vậy, việc thực hiện các
nội dung này trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa cịn nhiều hạn chế: cơ cấu kinh
tế chưa thân thiện với môi trường, hiệu quả sử dụng tài nguyên thấp, nhiều vấn đề môi
trường trong các ngành/lĩnh vực chưa được giải quyết cùng với các nguy cơ do biến
đổi khí hậu đe dọa tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững của đất nước. Để đạt
mục tiêu sớm đưa Việt Nam thành nước công nghiệp, đồng thời nắm bắt cơ hội từ xu
hướng và mối quan tâm toàn cầu, chúng ta cần hướng theo mơ hình phát triển xanh với
các định hướng và giải pháp cụ thể về thể chế và năng lực quản lý, bảo đảm nguồn lực,
tổ chức thực hiện và theo dõi đánh giá.
Tập trung vào nội dung giám sát, đánh giá thực hiện phát triển bền vững, trong
đề tài khoa học cấp Bộ (Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2013), căn cứ vào mục tiêu của đề tài,
tác giả Nguyễn Lệ Thủy [57] đã hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về giám sát,
đánh giá phát triển bền vững; phân tích thực trạng công tác giám sát, đánh giá phát
triển bền vững. Trên cơ sở đó, tác giả nghiên cứu đề xuất các nội dung nhằm xây dựng
hệ thống giám sát, đánh giá phát triển bền vững ở nước ta.
Trong khi đó, nhóm tác giả Nguyễn Phương Mai - Phạm Thị Bích Ngọc (2013)
[35] lại chú trọng hơn đến vấn đề nguồn nhân lực Việt Nam với yêu cầu phát triển bền
vững giai đoạn 2011- 2020. Nhóm tác giả đã tổng hợp lý luận về phát triển bền vững
13


và vai trò của nguồn nhân lực trong phát triển. Bối cảnh phát triển của nước ta từ khi
Đổi mới đến nay cũng như tình hình dân số và nguồn nhân lực trên các khía cạnh số
lượng, chất lượng, sự phân bố được trình bày trong các phần tiếp theo. Nghiên cứu này

đã đóng góp thêm một ý kiến về việc nâng cao vai trò của nguồn nhân lực, đặc biệt là
mặt chất lượng, trong phát triển kinh tế Việt Nam giai đoạn tiếp theo. Trên cơ sở đó,
kết luận rút ra là: (i) Nền kinh tế Việt Nam mặc dù có những bước phát triển đáng ghi
nhận nhưng chưa bền vững; (ii) Chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam còn thấp hơn so
với nhiều nước trong khu vực và mức trung bình thế giới. Trong thời gian tới, Việt
Nam không thể khai thác lợi thế về số lượng mà phải hết sức quan tâm đến việc nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực để phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Để làm
được điều này, đầu tư vốn nhân lực là vấn đề cốt lõi. Cuối cùng, các tác giả đề xuất
phương hướng đẩy mạnh đầu tư vốn nhân lực ở tất cả các giai đoạn tiền giáo dục, giáo
dục và hậu giáo dục (theo tư tưởng của Jacob Mincer - cha đẻ của lý thuyết kinh tế học
lao động hiện đại).
Tác giả Nguyễn Hữu Dũng (2012) [14] lại cho rằng: Các vấn đề xã hội và phát
triển bền vững có mối quan hệ hữu cơ với nhau và gắn rất chặt với mơ hình tăng
trưởng của một quốc gia, phù hợp với xu hướng chung của quốc tế, đó là đều nhằm
mục tiêu phát triển con người, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thực hiện công bằng xã
hội và chủ động hội nhập quốc tế. Sau gần 30 năm đổi mới ở Việt Nam, nhận thức về
các vấn đề này ở nước ta đã có sự thay đổi cơ bản, việc giải quyết các vấn đề xã hội và
phát triển bền vững đã đạt được những thành tựu quan trọng. Tuy nhiên, Việt Nam
đang phải đối mặt với nhiều thách thức trong các vấn đề xã hội, nhất là các vấn đề xã
hội bức xúc, làm cho phát triển xã hội chưa bền vững. Trong giai đoạn mới của sự phát
triển, Việt Nam phải tiến tục đổi mới tư duy, nhận thức sâu sắc hơn về vấn đề này và
ưu tiên tập trung vào giải quyết những vấn đề vừa cơ bản lâu dài, vừa bức xúc trước
mặt về các vấn đề xã hội, góp phần phát triển bền vững đất nước.
Khi nghiên cứu về quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững ở
Việt Nam, PGS.TS. Lê Xuân Bá (2010) [3] đã hệ thống hóa làm rõ cơ sở lý luận và
kinh nghiệm quốc tế về quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững. Qua
phân tích về quan điểm, nội hàm của tăng trưởng và phát triển bền vững, tác giả tập
trung đánh giá thực trạng về mối quan hệ giữa tăng trưởng và phát triển bền vững ở
nước ta. Từ đó, đề xuất quan điểm định hướng về quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và
phát triển bền vững ở nước ta đến năm 2020 và một số nhóm giải pháp tổng thể.

Với nhận định phát triển kinh tế là yếu tố căn bản cho phát triển bền vững,
Nguyễn Hữu Sở (2009) [44] trong nghiên cứu của mình đã đưa ra khái niệm và mối
14


quan hệ giữa phát triển kinh tế bền vững với phát triển bền vững, cũng như tác động
của phát triển kinh tế đến các vấn đề văn hóa, xã hội và mơi trường. Qua phân tích
thực tiễn q trình phát triển kinh tế trong thời kỳ đổi mới, tác giả cho rằng phát triển
bền vững cần phải được đảm bảo bằng sự tăng trưởng kinh tế đạt được cả về chất và
về lượng. Phát triển kinh tế bền vững là yêu cầu đòi hỏi phải đạt được của sự phát triển
bền vững.
Trong cơng trình nghiên cứu đánh giá tổng kết thực hiện phát triển bền vững ở
Việt Nam từ khi Đổi mới đến nay, các tác giả Nguyễn Quang Thái và Ngơ Thắng Lợi
(2007) [48] đã phân tích thực trạng phát triển của kinh tế - xã hội Việt Nam trong thời
kỳ Đổi mới, phân tích những yếu tố cũng như những điều kiện để giúp cho Việt Nam
đạt được những tiến bộ khả quan trong việc thực hiện phát triển bền vững, trong đó có
đề cập đến những nội dung của vấn đề tăng trưởng với chất lượng cao thể hiện ở
những tiêu chí như xác định cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
tiến bộ.
Bàn thêm về phát triển bền vững, tác giả Bùi Tất Thắng (2006) [50] đã phân
tích để thực hiện phát triển bền vững về mặt kinh tế thì tốc độ tăng trưởng phải cao và
quan trọng là phải có sự thay đổi về cơ cấu kinh tế cùng với việc nâng cao đời sống
của dân chúng và bảo vệ mơi trường, nguồn tài ngun thiên nhiên. Cịn tác giả Lưu
Đức Hải (2005) [18] đã trình bày hệ thống quan điểm lý thuyết và hành động quản lý
môi trường cho phát triển bền vững. Cơng trình này đã xác định phát triển bền vững
qua các tiêu chí: bền vững kinh tế, bền vững mơi trường, bền vững văn hóa, đã tổng
quan nhiều mơ hình phát triển bền vững như: Mơ hình 3 vịng trịn kinh tế - xã hội mơi trường giao nhau của Jacobs và Sadler (1990); Mơ hình tương tác đa lĩnh vực kinh
tế, chính trị, hành chính, công nghệ, quốc tế, sản xuất, xã hội của Ủy ban Môi trường
và Phát triển Thế giới - WCED (1987); Mơ hình liên hệ thống kinh tế, xã hội, sinh thái
của Villen (1990); Mơ hình 3 nhóm mục tiêu kinh tế, xã hội, môi trường của Worl

Bank.
Trong nghiên cứu của mình về phát triển bền vững cho các cụm ngành công
nghiệp, dựa trên quan điểm về phát triển bền vững nói chung và phát triển bền vững
các cụm ngành cơng nghiệp nói riêng, đồng thời phân tích thực trạng những vấn đề
môi trường của các cụm ngành công nghiệp Việt Nam, nhóm tác giả Lê Hà Thanh và
cộng sự (2014) [49] đã đề xuất hai nhóm tiêu chí đánh giá phát triển bền vững khu
cụm công nghiệp gồm: (i) các tiêu chí đánh giá phát triển bền vững nội tại; và (ii) các
tiêu chí đánh giá tác động lan tỏa. Trong đó, nhóm tiêu chí đánh giá phát triển bền
vững nội tại xem xét các yếu tố chủ quan của cụm ngành cơng nghiệp (gồm: vị trí địa
15


lý; quy mơ diện tích; tỷ lệ diện tích đất cơng nghiệp có thể cho th trong diện tích đất
tự nhiên khu cụm công nghiệp; tỷ lệ lấp đầy; sự gia tăng ổn định về mặt sản lượng
trong hoạt động sản xuất kinh doanh; hiệu quả hoạt động; trình độ công nghệ của
doanh nghiệp và các hoạt động triển khai khoa học công nghệ vào sản xuất kinh
doanh; hoạt động liên kết sản xuất của các doanh nghiệp trong khu cụm công nghiệp;
mức độ thỏa mãn của nhà đầu tư). Nhóm tiêu chí đánh giá tác động lan tỏa xem xét
các tác động ở ba lĩnh vực phát triển bền vững là kinh tế, xã hội và mơi trường.
Nhìn chung, tất cả các cơng trình nghiên cứu kể trên đều có một điểm chung là
phân tích chi tiết thêm khái niệm phát triển bền vững theo Brundtland, song về cơ bản
cịn mang tính liệt kê; tính thích ứng của các chỉ báo với thực tế Việt Nam, cụ thể là ở
cấp độ địa phương, vùng, miền, hay các lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội vẫn
chưa được làm rõ. Trên cơ sở tham khảo các nghiên cứu quốc tế và trong nước, một số
cơng trình nghiên cứu nói trên đều đồng thuận khi nhận định rằng các tiêu chí về phát
triển bền vững đối với một quốc gia là bền vững kinh tế, bền vững xã hội và bền vững
mơi trường, cịn đối với chủ thể của nền kinh tế (như KCN, KKT, đặc KKT) thì để
phát triển bền vững cần phải đáp ứng thêm những tiêu chí về thể chế (hệ thống chính
trị), văn hóa hay cụ thể hóa thành những tiêu chí như cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng tiến bộ,...


1.1.

Một số nghiên cứu liên quan đến chủ đề Phát triển khu kinh tế và
khu kinh tế ven biển

Dựa trên những lợi thế so sánh về vị trí địa lý, chính trị, kinh tế, một số quốc
gia trên thế giới đã hình thành và phát triển các khu kinh tế với nhiều loại hình đa dạng
nhằm tập trung thu hút đầu tư và thu hút vốn đầu tư nước ngoài, trở thành cực tăng
trưởng có sức lan tỏa, tạo nên động lực thúc đẩy nhanh phát triển kinh tế - xã hội của
quốc gia, vùng và địa phương.
Đã có nhiều nghiên cứu trên thế giới về vấn đề phát triển khu kinh tế nói chung
và khu kinh tế ven biển nói riêng, trong đó điển hình là các nghiên cứu sau:
Trong nghiên cứu của Farole, T. và G. Akinci (2011) [85] đề cập đến ba vấn đề
hết sức quan trọng đối với các nhà hoạch định chính sách, đó là:
- Làm thế nào để làm cho KKT thành công trong việc thu hút các doanh nghiệp
để tạo công ăn việc làm;
- Làm thế nào để đảm bảo rằng các KKT bền vững về mặt kinh tế và mang lại
tác động tích cực, trong đó có việc tạo điều kiện thuận lợi cho việc đẩy mạnh quá trình
chuyển đổi cơ cấu và cải cách kinh tế;
16


- Làm thế nào để đảm bảo rằng các KKT bền vững về thể chế, xã hội và môi
trường. Điều này có nghĩa khơng chỉ giảm thiểu các tác động tiêu cực, thậm chí có thể,
mang lại những lợi ích phi kinh tế cho xã hội.
Trong khi đó, nghiên cứu của tổ chức FIAS (2008) [84] lại phân tích những xu
thế phát triển chủ yếu liên quan đến loại hình KKT, mơ hình sở hữu, khn khổ pháp
lý và quy định, khuôn khổ thể chế, quyền sở hữu, phương pháp tiếp cận quản lý, các
ưu đãi và các tác động kinh tế nhằm làm cho KKT hoạt động tốt. Thông qua việc phân

tích tổng quan hoạt động kinh tế của các KKT, đánh giá mối quan hệ của KKT và
những nỗ lực cải cách kinh tế, cuối cùng là rút ra bài học và khuyến nghị chính sách,
nghiên cứu này giúp cho các nhà hoạch định chính sách có thể thiết kế và tạo điều kiện
thuận lợi cho phát triển các KKT nhằm tối đa hóa lợi ích cho tồn nền kinh tế.
Trong nghiên cứu về các đặc khu kinh tế của Liên bang Nga, tác giả Kari
Liuhto (2009) [86] đã có một số phát hiện mới về chính sách của các đặc khu kinh tế
của nước này. Thứ nhất là, mặc dù ưu đãi về thuế của các đặc khu thấp hơn những
hàng rào đầu tư cho nhà đầu tư nước ngồi nhưng về lợi nhuận nói riêng lại chưa đủ để
hấp dẫn các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Nga. Thứ hai là, uy tín thấp về quyền
phi vật chất (immaterial rights), hệ thống đổi mới sáng tạo nghèo nàn, hình ảnh cơng
nghệ thấp, thiếu cơ chế tài chính liên quan đến nghiên cứu và triển khai (R&D) và thủ
tục hành chính trì trệ đã làm giảm những lợi thế của các đặc khu kinh tế của Nga. Thứ
ba là, vai trò ngày càng tăng của các tập đồn cơng nghiệp qn sự đã làm Chính phủ
qn lãng các doanh nghiệp tư nhân Nga cũng như các doanh nghiệp nước ngoài trong
các hoạt động đổi mới. Sự sai lầm khi hướng hệ thống đổi mới vào lĩnh vực quân sự
không thể bắt đầu cho sự đa dạng hóa nền kinh tế nước Nga, kể từ khi hệ thống đổi
mới hướng vào lĩnh vực quân sự vừa tốn kém kinh phí, vừa khơng hiệu quả và tham
nhũng do tính chất bí mật, nạn quan liêu và thiếu tính cạnh tranh của các tập đồn này.
Chính vì vậy, các đặc khu kinh tế của Nga đã không đạt được những kỳ vọng như
mong muốn ban đầu.
Ở Việt Nam, phát triển các KKT ven biển là chủ trương mới của Đảng ta, do
vậy các tài liệu chuyên sâu về vấn đề này cịn rất ít, đặc biệt là những nghiên cứu về
phát triển KKT ven biển vùng Đồng bằng sông Hồng. Hầu hết các thông tin được phổ
biến công khai chỉ chủ yếu là các báo cáo tình hình phát triển KKT của Bộ Kế hoạch
và Đầu tư và một số đề tài khoa học về phát triển bền vững của Viện Khoa học xã hội
Việt Nam; còn các nghiên cứu khác thì mới chỉ ở dạng các bài viết hoặc bài tham luận
tại các cuộc hội thảo, hoặc có liên quan được đề cập rất ngắn trong các nghiên cứu về

17



quy hoạch vùng Đồng bằng sông Hồng hay kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước. Có thể kể đến một số nghiên cứu tiêu biểu sau đây:
Trong cuốn sách “Khu kinh tế tự do - Thực tiễn phát triển ở Trung Quốc và Ấn
Độ”, tác giả Đặng Thị Phương Hoa (2012) [20] tập trung trình bày sự khác nhau nổi
bật giữa khái niệm cũ và mới về khu kinh tế tự do để khẳng định khu kinh tế tự do
trong điều kiện mới phải đổi mới thể chế chứ không dừng lại ở những ưu đãi tài chính.
Khu kinh tế tự do được tiếp cận theo hướng thử nghiệm cải cách thể chế, dùng yếu tố
hướng ngoại truyền thống của khu vực này để phát triển các vùng khác trong nước,
liên kết vùng và phát triển vùng - một đặc tính then chốt mà khi vận hành khu kinh tế
tự do nhất thiết phải đảm bảo. Với quan điểm khu kinh tế tự do là bước đi đầu tiên của
liên kết kinh tế thế giới và tồn cầu hóa kinh tế, do đó đây là nơi đầu tiên thử nghiệm
chính sách, thể chế hiện đại phù hợp nhất trước khi áp dụng rộng rãi, đặc biệt là đối
với các nước đang, kém phát triển và trong giai đoạn chuyển đổi.
Trong bài viết của Trần Duy Đông (2011) [17] đã nhấn mạnh: được thành lập
nhằm khai thác các lợi thế về điều kiện tự nhiên và vị trí địa kinh tế thuận lợi với
những chính sách hỗ trợ đặc thù, các KKT ven biển vẫn như những “hịn ngọc thơ”
cần tiếp tục được gia cơng. Mơ hình phát triển của các KKT ven biển ở Việt Nam hiện
nay dựa trên phát triển đa ngành, trong đó trọng tâm là công nghiệp, dịch vụ. Sự phát
triển KKT ven biển được thực hiện chủ yếu thông qua phát huy các thế mạnh về địa
kinh tế như: có cảng biển, hệ thống giao thông đường bộ liên kết vùng kinh tế trọng
điểm, có điều kiện thuận lợi thu hút và triển khai các dự án động lực. Tác giả cũng đề
xuất định hướng phát triển các KKT ven biển là: (i) Phải gắn với chuyển dịch cơ cấu
kinh tế của địa phương và của vùng theo hướng tập trung phát triển những ngành nghề
có lợi thế so sánh của địa phương đó, vùng đó. Phát triển các KKT ven biển phải theo
hướng hiện đại, đảm bảo sử dụng một cách hiệu quả cả quỹ đất, mặt nước và không
gian của KKT ven biển; (ii) Phải hướng tới hình thành khu chức năng nòng cốt, chủ
đạo và gắn kết chặt chẽ với việc phát triển vùng. Phát triển các KKT ven biển phải
theo từng giai đoạn, phù hợp với định hướng phát triển kinh tế - xã hội của cả nước và
phù hợp với điều kiện cụ thể của từng địa phương; (iii) Phát triển các KKT ven biển

phải đảm bảo yêu cầu bảo vệ môi trường và yêu cầu an ninh - quốc phòng.
Trong đề tài khoa học “Xây dựng tiêu chí phát triển lãnh thổ đầu tàu lơi kéo sự
phát triển nền kinh tế - từ kinh nghiệm nước ngoài (Trung Quốc, Nga) và yêu cầu thực
tiễn của Việt Nam”, tác giả Ngơ Dỗn Vịnh (2011) [62] đã tập trung nghiên cứu các
kinh nghiệm của quốc tế về phát triển lãnh thổ đầu tàu, trong đó các kinh nghiệm về
xây dựng các đặc khu kinh tế của Trung Quốc đặc biệt hữu ích trong việc phát triển
18


các lãnh thổ đầu tàu của Việt Nam, kể cả về mục tiêu hình thành, lựa chọn địa điểm,
bước đi và cơ chế, chính sách đối với các đặc khu kinh tế. Một trong các đóng góp của
đề tài này là phân tích, đánh giá về tình hình phát triển các lãnh thổ có tính chất động
lực trong thời gian qua ở nước ta, cụ thể là các vùng kinh tế trọng điểm, các khu kinh
tế ven biển. Do các tiêu chí hình thành các lãnh thổ trên chưa tồn diện và đầy đủ nên
việc phát triển chưa như mong muốn, cịn mang tính phong trào. Một đóng góp quan
trọng khác là đề tài này đã luận giải về bộ tiêu chí hình thành lãnh thổ đầu tàu. Các
lãnh thổ đầu tàu cần có vị trí địa kinh tế thuận lợi, giao lưu dễ dàng với bên ngoài
(trong nước và quốc tế), có diện tích đủ lớn để phát triển tổng hợp (công nghiệp, du
lịch, dịch vụ...), không phải giải toả nhiều, hạn chế lấy đất nông nghiệp, hội tụ nhiều
điều kiện thuận lợi cho phát triển (về kết cấu hạ tầng, khả năng cung ứng lao động,
nguyên vật liệu cho sản xuất...). Tuy nhiên, một lãnh thổ chỉ thực sự trở thành đầu tàu
khi lãnh thổ đó thu hút đầu tư hình thành ngành chủ lực, đặc biệt là phải thu hút được
các nhà đầu tư lớn, các công ty xuyên quốc gia lớn nhất đến đầu tư, đặc biệt là vào các
ngành công nghiệp công nghệ cao, dịch vụ hiện đại, có giá trị gia tăng lớn. Trên cơ sở
đó, các lãnh thổ trên có đóng góp lớn cho nền kinh tế cả nước (về GDP, thu ngân sách,
giá trị xuất khẩu, giá trị sản xuất công nghiệp, giải quyết việc làm...). Lãnh thổ đầu tàu
đồng thời phải là nơi được áp dụng các cơ chế, chính sách mới có tính chất vượt trội so
với trước đây và chung cho cả nước để tạo điều kiện phát triển nhanh, đi trước một
bước, đồng thời cũng là nơi thử nghiệm các chính sách mới, trước khi đem ra ứng
dụng ở các địa bàn khác.

Trong nghiên cứu của mình về phát triển các khu kinh tế mở, tác giả Nguyễn
Quang Thái (2010) [47] đã tổng quan tình hình phát triển các KKT đặc biệt (đặc khu
kinh tế) trên thế giới và kinh nghiệm phát triển các KKT mở, đặc KKT ở một số quốc
gia nổi bật như Trung Quốc và Ấn Độ. Bên cạnh đó, tác giả cũng đánh giá tình hình
phát triển các loại hình KKT ở nước ta trong thời gian qua, bao gồm cả khu chế xuất,
khu công nghiệp, khu kinh tế mở, khu kinh tế cửa khẩu và KKT ven biển. Từ đó, tác
giả nêu lên quan điểm, giải pháp về việc xây dựng và quản lý các KKT mở hiện đại
nhằm tạo ra những điểm đột phá mới cho sự phát triển và hội nhập kinh tế, đồng thời
đề xuất cụ thể về một số KKT có thể tập trung phát triển ở 3 miền (Bắc - Trung - Nam)
và định hướng tổ chức, quản lý các KKT này.
Còn tác giả Võ Đại Lược (2010) [34] lại thơng qua việc tìm hiểu q trình phát
triển các khu kinh tế tự do (một loại hình khu kinh tế) trên thế giới để phân tích đặc
điểm hình thành và đánh giá thực trạng việc xây dựng các khu kinh tế mở, khu thương
mại tự do ở Việt Nam. Tác giả cho rằng trong thời gian qua, ở Việt Nam đã có nhiều
19


khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế,... nhưng tất cả đều chưa đáp ứng được yêu
cầu của khu kinh tế tự do, đặc biệt là về thể chế. Vì vậy, để xây dựng các đặc khu kinh
tế ở Việt nam cần phải giải quyết 3 vấn đề quan trọng: xây dựng thể chế; xác định địa
điểm và các tuyến phát triển; kêu gọi và tìm kiếm nhà đầu tư.
Trong nghiên cứu của Bùi Tất Thắng (2010) [52], tác giả cho rằng xây dựng
các KKT ven biển là hoàn toàn phù hợp với xu thế phát triển của thế giới hiện nay
cũng như yêu cầu phát triển kinh tế và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam trong tình hình mới.
Để làm được điều này, các KKT ven biển phải đảm bảo tuân thủ các yêu cầu cơ bản là:
Đạt hiệu quả kinh tế - xã hội cao, sử dụng hiệu quả quỹ đất, mặt nước và không gian
của KKT ven biển; phát triển bền vững; có tầm nhìn xa, phát triển theo hướng hiện
đại; đảm bảo yêu cầu an ninh, quốc phịng; có cơ chế, chính sách và mơ hình quản lý
phát triển cho phép huy động được tối đa mọi nguồn lực cho phát triển; triển khai theo
lộ trình phù hợp với điều kiện của từng giai đoạn và phù hợp với định hướng phát triển

kinh tế - xã hội của từng vùng và cả nước. Tác giả cũng khẳng định rằng việc xây
dựng các KKT, các khu công nghiệp tập trung và khu chế xuất ven biển gắn với phát
triển các khu đô thị ven biển là một trong năm lĩnh vực ưu tiên mang tính chiến lược
để tạo đột phá cho sự phát triển kinh tế biển thời kỳ đến năm 2020 và xa hơn. Để thực
hiện mục tiêu chiến lược đó, ngồi chủ trương đường lối chính sách lớn của Đảng và
Nhà nước về phát triển các KKT ven biển, cần tiếp tục nghiên cứu để hình thành và
thực hiện những cơ chế, chính sách cụ thể cùng những biện pháp đồng bộ khả thi, đặc
biệt coi trọng các bài học tổng kết từ thực tiễn phát triển các KKT này. Trong phần đề
xuất giải pháp, tác giả kiến nghị rằng trong tư duy phát triển kinh tế biển, cùng với
việc xây dựng hệ thống các KKT ven biển, có thể nghiên cứu lựa chọn một vài khu
xây dựng thành các KKT tự do ven biển, nhằm tạo ra sự đột phá đủ lớn, mở ra một
thời kỳ phát triển kinh tế biển với mục tiêu “trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu
từ biển”. Thêm vào đó, việc xây dựng các KKT ven biển ở Việt Nam cũng cần nghiên
cứu sâu hơn các lĩnh vực thế mạnh đặc thù để hướng sự phát triển của mỗi khu vào
một số lĩnh vực được chuyên mơn hóa.

1.2.

Một số nghiên cứu liên quan đến chủ đề Phát triển kinh tế - xã hội
vùng Đồng bằng sông Hồng

Những nghiên cứu riêng về phát triển kinh tế - xã hội vùng Đồng bằng sông
Hồng không nhiều, chủ yếu chỉ là các báo cáo tình hình phát triển địa phương thuộc
vùng Đồng bằng sông Hồng do các Viện nghiên cứu hoặc các Vụ chuyên ngành của
Bộ Kế hoạch và Đầu tư thực hiện; thêm vào đó, có một số đề tài khoa học của Viện
Khoa học xã hội Việt Nam. Ngồi ra, có một số nghiên cứu khác như luận án tiến sĩ
20


hoặc thạc sĩ về một lĩnh vực chuyên ngành hẹp trong vùng Đồng bằng sông Hồng, một

số bài viết ở dạng tham luận hội thảo, hoặc phân tích ngắn liên quan đến các vùng,
trong đó có so sánh với vùng Đồng bằng sơng Hồng. Có thể kể đến một số nghiên cứu
sau đây:
Một báo cáo nghiên cứu năm 2005 [38] của Nhóm Hành động chống đói nghèo
gồm các nhà tài trợ, các tổ chức phi chính phủ hỗ trợ Chính phủ Việt Nam đánh giá
nghèo theo vùng đã tập trung đánh giá thực trạng nghèo ở vùng Đồng bằng sông Hồng
nhằm đẩy mạnh quá trình triển khai thực hiện Chiến lược tồn diện về tăng trưởng và
xóa đói giảm nghèo (CPRGS) ở cấp địa phương. Báo cáo đánh giá nghèo cấp vùng
này dựa trên kết quả bộ số liệu Điều tra mức sống hộ gia đình Việt Nam và các phát
hiện được đưa ra trong các báo cáo đánh giá nghèo có sự tham gia của người dân nhằm
cung cấp thông tin về thực trạng nghèo của vùng Đồng bằng sông Hồng và các vấn đề
mới phát sinh.
Trong nghiên cứu sâu về chiến lược bảo vệ bờ biển đối với vùng Đồng bằng
sơng Hồng, nhóm tác giả Mai Văn Cơng và cộng sự (2009) [77] đã chỉ ra rằng, hiện
nay vùng ven biển Đồng bằng sông Hồng của Việt Nam đang phải đối mặt với các
hiện tượng thiên nhiên như lũ lụt và xói mịn bờ biển - là tác động của tình trạng biến
đổi khí hậu. Nghiên cứu tập trung phân tích hiện trạng khu vực ven biển và đánh giá
các biện pháp bảo vệ hiện tại của nó; đề xuất một chiến lược bảo vệ bờ biển tối ưu
nhằm làm giảm tổn thương của khu vực ven biển vùng Đồng bằng sông Hồng trước
các ảnh hưởng của biến đổi khí hậu.
Bùi Trinh (2012) [76] và các đồng nghiệp của mình đã sử dụng mơ hình I/O
liên vùng với số liệu thống kê năm 2001 để phân tích tác động của chính sách đối với
7 vùng và 10 nhóm ngành tổng hợp, trong đó có vùng Đồng bằng sơng Hồng. Các tác
giả đã chỉ ra rằng mặc dù trong hai thập kỷ qua, nền kinh tế Việt Nam đã duy trì và ổn
định tốc độ tăng trưởng, mức sống của nhân dân đã tăng lên nhờ kết quả của hệ thống
các chính sách chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường và hội nhập vào nền kinh tế thế
giới. Chính phủ đã định hướng tập trung vào mục tiêu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
để hướng tới mục đích là đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành nước cơng nghiệp.
Trong khi, nhiều chính sách được chứng minh có tác động tích cực đến nền kinh tế, thì
vẫn cịn có những lĩnh vực mà chính sách chưa có tác động nhiều, ví dụ ngành nơng

nghiệp. Kết quả nghiên cứu cho thấy, ngành nông nghiệp chưa nhận được đầy đủ các
chính sách để phát triển xứng với tiềm năng của nó. Nhóm tác giả hy vọng rằng những
phát hiện trên sẽ giúp cho việc hoạch định chính sách hiệu quả hơn để nền kinh tế tăng
trưởng nhanh và phát triển bền vững.
21


Trong bài viết của Trần Thị Huyền Trang, Phạm Thị Phương Nga (2014) [58],
các tác giả đã chỉ ra một số lợi thế so sánh nổi trội của vùng Đồng bằng sơng Hồng
như: có vị trí địa chiến lược quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội và an ninh quốc phịng, có lực lượng lao động dồi dào, có tiềm năng lớn về tài ngun - khống
sản, v.v... Tuy nhiên, cùng với sự phát triển theo chiều sâu của nền kinh tế, tất cả lợi
thế tĩnh (lợi thế so sánh cấp thấp) sẽ mất dần ưu thế. Về lâu dài, cần phát triển các
ngành kinh tế theo hướng chuyển dần sang lợi thế động (lợi thế so sánh cấp cao) để
thực hiện thành cơng q trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của vùng Đồng bằng sông
Hồng.
Luận án tiến sĩ của tác giả Vũ Thị Hoài Thu (2013) [56] lại tập trung nghiên
cứu vấn đề sinh kế bền vững ở vùng ven biển Đồng bằng sông Hồng trong bối cảnh
biến đổi khí hậu. Lấy tỉnh Nam Định làm địa bàn nghiên cứu điển hình, tác giả đã tiếp
cận theo hướng gắn kết khung sinh kế bền vững với yếu tố biến đổi khí hậu để phân
tích khả năng bị tổn thương của sinh kế ven biển trước tác động của biến đổi khí hậu
và chỉ ra cơ chế tác động. Tác giả cũng chỉ ra rằng, trong bối cảnh biến đổi khí hậu,
sinh kế khơng chỉ cần bền vững mà cịn phải thích ứng để giảm thiểu những thiệt hại do
biến đổi khí hậu gây ra. Bên cạnh đó, tác giả sử dụng phương pháp phân tích đa tiêu chí
để đưa ra bộ tiêu chí đánh giá tính bền vững về kinh tế - xã hội - mơi trường - thể chế và
thích ứng với biến đổi khí hậu của sinh kế.
Trong nghiên cứu của Lưu Bích Ngọc (2013) [39] về biến đổi khí hậu và biến
đổi sử dụng đất của các hộ gia đình nơng thơn Đồng bằng sông Hồng, tác giả đã nhấn
mạnh: Biến đổi khí hậu và những hệ luỵ của nó đến kinh tế - xã hội và đến phát triển
của các cộng đồng dân cư đã trở thành một vấn đề được quan tâm đặc biệt. Vùng Đồng
bằng sông Hồng là một trong hai vùng được dự báo sẽ chịu ảnh hưởng rất mạnh từ

biến đổi khí hậu. Đối với các hộ nông dân vùng này, sinh kế chủ yếu và truyền thống
được dựa trên tư liệu sản xuất chính là đất canh tác nông nghiệp và mặt nước nuôi
trồng thuỷ/hải sản. Sự gia tăng nhiệt độ toàn cầu, mực nước biển dâng, xâm nhập mặn
và những hiện tượng thời tiết cực đoan xuất hiện ngày một nhiều đã tác động tới sinh
kế của các hộ nông dân, với những biểu hiện cụ thể như giảm diện tích canh tác, biến
đổi mục đích sử dụng đất.
Đề cập đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và sự thay đổi cơ cấu nghề của
nơng dân, Trần Gia Long và nhóm nghiên cứu (2012) [31] đã cho rằng: Dân số tăng,
đất đai bị thu hẹp làm tăng sức ép chuyển đổi nghề của nông dân. Bài viết đã sử dụng
một số chỉ tiêu phân tích lao động, nghề nghiệp, thu nhập trên cách tiếp cận hệ thống,
có sự tham gia, liên vùng để đánh giá thực trạng nghề, những yếu tố ảnh hưởng đối với
22


chuyển đổi nghề của nông dân vùng Đồng bằng sông Hồng. Trên cơ sở lý luận và từ
phân tích thực trạng đề xuất giải pháp chủ yếu chuyển đổi nghề của nơng dân, trong đó
giải pháp quy hoạch giữ vai trò quyết định, giải pháp liên vùng giữ vai trò đột phá và
phát huy lợi thế so sánh của vùng.
Còn tác giả Hà Hữu Nga (2008) [37] trong đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ
“Nghiên cứu cơ sở lý thuyết cho việc xác định các ưu tiên trong phát triển bền vững
vùng kinh tế” đã làm rõ thêm định nghĩa vùng kinh tế, các quan niệm về vùng kinh tế
của quốc tế và của Việt Nam, làm rõ thêm nhiều vấn đề liên quan đến phát triển bền
vững vùng kinh tế góp phần xây dựng cơ sở lý thuyết cho việc xác định các ưu tiên
trong phát triển bền vững vùng kinh tế. Bên cạnh đó, đề tài cũng đã xây dựng khung lý
thuyết cho việc tổ chức thực hiện Agenda 21 của các địa phương ở Việt Nam và đề
xuất khung chương trình xác định các ưu tiên trong phát triển bền vững vùng kinh tế,
đóng góp vào việc hoạch định chiến lược phát triển kinh tế - xã hội vùng kinh tế Bắc
Bộ nói riêng và Việt Nam nói chung.
Trong tham luận tại Hội nghị tồn quốc lần thứ nhất về phát triển bền vững, Lê
Anh Sơn (2004) [43] nhận định rằng: Phát triển kinh tế nhanh và bền vững là một

trong những tư tưởng chủ đạo nhất quán trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
của nước ta. Do vậy, những định hướng phát triển các vùng lãnh thổ theo hướng phát
triển bền vững cần phải được hồn thiện và cụ thể hóa thơng qua các quy hoạch, đề án
phát triển. Từ giác độ phát triển bền vững, tác giả cho rằng yêu cầu phát triển hài hòa
các yếu tố kinh tế - xã hội và môi trường đang đặt ra nhiều thách thức cho tất cả các
vùng, kể từ vùng trọng điểm đến những vùng kém phát triển. Do sự phát triển của ba
lĩnh vực này vừa bổ sung cho nhau lại vừa loại trừ nhau nên đối với từng vùng cần xác
định thứ tự ưu tiên các mục tiêu phát triển bền vững, hay nói khác đi là cần có một tiêu
chí để hướng sự phát triển theo nội dung bền vững. Các tiêu chí này cho phép so sánh
sự phát triển của các địa phương trong vùng với nhau và so sánh sự phát triển bền
vững giữa các vùng với nhau, từ đó cho phép phân tích thứ tự ưu tiên đầu tư phát triển
các ngành và lĩnh vực.
Tác giả Nguyễn Trọng Xuân (2004) [45] lại dựa trên cơ sở khảo sát, nghiên
cứu, phân tích, đánh giá thực tiễn phát triển của vùng Đồng bằng sông Hồng để làm rõ
thực trạng trình độ phát triển kinh tế-xã hội và bảo vệ môi trường, những lợi thế và bất
lợi thế, những cơ hội và thách thức đối với yêu cầu phát triển của vùng này. Qua đó,
xác định các luận cứ khoa học và đề xuất khuyến nghị về điều chỉnh định hướng chiến
lược phát triển bền vững vùng đồng bằng sông Hồng.
23


1.3.

Những vấn đề đặt ra đối với nghiên cứu phát triển bền vững khu kinh
tế ven biển

Như nội dung đã trình bày ở trên, trong thời gian qua đã có nhiều cơng trình
nghiên cứu trong và ngồi nước liên quan đến đề tài nghiên cứu của luận án. Tuy
nhiên, cho đến nay chưa có cơng trình nào nghiên cứu tồn diện, hệ thống về phát triển
khu kinh tế ven biển ở Việt Nam nói chung, phát triển bền vững khu kinh tế ven biển

vùng Đồng bằng sơng Hồng nói riêng. Đặc biệt là, chưa có những nghiên cứu về các
điều kiện hình thành, mơ hình phát triển cũng như đề xuất các giải pháp cụ thể phát
triển bền vững các khu kinh tế ven biển này. Vì vậy, đề tài nghiên cứu “Phát triển bền
vững khu kinh tế ven biển vùng Đồng bằng sông Hồng” của luận án không trùng lặp
với bất cứ cơng trình nào khác đã cơng bố.
Để thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án, trên cơ sở tổng quan
tình hình nghiên cứu của các cơng trình khoa học ngồi nước và trong nước có liên
quan, tác giả đã xác định những vấn đề đặt ra mà luận án cần tập trung giải quyết như
sau:
Một là, hệ thống hóa, luận giải và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực
tiễn về phát triển khu kinh tế và khu kinh tế ven biển, trong đó:

Việt Nam;


Làm rõ khái niệm về khu kinh tế, khu kinh tế ven biển trên thế giới và ở
Luận giải về đặc điểm, vai trò, những điều kiện cần thiết để hình thành

và phát triển các khu kinh tế, khu kinh tế ven biển;

Nghiên cứu kinh nghiệm xây dựng và phát triển khu kinh tế trên thế giới,
từ đó rút ra bài học cho phát triển khu kinh tế ở Việt Nam.

Đề xuất bộ tiêu chí phát triển các khu kinh tế ven biển nhằm đảm bảo
mục tiêu phát triển bền vững;

Tổng quan và đề xuất lựa chọn quy trình nghiên cứu và hệ thống tiêu
chí đánh giá vai trị, hiệu quả của khu kinh tế trong q trình cơng nghiệp hố,
hiện đại hố ở Việt Nam.
Hai là, phân tích và đánh giá thực trạng tình hình phát triển các khu kinh tế

ven biển vùng Đồng bằng sơng Hồng

Phân tích SWOT về thuận lợi, khó khăn, cơ hội và thách thức đối với
vùng Đồng bằng sông Hồng trong chiến lược/kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của
24


các địa phương trong vùng có khu kinh tế ven biển nhằm chứng minh sự cần thiết và
tất yếu khách quan của việc hình thành và phát triển khu kinh tế ven biển.

Phân tích hiện trạng phát triển kinh tế - xã hội của các tỉnh/thành
phố trong vùng Đồng bằng sơng Hồng; tình hình triển khai xây dựng các khu kinh tế
ven biển trong vùng này. Thử nghiệm đánh giá các tiêu chí bền vững đối với các khu
kinh tế ven biển vùng Đồng bằng sông Hồng.
Ba là, đề xuất định hướng phát triển, mơ hình và phương thức quản lý và giải
pháp phát triển khu kinh tế ven biển vùng Đồng bằng sông Hồng theo hướng bền vững
đến năm 2020 và những năm tiếp theo

Xác định các quan điểm và định hướng phát triển khu kinh tế nhằm đáp
ứng mục tiêu Chiến lược Biển Việt Nam đến năm 2020.

Đề xuất các giải pháp cần thiết, phù hợp và khả thi nhằm phát triển các
khu kinh tế ven biển vùng Đồng bằng sông Hồng theo hướng bền vững đến năm 2020
và những năm tiếp theo
Quy trình tiếp cận nghiên cứu phát triển các khu kinh tế ven biển:
Mục đích của việc nghiên cứu phát triển các khu kinh tế để tìm ra phương hướng
và giải pháp tổ chức, thực hiện phát triển tốt nhất, hiệu quả nhất và bền vững nhất. Để
đạt được mục đích đó, tác giả đề xuất khung tiếp cận nghiên cứu bao gồm các bước với
các nội dung chủ yếu của từng bước như sau:
(1) Thống nhất quan điểm về sự cần thiết và các điều kiện phát triển khu kinh tế

ở Việt Nam; lựa chọn các tiêu chí/ bộ chỉ tiêu đánh giá mức độ đáp ứng các điều kiện
hình thành và phát triển của khu kinh tế.
Mục đích của bước này là căn cứ vào các cơ sở lý luận và thực tiễn, luận giải để
đi đến thống nhất quan điểm về sự cần thiết khách quan phải phát triển khu kinh tế
trong Chiến lược Biển Việt Nam; xác định các điều kiện cần và đủ để khu kinh tế có
thể hình thành và phát triển. Trên cơ sở đó, tiếp tục đề xuất lựa chọn bộ tiêu chí/ nhóm
chỉ tiêu làm căn cứ đánh giá vai trò và mức độ đáp ứng các điều kiện hình thành và
phát triển của khu kinh tế. Những nội dung này tác giả sẽ thực hiện trong chương 2
của luận án.
(2) Phân tích, đánh giá các điều kiện hình thành, phát triển khu kinh tế ven biển
Việt Nam nói chung và khu kinh tế ven biển vùng Đồng bằng sơng Hồng nói riêng
Mục đích của bước này là nhằm phân tích, đánh giá mức độ đáp ứng các điều
kiện hình thành và phát triển của khu kinh tế ven biển. Trong bước này, các số liệu
25


×