Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo và hướng hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.13 KB, 13 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC................................................................................................................................ 1
MỞ ĐẦU................................................................................................................................. 1
NỘI DUNG.............................................................................................................................. 2
I. Quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo và cơ chế đảm bảo thi hành theo quy định của Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2003.............................................................................................2
1, Khái quát chung về bị can, bị cáo.................................................................................2
2. Quyền và nghĩa vụ của bịcan,bị cáo và biện pháp đảm bảo thi hành...........................3
II. Đánh giá việc thực hiện những quy định của pháp luật và phương hướng hoàn thiện....8
1. Đánh giá những việc thực hiện pháp luật tố tụng hình sự............................................8
2. Phương hướng hoàn thiện những quy định của pháp luật.........................................10
C. KẾT LUẬN........................................................................................................................ 12

MỞ ĐẦU
Trong thời gian gần đây, có rất nhiều vụ oan sai, những vụ án làm chết người
do bức cung dùng nhục hình gây xôn xao dư luận. Chính vì vậy, trong bối cảnh
sửa đổi Bộ luật tố tụng hình sự, một vấn đề cần được quan tâm nghiên cứu đó là
1


quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo. Pháp luật tố tụng hình sự đã dành cho bị
can, bị cáo những quyền năng nhất định nhằm đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố
tụng và những người tiến hành tố tụng trong mọi hoạt động tố tụng phải thận
trọng, vô tư và đề cao tinh thần trách nhiệm làm rõ các chứng cứ buộc tội cũng
như gỡ tội, làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án, tránh làm oan người vô tội
và bỏ lọt người phạm tội. Nhận thấy được sự quan trọng trong những quy định
về quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003,
em xin được nghiên cứu đề tài số 1: “Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về
quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo và hướng hoàn thiện”.

NỘI DUNG


I. Quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo và cơ chế đảm bảo thi hành theo
quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003
1, Khái quát chung về bị can, bị cáo
Bị can là những người đã bị khởi tố về hình sự ( theo khoản 1 Điều 49 Bộ luật tố
tụng hình sự). Như vậy, là những người đã bị khởi tố về hình sự và tham gia tố
tụng từ khi có quyết định khởi tố bị can đối với họ.Khi tham gia tố tụng, bị can
tham gia vào các giai đoạn điều tra, truy tố, và một phần giai đoạn xét xử sơ
thẩm. Tư cách tố tụng của bị can sẽ chấm dứt khi cơ quan điều tra đình chỉ điều
tra; viện kiểm sát đình chỉ vụ án; tòa án đình chỉ vụ án trong giai đoạn chuẩn bị
xét xử đối với bị can; hoặc Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Đối với bị
can, các cơ quan tiến hành tố tụng chỉ được phép tiến hành các biện pháp tiến
hành tố tụng nhất định đối với họ để xác định sự thật. Bên cạnh các nghĩa vụ, bị
cáo còn được pháp luật quy định cho các quyền tố tụng để họ có thể tự bảo vệ
mình trước những cơ quan tiến hành tố tụng, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp
pháp của mình không bị xâm phạm.

2


Bị cáolà người bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử( theo khoản 1 Điều 50 Bộ luật
tố tụng hình sự năm 2003). Bị cáo tham gia tố tụng từ khi có quyết định đưa vụ
án ra xét xử đến khi bản án hoặc quyết định của Tòa có hiệu lực pháp luật.
Tương tự như bị can cũng được luật luật pháp quy định cho họ những nghĩa vụ
cũng như trao cho họ những quyền năng nhất định.
Như vậy, bị can hay bị cáo chỉ là các tên gọi khác nhau của cùng một người khi
ở các giai đoạn tố tụng khác nhau. Bị can, bị cáo là những đối tượng bị buộc tội
trong vụ án. Tuy nhiên, điều đó, không có nghĩa họ là những người phạm tội.
Đây là nguyên tắc trong tố tụng hình sự đã được ghi nhận tại điều 9 Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2003 như sau: “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình
phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”. Chính vì

vậy, với tư cách là những người chưa có tội, bị can bị cáo được pháp luật tố tụng
hình sự dành cho họ nhiều quyền trong suốt các giai đoạn tố tụng.
2. Quyền và nghĩa vụ của bịcan,bị cáo và biện pháp đảm bảo thi hành.
Trong bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, các quyền và nghĩa vụ của bịcan, bị cáo
được quy định tại khoản 2, 3 Điều 49 đối với bị can và khoản 2, 3 Điều 50 đối
với bị cáo.
Bị can, bị cáo chỉ là khái niệm mang tính hình thức để chỉ cùng một người ở
những giai đoạn khác nhau, vì vậy, bị can, bị cáo có những quyền và nghĩa vụ
tương đồng, nhưng đồng thời cũng có những quyền riêng khi ở hai giai đoạn tố
tụng khác nhau.
Ngoài những quy định trực tiếp về quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo, Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2003 còn có những quy định để các quyền và nghĩa vụ
này được đảm bảo thi hành. Bộ luật đã đề cập đến những trình tự, thủ tục pháp
lý cụ thể cũng như trách nhiệm của các chủ thể có liên quan bảo đảm cho việc
triển khai các quyền và nghĩa vụ pháp lý của bị can, bị cáo trên thực tế. Bộ luật
cũng đã quy định rõ chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng,
3


nhất là xác định trách nhiệm cụ thể của từng chức danh tố tụng như Thủ trưởng,
Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra, Viện trưởng, Phó viện trưởng Viện kiểm sát,
Chánh án, Phó Chánh án Toà án từ Điều 34 đến Điều 41. Với những quy định
này, các quyền củabị can, bị cáo được bảo đảm thực hiện. Bất kỳ sự không thực
hiện, thực hiện không đúng hay không đầy đủ chức trách của những người tiến
hành tố tụng sẽ là sự vi phạm vào các quyền của bị can, bị cáo. Tương ứng với
mỗi quyền mà pháp luật quy định cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là nghĩa
vụ tương ứng của các chủ thể tiến hành tố tụng.
- Những quyền và nghĩa vụ chung của bị can, bị cáo.
Thứ nhất, quyền được giải thích quyền và nghĩa vụ của mình. Bị can, bị cáo phải
được các cơ quan có thẩm quyền giải thích rõ về quyền và nghĩa vụ của mình

để thực hiện theo đúng quy định của pháp luật.Pháp luật đã quy định trách
nhiệm của người tiến hành tố tụng khi áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt người,
tạm giữ và tạm giam đều phải giải thích cho đối tượng bị áp dụng các quyền và
nghĩa vụ pháp lý của họ.Trong các văn bản áp dụng PLTTHS (các lệnh bắt,
quyết định tạm giữ hay lệnh tạm giam) đều phải đọc, giải thích rõ cho đối tượng.
Trong quyết định khởi tố bị can phải ghi rõ tội danh, điều khoản luật được áp
dụng đối với bị can.
Thứ hai,quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người
phiên dịch theo quy định của bộ luật này. Quy định này nhằm mục đích bảo đảm
tính khách quan của quá trình điều tra, xét xử, pháp luật quy định cho bị can, bị
cáo.Đây là sự thể hiện nguyên tắc cơ bản trong hoạt động tố tụng hình sự “bảo
đảm sự vô tư của những người tiến hành tố tụng” (Điều 14 Bộ luật tố tụng hình
sự năm 2003) với nội dung người tiến hành tố tụng không được tiến hành tố
tụng nếu có lý do xác đáng để cho rằng, họ không vô tư trong khi thực hiện
nhiệm vụ của mình. Những lý do xác đáng đó cũng được pháp luật dự liệu trước
và quy định cụ thể tại Điều 42 Bộ luật tố tụng hình sự về những trường hợp phải
từ chối hoặc thay đổi người tiến hành tố tụng.
4


Thứ ba, quyền khiếu nại đối với các quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan,
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.Bị can, bị cáo thực hiện quyền này khi
cho rằng, những quyết định và những hành vi tố tụng này là trái pháp luật như
bắt người chưa đủ căn cứ; trong quá trình điều tra xét hỏi, cán bộ điều tra đã truy
bức, mớm cung hoặc thu thập chứng cứ không đúng thủ tục... Có thể thấy,
quyền khiếu nại là quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp quy định.Bộ luật
tố tụng hình sự năm 2003 đã quy định nguyên tắc “bảo đảm quyền khiếu nại, tố
cáo trong tố tụng hình sự” tại Điều 31 và một số điều luật có liên quan về quyền
khiếu nại của người tham gia tố tụng. Mặt khác, bộ luật còn bổ sung một chương
riêng (Chương XXXV) quy định về khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự quy

định cụ thể quyền của những người khiếu nại và người bị khiếu nại, trình tự, thủ
tục thực hiện khiếu nại và giải quyết khiếu nại.
Thứ tư, quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu. Bị can, bị cáo đều có quyền đưa
ra những những tài liệu, đồ vật có liên quan đến vụ án. Các cơ quan tiến hành tố
tụng khi nhận được các tài liệu, đồ vậy này phải tiến hành, kiểm tra đánh giá
một cách khách quan để xác định, tài liệu, đồ vật đó có phải là chứng cứ của vụ
án hay không và ý nghĩa của nó trong việc xác định sự thật của vụ án. Ngoài ra,
bị can, bị cáo còn có các quyền yêu cầu trưng cầu, giám định, giám định bổ
sung, hoặc giám định lại, …
Thứ năm, quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa.Quyền bào chữa là
quyền được thực hiện ngay từ khi người đó bị khởi tố hình sự, họ trở thành đối
tượng buộc tội và được thực hiện quyền trong suốt quá trình tố tụng.Do tầm
quan trọng của nó mà quyền này được Hiến pháp quy định và là một nguyên tắc
cơ bản trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003(Điều 11). Ben cạnh quyền tự
bào chữa, do hạn chế về kiến thức pháp luật, kỹ năng bào chữa nên bị can, bị
cáo không thể thực hiện được việc tự bào chữa có hiệu quả. Họ cần có người
khác có khả năng để bào chữa, do đó, pháp luật đã quy định họ có quyền nhờ
luật sư, trợ giúp viên pháp lý, bào chữa viên nhân dân bào chữa cho mình.
5


Những người này sẽ tham gia tố tụng để nhằm bác bỏ toàn bộ hoặc một phần sự
buộc tội, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị can, bị cáo.Quy định về người
bào chữa, các quyền và nghĩa vụ của họ tại các Điều 56, 57 và 58 của Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2003. Tự bào chữa và nhờ người khác bào chữa là quyền của
bị can và bị cáo, không phải là nghĩa vụ của họ.
Thứ sáu, bên cạnh các quyền chung thì bị can bị cáo còn có nghĩa vụ chung đó
là phải có mặt theo giấy triệu tập, nếu vắng mặt không có lý do chính đáng thì
có thể bị áp giải, nếu bỏ trốn thì bị truy nã.
- Những quyền riêng biệt.

Đối với bị can:
Bị can có quyền được biết mình bị khởi tố về tội gì. Việc pháp luật quy định
bị can được biết mình bị khởi tố về tội gì là biểu hiện sự công minh của pháp
luật. Quy định này buộc cơ quan tiến hành tố tụng phải thận trọng và chỉ khi có
đủ căn cứ để xác định một người đã thực hiện hành vi mà Bộ luật hình sự
(BLHS) ngăn cấm mới được ra quyết định khởi tố bị can.
Ngoài ra, bị can có quyền trình bày lời khai. Đây là một quyền, không phải là
nghĩa vụ của bị can. Trong trường hợp hộ từ chối khai báo hoặc khai báo gian
dối thì cũng không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi đó. Ngược lại, thái
độ khai báo thành khẩn của họ là một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Trong quá trình lấy lời khai, cơ quan điều tra phải tôn trọng quyền trình bày lời
khai của bị can để xác định sự thật một cách khách quan, không phiến diện,
không được dùng các biện pháp nhằm ép buộc bị can khai báo như bức cung,
dùng nhục hình.
Cuối cùng, bị can còn có quyền nhận được các quyết định khởi tố, quyết định áp
dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; bản kết luận điều tra; quyết
định đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án;
6


bản cáo trạng, quyết định truy tố; các quyết định tố tụng khác theo quy định của
Bộ luật này. Đây là những quyết định liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp
của bị can. Quyết định này nhằm tạo điều kiện cho bị can có thể thực hiện tốt
quyền bào chữa cũng như các quyền và nghĩa vụ tố tụng khác của mình. Đồng
thời các quyết định này cũng đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng phải giải
quyết vụ án theo đúng thủ tục pháp luật, các quyết định phải được đưa ra dưới
hình thức văn bản, có căn cứ và đúng pháp luật.
Đối với bị cáo:
Bị cáo có quyền tham gia phiên toà, đây không những là quyền mà còn là vấn
đề có tính nguyên tắc.Chính tại phiên toà, quyền bình đẳng giữa các cơ quan tiến

hành tố tụng và những người tham gia tố tụng được thể hiện rõ nhất. Có thể nói,
quyền tham gia phiên toà của bị cáo và quyền bình đẳng trước phiên toà trong
việc đưa ra các chứng cứ, yêu cầu và tranh luận giữa kiểm sát viên với những
người tham gia tố tụng để đưa ra các chứng cứ, tài liệu, đồ vật, đưa ra yêu cầu
và tranh luận dân chủ tại phiên tòa. Tuy nhiên, nếu không thực hiện đúng quy
định bình đẳng này thì việc quy định quyền tham gia phiên toà của bị cáo cũng
chỉ mang tính hình thức.
Bị cáo có quyền được nói lời sau cùng trước khi nghị án, Bộ luật tố tụng hình
sự năm 2003 có quy định tại Điều 220 với nội dung không hạn chế thời gian đối
với bị cáo khi họ trình bày những lời cuối cùng trước khi Toà án nghị án để phán
quyết đối với họ; không được đặt câu hỏi đối với họ. Nếu họ trình bày thêm
những tình tiết mới có ý nghĩa quan trọng đối với vụ án, Hội đồng xét xử phải
quyết định trở lại phần xét hỏi.
Bị cáo có quyền kháng cáo bản án và quyết định sơ thẩm. Đây là một quyền
quan trọng của bị cáo. Trình tự, thủ tục kháng cáo và trách nhiệm của các chủ
thể tiến hành tố tụng bảo đảm cho bị cáo thực hiện quyền này được quy định từ
Điều 231 đến Điều 240 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. Việc kháng cáo
7


của bị cáo đối với các quyết định hoặc bản án sơ thẩm sẽ dẫn đến hậu quả pháp
lý là khi có kháng cáo thì bản án sơ thẩm chưa được đem ra thi hành. Việc tạm
đình chỉ thi hành một phần hay toàn bộ bản án hoặc quyết định bị kháng cáo là
tuỳ thuộc vào nội dung kháng cáo. Ngoài ra, khoản 2, Điều 255 của bộ luật này
quy định trường hợp mà bị cáo đang bị tạm giam mà Toà án cấp sơ thẩm quyết
định đình chỉ vụ án, không kết tội, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt
cho bị cáo, tuyên các hình phạt không tước tự do hoặc tuyên án tù nhưng thời
hạn ngắn hơn (hoặc bằng) thời hạn tạm giam thì bản án hoặc quyết định của Toà
án sơ thẩm được thi hành ngay, mặc dù vẫn có thể bị kháng cáo (hoặc kháng
nghị).

Ngoài các quyền đã nêu trên, bị cáo còn có quyền trình bày ý kiến, tranh luận
tại phiên tòa và quyền được nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử; quyết định áp
dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; quyết định đình chỉ vụ án;
bản án, quyết định của Tòa án; các quyết định tố tụng khác theo quy định của
Bộ luật này. Đây là những quyền để đảm bảo lợi ích của bị cáo cũng như giúp
các cơ quan tiến hành tố tụng có thể giải quyết vụ án theo đúng thủ tục và đúng
sự thật khách quan.
II. Đánh giá việc thực hiện những quy định của pháp luật và phương hướng
hoàn thiện
1. Đánh giá những việc thực hiện pháp luật tố tụng hình sự
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã có những quy định cụ thể về quyền và
nghĩa vụ của bị can, bị cáo đi cùng với đó là trách nhiệm và nghĩa vụ của các cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng liên quan tới bị can, bị cáo.
Đâylà căn cứ pháp lý cho việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của bị can, bị
cáo trên thực tế. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng còn tồn tại rất nhiều những bất cập
cụ thể như sau:

8


Trên thực tế, quyền được biết mình bị khởi tố về tội danh gì và quyền được giải
thích về quyền và nghĩa vụ của bị can vẫn chưa được đảm bảo. Có nhiều nguyên
nhân dẫn đến thực trạng trên. Nguyên nhân chính là do, các cơ quan tiến hành tố
tụng chưa thực sự tôn trọng quyền năng này của bị can dẫn đến không làm đúng
trách nhiệm của mình cùng với đó là hạn chế về kiến thức pháp luật của bị can.
Điều này, dẫn đến khó khăn trong việc xác định chứng cứ, tài liệu cũng như hạn
chế quyền tự bào chữa cho mình của bị can.
Đối với quyền trình bày lời khai của bị can, đây được coi là quyền của bị
can. Tuy nhiên trên thực tế áp dụng pháp luật, đây lại được coi như nghĩa vụ của
bị can. Trên thực tế, có rất nhiều vụ việc bức cung, dùng nhục hình nhằm ép bị

can khai báo. Bị can, cũng như bị cáo không được coi là những người có tội,
nhưng trên thực tế, khi đã bị khởi tố, họ được mặc nhiên bị coi là có tội, vì vậy,
các quyền chưa thực sự được tôn trọng và đảm bảo thực hiện.
Trong việc thực hiện quyền đưa ra chứng cứ và yêu cầu của bị can, bị cáo.
Không ít người trong cơ quan bảo vệ pháp luật chưa thấy hết tầm quan trọng của
việc bảo đảm thực hiện đúng quyền này, dẫn đến vi phạm một cách nghiêm
trọng như không kiểm tra, xem xét thật khách quan những chứng cứ hay yêu cầu
mà bị can, bị cáo đưa ra, mà thường là vội vàng bác bỏ khi thấy không phù hợp
với hướng điều tra của mình. Thậm chí, sự không tôn trọng quyền của bị can có
thể dẫn đến việc mớm cung, bức cung và dùng nhục hình. Không ít cán bộ điều
tra đã muốn rằng những lời khai của bị can phải phù hợp với chứng cứ mà họ
thu thập được mà không phải là những lời khai phản ánh đúng sự thật vụ án.
Nếu chứng cứ mà bị can đưa ra mâu thuẫn với những chứng cứ mà cơ quan điều
tra thu thập được sẽ khiến cho cơ quan điều tra có thể quy kết bị can quanh co,
chối tội gây khó khăn kéo dài vụ án.
Về cơ chế bảo đảm thực hiện quyền bào chữa, mặc dù pháp luật tố tụng hình sự
đã quy định về quyền bào chữa và cơ chế bảo đảm quyền bào chữa của người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo nhưng thực tiễn áp dụng đã gặp nhiều khó khăn, vướng
9


mắc. Tại phiên toà, sự hiện diện của luật sư nhiều khi còn mang tính hình thức,
việc bào chữa chưa thực sự hiệu quả.Thực tiễn đó có thể do Thẩm phán chưa có
thái độ đúng đắn với sự hiện diện của luật sư, thậm chí phủ nhận vai trò của họ,
gây khó khăn cho hoạt động bào chữa, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị
cáo. Bản bào chữa cùng các đề nghị của các luật sư ít khi được sự quan tâm của
Hội đồng xét xử, được xem xét.Với tâm lý coi bị cáo khi ra Toà là đã có tội nên
quyền bào chữa về hình thức vẫn chưa được thực hiện, những tác động của nó
đến Hội đồng xét xử là rất hạn chế. Bên cạnh đó, hiện tượng “án tại hồ sơ” đã
tồn tại khá lâu trong lịch sử nên tại phiên toà, Hội đồng xét xử đã biết trước tội

danh cùng mức hình phạt của bị cáo. Nguyên tắc xét xử căn cứ vào lời khai và
chứng cứ trong quá trình xét xử ít khi được thực hiện.
Trên đây là một số những điểm tồn tại trong quá trình thực hiện pháp luật tố
tụng hình sự.Để đảm bảo quá trình tố tụng diễn ra khách quan, minh bạch đảm
bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân thì cần có những phương hướng
hoàn thiện các quy định của bộ luật tố tụng hình sự để phù hợp hơn với thực tế.
2. Phương hướng hoàn thiện những quy định của pháp luật.
Thứ nhất, nguyên tắc tranh tụng ngày càng được hoàn thiện và bổ sung những
nội dung mới phù hợp với xu thế phát triển và dân chủ hoá mọi mặt của đời sống
xã hội, được hầu hết các quốc gia thừa nhận và áp dụng. Nguyên tắc tranh tụng
đòi hỏi việc xét xử vụ án hình sự phải được tiến hành dưới hình thức tranh tụng
giữa hai bên (buộc tội và bào chữa có quyền bình đẳng với nhau trong việc đưa
ra các chứng cứ, lý lẽ và viện dẫn các văn bản pháp luật... để Hội đồng xét xử
làm trọng tài phân xử...Để đảm bảo thực hiện được cơ chế bảo vệ quyền của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự thì cần thừa nhận nguyên
tắc tranh tụng là nguyên tắc cơ bản của Bộ luật tố tụng hình sự.
Thứ hai, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 có quy định về quyền được trình bày
lời khai của bị can. Đây được coi là quyền của bị can, bị can có quyền trình bày
10


lời khai của mình theo hướng có lợi cho bản thân. Một trong số những cách thức
trình bày lời khai là “im lặng”. Vậy bị can có quyền im lặng trong quá trình điều
tra? Do trên thực tế, các cơ quan tiến hành tố tụng chưa thực sự tôn trọng quyền
này của bị can nên thường coi đây là nghĩa vụ phải khai báo, những trường hợp
bị can im lặng thường bị quy kết là ngoan cố và không ít trường hợp dẫn đến
tình trạng mớm cung, bức cung, dùng nhục hình. Vì vậy, nên quy định một
quyền riêng biệt đó là :“ bị can có quyền im lặng cho đến khi có luật sư bào
chữa” để nhằm tránh hiện tượng bức cung, dùng nhục hình. Luật hóa quyền im
lặng để thực thi quyền được suy đoán vô tội, quyền tự bào chữa, quyền nhờ

người khác bào chữa của người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo đã được
Hiến pháp 2013 ghi nhận. Ngoài ra, quy định về quyền im lặng của bị can, còn
đảm bảo thực thi nghiêm Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị
năm 1966 mà Việt Nam đã tham gia kí kết làm thành viên.
Thứ ba, cần sửa đổi bổ sung những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm
2003 về người bào chữa. Cụ thể, sửa đổi, bổ sung Khoản 2 Điều 57 bộ luật này
theo hướng trong những trường hợp nếu bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp
pháp của họ không mời người bào chữa thì các cơ quan tiến hành tố tụng phải
yêu cầu Đoàn luật sư phân công Văn phòng luật sư cử người bào chữa cho họ,
khi mà họ bị truy tố về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là hai mươi
năm, tù chung thân hoặc tử hình được quy định trong BLHS (hiện nay là chỉ áp
dụng đối với mức tử hình). Thực tiễn cho thấy số lượng phiên toà hình sự xét xử
có người bào chữa chiếm tỷ lệ rất thấp. Điều này có thể do nhiều lý do như: do
trình độ nhận thức pháp luật của phần lớn bị cáo còn hạn chế, hoàn cảnh kinh tế
không cho phép, đối tượng được trợ giúp pháp lý còn rất hạn hẹp... Bởi vậy,
BLTTHS cần mở rộng đối tượng được hưởng sự giúp đỡ của luật sư bào chữa.
Thứ tư, về kỹ thuật lập pháp, vì các ngoài quy định về quyền của bị can, bị cáo,
thì Bộ luật tố tụng dân sự năm 2005 còn cần quy định về trách nhiệm của các cơ
quan tiến hành tố tụng để đảm bảo thực hiện các quyền này. Vì vậy, để thuận
11


tiện trong quá trình thực hiện pháp luật, cần quy định quyền và nghĩa vụ, trách
nhiệm liền với nhau trong cùng một điều luật là tốt nhất hoặc ngay sau điều luật
quy định về quyền trong tố tụng của người nào đó cần có điều luật quy định về
nghĩa vụ, trách nhiệm của họ đồng thời quy định hậu quả pháp lý của việc không
thực hiện các nghĩa vụ, trách nhiệm đó.
Như vậy, từ những điểm còn bất cập đã nêu, trên đây đã đưa ra những đề xuất
nhằm hoàn thiện hơn những quy định của pháp luật đống thời giúp quá trình
thực hiện pháp luật được chính xác và đảm bảo quyền và nghĩa vụ của công dân.


C. KẾT LUẬN
Bị can, bị cáo được coi là những những yếu thế trong xã hội khi họ là đối
tượng bị buộc tội. Vì vậy, đảm bảo quyền lợi cho bị can, bị cáo là điều rất cần
thiết. Mặc dù, bộ luật Tố tụng dân sự năm 2003 đã có những quy định rất cụ thể
và tương đối đầy đủ về quyền và nghĩa vụ của những đối tượng này, nhưng trên
thực tế áp dụng vẫn còn rất nhiều sai sót và vướng mắc. Vì vậy, việc tìm ra
những phương hướng hoàn thiện và để sửa đổi bổ sung Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2003 là điều cần thiết trong bối cảnh hiện này để đảm bảo các quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân nhằm thực hiện công bằng công minh trong quá trình
tố tụng.

Danh mục tài liệu tham khảo:
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật TTHS Việt Nam, Nxb.
CAND, Hà Nội, 2009
2. BLTTHS của nước Cộng hoà XHCN Việt Nam năm 2003.
12


3. Viện khoa học pháp lí, Bình luận khoa học BLTTHS năm 2003, Nxb. Tư
pháp, Hà Nội, 2005.
4. Phạm Hồng Hải, Cần hoàn thiện quy định về bị can, bị cáo,
/>p_page_id=1754190&p_cateid=1751909&article_details=1&item_id=78
88468
5. Nguyễn Văn Hậu, Bàn về quyền im lặng của bị can, bị cáo,
/>6. ThS. Phạm Văn Hợp, Tòa Hình sự, Tòa án nhân dân tối cao, Kiến nghị
sửa đổi Bộ luật Tố tụng Hình sự nhằm bảo đảm nguyên tắc tranh tụng và
quyền của bị can, bị cáo,
/>l.aspx?ItemID=474
7. ThS Chu Thị Trang Vân, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, Hoàn

thiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về quyền, Nghĩa vụ của bị
can, bị cáo và cơ chế bảo đảm thực hiện
< />
13



×