Tải bản đầy đủ (.doc) (134 trang)

Nghiên cứu mối liên kết kinh tế trong quá trình sản xuất và tiêu thụ dưa chuột bao tử tại xã quang thịnh lạng giang bắc giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2 MB, 134 trang )

Khóa luận tốt nghiệp

Ngô Thị Quế _ PTNT&KN51

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là kết quả nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả nêu trong luận văn này là trung thực và chưa từng được dùng để bảo vệ một học
vị nào.
Tôi xin cam đoan rằng các thông tin được trích dẫn trong luận văn đều được
chỉ rõ nguồn gốc và mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đều đã được
cảm ơn.
Tác giả luận văn

Ngô Thị Quế

LỜI CẢM ƠN

1


Khóa luận tốt nghiệp

Ngô Thị Quế _ PTNT&KN51

Trong thời gian thực tập tốt nghiệp vừa qua, để hoàn thành được luận văn tốt
nghiệp, ngoài sự nỗ lực của bản thân tôi đã nhận được rất nhiều sự quan tâm giúp
đỡ của các tập thể, các cá nhân trong và ngoài trường.
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy giáo, cô giáo trong
Khoa Kinh tế và Phát triển nông thôn Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội đã tạo
mọi điều kiện giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp.


Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới cô giáo ThS. Nguyễn Thị
Minh Thu, đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian thực tập tốt
nghiệp.
Tôi xin chân trọng cảm ơn UBND xã, ban địa chính, ban thống kê, các hợp
tác xã nông nghiệp, chính quyền các thôn cùng toàn thể bà con trong xã Quang
Thịnh; Công ty cổ phần CBTP xuất khẩu GOC, trạm khuyến nông, trạm bảo vệ
thực vật, phòng nông nghiệp huyện Lạng Giang đã cung cấp cho tôi những số liệu
cần thiết và tạo mọi điều kiện thuận lợi giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện đề tài
tại địa bàn.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn tới gia đình, người thân, bạn bè đã
khích lệ, động viên, giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn thực tập tốt nghiệp này.
Do trình độ và thời gian có hạn nên luận văn không thể tránh khỏi những
thiếu sót. Vì vậy, rất mong nhận được sự thông cảm, góp ý của các thầy cô giáo và
các độc giả để luận văn được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày 20 tháng 05 năm 2010
Tác giả luận văn

Ngô Thị Quế

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

2


Khóa luận tốt nghiệp

Ngô Thị Quế _ PTNT&KN51


Từ viết tắt
BQ

Diễn giải nội dung
Bình quân

BVTV

Bảo vệ thực vật

CBTP

Chế biến thực phẩm

CC

Cơ cấu

CNH- HĐH

Công nghiệp hoá - hiện đại hoá

CSHT

Cơ sở hạ tầng

DCBT

Dưa chuột bao tử


DVNN

Dịch vụ nông nghiệp

ĐVT

Đơn vị tính

GTSX

Giá trị sản xuất

HDND

Hội đồng nhân dân

HTX

Hợp tác xã

KIP

Phỏng vấn người nắm giữ thông tin- Key Information Panel

NN

Nông nghiệp
Phương pháp đánh giá nông thôn có sự tham gia- Participatory

PRA


SL
Tr.đ
TTCN
UBND

Rural Appraisal
Quyết định
Số lượng
Triệu đồng
Tiểu thủ công nghiệp
Ủy ban nhân dân

PHẦN TÓM TẮT
Sản xuất nông nghiệp luôn giữ một vị trí quan trọng trong công cuộc phát
triển kinh tế đất nước, góp phần vào sự ổn định và tăng trưởng kinh tế quốc gia.
Trong thời gian qua, nền nông nghiệp Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng
kể song cũng còn tồn tại không ít yếu kém và thách thức gay gắt, đặc biệt là vấn đề

3


Khóa luận tốt nghiệp

Ngô Thị Quế _ PTNT&KN51

tiêu thụ nông sản hàng hóa. Người nông dân sản xuất thường rơi vào tình trạng
“được mùa thì mất giá và mất mùa thì được giá”. Hiện tượng người nông dân “lúc
trồng, lúc chặt” diễn ra khá phổ biến ở một số địa phương. Để giải quyết mâu thuẫn
trên thì một trong những giải pháp đó là cần phải có sự liên kết trong quá trình sản

xuất và tiêu thụ nông sản nhằm tạo ra phương thức tổ chức sản xuất, tiêu thụ

khép kín, sự liên kết sẽ giúp hỗ trợ sản xuất, tiêu thụ sản phẩm và ổn định thị
trường nông, lâm sản, tăng sức cạnh tranh của hàng hóa trong bối cảnh hội nhập
hiện nay. Với tiềm năng, thế mạnh phát triển nông nghiệp rất lớn, xã Quang Thịnh Lạng Giang - Bắc Giang đã sớm định hướng phát triển sản xuất nông nghiệp theo
hướng hàng hoá. Việc liên kết gắn sản xuất với tiêu thụ nông sản mà đặc biệt là
trong sản xuất và tiêu thụ DCBT đã tạo ra mũi nhọn đột phá trong phát triển kinh tế,
giúp cho đời sống của người dân trong xã được cải thiện rõ rệt. Vậy thực trạng mối
liên kết kinh tế trong sản xuất và tiêu thụ dưa chuột bao tử ra sao? Những khó khăn
đang gặp phải là gì? Nguyên nhân là do dâu? Để hiểu được rõ vấn đề chúng tôi tiến
hành tìm hiểu đề tài “Nghiên cứu mối liên kết kinh tế trong quá trình sản xuất và
tiêu thụ dưa chuột bao tử tại xã Quang Thịnh - Lạng Giang - Bắc Giang”
Đề tài nghiên cứu mối liên kết kinh tế trong quá trình sản xuất và tiêu thụ
DCBT, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường mối liên kết trong quá trình
sản xuất và tiêu thụ DCBT tại địa phương. Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các
tác nhân tham gia liên kết kinh tế chính trong sản xuất và tiêu thụ DCBT như:
doanh nghiệp, nhà nông, HTX nông nghiệp và một số tác nhân khác. Để làm rõ hơn
các nội dung của kết quả nghiên cứu, trong phần cơ sở lý luận và thực tiễn tôi sẽ
làm rõ các khái niệm: hợp tác, liên kế, liên kết kinh tế, liên kết sản xuất, HTX, nhà
nông, doanh nghiệp; đi vào tìm hiểu các lý thuyết về liên kết kinh tế, các yếu tố ảnh
hưởng tới mối liên kết kinh tế trong quá trình sản xuất và tiêu thụ nông sản. Đề tài
tìm hiểu liên kết trong quá trình sản xuất và tiêu thụ nông sản của một số nước như:
Trung Quốc, Thái Lan; Trong nước tôi tìm hiểu các loại hình tổ chức sản xuất và
tiêu thụ sản phẩm DCBT, cụ thể một số địa phương có hoạt động liên kết trong quá
trình sản xuất và tiêu thụ DCBT như: Hưng Yên, Hà Nam, Hải Phòng, từ đó rút ra
những bài học kinh nghiệm cho phát triển liên kết trong quá trình sản xuất, tiêu thụ

4



Khóa luận tốt nghiệp

Ngô Thị Quế _ PTNT&KN51

nông sản nói chung và DCBT nói riêng. Để nghiên cứu đề tài tôi đã chọn ra ba điểm
nghiên cứu là các thôn: Thanh Lương, Quang Hiển, Phan Thượng có diện tích trồng
DCBT lớn trong xã, để nhằm tìm hiểu, thu thập các số liệu sơ cấp về các hoạt động
liên quan đến sản xuất, tiêu thụ DCBT (năng suất, sản lượng, giá bán, tình hình đầu
tư, liên kết, những khó khăn gặp phải trong liên kết của các tác nhân tham gia liên
kết. Đề tài sử dụng các phương pháp: thống kê mô tả, thống kê so sánh, phương pháp
PRA để phân tích số liệu, phân tích dựa vào một số chỉ tiêu phân tích.
Quá trình nghiên cứu chúng tôi thu được một số kết quả sau đây:
Hoạt động tiêu thụ nông sản cho nông dân được các doanh nghiệp kết hợp
với địa phương thực hiện khá sớm, ngay từ những ngày đầu khi đưa cây DCBT vào
trồng. Với 3 hình thức tổ chức sản xuất và tiêu thụ sản phẩm DCBT chính tại xã
hoạt động liên kết diễn ra chủ yếu qua hai hình thức với các tác nhân chính là hộ
sản xuất, HTX nông nghiệp, doanh nghiệp và tư thương. Hộ sản xuất DCBT tham
gia liên kết đa số là các xã viên trong HTX chỉ có 11,8% là hộ sản xuất bên ngoài.
Diện tích DCBT bình quân của mỗi hộ sản xuất tham gia liên kết là 1,44 sào/hộ.
DCBT được thu mua chủ yếu bởi các doanh nghiệp chế biến rau quả đóng trên địa
bàn huyện Lạng Giang và tỉnh Bắc Giang để chế biến và suất khẩu. Trung bình mỗi
năm có 2 doanh nghiệp ký kết hợp đồng sản xuất và tiêu thụ DCBT trên địa bàn xã
thông qua 3 HTX nông nghiệp là Quang Hiển, Thanh Lương và Tân Lạc. Với các
nhu cầu thu mua khác nhau nội dung hợp đồng về tiêu chuẩn loại dưa, giá thu mua
ứng với từng loại, vốn đầu tư ứng trước cho HTX là khác nhau giữa các doanh
nghiệp. Các tư thương thu mua dưa trên địa bàn xã thường ở địa phương khác chủ
yếu Hải Dương, Hưng Yên và thường thu mua vào giữa vụ với giá thường cao hơn
từ 200 đến 400 đồng/kg. Kích cỡ dưa thu mua của tư thương thường rất linh động
thường mua vào một loại. Tư thuơng có hai hình thức liên kết một là đầu tư ứng
trước chi phí sản xuất cho hộ trồng DCBT thông qua thỏa thuận, hai là không đầu

tư. Trong các hình thức liên kết sản xuất và tiêu thụ DCBT thì hình thức liên kết với
các nhà máy theo hợp đồng qua HTX được các hộ tham gia nhiều nhất, có đến
90,1% sản lượng DCBT được bán cho các nhà máy thông qua HTX thu mua, còn
lại là bán cho tư thương.

5


Khóa luận tốt nghiệp

Ngô Thị Quế _ PTNT&KN51

Thực hiện liên kết với doanh nghiệp hộ nông dân được cung ứng giống,
thuốc BVTV phục vụ cho sản xuất, với giá bán được ký kết từ đầu vụ thông qua
hợp đồng giúp hộ nông dân yên tâm đầu tư sản xuất. Mối liên kết hiệu quả nên vài
năm gần đây, nhiều hộ nông dân trong xã Quang Thịnh đã mạnh dạn mở rộng diện
tích sản xuất rau chế biến xuất khẩu, hình thành vùng sản xuất tập trung cung cấp
nguyên liệu cho doanh nghiệp chế biến. Diện tích DCBT của xã tăng từ 24,3 ha vào
năm 2007 lên 67,4 ha vào năm 2009 với 18 hợp đồng đã được ký kết. Vụ xuân năm
nay toàn xã trồng 20,14 ha có diện tích đứng đầu trong toàn huyện với năng suất
hiện tại là 22,3tấn/ha. Sản lượng tăng từ 447,12 tấn vào năm 2007 lên hơn
1341,26 tấn vào năm 2009. Hiệu quả sản xuất của DCBT cao hơn các cây trồng
khác, thu nhập hỗn hợp của cây DCBT trung bình 1766,74 nghìn đồng/sào. Từng
bước nâng cao nhận thức của người dân về liên kết trong sản xuất và áp dụng theo
hướng sản xuất hàng hoá, phù hợp với CNH- HĐH nông nghiệp nông thôn. Qua
điều tra trên địa bàn sản phẩm của các hộ nông dân khi thu hoạch vẫn chưa đáp ứng
đủ nguyên liệu cho các nhà máy nằm trên địa bàn huyện Lạng Giang. Như vậy, cây
DCBT ở xã cũng như trong huyện đã thực sự trở thành cây hàng hoá và có tiềm
năng mở rộng và phát triển. Không chỉ đạt kết quả về số lượng trong liên kết hiệu
quả chất lượng cũng rất cao. Khi thực hiện mối liên kết kinh tế trong quá trình sản

xuất và tiêu thụ DCBT trên địa bàn xã, vai trò và lợi ích của các bên tham gia đều
được nâng lên.
Bên cạnh những kết quả đạt được, thì trong quá trình thực hiện liên kết vẫn
còn những tồn tại như các bên tham gia chưa thực hiện hết trách nhiệm của mình
hoặc một số thì vi phạm hợp đồng, phương thức thanh toán cho người dân vẫn chưa
linh hoạt, một số hộ còn nhận thức hạn chế, chưa nhận thấy được lợi ích lâu dài của
việc liên kết. Tỷ lệ hộ vi phạm hợp đồng bán một phần sản phẩm ra ngoài cho tư
thương tăng qua các năm, năm 2009 số hộ vi pham hợp đồng trung bình 1 vụ chiếm
20,57%. HTX đã có biện pháp khắc phục tình trạng này xong vẫn chưa thực sự hiệu
quả. Ngoài nguyên nhân do chính các bên tham gia liên kết kinh tế trong quá trình
sản xuất và tiêu thụ DCBT thì hiệu quả liên kết còn chịu ảnh hưởng các yếu tố bên

6


Khóa luận tốt nghiệp

Ngô Thị Quế _ PTNT&KN51

ngoài. Sự biến động giá cả sản phẩm là nguyên nhân chính phá vỡ các mối liên kết
này.
Từ những thực trạng trên tôi xin đưa ra một số đề xuất định hướng, giải pháp
nhằm tăng cường mối liên kết trong quá trình sản xuất và tiêu thụ DCBT tại xã: Cần
quy hoạch vùng nguyên liệu tập trung, khuyến khích các doanh nghiệp xây dựng cơ
sở chế biến gắn với vùng nguyên liệu, đẩy mạnh sản xuất hàng hóa tập trung gắn
với hợp đồng tiêu thụ nông sản; Tăng cường vai trò của các HTX làm chức năng
cầu nối giữa nông dân với doanh nghiệp trong việc thực hiện hợp đồng; Tăng cường
công tác tuyên truyền để giúp người nông dân hiểu rõ hơn nội dung, mục đích, lợi
ích của hoạt động liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, tạo điều kiện để
người nông dân hiểu rõ hơn và tôn trọng pháp luật, tôn trọng và thực hiện đúng hợp

đồng đã cam kết; Nâng cao và phát huy vai trò làm trọng tài của nhà nước, cần có
những chính sách phù hợp tạo điều kiện cho hoạt động liên kết giữa các bên....
Từ các kết quả trên chúng tôi rút ra kết luận: Mối liên kết giữa hộ sản xuấtHTX - doanh nghiệp trong quá trình sản suất và tiêu thụ DCBT đã thực sự mang lại
hiệu quả rất cao, vai trò và lợi ích của các bên tham gia đều được nâng lên. Để
hoàn thiện và nhân rộng mô hình liên kết cũng như khắc phục những mặt còn tồn tại
thì các bên tham gia liên kết cần phải thực hiện tốt nhiệm vụ của mình. Chỉ khi lợi
ích của các bên được tham gia được đảm bảo thì liên kết mới có thể phát triển bền
vững được. Và cần phải thực hiện đồng bộ các giải pháp, cần có sự tham gia của tất
cả cấp các ngành.

PHẦN 1
MỞ ĐẦU

7


Khóa luận tốt nghiệp

Ngô Thị Quế _ PTNT&KN51

1.1 TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Phát triển nông nghiệp có vai trò quan trọng trong sự phát triển chung của
mỗi quốc gia. Đặc biệt với Việt Nam, một nước có nền sản xuất nông nghiệp làm
nền tảng. Sản xuất nông nghiệp luôn giữ một vị trí quan trọng trong công cuộc phát
triển kinh tế đất nước, góp phần vào sự ổn định và tăng trưởng kinh tế quốc gia.
Trong thời gian qua, nền nông nghiệp Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng
kể nhưng so sánh với yêu cầu thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa và trong bối
cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế thì nền nông nghiệp nước ta vẫn còn
nhiều yếu kém và thách thức gay gắt, đặc biệt là vấn đề tiêu thụ nông sản hàng hóa.
Người nông dân sản xuất thường rơi vào tình trạng “được mùa thì mất giá và mất

mùa thì được giá”. Hiện tượng người nông dân “lúc trồng, lúc chặt” diễn ra khá phổ
biến ở một số địa phương. Để giải quyết mâu thuẫn trên thì một trong những giải
pháp đó là cần phải có sự liên kết trong quá trình sản xuất và tiêu thụ nông sản
nhằm tạo ra phương thức tổ chức sản xuất, tiêu thụ khép kín, sự liên kết sẽ giúp hỗ
trợ sản xuất, tiêu thụ sản phẩm và ổn định thị trường nông, lâm sản, tăng sức cạnh
tranh của hàng hóa trong bối cảnh hội nhập hiện nay.
Phương châm liên kết kinh tế trong quá trình sản xuất và tiêu thụ nông sản để
cùng tìm đầu vào, đầu ra ổn định cho hàng hóa nông nghiệp mang lại giá trị cao đã
được khởi xướng từ nhiều năm qua, đã và đang được nhiều ngành, địa phương,
doanh nghiệp và nông dân quan tâm. Là một tỉnh có tiềm năng phát triển nông
nghiệp rất lớn nên Bắc Giang đặc biệt quan tâm và chú trọng đến vấn đề này. Đây là
một trong những mục tiêu phát triển kinh tế nông nghiệp của tỉnh, hàng năm tỉnh đã
có rất nhiều hợp đồng tiêu thụ nông sản được ký kết. Đặc biệt là cây rau chế biến,
riêng năm 2009 vừa qua tổng diện tích rau chế biến sản xuất theo hợp đồng liên kết
các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh đạt khoảng 450 ha, tăng gần gấp đôi so với năm
trước, năng suất trung bình đạt 190 tạ/ha, sản lượng 8.550 tấn cho giá trị trên 55,5 tỷ
đồng. Trên địa bàn tỉnh, nhiều cánh đồng chuyên canh sản xuất rau chế biến với quy
mô lớn được hình thành, mang lại thu nhập cao ở nhiều xã.

8


Khóa luận tốt nghiệp

Ngô Thị Quế _ PTNT&KN51

Điển hình như ở xã Quang Thịnh có 609 ha đất canh tác, gần chục năm về
trước, kinh tế nông nghiệp của xã vẫn chậm phát triển, nguyên nhân chính là do cơ
cấu cây trồng chưa hợp lý, hệ thống kênh mương, ruộng canh tác còn manh mún,
chưa tập trung. Vì vậy các tiềm năng thế mạnh sẵn có của xã chưa được tận dụng

khai thác. Để khắc phục những mặt hạn chế đó Đảng uỷ xã đã đề ra nghị quyết
chuyên đề về phát triển kinh tế nông nghiệp hàng hoá trên địa bàn. Sản xuất nông
nghiệp hàng hoá liên kết gắn sản xuất với tiêu thụ nông sản đã tạo ra mũi nhọn đột
phá trong phát triển kinh tế, đời sống người dân trong xã đã được cải thiện rõ rệt.
Hiện nay, bình quân hệ số sử dụng đất canh tác của Quang Thịnh đạt 2,9 lần/năm,
giá trị sử dụng đất canh tác của xã Quang Thịnh đạt 60,6 triệu đồng/ha/năm. Để đạt
hiệu quả kinh tế cao, Quang Thịnh đã chủ động tìm đến các doanh nghiệp ký hợp
đồng bao tiêu sản phẩm cho nông dân. Trong đó dưa chuột bao tử là cây trồng
chiếm diện tích lớn, đây là loại nông sản hàng hóa có giá trị kinh tế cao trong xã đã
được người dân đưa vào trồng trong những năm gần đây. Vậy thực trạng mối liên
kết kinh tế trong sản xuất và tiêu thụ dưa chuột bao tử ra sao? Những khó khăn
đang gặp phải là gì? Nguyên nhân là do dâu? Để hiểu được rõ vấn đề chúng tôi tiến
hành tìm hiểu đề tài “Nghiên cứu mối liên kết kinh tế trong quá trình sản xuất và
tiêu thụ dưa chuột bao tử tại xã Quang Thịnh - Lạng Giang - Bắc Giang”
1.2 MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1.2.1 Mục tiêu chung
Nghiên cứu mối liên kết kinh tế trong quá trình sản xuất và tiêu thụ dưa
chuột bao tử, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường mối liên kết trong
quá trình sản xuất và tiêu thụ dưa chuột bao tử tại xã Quang Thịnh - Lạng Giang Bắc Giang.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về mối liên kết kinh tế trong quá
trình sản xuất và tiêu thụ nông sản.
- Thực trạng mối liên kết kinh tế trong quá trình sản xuất và tiêu thụ dưa
chuột bao tử tại xã Quang Thịnh - Lạng Giang - Bắc Giang.

9


Khóa luận tốt nghiệp


Ngô Thị Quế _ PTNT&KN51

- Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến mối liên kết kinh tế trong sản xuất và
tiêu thụ dưa chuột bao tử tại xã Quang Thịnh - Lạng Giang - Bắc Giang.
- Đề xuất các định hướng và giải pháp nhằm tăng cường mối liên kết kinh tế
trong quá trình sản xuất và tiêu thụ dưa chuột bao tử tại xã Quang Thịnh - Lạng
Giang - Bắc Giang.
1.3 ĐỐI TƯỢNG & PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các tác nhân tham gia liên kết kinh tế
chính trong sản xuất và tiêu thụ dưa chuột bao tử:
- Nhà doanh nghiệp: Công ty cổ phần CBTP xuất khẩu GOC.
- Nhà nông: Các hộ trồng dưa chuột bao tử trên địa bàn xã Quang Thịnh.
- HTX nông nghiệp: Thanh Lương, Quang Hiển, Tân Lạc.
Ngoài ra còn có sự tham gia, UBND xã Quang Thịnh, trạm khuyến nông, trạm
bảo vệ thực vật, phòng nông nghiệp huyện Lạng Giang, cán bộ khuyến nông xã.
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung:
Phân tích thực trạng mối liên kết kinh tế trong quá trình sản xuất và tiêu thụ
dưa chuột bao tử, các yếu tố ảnh hưởng, một số đề xuất giải pháp nhằm tăng cường
mối liên kết kinh tế trong quá trình sản xuất và tiêu thụ dưa chuột bao tử tại xã
Quang Thịnh - Lạng Giang - Bắc Giang.
- Phạm vi về không gian
Đề tài được nghiên cứu tại xã Quang Thịnh - Lạng Giang - Bắc Giang.
- Phạm vi về thời gian:
• Thời gian thực hiện đề tài: Từ ngày 24/ 01/2010 - 23/05/2010.
• Thời gian thu thập số liệu: Số liệu phục vụ nghiên cứu được lấy từ năm
2007 - 2009.

10



Khóa luận tốt nghiệp

Ngô Thị Quế _ PTNT&KN51

PHẦN II
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ MỐI LIÊN KẾT KINH TẾ TRONG
SẢN XUẤT VÀ TIÊU THỤ NÔNG SẢN
2.1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ MỐI LIÊN KẾT
2.1.1 Một số khái niệm cơ bản
2.1.1.1 Hợp tác
• Hợp tác là cùng làm một việc với nhau (Nguyễn Như Ý, 1999)
• Hợp tác là sự kết hợp sức mạnh của các cá nhân hoặc các đơn vị để tạo ra sức
mạnh lớn hơn, nhằm thực hiện những công việc mà mỗi cá nhân, đơn vị hoạt động
riêng rẽ sẽ gặp khó khăn, thậm chí không thể thực hiện được, hoặc thực hiện kém
hiệu quả so với có hợp tác. (TS. Phạm Thị Minh Nguyệt, 2006)
2.1.1.2 Liên kết
• Liên kết là kết lại với nhau từ nhiều thành phần và tổ chức riêng rẽ nhằm
mục đích nào đó. (Nguyễn Như Ý, 1999)
• Liên kết trong hệ thống thuật ngữ kinh tế nó có nghĩa là sự hợp nhất, sự phối
hợp hay sáp nhập của nhiều bộ phận thành một chỉnh thể. Trước đây khái niệm này
được biết đến với tên gọi là nhất thể hóa và gần đây mới gọi là liên kết.
2.1.1.3 Liên kết kinh tế
Thông thường, người ta hay dùng từ liên kết để chỉ việc đưa một bộ phận gia
nhập một tổng thể. Tuy nhiên, liên kết kinh tế không bao hàm một nghĩa rõ ràng như
vậy, bởi lẽ liên kết kinh tế là phương thức phát triển của chế độ hợp tác. Nó phản ánh
mối quan hệ về hợp tác và phân công lao động trong các quá trình sản xuất xã hội của
các ngành, các địa phương, các đơn vị kinh tế các thành phần kinh tế...
Liên kết kinh tế chính là những phương thức hoạt động của các hình thức

hợp tác kinh tế, liên kết kinh tế phát triển ngày càng phong phú, đa dạng theo sự
phát triển của hợp tác kinh tế.
Liên kết kinh tế là tất cả các mối quan hệ kinh tế được hình thành giữa hai
hay nhiều đối tác với nhau dựa trên những hợp đồng đã ký kết với những thỏa thuận
nhất định. (TS. Phạm Thị Minh Nguyệt, 2006)

11


Khóa luận tốt nghiệp

Ngô Thị Quế _ PTNT&KN51

Trong các văn bản của nhà nước, cụ thể là trong quy định ban hành theo
Quyết định số 38-HĐBT ra ngày 10/04/1989 thì liên kết kinh tế là những hình thức
phối hợp hoạt động do các đơn vị kinh tế tiến hành để cùng nhau bàn bạc và đề ra
các chủ trương, biện pháp có liên quan đến công việc sản xuất kinh doanh của mình
nhằm thúc đẩy sản xuất theo hướng có lợi nhất. Sau khi bàn bạc thống nhất, các đơn
vị thành viên trong tổ chức liên kết kinh tế cùng nhau ký hợp đồng về những vấn đề
có liên quan đến phần hoạt động của mình để thực hiện.
Liên kết kinh tế là một quá trình vận động phát triển tự nhiên, tùy thuộc trình
độ, phạm vi của phân công và chuyên môn hóa sản xuất kinh doanh, tùy thuộc vào
quá trình vận động phát triển của các quan hệ kinh tế giữa các doanh nghiệp, vào lợi
ích của các bên tham gia liên kết, vào môi trường cạnh tranh. Nó còn tùy thuộc vào
mối quan hệ nội tại giữa các doanh nghiệp, cũng như giữa các bộ phận, các khâu
của các quá trình tái sản xuất xã hội, phụ thuộc vào sự “thử thách” của quá trình
quan hệ, vào trình độ công nghệ quản lý, cũng như năng lực điều hành của đội ngũ
cán bộ quản lý. Không thể áp đặt về phương diện tổ chức từ bên ngoài, hoặc từ bên
trên bất kỳ một hình thức tổ chức liên kết kinh tế theo ý muốn chủ quan. (PTS.
Dương Bá Phượng, 1995)

David.W.Pearce (1999) trong từ điển Kinh tế học hiện đại cho rằng “Liên kết
kinh tế chỉ là tình huống khi mà các khu vực khác nhau của một nền kinh tế thường
là khu vực công nghiệp và nông nghiệp hoạt động phối hợp với nhau một cách có
hiệu quả và phụ thuộc lẫn nhau, là một yếu tố của quá trình phát triển. Điều kiện
này thường đi kèm với sự tăng trưởng bền vững”.
Theo từ điển thuật ngữ kinh tế học của viện nghiên cứu và phổ biến tri thức
bách khoa thì “Liên kết kinh tế là hình thức hợp tác phối hợp hoạt động do các đơn vị
kinh tế tự nguyện tiến hành nhằm thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển theo hướng
có lợi nhất trong khuôn khổ pháp luật của nhà nước. Mục tiêu của liên kết kinh tế là
tạo ra sự ổn định của các hoạt động kinh tế thông qua các quy chế hoạt động để tiến
hành phân công sản xuất, khai thác tốt các tiềm năng của các đơn vị tham gia liên kết
để tạo ra thị trường chung, bảo vệ lợi ích cho nhau”.

12


Khóa luận tốt nghiệp

Ngô Thị Quế _ PTNT&KN51

Tổng hợp những khái niệm trên ta thấy được “Liên kết kinh tế là các mối
quan hệ kinh tế được hình thành giữa hai hay nhiều đối tác với mục đích đạt được
lợi ích kinh tế xã hội của các bên, dựa trên hợp đồng đã ký kết với những thỏa thuận
nhất định, những giấy tờ có tính ràng buộc bằng pháp luật, những cam kết trong
hoạt động sản xuất và kinh doanh”.
2.1.1.4 Liên kết sản xuất
Liên kết sản xuất là hình thức hợp tác giữa các chủ thể nhưng không thay đổi
tư cách pháp nhân cũng như hình thức tổ chức của từng chủ thể. Thường thì việc
liên kết chỉ thực hiện ở một số khâu hay lĩnh vực nào đó của hoạt động sản xuất
kinh doanh. (TS. Phạm Thị Minh Nguyệt, 2006)

2.1.1.5 Hợp tác xã
Theo liên minh HTX quốc tế thì “HTX là một tổ chức tự trị của những người
tự nguyện liên hiệp lại để đáp ứng các nhu cầu và nguyện vọng chung của họ về
kinh tế, xã hội và văn hoá thông qua một xí nghiệp cùng sở hữu và quản lý dân
chủ”. Định nghĩa được bổ sung trong tuyên bố năm 1995: “HTX dựa trên ý nghĩa tự
cứu giúp mình, tự chịu trách nhiệm, công bằng và đoàn kết. Theo truyền thống của
những người sáng lập ra HTX, các xã viên HTX tin tưởng vào ý nghĩa đạo đức và
tính trung thực, cởi mở, trách nhiệm xã hội và quan tâm chăm sóc người khác”.
Điều 1 trong Luật HTX Việt Nam số 18/2003/QH ngày 26/11/2003 ghi: “HTX
là tổ chức kinh tế tập thể do các cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân (sau đây gọi chung
là xã viên) có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện góp vốn, góp sức lập ra theo quy định
của Luật này để phát huy sức mạnh tập thể của từng xã viên tham gia HTX, cùng
giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất, kinh doanh và nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.”
HTX hoạt động như một loại hình doanh nghiệp, có tư cách pháp nhân, tự
chủ, tự chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài chính trong phạm vi vốn điều lệ, vốn
tích luỹ và các nguồn vốn khác của HTX theo quy định của pháp luật.
Từ hai khái niệm trên đây có thể rút ra những đặc trưng sau đây của HTX
trong nông nghiệp:

13


Khóa luận tốt nghiệp

Ngô Thị Quế _ PTNT&KN51

Một là, HTX nông nghiệp là tổ chức liên kết kinh tế tự nguyện của những
nông hộ, nông trại có chung yêu cầu về những dịch vụ cho sản xuất kinh doanh và
đời sống của mình mà bản thân từng nông hộ không làm được hoặc làm nhưng kém

hiệu quả.
Hai là, cơ sở thành lập của HTX là dựa vào việc cùng góp vốn của các thành
viên và quyền chủ hoàn toàn bình đẳng giữa các xã viên theo nguyên tắc mỗi xã viên
một phiếu biểu quyết không phân biệt lượng vốn góp ít hay nhiều.
Ba là, mục đích kinh doanh của HTX là nhằm trước hết dịch vụ cho xã viên,
đáp ứng đủ và kịp thời số lượng, chất lượng của dịch vụ, đồng thời cũng phải tuân
theo nguyên tắc bảo toàn và tái sản xuất mở rộng vốn bằng cách thực hiện mức giá
và lãi suất nội bộ thấp hơn giá thị trường.
Bốn là, HTX thành lập và hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, dân chủ và
cùng có lợi.
Năm là, HTX là một tổ chức liên kết kinh tế chỉ liên kết những xã viên thực
sự có nhu cầu, có mong muốn không lệ thuộc vào nơi ở và cũng chỉ liên kết ở
những dịch vụ cần thiết và đủ khả năng quản lý kinh doanh. Như vậy trong mỗi
thôn, mỗi xã có thể cùng tồn tại nhiều loại hình HTX có nội dung kinh doanh khác
nhau, có số lượng xã viên không như nhau, trong đó một số nông hộ, trang trại đồng
thời là xã viên của một số HTX.
Sáu là, nông hộ trang trại xã viên vừa là đơn vị kinh tế tự chủ trong HTX vừa
là đơn vị kinh tế cơ sở hoạt động kinh doanh và hạch toán độc lập. Do vậy, quan hệ
giữa HTX và xã viên vừa là quan hệ liên kết, giúp đỡ nội bộ vừa là quan hệ giữa hai
đơn vị kinh doanh có tư cách pháp nhân độc lập. Cơ chế liên kết của HTX cần phản
ánh được mối quan hệ phức tạp đó.
Bảy là, từ những đặc trưng trên có thể rút ra đặc trưng bản chất của HTX là:
HTX là tổ chức kinh tế liên kết cơ sở của các nông hộ và nông trại, mang tính chất
vừa tương trợ giúp đỡ, vừa kinh doanh.
2.1.1.6 Nhà nông
• Nhà nông người sinh sống bằng nghề làm ruộng nói chung. (Nguyễn Như
Ý, 1999)

14



Khóa luận tốt nghiệp

Ngô Thị Quế _ PTNT&KN51

• Chủ thể chính trong sản xuất nông nghiệp nước ta chính là kinh tế hộ
nông dân.
Nghiên cứu về sự phát triển của kinh tế hộ nông dân trong sản xuất nông lâm - ngư nghiệp trong những năm vừa qua ở nước ta có thể rút ra một số nét cơ
bản về loại chủ thể này như sau:
Thứ nhất, các loại tư liệu sản xuất cơ bản từ đất đai đến các loại máy móc,
sức kéo súc vật...được sử dụng hợp lý và được chăm sóc tốt hơn trên cơ sở hộ có
quyền tự chủ trong sở hữu và quyền sở hữu.
Thứ hai, tính tự chủ của kinh tế hộ trong sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp đã
thúc đẩy khả năng tự đầu tư, kể cả đầu tư tiền vốn và lao động vào sản xuất, quản lý
chặt chẽ sản phẩm làm ra và tính toán kỹ hiệu quả các hoạt động sản xuất kinh doanh.
Thứ ba, phát triển kinh tế hộ đã phát huy được động lực của nguyên tắc phân
phối theo lao động. Ai làm nhiều, làm tốt thì được hưởng nhiều.
Thứ tư, phát triển kinh tế hộ đã giải quyết được một bước cơ bản về việc làm,
nâng cao thu nhập ở các vùng nông thôn trong cả nước.
Bên cạnh những tác động tích cực kể trên, bản thân sự phát triển kinh tế hộ
nông dân ở nước ta thời gian qua cũng bộc lộ một số nhược điểm sau:
Thứ nhất, quy mô kinh tế của mỗi hộ rất nhỏ, do bị kìm hãm bởi bình quân
diện tích đất canh tác thấp, thêm vào đó phần lớn kinh tế hộ là thuần nông và độc
canh sản xuất lúa nên giá trị sản xuất thấp, dẫn đến tổng thu nhập thấp, khả năng tiết
kiệm để tái sản xuất mở rộng rất hạn hẹp.
Thứ hai, khả năng sản xuất hàng hoá của kinh tế hộ không đồng đều, do đó
có sự khác biệt rất xa về trình độ sản xuất và hiểu biết về kinh doanh giữa các hộ.
Điều đó dẫn đến sản phẩm hàng hoá của các hộ làm ra vừa thấp vừa không đồng
đều về cả chất lượng, mẫu mã và chủng loại. Kết quả là rất khó chiếm lĩnh thị
trường và nếu có bán thì giá tiêu thụ thấp và không thể xuất khẩu, từ đó làm cho sản

xuất chịu nhiều thiệt thòi.
Thứ ba, kinh tế hộ không thể hoặc rất khó khăn trong việc tổ chức toàn bộ
quá trình sản xuất từ sản xuất hàng hóa đến chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Trong
khi đó, sản xuất hàng hoá càng phát triển thì nhu cầu gắn với công nghiệp chế biến

15


Khóa luận tốt nghiệp

Ngô Thị Quế _ PTNT&KN51

và tiêu thụ càng tăng và càng đòi hỏi khắt khe hơn về chất lượng, mẫu mã sản
phẩm. Nếu kinh tế hộ cố gắng tự tổ chức toàn bộ quá trình này quy mô cũng rất
nhỏ bé, hiệu quả thấp. Đối với các hộ thiếu vốn, thiếu hiểu biết thì càng không có
khả năng tự làm tất cả các khâu này.
Về các mặt mạnh và yếu của kinh tế hộ, có thể kết luận rằng: kinh tế hộ là
một thực thể tổ chức kinh tế khách quan, tồn tại lâu dài trong sản xuất nông nghiệp
và trong các hoạt động kinh tế khác ở nông thôn, nhưng không thể phát triển đơn
độc, giữ nguyên quy mô nhỏ mà đòi hỏi ngày càng tăng cường liên kết về quy mô
chất lượng và mẫu mã sản phẩm.
2.1.1.7 Doanh nghiệp
Doanh nghiệp là một tổ chức kinh doanh có tư cách pháp nhân, thực hiện các
hoạt động sản xuất, cung ứng trao đổi hàng hoá trên thị trường, theo nguyên tắc tối
đa hoá lợi ích kinh tế của người chủ sở hữu về tài sản của doanh nghiệp, thông qua
đó tối đa hoá lợi ích của đối tượng người tiêu dùng và kết hợp một cách hợp lý với
những mục tiêu kinh tế xã hội. (Nguyễn Tất Bình, 2000).
Như vậy, doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ
sở giao dịch ổn định được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm
mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh.

Kinh doanh là việc thực hiện một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình
đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường
nhằm mục đích sinh lời.
Như vậy, tuỳ theo mục đích hoạt động và ngành nghề kinh doanh của mỗi
doanh nghiệp mà có nội dung đăng ký kinh doanh khác nhau.
Doanh nghiệp nông nghiệp là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông
nghiệp, bao gồm như: chăn nuôi, trồng trọt, thủy sản, cung ứng vật tư, tư vấn khoa
học kỹ thuật, tổ chức sản xuất và tiêu thụ sản phẩm...Do chịu ảnh hưởng của đặc
điểm sản xuất ngành nông nghiệp, chịu nhiều ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên, đối
tượng sản xuất nên thời gian quay vòng vốn chậm, chịu nhiều rủi do, vốn đầu tư cơ
bản lớn. Do đó các công ty nông nghiệp chưa thực sự thu hút được các nhà đầu tư.

16


Khóa luận tốt nghiệp

Ngô Thị Quế _ PTNT&KN51

Kết quả kinh doanh của doanh nghiệp có tốt hay không còn phụ thuộc vào
rất nhiều yếu tố. Trong đó có những nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan ảnh
hưởng đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Nhân tố chủ quan là những nhân tố do bản thân doanh nghiệp đem lại có ảnh
hưởng tới kết quả kinh doanh của doanh nghiệp như tình hình cung cấp hàng hoá
đầu vào, tình hình cung cấp nguyên vật liệu, chất lượng chủng loại cơ cấu hàng hoá,
sản phẩm sản xuất ra, phương thức bán hàng, chiến lược thị trường, tiếp thị, tổ chức
và kỹ thuật thương mại, trình độ cán bộ và năng lực quản lý.
Thứ nhất, đối với tình hình cung cấp hàng hoá đầu vào cho kinh doanh
thương mại hay thu mua nguyên vật liệu cho quá trình sản xuất phụ thuộc vào vốn,
tiền mặt, thị trường, cung ứng, năng lực vận chuyển, bảo quản, kho bãi. Đây chính

là những nguyên nhân ảnh hưởng đến tình hình cung cấp đầu vào.
Thứ hai, đối với tình trạng dự trữ hàng hóa: hàng tồn kho phải đảm bảo
không để tình trạng thiếu hụt, không đủ khối lượng, làm mất khách hàng và cơ hội
kinh doanh. Tuy nhiên, nếu hàng tồn kho quá lớn làm ứ đọng vốn dẫn đến tăng chi
phí bảo quản hàng tồn kho ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp.
Thứ ba, giá bán là yếu tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến khối lượng tiêu
thụ và doanh thu. Giá bán phải phù hợp vừa thoả mãn được nhu cầu tiêu dùng của
khách hàng lại vẫn phải đảm bảo lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Thứ tư, chất lượng hàng hoá: đây là một yếu tố mà xu hướng xã hội ngày
càng đòi hỏi cao về chất lượng, mẫu mã, bao bì hàng hoá. Chú ý đến giá thành phải
phù hợp giữa chất lượng và giá cả.
Thứ năm, phương thức bán hàng: thể hiện phương thức thanh toán, quảng
cáo, tiếp thị, lượng hoá các nhân tố ảnh hưởng đến tình hình tiêu thụ để có chính
sách kinh doanh phù hợp. Tuỳ theo từng khách hàng, từng thị trường tiêu thụ mà có
phương thức bán hàng khác nhau.
Thứ sáu, tổ chức kỹ thuật thương mại: thể hiện ở mạng lưới đại lý, bố trí cửa
hàng sao cho hàng hoá, sản phẩm được phân bố đồng đều ở các vùng. Bố trí mạng
lưới đại lý lớn ở thị trường tiêu thụ mạnh.

17


Khóa luận tốt nghiệp

Ngô Thị Quế _ PTNT&KN51

Thứ bảy, đổi mới công nghệ: đổi mới công nghệ là cải tiến trình độ kiến thức
sao cho nâng cao được năng lực có thể làm ra sản phẩm nhiều hơn với một số lượng
đầu vào như cũ hoặc có thể làm ra một lượng sản phẩm như cũ với khối lượng đầu

vào ít hơn. Có thể đổi mới sản phẩm hoặc đổi mới quy trình sản xuất, cả hai nội dung
đều quan trọng vì vậy cần phải tìm hiểu trước khi quyết định.
Thứ tám, tổ chức sản xuất: khâu tổ chức sản xuất cần phải được nhịp nhàng
và ăn khớp giữa các bộ phận từ khâu thu mua nguyên vật liệu đến khâu cuối cùng
đóng gói và kiểm tra sản phẩm. Tổ chức sản xuất tốt sẽ đảm bảo được cung ứng sản
phẩm kịp thời, tiết kiệm được những khoản chi phí không cần thiết, điều đó ảnh
hưởng một cách tích cực đến kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Nhân tố khách quan là những nhân tố bên ngoài doanh nghiệp hay còn gọi là
môi trường kinh doanh như chính sách vĩ mô của chính phủ nhằm ổn định hoá như:
chính sách tiền tệ, chính sách tài khoá, chính sách về tỷ giá hối đoái và những
nguyên nhân thuộc về khách hàng.
Thứ nhất, tình hình xã hội: biến động về cơ cấu nền kinh tế và xu hướng phát
triển chung của toàn xã hội.
Thứ hai, mức thu nhập của người tiêu dùng, trong đó nhu cầu tiêu dùng có
mối quan hệ thuận biến với thu nhập.
Thứ ba, thay đổi về nhu cầu và sở thích của người tiêu dùng, nhu cầu đó là tự
nhiên hay mong muốn.
Thứ tư, tình hình thế giới và khu vực, các khuynh hướng thương mại, xu thế
hội nhập, khu vực hoá và toàn cầu hoá.
Thứ năm, tiến trình quan hệ ngoại giao, hợp tác và đầu tư của nước ta với các
nước khác trên thế giới.
Thứ sáu, những nguyên nhân bất thường: thiên tai, lũ lụt hoả hoạn
Thứ bảy, chính sách vĩ mô của chính phủ ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh
của doanh nghiệp được thể hiện ở chỗ chính sách ảnh hưởng đến doanh thu từ đó
ảnh hưởng đến lợi nhuận.
Như vậy, kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp phụ thuộc bởi hai yếu
tố chủ quan và khách quan. Nhà quản lý cần phải phân tích cụ thể riêng biệt giữa hai
nhân tố tác động này để có những điều chỉnh cho phù hợp nhất và hiệu quả nhất.

18



Khóa luận tốt nghiệp

Ngô Thị Quế _ PTNT&KN51

2.1.2 Lý thuyết về liên kết kinh tế
2.1.2.1 Mục tiêu liên kết kinh tế
Liên kết kinh tế nhằm tạo mối quan hệ kinh tế ổn định thông qua các hợp
đồng kinh tế hoặc các quy chế hoạt động của từng tổ chức liên kết để tiến hành
phân công sản xuất chuyên môn hóa và hiệp tác hóa, nhằm khai thác tốt hơn tiềm
năng của từng đơn vị tham gia liên kết, góp phần nâng cao sản lượng, chất lượng
sản phẩm, nâng cao hiệu quả kinh tế, nâng cao thu nhập của các bên liên kết, tăng
thu ngân sách Nhà nước.
Liên kết kinh tế là nhằm đạt tới lợi nhuận tối đa và ổn định, là nhằm tăng
cường sức cạnh tranh trên thị trường, ngày càng mở rộng phạm vi. Lợi ích kinh tế là
sợi dây, là chất nhựa làm gắn bó các doanh nghiệp, các chủ thể liên kết lại với nhau.
Cạnh tranh là nhân tố khách quan thúc đẩy các chủ thể "tự nguyện bắt buộc" liên
kết lại với nhau trên cơ sở đảm bảo lợi ích sống còn trên thị trường. Để đạt tới lợi
nhuận tối đa và ổn định giữa các thành viên, hoạt động liên kết kinh tế là nhằm phát
triển, tìm kiếm khai thác ngày càng nhiều nguồn nguyên liệu cho sản xuất, đa dạng
hoá mặt hàng, tăng nhanh khối lượng và chất lượng sản phẩm, rút ngắn và đẩy
nhanh quá trình lưu thông, tiêu thụ sản phẩm, mở rộng phát triển thị trường, tức là
nâng cao năng suất lao động, tồn tại, phát triển và mang lại hiệu quả kinh tế ngày
càng cao.
Liên kết để cùng nhau tạo thị trường chung, phân định hạn mức sản lượng
đơn vị cho từng thành viên, giá cả từng loại sản phẩm để bảo vệ lợi ích kinh tế của
nhau, tạo cho nhau có khoản lợi nhuận cao nhất.
Liên kết kinh tế giúp đỡ nhau về kinh nghiệm sản xuất, kinh doanh và quản
lý, giúp đỡ nhau về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ kỹ thuật và cán bộ quản lý, công

nhân kỹ thuật, cũng như thực hiện cho nhau các công việc cung ứng vật tư, tiêu thụ
sản phẩm, dịch vụ vận chuyển, thông tin, xử lý thông tin ...Các hoạt động này được
ghi thành hợp đồng kinh tế.
2.1.2.2 Phương thức liên kết kinh tế
a. Liên kết dọc: Đây là phương thức liên kết mà các thành viên khi tham gia
liên kết sẽ làm chủ toàn bộ dây chuyền sản xuất. Nó được thực hiện theo trật tự của

19


Khóa luận tốt nghiệp

Ngô Thị Quế _ PTNT&KN51

các khâu trong quá trình sản xuất kinh doanh như liên kết giữa sản xuất với chế biến
hoặc cả sản xuất chế biến với tiêu thụ sản phẩm; là sự liên kết toàn bộ quá trình từ
cung cấp nguyên liệu đến sản xuất và cung cấp sản phẩm cho thị trường. Doanh
nghiệp lựa chọn chiến lược liên kết dọc sẽ tìm cách tự sản xuất lấy các nguồn lực
đầu vào hoặc lo liệu các đầu ra của mình. Tùy theo chiến lược kinh doanh, doanh
nghiệp sẽ quyết định mức độ liên kết với nông dân.
Đặc biệt, hiện nay chuỗi liên kết 4 nhà từ nông dân đến nhà khoa học và nhà
kinh doanh bán lẻ đang chú trọng, hình thức này đã đuợc thực hiện qua việc ký kết
các hợp đồng giữa các doanh nghiệp với nông dân đã tìm đến với nhau qua mô hình
tiêu thụ nông sản hàng hóa thông qua hợp.
b. Liên kết ngang: là hình thức liên kết giữa các chủ thể nhằm mục đích làm
chủ thị trường sản phẩm.
Hình thức này được tổ chức dưới dạng, có thể thông qua các hội nghề nghiệp
hoặc hiệp hội, ví dụ Hiệp hội mía đường, Hội chăn nuôi bò sữa...Các cơ sở liên kết
với nhau là những cơ sở hoạt động độc lập nhưng có quan hệ với nhau thông qua
một bộ máy kiểm soát chung. Với hình thức liên kết này, ngành nông nghiệp có thể

hạn chế đuợc sự ép cấp giá nông sản của các cơ sở chế biến nhờ sự làm chủ thị
trường nông sản. (TS. Phạm Thị Minh Nguyệt, 2006)
2.1.2.3 Nội dung liên kết kinh tế
Từ những quan điểm về liên kết, các hình thức và mục tiêu của liên kết kinh
tế cho thấy các liên kết trong quá trình sản xuất kinh doanh giữa các tác nhân rất đa
dạng và gồm cả liên kết dọc và liên kết ngang, đan xen lẫn nhau. Cơ chế liên kết
cũng rất đa dạng, thể hiện sự phát triển của cung cách sản xuất từ sản xuất đơn lẻ,
manh mún sang dạng hàng hóa và mức độ phức tạp của việc cung cấp tiếp cận thị
trường, cung cấp nguồn lực và công tác tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh và để
đánh giá mức độ liên kết, mức độ quan hệ chặt chẽ giữa các tác nhân khi tham gia
liên kết nuôi, trồng chế biến và tiêu thụ sản phẩm.
Trong hoạt động liên kết kinh tế có thể thiết lập mối quan hệ liên kết ở tất cả
các khâu của quá trình tái sản xuất mở rộng, từ khâu chuẩn bị các yếu tố sản xuất
đến sản xuất và phục vụ sản xuất, nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ, đào

20


Khóa luận tốt nghiệp

Ngô Thị Quế _ PTNT&KN51

tạo, bảo vệ tài nguyên môi trường, khai thác thị trường, thúc đẩy quá trình lưu thông
tiêu thụ sản phẩm... Hoạt động liên kết kinh tế có thể diễn ra ở phạm vi không gian
hẹp như trong một địa phương, một vùng và cũng có thể diễn ra ở phạm vi không
gian rộng như thông qua hình thức hợp đồng liên kết giữa các chủ thể kinh tế độc
lập cũng có thể thực hiện thông qua việc hình thành một loại hình tổ chức mới, làm
nhiệm vụ điều phối hoạt động của các bên tham gia.
Sự thỏa thuận hay cam kết giữa các tác nhân trong quá trình nuôi, trồng chế
biến và tiêu thụ sản phẩm thể hiện sự hợp tác giúp đỡ nhau vì lợi ích chung cho các

bên, dựa trên nguyên tắc tự nguyện bình đẳng và sự phát triển của các bên.
Các cam kết, thỏa thuận phải có điều kiện ưu đãi, các ưu đãi này phải được
xây dựng thông qua bàn bạc, thống nhất vì lợi ích của các bên và dựa trên các quan
hệ cung cầu thị trường.
Các thỏa thuận, cam kết phải thể hiện trách nhiệm của mỗi bên khi thực hiện
cam kết và các hình thức phạt nếu một bên không thực hiện đúng, đủ theo thỏa
thuận, cam kết. Các mối liên kết này thể hiện thông qua các hình thức như hợp đồng
văn bản, hợp đồng miệng. Tùy nội dung liên kết mà nội dung hợp đồng là khác
nhau. Như hợp đồng sản xuất được ký kết giữa doanh nghiệp với nông dân sẽ có
một mức giá xác định. Hai bên thỏa thuận một mức giá cố định trước khi tiến hành
sản xuất. Doanh nghiệp sẽ cung cấp thông tin về công nghệ, dịch vụ khuyến nông
và một số yếu tố đầu vào cho sản xuất.
2.1.2.4 Các nguyên tắc cơ bản của liên kết kinh tế
Quá trình liên kết kinh tế của các tác nhân nói chung, của liên kết sản xuất và
tiêu thụ nói riêng đều phải tuân theo các nguyên tắc sau:
Một là, phải đảm bảo sản xuất kinh doanh của các bên tham gia liên kết đều
phát triển và có hiệu quả ngày càng tăng.
Xuất phát từ mục tiêu nói trên dù tiến hành liên kết kinh tế dưới hình thức và
mức độ nào đi nữa thì yêu cầu của hoạt động liên kết kinh tế ấy phải đảm bảo để
sản xuất và kinh doanh của các tác nhân liên kết với nhau không ngừng phát triển,
doanh thu ngày càng tăng. Công nhân, nông dân có nhiều việc làm, thu nhập ngày
một tăng, năng suất và chất lượng sản phẩm ngày càng cao.

21


Khóa luận tốt nghiệp

Ngô Thị Quế _ PTNT&KN51


Hai là, phải đảm bảo nguyên tắc tự nguyên giữa các bên tham gia liên kết.
Các hoạt động hợp tác, liên kết kinh tế giữa các tác nhân được thực hiện một
cách thuận lợi, trôi chảy, thành công và đem lại hiệu quả cao chỉ có thể diễn ra khi
các tác nhân tự nguyện tìm đến với nhau, tự thỏa thuận quan hệ hợp tác, liên kết
làm ăn với nhau lâu dài trên tinh thần bình đẳng, cùng chịu trách nhiệm đến cùng về
các thành công cũng như thất bại rủi ro.
Ba là, phải đảm bảo sự thống nhất hài hòa lợi ích kinh tế giữa các bên tham
gia liên kết.
Lợi ích kinh tế chính là động lực thúc đẩy các bên tham gia liên kết với nhau,
cho nên việc đảm bảo thống nhất hài hòa lợi ích giữa các bên tham gia liên kết sẽ
tạo nên chất kết dính bền vững của tổ chức liên kết đó. Khi lợi ích kinh tế của một
hoặc một số thành viên nào đó bị xâm phạm hoặc thiếu sự công bằng, thống nhất
hài hòa sẽ tạo ra sự rạn nứt của mối liên hệ bền vững, dẫn đến phá vỡ tổ chức liên
kết, mối quan hệ liên kết đã được thiết lập. F.Ăng - ghen cũng đã từng nhận xét
rằng: “Ở đâu không có sự nhất trí về lợi ích, ở đó không thể có sự thống nhất về
hành động”. Sự phân chia lợi nhuận, phân bổ thiệt hại rủi ro, các tính toán về giá cả,
chi phí...cần phải được tiến hành thỏa thuận, bàn bạc một cách công khai, dân chủ,
bình đẳng và đảm bảo sự công bằng trên cơ sở những đóng góp của các bên liên kết.
Bốn là, phải được thực hiện trên cơ sở những ràng buộc pháp lý giữa các bên
tham gia liên kết và thông qua hợp đồng kinh tế.
Hợp đồng kinh tế là khế ước, là những thỏa thuận, những điều khoản ràng
buộc trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền lợi giữa các bên tham gia làm ăn với nhau, được
pháp luật thừa nhận và bảo hộ. Trong nền kinh tế thị trường và Nhà nước pháp
quyền, mọi hoạt động kinh tế đều phải tiến hành trên cơ sở pháp luật Nhà nước cho
phép, đồng thời được pháp luật bảo hộ những tranh chấp giữa các bên quan hệ làm
ăn với nhau. Cho nên để có những căn cứ pháp lý cho các cơ quan pháp luật phán
quyết những tranh chấp giữa các quan hệ kinh tế với nhau đều phải có “khế ước”
hay “hợp đồng kinh tế” được ký kết theo đúng pháp luật. Đối với hoạt động liên kết
kinh tế là những mối quan hệ kinh tế ổn định, thường xuyên, lâu dài lại càng cần
phải được tiến hành thông qua “hợp đồng kinh tế”. Nó còn là những căn cứ để các


22


Khóa luận tốt nghiệp

Ngô Thị Quế _ PTNT&KN51

bên tiến hành đàm phán giải quyết những bất đồng, tranh chấp nhỏ xảy ra giữa các
bên, làm cho các quan hệ liên kết ngày càng bền chặt hơn. Việc thực hiện tốt các
hợp đồng kinh tế sẽ tạo thuận lợi cho các bên tham gia liên kết thực hiện tốt kế
hoạch sản xuất kinh doanh của mình.
Năm là, đối với các tổ chức liên kết kinh tế, cần phải được tiến hành hoạt
động thông qua “điều lệ” của tổ chức liên kết kinh tế đó.
“Điều lệ” là những qui định về tôn chỉ mục đích, nội dung và cơ chế hoạt
động của một tổ chức được tự nguyện sáng lập giữa các thành viên. Nó qui định
những quyền hạn, quyền lợi, trách nhiệm, nghĩa vụ của các thành viên gia tổ chức,
những điều được phép và không được phép để đảm bảo sự thống nhất hài hòa lợi
ích chung của các thành viên và sự tồn tại lâu dài, phát triển của tổ chức. Có thể nói,
nó là cơ sở pháp lý để ràng buộc các thành viên tham gia tổ chức lại với nhau. (PTS.
Dương Bá Phượng, 1995)
2.1.2.5 Một số đặc trưng cơ bản của liên kết kinh tế
Liên kết kinh tế là một phạm trù khách quan phản ánh những quan hệ xuất
phát từ những lợi ích kinh tế khác nhau của từng chủ thể kinh tế cũng như quá trình
vận động phát triển tự nhiên của lực lượng sản xuất.
Liên kết kinh tế là những quan hệ kinh tế đạt tới trình độ gắn bó chặt chẽ, ổn
định, thường xuyên lâu dài thông qua những thoả thuận, hợp đồng từ trước giữa các
bên tham gia liên kết.
Liên kết kinh tế là quá trình làm xích lại gần nhau và ngày càng gắn bó với
nhau, trên tinh thần tự nguyện giữa các bên tham gia liên kết. Quá trình này vận

động, phát triển qua những nấc thang từ quan hệ hợp tác, liên doanh đến liên hợp,
liên minh, hợp nhất lại.
Liên kết kinh tế là những hình thức hoặc những biểu hiện của sự hành động
giữa chủ thể liên kết thông qua những thoả thuận, những giao kèo, hợp đồng, hiệp
định, điều lệ...nhằm thực hiện tốt những mục tiêu nhất định trong tất cả các lĩnh vực
khác nhau của hoạt động kinh tế (đầu tư, sản xuất kinh doanh...). Tuỳ theo góc độ
xem xét quá trình liên kết có thể diễn ra liên kết theo ngành, liên kết giữa các thành
phần kinh tế, liên kết theo vùng lãnh thổ..

23


Khóa luận tốt nghiệp

Ngô Thị Quế _ PTNT&KN51

2.1.2.6 Liên kết kinh tế trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm
Mỗi ngành hàng gồm nhiều công đoạn được thực hiện bởi những tác nhân
nhất định. Mỗi tác nhân có thể là các pháp nhân độc lập hoặc các bộ phận phụ thuộc
nhau về mặt pháp lý nhưng đều thực hiện và hoàn thành một số chức năng và tạo ra
những sản phẩm nhất định.
Mối liên kết trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh giữa các tác nhân
là những pháp nhân độc lập rất đa dạng và bao gồm cả liên kết dọc và liên kết
ngang đan xen nhau.
Nội dung của liên kết sản xuất - tiêu thụ sản phẩm bao gồm:
- Cam kết phải có các điều kiện ưu đãi: Ưu đãi này phải được xây dựng trên
quan hệ cung cầu thị trường, các bên đều được hưởng lợi từ cam kết
- Trách nhiệm của mỗi bên khi thực hiện cam kết.
Các mối quan hệ liên kết này được thể hiện thông qua các hình thức với các nội
dung cơ bản như sau:

+ Mua bán tự do trên thị trường
+ Hợp đồng miệng (thỏa thuận miệng)
+ Hợp đồng bằng văn bản:
Liên kết theo hợp đồng là quan hệ mua bán chính thức được thiết lập giữa
các tác nhân trong việc mua nguyên liệu hoặc bán sản phẩm. Theo Eaton và
Shepherd (2001) định nghĩa sản xuất theo hợp đồng là “thoả thuận giữa những
người nông dân với các doanh nghiệp chế biến hoặc doanh nghiệp kinh doanh trong
việc sản xuất và cung cấp các sản phẩm nông nghiệp dựa trên thỏa thuận giao hàng
trong tương lai, giá cả đã được định trước”. Theo Sykuta và Parcell (2003), sản xuất
theo hợp đồng trong nông nghiệp đưa ra những luật lệ cho việc phân bổ ba yếu tố
chính: lợi ích, rủi ro, và quyền quyết định. Điều này có nghĩa là kết quả mùa màng
thu hoạch được sẽ được phân chia giữa nông dân và doanh nghiệp theo một tỷ lệ
nhất định theo 3 yếu tố trên. Việc ký hợp đồng phân chia như vậy được xem là giải
pháp tối ưu cho cả hai bên.
2.1.3 Các yếu tố ảnh hưởng tới mối liên kết kinh tế trong quá trình sản xuất và
tiêu thụ nông sản
2.1.3.1 Hộ sản xuất
Hộ sản xuất vẫn còn có tâm lý bị động, sản xuất theo phong trào. Đa phần

24


Khóa luận tốt nghiệp

Ngô Thị Quế _ PTNT&KN51

nông dân vẫn sản xuất và tiêu thụ nông sản theo tập quán lâu đời, không tập trung,
quy mô kinh tế của hộ rất nhỏ, diện tích manh mún nên việc ứng dụng tiến bộ kỹ
thuật, công nghệ mới vào sản xuất chưa phổ biến. Bản thân họ hầu như hộ không
giám mạnh dạn đầu tư trong sản xuất của mình, sợ ảnh hưởng quyền lợi mà họ đang

có, sợ rủi ro trách nhiệm khi tham gia liên kết.
Đối với người sản xuất do trình độ hiểu biết về liên kết, về hợp đồng, trách
nhiệm trong liên kết còn hạn chế, họ chỉ nhìn những lợi ích trước mắt mà không
nhìn lâu dài. Họ sợ sự rằng buộc về mặt pháp luật khi kí kết hợp đồng.
Một số hộ sản xuất mặc dù đã kí hợp đồng tiêu thụ với công ty nhưng vẫn
sẵn sàng bán sản phẩm cho công ty khác khi họ trả giá cao hơn. Thậm chí một số hộ
nông dân trên cùng một diện tích và sản lượng lại kí tới hai hợp đồng tiêu thụ dẫn
đến tình trạng phá vỡ hợp đồng, làm các công ty không chủ động được nguyên liệu.
Như vậy, nhận thức của liên kết sản xuất của hộ rất kém, các lý do chính trên
là làm cho việc liên kết còn hạn chế và để liên kết trong sản xuất của hộ được hiệu
quả hơn cần giải quyết tốt các lý do ảnh hưởng trên.
2.1.3.2 Doanh nghiệp
Các cơ sở chế biến thu mua sản phẩm nông sản ổn định nhưng vẫn còn tình
trạng cơ sở chế biến ngừng mua hoặc giảm giá lại không thông báo cho nông dân,
trong khi mua còn gây khó dễ với nông dân... nhất là vào thời điểm chính vụ nông
sản. Tình trạng thanh toán quyết toán hợp đồng sau vụ thu hoạch nông sản ở một số
doanh nghiệp còn chậm.
Chế tài mà công ty đưa ra để xử phạt các hộ phá vỡ hợp đồng có hiệu lực
chưa cao, mới chỉ dừng lại phạt tiền nên tình trạng phá vỡ hợp đồng vẫn xảy ra nhất
là khi thời vụ nguyên liệu khan hiếm mà giá thu mua thấp hơn giá thị trường.
Sự chủ động phối hợp liên kết phục vụ cho sản xuất, quy hoạch vùng nguyên
liệu của các cơ sở chế biến với cấp chính quyền địa phương mà đặc biệt là cán bộ
kỹ thuật với hộ nông dân chưa cao.
2.1.3.3 Nhà nước và nhà khoa học
Sự tham gia của các nhà khoa học, nhà kỹ thuật còn hạn chế, ảnh hưởng đến
sự gắn liền đất sản xuất của hộ. Tổ chức khoa học giữ vai trò rất quan trọng trong

25



×