Tải bản đầy đủ (.doc) (92 trang)

Giải pháp phát triển sản xuất và tiêu thụ hoa, cây cảnh ở xã đức bác – sông lô – vĩnh phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (467.61 KB, 92 trang )

PHẦN I. MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Nước ta đi lên từ nền kinh tế nông nghiệp (chủ yếu là làm ruộng), với
hơn 70% dân số sống ở nông thôn. Cuộc sống của người dân nông thôn phụ
thuộc chủ yếu vào sản xuất nông nghiệp, một nền sản xuất phụ thuộc nhiều
vào điều kiện tự nhiên, có nhiều rủi ro, khi được mùa khi mất trắng trong khi
đó thu nhập đem lại không cao, không ổn định. Trong điều kiện hiện nay khi
quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa đang diễn ra mạnh mẽ, diện tích đất đô
thị, đất công nghiệp ngày càng tăng càng làm giảm diện tích đất nông nghiệp
bình quân trên đầu người. Mục tiêu công nghiệp hóa – hiện đại hóa nông
nghiệp và nông thôn đang được Đảng xác định là một nhiệm vụ quan trọng,
có ý nghĩa lớn lao trong quá trình phát triển kinh tế đất nước. Thực tế nêu trên
đòi hỏi mỗi địa phương cần xác định cho mình một hình thức phát triển kinh
tế phù hợp, tận dụng được lợi thế so sánh của địa phương mình, phát triển nền
nông nghiệp hàng hóa, tìm ra những giống cây trồng vật nuôi cho hiệu quả
kinh tế cao hơn những giống truyền thống nhằm nâng cao mức sống cho
người dân, thay đổi dần bộ mặt nông thôn nước ta.
Việt Nam thuộc nhóm các nước đang phát triển với với tốc độ tăng
trưởng cao, nền kinh tế thị trường đã làm cho bộ mặt đất nước thay đổi, cuộc
sống người dân được nâng cao đặc biệt là người dân thành thị. Điều đó được
thể hiện ở thu nhập của người dân tăng lên, chất lượng cuộc sống của người
dân được nâng cao, các vấn đề xã hội được quan tâm nhiều hơn. Do đó các
nhu cầu của con người cũng ngày càng cao và phong phú hơn, đời sống vật
chất và đời sống tinh thần đang dần được cải thiện, ngoài những nhu cầu thiết
yếu cho cuộc sống giờ đây họ có điều kiện để làm đẹp, giải trí...trong đó có
nhu cầu về chơi hoa và cây cảnh. Nó mang lại cho người xem không gian thư
giãn lý tưởng sau những bộn bề và sôi động của phố phường, của công việc.

1



Chơi cây cảnh là thú chơi mà trước đây chỉ dành cho những gia đình
giàu có, dư giả thời gian và tiền bạc, nay thú chơi này đang được phổ biến
trong nhiều gia đình và các cơ quan với mục đích trang trí, thể hiện cái tâm
của người chơi cây trong từng dáng cây, thế cây khác nhau. Nghề trồng cây
cảnh là một nghề đem lại thu nhập khá cho người dân, với giá trị không như
nhau ở những loại cây khác nhau nhưng hầu như người dân làm nghề này
thường có thu nhập như câu nói họ nói về nghề này: “một vốn bốn lời”.
Nhưng liệu có thực sự họ kiếm được một nguồn thu khá như vậy không?
Nghề trồng cây cảnh có thực sự thuận lợi hay có những khó khăn gì trong quá
trình sản xuất cũng như tiêu thụ nó.
Xã Đức Bác – Sông Lô - Vĩnh Phúc là địa phương đã bắt đầu nghề
trồng cây cảnh cách đây hơn 10 năm, đến nay nghề đã được phát triển và
nhận được sự quan tâm từ chính quyền xã cũng như huyện, đời sống của
người nông dân đang được cải thiện. Để góp phần trả lời cho các câu hỏi nêu
trên, chúng tôi chọn nghiên cứu để tài : “ Giải pháp phát triển sản xuất và
tiêu thụ hoa, cây cảnh ở xã Đức Bác – Sông Lô – Vĩnh Phúc ”.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung
Nghiên cứu, đánh giá thực trạng sản xuất và tiêu thụ hoa, cây cảnh trên
địa bàn xã Đức Bác – Sông Lô – Vĩnh Phúc, từ đó đề xuất những giải pháp cụ
thể có tính khả thi nhằm phát triển sản xuất và tiêu thụ hoa, cây cảnh trong
thời gian tới.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn về sản xuất, tiêu thụ hoa, cây
cảnh
- Đánh giá thực trạng phát triển sản xuất và tiêu thụ hoa, cây cảnh ở xã
Đức Bác trong những năm vừa qua.

2



- Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến sản xuất và tiêu thụ hoa, cây cảnh
từ đó chỉ ra cơ hội và thách thức trong chiến lược phát triển sản xuất và tiêu
thụ của xã trong thời gian tới
- Đề xuất định hướng, giải pháp nhằm phát triển sản xuất và tiêu thụ
hoa, cây cảnh của xã trong những năm tới.
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu
- Nghiên cứu những yếu tố có liên quan đến phát triển sản xuất và tiêu
thụ hoa, cây cảnh của các hộ nông dân trong xã Đức Bác
- Đối tượng cụ thể nghiên cứu là những hộ sản xuất và tiêu thụ hoa, cây
cảnh trong xã
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu
1.3.2.1 Phạm vi nội dung
Nghiên cứu thực trạng sản xuất và tiêu thụ một số loại hoa, cây cảnh
hàng năm chủ yếu của xã
1.3.2.2 Phạm vi không gian
Nghiên cứu tại địa bàn xã Đức Bác – Sông Lô – Vĩnh Phúc
1.3.2.3 Phạm vi thời gian
Nghiên cứu thực trạng sản xuất và tiêu thụ hoa, cây cảnh của các hộ
nông dân của xã từ năm 2007 – 2009

3


PHẦN II. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
2.1 Cơ sở lý luận về phát triển sản xuất và tiêu thụ sản phẩm hoa, cây cảnh
2.1.1 Lý luận về phát triển sản xuất và tiêu thụ sản phẩm
2.1.1.1 Các khái niệm cơ bản

* Hoa, cây cảnh
Cây cảnh là một số loại thực vật được chăm sóc, gieo trồng và tạo dáng
công phu, thường dùng làm vật trang trí hay một chi tiết trong thuật phong
thủy. Cây cảnh được bài trí có khi nhằm thể hiện một ý tưởng của người trồng
qua cách xếp đặt mà vẫn giữ được vẻ tự nhiên. Thân cây được uốn theo một
hình dáng nào đó, còn gọi là thế, kết hợp với chậu, đất hay nước là môi
trường dinh dưỡng cho thực vật ấy.
Theo Nguyễn Khắc Trung và Phạm Minh Thu, “Hoa, cây cảnh là
những loại thực vật được trồng ở vườn, ruộng, khay chậu, trong bồn… Cũng
như thực vật khác, chúng có thể sinh trưởng và phát triển nhờ vào các yếu tố
tự nhiên (như: Đất, nước, không khí, ánh sáng…) và sự chăm sóc của con
người".
Lê Hữu Cần và Nguyễn Xuân Linh đưa ra khái niệm về cây cảnh như
sau: “Các loại thảo mộc được con người tuyển chọn, nuôi trồng trên đất vườn
hay trong vật chứa đất trồng (ang, chậu…) dù có hay không có tác động thu
nhỏ hoặc tạo hình nghệ thuật nhằm mục đích trang trí và thưởng ngoạn đều
được coi là cây cảnh”.
* Phát triển
Raaman Weitz cho rằng: “ Phát triển là quá trình thay đổi liên tục làm
tăng trưởng mức sống con người và phân phối công bằng những thành quả
tăng trưởng trong xã hội ”. Ngân hàng thế giới đưa ra khái niệm có ý nghĩa
rộng lớn hơn, bao gồm những thuộc tính quan trọng liên quan đến hệ thống

4


giá trị của con người, đó là: “ Sự bình đẳng hơn về cơ hội, sự tự do về chính
trị và các quyền tự do công dân để củng cố niềm tin trong cuộc sống của con
người trong mối quan hệ với Nhà nước, với cộng đồng,… Lưu Đức Hải cho
rằng: Phát triển là một quá trình tăng trưởng bao gồm nhiều yếu tố cấu thành

khác nhau như kinh tế, chính trị, xã hội, kỹ thuật, văn hoá,… Bùi Ngọc Quyết
có khái niệm: Phát triển ( development ) hay nói một cách đầy đủ hơn là phát
triển kinh tế xã hội của con người là quá trình nâng cao đời sống về vật chất
và tinh thần bằng phát triển sản xuất, tăng cường chất lượng các hoạt động
văn hoá.
Khái niệm phát triển bền vững đã được uỷ ban môi trường và phát triển
thế giới đưa ra năm 1987 như sau: “ Phát triển bền vững là sự phát triển lành
mạnh, tồn tại lâu dài, vừa đáp ứng nhu cầu của hiện tại, vừa không xâm phạm
đến lợi ích của các thế hệ tương lai ”. Phát triển bền vững lồng ghép các hoạt
động kinh tế, hoạt động xã hội với việc bảo tồn tài nguyên và làm giàu môi
trường sinh thái. Nó đáp ứng nhu cầu phát triển hiện tại nhưng không làm ảnh
hưởng bất lợi cho các thế hệ mai sau.
* Sản xuất
- Khái niệm
Sản xuất là quá trình phối lợp và điều hoà các yếu tố đầu vào ( tài
nguyên hoặc các yếu tố sản xuất để tạo ra sản phẩm hàng hoá hoặc dịch vụ
( đầu ra ). Nếu giả thiết sản xuất sẽ diễn biến một cách có hệ thống với trình
độ sử dụng đầu vào hợp lý, người ta mô tả mối quan hệ giữa đầu vào và đầu
ra bằng 1 hàm sản xuất:
Q = f(X1, X2,…, Xn )
Trong đó:
Q : Là biểu thị số lượng một loại sản phẩm nhất định.
X1, X2, … , Xn : Là lượng của một yếu tố đầu vào nào đó được sử dụng
trong quá trình sản xuất.

5


* Tiêu thụ
- Khái niệm

+ Tiêu thụ là quá trình thực hiện giá trị cũng như giá trị sử dụng của
hàng hoá. Quá trình tiêu thụ thì hàng hoá chuyển từ hình thái hiện vật sang
hình thái giá trị và vòng chu chuyển vốn được hình thành.
+ Tiêu thụ sản phẩm được coi là giai đoạn cuối cùng của quá trình sản
xuất kinh doanh, là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh
nghiệp cũng như người sản xuất.
Do đó hoạt động tiêu thụ sản phẩm được cấu thành bởi các yếu tố:
Doanh nghiệp tiêu thụ hàng hoá phải thông qua thị trường, thị trường
được coi là một nơi mà ở đó người bán và người mua tự tìm đến nhau để thoả
mãn những nhu cầu của hai bên.
Chức năng của thị trường: Chức năng thừa nhận hoặc chấp nhận hàng
hoá dịch vụ; chức năng thực hiện; chức năng điều tiết hoặc kích thích sản sản
xuất và tiêu dùng xã hội; chức năng thông tin.
Các qui luật của thị trường: Qui luật giá trị; Qui luật cung cầu; qui luật
cạnh tranh; qui luật giá trị thặng dư.
* Phát triển sản xuất
Sản xuất là quá trình kết hợp tư liệu sản xuất với sức lao động để tạo ra
sản phẩm. Như vậy phát triển sản xuất được coi là một quá trình tăng tiến về
qui mô ( sản lượng ) và hoàn thiện về cơ cấu.
Trong cơ cấu thị trường hiện nay, các doanh nghiệp cũng như các tổ
chức kinh tế khi tiến hành phát triển sản xuất phải lựa chọn ba vấn đề kinh tế
cơ bản đó là: Sản xuất cái gì? Sản xuất cho ai? Sản xuất như thế nào? Những
vấn đề này liên quan đến việc xác định thị trường và phân phối sản phẩm
đúng đắn để kích thích sản xuất phát triển.

6


Phát triển sản xuất cũng được coi là một quá trình tái sản xuất mở rộng,
trong đó qui mô sản xuất sau lớn hơn qui mô sản xuất trước trên cơ sở thị

trường chấp nhận.
* Phát triển tiêu thụ
Phát triển tiêu thụ được coi là một quá trình, trong đó lượng sản phẩm
được tiêu thụ ngày càng tăng về số lượng, cơ cấu sản phẩm tiêu thụ được
hoàn thiện dần theo hướng có lợi cho nhà sản xuất và người tiêu dùng. Như
vậy các doanh nghiệp phải có chiến lược tiêu thụ sản phẩm. Phải có phương
thức bán hàng phù hợp nhất, có chính sách yểm trợ cho tiêu thụ sản phẩm, xác
định thương hiệu sản phẩm và phương thức thanh toán hợp lý. Đặc biệt chú ý
đến việc mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm. Chú ý thị trường mục tiêu, thị
trường tiềm năng và thị trường ngách.
Trong phát triển tiêu thụ phải chú ý đến giá cả các loại sản phẩm. Giá
cả khác nhau có tác dụng khuyến khích hoặc hạn chế sự phát triển sản xuất.
Mặt khác giá cả các loại sản phẩm phân phối trên thị trường theo các kênh
cũng khác nhau. Trong đó phân phối trực tiếp cho người tiêu dùng thì nhà sản
xuất có lợi hơn cả, nhưng chỉ tiêu thụ được một khối lượng nhỏ, do đó phải
phân phối sản phẩm theo hệ thống kênh gián tiếp. Cần chú trọng chất lượng
sản phẩm và thị hiếu khách hàng trong quá trình phát triển tiêu thụ sản phẩm.
2.1.1.2 Lý luận về sản xuất và tiêu thụ sản phẩm
a. Lý thuyết cung, cầu
* Lý thuyết cung
- Khái niệm
Cung là số lượng hàng hoá hoặc dịch vụ mà người bán có khả năng và
sẵn sàng bán ở các mức giá khác nhau trong một thời gian nhất định.
Quy luật của cung thể hiện mối quan hệ giữa lượng cung và giá cả. Quy
luật này phản ánh mối quan hệ tỷ lệ thuận giữa giá cả và lượng hàng hoá cung
ứng.

7



- Các yếu tố xác định cung và hàm số cung
Các yếu tố xác định cung bao gồm: Giá của bản thân hàng hoá; công
nghệ; Giá các yếu tố sản xuất ( đầu vào ); Chính sách thuế, số lượng người
sản xuất; Các kỳ vọng của khách hàng.
Hàm số của cung: Là hàm số phản ánh mối quan hệ của cung với các
yếu tố xác định cung.
Qsx.t = f(Pxt; Pt; T; Ns; E )
Trong đó:
Qsx.t : Lượng cung của hàng hoá X trong thời gian t
Pxt : Giá hàng hoá X trong thời gian t
Te : Công nghệ sản xuất
Ne : Số doanh nghiệp tham gia sản xuất
E : Các kỳ vọng của người sản xuất
* Lý thuyết cầu
- Khái niệm
Cầu là số lượng hàng hoá hay dịch vụ mà người mua có khả năng và
sẵn sàng mua ở các mức giá khác nhau trong một thời gian nhất định
Quy luật cầu: Số lượng hàng hoá và dịch vụ được cầu trong khoảng thời
gian đã cho tăng lên khi giá của hàng hoá hay dịch vụ giảm. Quy luật này phản
ánh mối quan hệ tỷ lệ nghịch giữa giá cả và lượng cầu của hàng hoá dịch vụ.
- Các yếu tố xác định và hàm cầu
Các yếu tố xác định cầu bao gồm: Giá của hàng hoá dịch vụ; Thu nhập
của người tiêu dùng; Giá cả của hàng hoá liên quan; Dân số; Thị hiếu; Các kỳ
vọng.
Hàm cầu:
QDx.t = f(Pxt; Yt; Prt; N; T; E )
Trong đó:
QDx.t : Lượng cầu cảu hàng hoá X trong thời gian t

8



Pxt : Giá hàng hoá X trong thời gian t
Yt : Thu nhập của người tiêu dùng
Prt : Giá của hàng hoá liên quan trong thời gian t
N : Dân số
T : Thị hiếu người tiêu dùng
E : Các kỳ vọng
* Quan hệ cung - cầu: Phân tích cung - cầu là hạt nhân của phân tích
kinh tế. Mục đích của phân tích này là mô tả sự vận động của cung và cầu đối
với một mặt hàng cụ thể trên thị trường cạnh tranh. Từ đó sẽ thấy giá cả cân
bằng được xác định ở giao điểm của đường cung và đường cầu. Tại điểm này
số lượng hàng hoá mà các doanh nghiệp sẵn sàng sản xuất bằng với số lượng
mà người tiêu dùng sẵn sàng mua. Do đó giá cả và khối lượng không có xu
hướng thay đổi và điểm này được gọi là điểm cân bằng. Còn với giá thấp hơn
thì vì thiếu lượng cung nên cạnh tranh giữa những người mua sẽ đấy giá lên.
Khi giá cao hơn giá cân bằng ban đầu thì lượng cung dư thừa so với lượng
cầu và cạnh tranh giữa những người sản xuất sẽ buộc giá giảm xuống. Chỉ tại
điểm có mức giá cân bằng thì người mua muốn mua hàng ở mức giá này đều
được thoả mãn và người bán với giá đó đều bán được.
b. Kênh phân phối sản phẩm
- Khái niệm
Kênh phân phối sản phẩm là sự kết hợp qua lại với nhau giữa người sản
xuất và người trung gian để thực hiện việc chuyển giao hàng hoá một cách
hợp lý nhất, thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng cuối cùng.
- Các yếu tố cấu thành hệ thống kênh phân phối sản phẩm
+ Người cung ứng : Người sản xuất hoặc công ty thương mại
+ Người trung gian : Người bán buôn, đại lý, người bán lẻ và môi giới
+ Người tiêu dùng : Là người cuối cùng của kênh phân phối, họ mua
sản phẩm để tiêu dùng cho cuộc sống.


9


- Các loại kênh phân phối
+ Kênh trực tiếp
Nhà sản xuất bán hàng trực tiếp cho người tiêu dùng cuối cùng, không
thông qua khâu trung gian. Người sản xuất kiêm luôn bán hàng. Họ có hệ
thống cửa hàng, siêu thị để bán sản phẩm sản xuất ra.
Ưu điểm của kênh này là đẩy nhanh tốc độ lưu thông hàng hoá, đảm
bảo cho sự giao tiếp của doanh nghiệp và người tiêu dùng, đảm bảo tín nhiệm
của doanh nghiệp trên thị trường kinh doanh, doanh nghiệp thường thu lợi
nhuận cao hơn. Song có nhiều hạn chế như : Chi phí khấu hao bán hàng tăng,
chu chuyển chậm, quản lý phức tạp.
+ Kênh gián tiếp
Người sản xuất bán hàng cho người tiêu dùng cuối cùng thông qua hệ
thống trung gian
Kênh 1 cấp : Bao gồm một người trung gian gần nhất với người tiêu
dùng cuối cùng trên thị trường, người trung gian này thường là người bán lẻ.
Kênh này có nhiều điểm tương đồng với kênh tiêu thụ trực tiếp. Tuy nhiên có
hạn chế là quy mô hàng hoá ít, phân phối trong kênh chưa cân đối.
Kênh 2 cấp : Gồm 2 người trung gian trên thị trường tiêu dùng, thành
phần trung gian là nhà bán buôn hoặc bán lẻ. Kênh này có thể áp dụng với
một số nhà bán buôn hoặc bán lẻ.
Kênh này có ưu điểm là do mua bán theo từng giai đoạn nên có tổ chức
kênh chặt chẽ, quy mô hàng hoá lớn và vòng quay vốn nhanh. Tuy nhiên có
nhiều rủi ro do phải qua các khâu trung gian.
Kênh 3 cấp : Bao gồm ba người trung gian, kênh này dễ phát huy tác
dụng tốt nếu người sản xuất kiểm soát được và các thành phần trong kênh
chia sẻ lợi ích một cách hợp lý.


10


Kênh trực tiếp
tieepsKeenh
Người sản xuất

Người tiêu dùng

Kênh một cấp
Người tiêu dùng

Người bán lẻ

Người sản xuất
Kênh 2 cấp
Người sản
xuất

Người bán
buôn

Người bán lẻ

Người tiêu
dùng

Kênh 3 cấp
Người sản

xuất

Đại lý

Người bán
buôn

Người bán
lẻ

Người tiêu
dùng

Sơ đồ 1: Các kênh tiêu thụ hàng hoá sản phẩm
c. Các yếu tố ảnh hưởng đến sản xuất và tiêu thụ sản phẩm
- Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình sản xuất
+ Vốn sản xuất: Là những tư liệu sản xuất như máy móc thiết bị,
phương tiện vận tải, kho tàng, cơ sở hạ tầng và kỹ thuật. Vốn đối với quá trình
sản xuất là vô cùng quan trọng. Trong điều kiện năng suất lao động không đổi
thì tăng tổng số vốn sẽ dẫn đến tăng thêm sản lượng sản phẩm hàng hoá. Tuy
nhiên trong thực tế việc tăng thêm sản lượng hàng hoá còn phụ thuộc vào
nhiều yếu tố khác nữa như chất lượng lao động, trình độ kỹ thuật, …
+ Lực lượng lao động: Là yếu tố đặc biệt quan trọng của quá trình sản
xuất. Mọi hoạt động sản xuất đều do lao động của con người quyết định, nhất
là người lao động có trình độ kỹ thuật, kinh nghiệm và kỹ năng lao động. Do
đó chất lượng lao động quyết định kết quả và hiệu quả sản xuất.

11



+ Đất đai: Là yếu tố sản xuất không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với
ngành nông nghiệp mà còn rất quan trọng với sản xuất công nghiệp và dịch
vụ. Đất đai là yếu tố cố định lại bị giới hạn bởi qui mô, nên người ta phải đầu
tư thêm vốn và lao động trên một diện tích nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng
đất đai. Các loại tài nguyên khác trong lòng đất như khoáng sản, tài nguyên
rừng, biển và tài nguyên thiên nhiên đều là nhưng đầu vào quan trọng của sản
xuất.
+ Khoa học công nghệ: Quyết định đến sự thay đổi năng suất lao động
và chất lượng sản phẩm. Những phát minh sáng tạo mới được ứng dụng trong
sản xuất đã giải phóng được lao động nặng nhọc, độc hại cho người lao động
và tạo ra sự tăng trưởng nhanh chóng, góp phần vào sự phát triển kinh tế của
xã hội.
+ Ngoài ra còn có một số yếu tố khác: Quy mô sản xuất, các hình thức
tổ chức sản xuất, các yếu tố về thị trường nguyên liệu, thị trường tiêu thụ sản
phẩm,…cũng có tác động tới quá trình sản xuất.
- Các yếu tố ảnh hưởng tới tiêu thụ sản phẩm
+ Sản xuất
Muốn tiêu thụ được thuận lợi thì khâu sản xuất phải đảm bảo số
lượng một cách hợp lý, cơ cấu sản phẩm thích hợp với người tiêu dùng, chất
lượng sản phẩm cao, giá cả sản phẩm hạ và phải được cung ứng đúng thời
gian.
+ Thị trường tiêu thụ sản phẩm
Mục tiêu của doanh nghiệp là lợi nhuận, để đạt được điều đó thì các
doanh nghiệp phải tiêu thụ được mặt hàng của mình sản xuất trên thị trường.
Do đó thị trường tiêu thụ ảnh hưởng trực tiếp đến công tác tiêu thụ sản phẩm
của doanh nghiệp, mặt khác nó còn ảnh hưởng đến cả quá trình sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp.

12



+ Giá cả mặt hàng
Giá cả là sự thể hiện bằng tiền của giá trị, trong nền kinh tế thi trường giá
cả là một tín hiệu phản ánh mối quan hệ kinh tế giữa người mua và người bán, giữa
nhà sản xuất kinh doanh và thị trường xã hội. Đối với doanh nghiệp, giá cả được
xem là một tín hiệu đáng tin cậy phản ánh tình hình biến động của thị trường.
+ Chất lượng sản phẩm hàng hoá
Chất lượng sản phẩm hàng hoá là một trong những yếu tố cơ bản quyết
định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Chất lượng sản phẩm càng cao thì
càng được người tiêu dùng thừa nhận. Nâng cao chất lượng sản phẩm tạo điều
kiện thuận lợi cho quá trình tiêu thụ sản phẩm, tăng chất lượng và hiệu quả sử
dụng vốn, đồng thời góp phần tăng cường uy tín của doanh nghiệp trên thị trường.
+ Hành vi người tiêu dùng
Mục tiêu của người tiêu dùng là tối đa hoá độ thoả dụng. Vì thế trên thị
trường người mua lựa chọn sản phẩm hàng hoá xuất phát từ sở thích, quy luật
cung cầu và nhiều yếu tố khác. Trong quá trình tiêu thụ sản phẩm thì hành vi
người tiêu dùng có ảnh hưởng rất lớn.
+ Chính sách của nhà nước trong hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm
Chính sách của nhà nước trong hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm cũng tác động
trực tiếp hoặc gián tiếp đến sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
+ Sự cạnh tranh của các đối thủ trên thị trường
Mức độ cạnh tranh phụ thuộc vào số lượng doanh nghiẹp tham gia vào
sản xuất kinh doanh các mặt hàng đó. Do đó từng doanh nghiệp phải có đối
sách phù hợp trong cạnh tranh để tăng khả năng tiểu thụ sản phẩm của mình.
2.1.2 Lý luận về phát triển và tiêu thụ sản phẩm hoa, cây cảnh
2.1.2.1 Ý nghĩa và vai trò của việc phát triển nghề trồng hoa, cây cảnh
Hoa, cây cảnh là loại cây trồng có những đặc điểm giống như những
loại cây trồng khác, nhưng nó còn là sản phẩm, là sự hội tụ hoàn hảo nhất mà

13



thiên nhiên đã ban tặng để trang điểm cho hành tinh của chúng ta. Hoa là sản
phẩm đặc biệt, hoa làm tăng chất lượng cuộc sống của con người và hoa đem lại
cho người ta những cảm xúc tuyệt vời mà những quà tặng khác không có được.
Theo tạp trí Việt Nam hương sắc thì “ Hoa, cây cảnh là sự hội tụ của vẻ đẹp tự
nhiên và bàn tay con người, là sự mô phỏng lại thế giới tự nhiên một cách hoàn
mỹ, một cây cảnh đẹp manh lại cho người chơi những giá trị cảm xúc, tinh thần
tuyệt vời ”.
Hoa, cây cảnh là sản phẩm hàng hoá đặc biệt làm tăng chất lượng cuộc
sống con người, đem lại cảm xúc tuyệt vời mà quà tặng khác không thể có
được. Chơi hoa, cây cảnh không chỉ là một thú vui giải trí lành mạnh, nó còn
là một hoạt động văn hoá mang tính nhân văn sâu sắc.
Nghề trồng hoa, cây cảnh là một thế mạnh của nông thôn và nông dân
Việt Nam. Đặc biệt ngày nay trong quá trình CNH – HĐH nông nghiệp nông
thôn và hội nhập kinh tế quốc tế thì sản xuất hoa, cây cảnh đang là một hướng
đi mới đầy triển vọng. Phát triển nghề trồng hoa, cây cảnh không chỉ đáp ứng
nhu cầu tiêu dùng trong nước mà còn hướng tới xuất khẩu. Các nước có nền
kinh tế phát triển trong khu vực có giá trị xuất khẩu các mặt hàng này là rất
lớn như Thái Lan, Trung Quốc,… Do vậy, chúng ta phải nắm bắt những cơ
hội xâm nhập thị trường để tìm ra hướng đi mới cho nghề trồng hoa, cây cảnh
nhằm phát triển một nền nông nghiệp sinh thái bền vững.
Phát triển nghề hoa, cây cảnh góp phần tạo việc làm, phân bổ, sử dụng
hợp lý lao động ở nông thôn, giảm thiểu sự dư thừa lao động nhờ tận dụng tối
đa diện tích canh tác. Thúc đẩy quá trình chuyển dịch lao động trong lĩnh vực
dịch vụ cung ứng vật tư, buôn bán cây,… nhờ vậy môi trường nông thôn ngày
càng ổn định, cuộc sống của người trồng hoa, cây cảnh được nâng cao.
2.1.2.2 Ý nghĩa và nội dung của hoạt động tiêu thụ hoa, cây cảnh
Tiêu thụ hoa, cây cảnh là giai đoạn cuối cùng của quá trình sản xuất.
Nó là yếu tố quyết định đến sự tồn tại và phát triển của quá trình sản xuất.


14


Thông qua tiêu thụ thì giá trị sử dụng của sản phẩm hoa, cây cảnh được
thực hiện.
Việc tiêu thụ sản phẩm là quá trình thực hiện giá trị và giá trị sử dụng
của hàng hoá. Qua tiêu thụ hàng hoá được chuyển từ hình thái hiện vật sang
hình thái tiền tệ và vòng chu chuyển vốn của người sản xuất được hoàn thành.
Từ đó tạo cơ sở thu hồi chi phí và tích luỹ để thực hiện tái sản xuất mở rộng.
Các đơn vị sản xuất kinh doanh phải thực hiện chức năng cơ bản là đảm bảo
sản xuất, cung cấp khối lượng sản phẩm nhất định với những yêu cầu về chất
lượng, chủng loại …cho nhu cầu tiêu dùng xã hội. Chức năng này được biểu
hiện cụ thể qua quá trình tiêu thụ sản phẩm.
Đối với các đơn vị sản xuất kinh doanh thì tiêu thụ là khâu hết sức quan
trọng. Qua tiêu thụ thì sản phẩm hàng hoá mới xác định được giá trị và giá trị sử
dụng của nó. Tiêu thụ sản phẩm nhanh hay chậm trực tiếp tác động đến chu kỳ
sản xuất sau, đến thời gian lưu chuyển vốn, hiệu suất sử dụng đồng vốn.
Tiêu thụ phản ánh kết quả kinh doanh cuối cùng, khẳng định được sự
có mặt của hàng hoá cũng như sự chấp nhận của thị trường. Việc tiêu thụ sản
phẩm tác động đến việc thu hẹp hay mở rộng thị trường của một hàng hoá nào
đó thông qua các mối quan hệ của người sản xuất và khách hàng, sự chiếm
lĩnh thị phần của hàng hoá trên thị trường.
* Nội dung của quá trình tiêu thụ sản phẩm:
- Nghiên cứu thị trường: Khâu này rất quan trọng đối với quá trình sản
xuất kinh doanh, nó mở rộng đường cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh
của nhà sản xuất . Nghiên cứu thị trường là nắm vững sức mua của thị trường
tức là phải nắm được nhu cầu tiêu dùng của hàng hoá và khả năng thanh toán
của khách hàng, mức độ thu nhập và triển vọng mở rộng thị trường tiêu thụ
Để đạt được những mong muốn hay đưa ra được những quyết định

đúng đắn trong sản xuất đòi hỏi người sản xuất phải thu thập, xử lý các thông
tin về thị trường một cách khách quan, chính xác và phù hợp với thực tiễn.

15


- Xây dựng, lựa chọn chiến lược sản phẩm, chiến lược thị trường.
+ Chiến lược sản phẩm là tìm hiểu xem sản phẩm mình sản xuất ra có
được người tiêu dùng và thị trường chấp nhận hay không? chủng loại và chất
lượng sản phẩm, mẫu mã, kiểu dáng như thế nào? Nếu không thì phải tiến
hành đa dạng hoá sản phẩm, nâng cao chất lượng, giảm chi phí.
+ Chiến lược thị trường là phải xác định được đặc điểm chủ yếu của thị
trường tiêu thụ, xác định những thuận lợi và khó khăn, giá các chủng loại sản
phẩm và những chi phí liên quan đến thị trường.
- Công tác hỗ trợ tiêu thụ: Bên cạnh việc tổ chức nghiên cứu thị trường,
lưa chọn chiến lược sản phẩm… thì việc tổ chức các hoạt động hỗ trợ trong
công tác tiêu thụ có ý nghĩa rất lớn đối với tiêu thụ sản phẩm. Đó là các hình
thức giới thiệu sản phẩm, tham gia hội trợ triển lãnh, quảng cáo, tiếp thị và
nhiều hoạt động khác.
- Lựa chọn phương án tiêu thụ: Phương án tiêu thụ sản phẩm thực chất
là hệ thống các phương pháp và biện pháp mang tính kỹ thuật nhằm tối đa hoá
khối lượng sản phẩm bán ra. Có nhiều phương pháp tiêu thụ sản phẩm khác
nhau như:
+ Tiêu thụ trực tiếp: Hàng hoá được bán trực tiếp từ tay người sản xuất
đến tay người tiêu dùng.
+ Tiêu thụ gián tiếp: Hàng hoá được chuyển qua trung gian là nhà
buôn, người thu gom, người bán lẻ … rồi mới đến tay người tiêu dùng. Hình
thức tiêu thụ gián tiếp có thể một hoặc nhiều khâu trung gian.
+ Tiêu thụ hỗn hợp: Là hình thức phối hợp hai hình thức tiêu thụ trên.
2.1.2.3 Đặc điểm của hoa, cây cảnh

Hoa cây cảnh là loại cây mang đủ đặc điểm của các loại cây trồng khác,
hơn nữa chúng còn là sự hội tụ vẻ đẹp của thiên nhiên và sự chăm sóc của bàn
tay con người.. Nó đòi hỏi kỹ thuật chăm sóc rất đặc biệt, đòi hỏi tính thẩm

16


mỹ cao. Chơi hoa, cây cảnh không chỉ là một thú vui giải trí lành mạnh mà
còn là một hoạt động văn hoá mang tính nhân văn sâu sắc.
Chơi cây cảnh, trồng cây cảnh bao giờ cũng phải coi trọng gốc cây gốc có to có khỏe thì cây mới mạnh, gốc phải to hơn thân. Gốc càng to càng
thể hiện cây đã sống lâu năm. Nếu gốc có nhiều rễ nổi, rễ sum suê càng đẹp.
Cây trồng trong chậu phải là một gốc, trừ một số thế cây quần tụ giữa chiều
cao và bề rộng của cây phải có sự tương xứng. Thân cây mềm mại duyên
dáng, xiêu nghiêng hay đứng thẳng khỏe mạnh là tùy theo các thế cây. Cành
cây phải được phân bổ hơp lý, cấu tạo so le chia ra các hướng lớn không trùng
nhaụ, tránh gò bó. Từ gốc đến chỗ chia cành phải có khoảng cách ít nhất bằng
một phần ba chiều cao của cây để nhìn rõ được thân cây khỏe đẹp và thoáng.
Không nên để cành che lấp mất thân. Một cây nhiều nhất chỉ nên có bốn cành.
Cành dưới cùng gọi là cành thân hay cành hồi âm, có giá trị tạo cảm giác cho
phần gốc cây có hậu, vững chãi, bền lâu. Cành thứ hai và thứ ba là cành tả và
cành hữu là hai cành chính của cây. Cành thứ tư là cành tế thân, cũng được
gọi là "Cành ức" hay "Cành hầu", cốt để cho phần cổ đỡ trơ lộ, góp phần cho
bố cục tổng thể toàn cây chặt chẽ. Các cành phải được xén tán lá cho ngang
phẳng, gọn gàng, không để cho lá cây mọc tự nhiên, um tùm.
Cây cảnh phải được bàn tay nghệ thuật của con người tác động vào để
hình thành một thế cây. Đó là một dáng đứng, một điệu vươn của cây có bố
cục chặt chẽ, đẹp đẽ - một tác phẩm nghệ thuật độc đáo có sức sống, toát lên
một chủ đề, một ý tưởng nhất định.
Tuổi cây càng cao, càng quý. Nó phải là sự kết hợp giữa nghệ thuật,
tuổi tác của cây, khí hậu, thời gian chăm sóc. Cây cảnh đẹp phải là cổ thụ

nhưng nhỏ gọn, để nói lên ý nghĩa trường tồn.
Tùy theo từng loại cây cảnh mà trồng vào các chậu cảnh thích hợp,
tương xứng và đep. Chậu cảnh đẹp sẽ làm tăng thêm giá trị thẩm mỹ.

17


Chơi cây cảnh phải để đúng chỗ, cây to hoặc nhỏ, phụ thuộc nơi ở của
mình rộng hay hẹp và bao giờ cũng có thể ngắm nhìn được.
Cây cảnh và hoa là những loại cây tiêu hao lao động sống nhiều hơn
lao động vật hoá. Bởi vậy, không phải cứ bón nhiều phân, phun nhiều chất
kích thích thì cây sẽ có hoa, cây đẹp mà cần phải đầu tư nhiều công lao động
để chăm sóc, tỉa cành, tạo dáng cho cây, bón phân đúng thời gian để cây ra
hoa kịp thời vụ. Do vậy, hạch toán cần phải chi tiết đầy đủ các khoản chi phí
đặc biệt là công lao động nhằm đánh giá đúng hiệu quả sản xuất.
Với những cây cảnh như cây thế sung, si, sanh, ruối… Trước khi đưa
vào chậu để tạo dáng thì cần một khoảng thời gian tối thiểu từ 1- 2 năm trồng
ngoài ruộng để cây sinh trưởng và phát triển nhằm tạo than và rễ to. Quá trình
tạo dáng uốn thế cây có thể kéo dài từ vài năm đển hang chục năm, những cây
thế to xù xì, thế đẹp có giá trị cao.
Chăm sóc hoa, cây cảnh đòi hỏi phải có tay nghề, kinh nghiệm và lòng
kiên trì thì mới sản xuất được những hoa, cây cảnh cho giá trị kinh tế cao.
Bên cạnh đó hoa, cây cảnh rất mẫn cảm với điều kiện khí hậu thời tiết. Do
vậy, khi thời tiết thay đổi bằng những tiến bộ của khoa học kỹ thuật phải tác
động vào hoa, cây cảnh kịp thời để hạn chế những ảnh hưởng xấu.
Sản xuất cây cảnh gặp bất lợi lớn đó là chu kỳ sản xuất dài trong khi
thị hiếu của người tiêu dùng luôn thay đổi, cho nên rủi ro trong sản xuất là rất
cao. Vì vậy đòi hỏi người sản xuất phải rất năng động trong việc tìm hiểu thị
trường để có quyết định đúng khi đề ra kế hoạch sản xuất hợp lý để thu được
hiệu quả kinh tế cao.

2.1.2.4 Các yếu tố ảnh hưởng tới phát triển và tiêu thụ hoa, cây cảnh
a. Nhân tố con người
Con người là trung tâm của quá trình sản xuất, là yếu tố quyết định đối
với mọi hoạt động sản xuất. Trong quá trình trồng hoa - cây cảnh yếu tố con
người đóng vai trò vô cùng quan trọng nếu lực lượng lao động có đầy đủ

18


những phẩm chất, trình độ, đặc biệt là kinh nghiệm thì hoạt động sản xuất
chắc chắn đem lại hiệu quả cao. Trình độ tổ chức và quản lý giúp con người
sử dụng đầy đủ và hợp lý nguồn lực tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao
nhất với chi phí bỏ ra là thấp nhất. Sự năng động, nhạy bén sẽ giúp người sản
xuất nhanh chóng tiêu thụ sản phẩm của mình làm ra và ở bên kia của quá
trình sản xuất trên phương diện là người tiêu dùng thì việc tiêu thụ sản phẩm
hoa – cây cảnh được sản xuất ra cũng được thực hiện bởi chính con người.
b. Nhân tố tự nhiên
Hoa – cây cảnh cũng là một loại cây trồng do đó chịu ảnh hưởng rất lớn
của điều kiện tự nhiên. Mọi sự thay đổi của tự nhiên như khí hậu, thởi tiết độ
ẩm… đều ảnh hường trực tiếp đến quá trình sinh trưởng và phát triển của cây,
ảnh hưởng đến quá trình trồng hoa – cây cảnh.. Khi điều kiện tự nhiên bất
thuận lợi sẽ ảnh hưởng rất lớn đến quá trình sản xuất hoa – cây cảnh. Vì vậy,
việc lựa chọn loại cây phù hợp với điều kiện thời tiết khí hậu của vùng cũng
hết sức quan trọng, góp phần không nhỏ vào hiệu quả sản xuất hoa cây cảnh.
c. Nhân tố kỹ thuật
Sản xuất hoa – cây cảnh đòi hỏi đầu tư nhiều lao động sống với trình độ
tay nghề và óc thẩm mỹ cao. Một mặt họ phải nắm vững đặc tính sinh trưởng
của cây, sử dụng bàn tay tác động vào chúng để tạo thành những dáng thế
nhất định. Mặt khác việc lựa chọn tạo giống cũng rất quan trọng, bên cạnh đó
cũng không thể thiếu được các công đoạn tỉa cành, khoanh gốc, tạo dáng cho

cây…Vì vậy, yếu tố kỹ thuật có vai trò quyết định đến sự thành bại của hộ
nông dân. Khoa học ngày càng phát triển, các kỹ thuật lai ghép, nhân giống
phục vụ rất đắc lực cho quá trình sản xuất của hộ nông dân, việc nắm bắt học
tập các tiến bộ này kết hợp với kinh nghiệm là yêu cầu khách quan đối với
người sản xuất, việc nắm bắt và học tập các tiến bộ kỹ thuật này kết hợp với
kinh nghiệm là rất quan trọng.

19


d. Nhân tố kinh tế
- Nhân tố vốn
Vốn luôn là một trong những nhân tố quan trọng nhất trong quá trình
sản xuất hoa cây cảnh vì hoa và cây cảnh cho thu hồi vốn chậm do chu kỳ sản
xuất nhiều khi khó xác định. Hơn nữa việc chăm sóc hoa cây cảnh cũng đòi
hỏi đầu tư khá lớn về giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật (BVTV), thuốc
kích thích sinh trưởng …vả lại yêu cầu của hoa cây cảnh đòi hỏi cần đáp ứng
đúng thời kỳ, nếu không đáp ứng quá trình đó thì sẽ ảnh hưởng đến chất
lượng sản xuất. Vốn còn quyết định tới việc tái sản xuất giản đơn hay tái sản
xuất mở rộng do đó để sản xuất hoa cây cảnh đòi hỏi các hộ nông dân cần có
nguồn vốn để chủ động đối phó với các rủi ro: thời tiết, thị hiếu thay đổi , giá
trị đầu vào tăng cao,…
- Nhân tố thị trường giá cả
Sản xuất muốn phát triển ổn định đòi hỏi cần có thị trường và luôn tìm
cách đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường. Bất kỳ ngành sản xuất
nào cũng liên quan tới thị trường đầu vào và đầu ra. Sự biến động giá cả ở cả
hai thị trường đều tác động trực tiếp đến hiệu quả sản xuất và thu nhập của
nông hộ. Việc định giá cả đầu ra cũng như nguồn cung ứng các vật tư đầu
vào, tạo lập và mở rộng thị trường tiêu thụ sẽ mang lại tâm lý yên tâm sản
xuất cho nông hộ.

Sản xuất hoa, cây cảnh cũng là ngành sản xuất hàng hoá trong điều kiện
phát triển của nền kinh tế hiện nay. Vì vậy, sự phát triển của ngành này cũng
gắn liền với những biến động của thị trường.
Trong những năm gần đây giá cả đầu tư vào của sản phẩm biến động
nhiều, do đó cũng gây ra những biến động lớn đối với sản xuất và tiêu thụ
hoa, cây cảnh. Giá đầu ra cũng là yếu tố hết sức quan trọng ảnh hưởng tới sản
xuất hoa, cây cảnh. Trên thực tế cho thấy nếu giá của một loại cây năm nay

20


cao và bán chạy thì cung về loại cây hay hoa năm sau đó sẽ tăng cao. Điều đó
làm cho giá các loại cây, hoa năm đó sẽ giảm do cung vượt cầu.
Như vậy, qua cách phân tích ở trên cho thấy thị trường là yếu tố hết sức
quan trọng quyết định tới lượng cung ứng hoa, cây cảnh của người sản xuất
cũng như thu nhập của họ.
- Nhân tố cơ sở hạ tầng
Để phát triển sản xuất thì đòi hỏi hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ sản
xuất cũng cần được nâng cấp, đó là công trình thuỷ lợi nhằm đảm bảo tưới
tiêu đáp ứng đầy đủ nhu cầu tưới tiêu đối với quá trính sinh trưởng và phát
triển của cây. Còn hệ thống giao thông nó liên quan đến quá trình vận chuyển
cây trồng, cây thương phẩm, hoa và các loại vật tư.
Trên thực tế cho thấy ở những đia phương có sự đầu tư hợp lý cho hệ
thống cơ sở hạ tầng thì tại đó nghề trồng hoa cây cảnh có nhiều điều kiện
thuận lợi để phát triển sản xuất và tiêu thụ. Như vậy phát triển sản xuất hoa
cây cảnh và nâng cấp cơ sở hạ tầng có quan hệ hỗ trợ, bổ sung cho nhau trong
đó quy hoạch về cơ sở hạ tầng cần thực hiện trước một bước.
- Nhân tố chính sách pháp luật của đảng và nhà nước
Chủ trương chính sách của đảng và nhà nước là nhân tố góp phần định
hướng cho các hoạt động sản xuất hoa cây cảnh trong thời gian dài do đó nó

có vai trò rất quan trọng. Hơn nữa hiện nay với các chính sách chuyển đổi cơ
cấu kinh tế nông thôn, chính sách dồn điền đổi thửa, chính sách khuyến khích
các thành phần kinh tế tham gia vào sản xuất và xuất khẩu hoa cây cảnh cùng
hàng loạt chính sách hỗ trợ sản xuất khác, do đó người nông dân sẽ yên tâm
hơn khi gắn bó với nghề của mình. Từ đó đã làm cho ngành sản xuất nông
nghiệp nói chung và ngành trồng hoa, cây cảnh nói riêng phát triển mạnh mẽ.
Mặt khác các chính sách đầu tư, quy hoạch vùng sản xuất tạo thành các
vành đai xung quanh các đô thị lớn sẽ tạo điều kiện cho ngành sản xuất hoa,

21


cây cảnh phát triển một cách mạnh mẽ, tăng lượng cung cấp hàng hoá, thoả
mãn nhu cầu của người tiêu dùng.
Như vậy, các chính sách pháp luật của nhà nước có ảnh hưởng rất lớn
và tạo hành lang pháp lý đến sản xuất hoa, cây cảnh của cả nước nói chung và
của xã Đức Bác, huyện Sông Lô nói riêng có điều kiện phát triển cả chiều
rộng lẫn chiều sâu.
2.2 Cơ sở thực tiễn
2.2.1 Khái quát tình hình phát triển sản xuất và tiêu thụ hoa, cây cảnh trên
thế giới
Ngày nay, sản xuất hoa, cây cảnh trên thế giới đang phát triển một cách
mạnh mẽ và trở thành một ngành thương mại mang lại hiệu quả kinh tế cao. TS
Nguyễn Đăng Nghĩa, Viện KHKTNNMN cho biết, nghề trồng hoa, cây cảnh
trên thế giới mang lại tỷ suất lợi nhuận rất cao. Chính vì thế, ở nhiều nước như
Hà Lan, Pháp, Hàn Quốc…, nghề trồng và kinh doanh hoa đã trở thành một
ngành công nghiệp thực thụ, đem lại lợi nhuận lớn cho người nông dân.
Có thể thấy một số nước có diện tích hoa, cây cảnh lớn ở khu vực Châu
Á là: Trung Quốc (59.527 ha), Nhật Bản (8.050 ha), Ấn Độ (34.000 ha)…
Nghề trồng hoa, cây cảnh ở các nước Châu Á có từ lâu đời nhưng trồng hoa,

cây cảnh thương mại mới phát triển từ những năm 80 của thế kỷ 20. Kể từ khi
các nước Châu Á mở cửa, tăng cường đầu tư, đời sống của nhân dân được
nâng cao, nhu cầu về hoa, cây cảnh phục vụ cuộc sống ngày càng tăng. Tổng
diện tích hoa, cây cảnh của khu vực Châu Á – Thái Bình Dương hiện nay vào
khoảng 134.000 ha, chiếm 60% diện tích hoa, cây cảnh thế giới. Nhưng diện
tích hoa, cây cảnh thương mại còn nhỏ, tỷ lệ thị trường hoa, cây cảnh của các
nước đang phát triển chỉ chiếm 20% thị trường thế giới. Nguyên nhân là do
các nước Châu Á có diện tích trồng hoa, cây cảnh được bảo vệ thấp. Ở đây
hoa, cây cảnh thường được trồng trong điều kiện tự nhiên của đồng ruộng và

22


chủ yếu phục vụ thị trường nội địa (Nguyễn Xuân Linh – 2007, Kỹ thật trồng
hoa, cây cảnh).
Diện tích hoa, cây cảnh của thế giới ngày càng mở rộng và không
ngừng tăng lên. Năm 1995 giá trị sản lượng hoa, cây cảnh trên thế giới đạt 31
tỷ USD, trong đó hoa hồng chiếm tới 25 tỷ USD. Ba nước xuất khẩu hoa, cây
cảnh lớn đã có sản lượng chiếm khoảng 50% hoa, cây cảnh thế giới là Nhật
Bản, Hà Lan và Mỹ. Cụ thể qua bảng sau:
Bảng 2.1: Diện tích trồng hoa, cây cảnh ở một số nước trên thế giới ( 2007)
STT
1
2
3
4
5
6
7
8

9
10
11
12
13
14

Tên nước
Diện tích (ha)
Hà Lan
8.004
Italia
7.654
Đức
7.066
Tây Ban Nha
4.325
Pháp
4.325
Hungary
1.050
Trung Quốc
59.527
Thái Lan
7.000
Kenya
1.280
Marocco
427
Mỹ

15.522
Australia
3.940
Nhật Bản
8.050
Ấn Độ
34.000
(Nguồn: Nguyễn Xuân Linh, 2007)

2.2.2 Khái quát tình hình phát triển sản xuất và tiêu thụ hoa, cây cảnh ở
Việt Nam
Việt Nam có diện tích tự nhiên trên 33 triệu ha, diện tích trồng hoa, cây
cảnh ở Việt Nam còn nhỏ chiếm 0.02% diện tích đất đai. Diện tích trồng hoa,
cây cảnh tập trung ở các vùng vên đô thị, khu công nghiệp, khu du lịch, khu
nghỉ mát như hoa Ngọc Hà, Quảng Nam, Nhật Tân, Tây Tựu (Hà Nội); Đằng

23


Hải, Đằng Lâm (Hải Phòng); Hoành Bồ, Hạ Long (Quảng Ninh); Triệu Sơn,
TP Thanh Hoá (Thanh Hoá); Gò Vấp, Hóc Môn (TP HCM); TP Đà Lạt (Lâm
Đồng)…Với tổng diện tích trồng hoa, cây cảnh khoảng 3500 ha.
Theo điều tra ở một số địa phương trồng hoa trong cả nước, Việt Nam
có các loại hoa, cây cảnh được trồng phổ biến là: Hoa hồng, hoa cúc, hoa đào,
hoa lay ơn, hoa lan, cây sanh, cây lộc vừng, cây đa, cây tùng…
Bảng 2.2: Diện tích trồng hoa, cây cảnh tại một số địa phương ở
Việt Nam (2007)
STT
1


Tên địa phương
Hà Nội

Diện tích (ha)
1.000

2

Hải Phòng

400

3

TP HCM

800

4

Đà Lạt

200

5

Vĩnh Phúc

300


6

Quảng Ninh

70

7

Hải Dương

60

8

Các tỉnh khác

670

Cộng

3500
(Nguồn: Nguyễn Xuân Linh, 2007)

Dựa vào bảng thống kê trên có thể thấy diện tích hoa, cây cảnh tập
trung lớn nhất ở khu vực các thành phố lớn như Hà Nội và TP Hồ Chí Minh.
Điều đó chứng tỏ rằng nhu cầu về hoa, cây cảnh ở các khu vực thành phố, thị
xã là rất lớn.
Những năm gần đây cùng với sự phát triển không ngừng của xã hội,
ngành sản xuất hoa, cây cảnh cũng phát triển mạnh mẽ, đem lại cho người
trồng hoa, cây cảnh những nguồn lợi to lớn.

Cụ thể như: ở TP HCM, đến tháng 9/2008, diện tích trồng hoa, cây
cảnh đã đạt 1.322 ha, tăng gấp hơn 2 lần so với 5 năm trước (591 ha). Theo

24


Trung tâm Khuyến nông TP HCM, đến hết năm nay, diện tích trồng hoa, cây
cảnh ở TP này sẽ đạt khoảng 1.400 ha, vượt 10% so với mục tiêu của thành
phố là 1.200 ha vào năm 2010. Diện tích trồng hoa ở Lâm Đồng đến cuối năm
2007 đã đạt khoảng 1.250 ha, sản lượng 950 triệu cành. Diện tích hoa, cây
cảnh ở Đồng Tháp đến 2008 là 260 ha, tăng hơn 20 ha so với 2007…Doanh
số kinh doanh hoa, cây cảnh hàng năm của các địa phương này trung bình đạt
600-700 tỉ đồng và có xu hướng ngày càng tăng lên.
Tuy nhiên, quy mô của nghề sản xuất hoa, cây cảnh ở Việt Nam còn
manh mún và nhỏ bé, nếu so với những cường quốc về hoa, cây cảnh trên thế
giới. Ngay cả với những nước ở gần ta như Trung Quốc, Thái Lan, Đài
Loan…, nghề trồng hoa, cây cảnh của nước ta cũng chưa thể so sánh được.
Theo TS Nguyễn Đăng Nghĩa, lợi nhuận trung bình từ trồng hoa ở ta
hiện tại có thể đạt tới 70 triệu đồng/ha, đây là mức cao so với nhiều loại cây
trồng khác, nhưng so với nghề trồng hoa trên thế giới, vẫn là một mức lợi
nhuận thấp. Cũng theo TS Nghĩa, những hạn chế lớn hiện nay của nghề hoa,
cây cảnh nước ta là giống, công tác quảng bá và xúc tiến thương mại.Chính vì
vậy đã làm hạn chế khả năng cạnh tranh của hoa, cây cảnh Việt Nam trên thị
trường thế giới.
2.2.3 Bài học nghiệm về phát triển sản xuất và tiêu thụ hoa, cây cảnh
Từ cơ sở lý luận về phát triển kinh tế nói chung và và phát triển sản
xuất, tiêu thụ hoa – cây cảnh nói riêng gắn với cơ sở thực tiễn của nghề trồng
hoa, cây cảnh cho thấy:
Việc trồng hoa, cây cảnh ngoài những yếu tố chủ quan thuận lợi như
điều kiện đất đai, nhiệt độ, độ ẩm,…phù hợp còn phải phụ thuộc rất nhiều vào

yếu tố khác như vốn đầu tư, kỹ thuật chăm sóc và cách lựa chọn loại hoa, cây
cảnh phù hợp với điều kiện kinh tế của từng vùng, từng hộ dân.
Việc đánh giá được HQKT của nghề trồng hoa, cây cảnh mang lại là rất
quan trọng đối với việc phát triển kinh tế xã hội. Khi đánh giá HQKT của

25


×