Tải bản đầy đủ (.doc) (50 trang)

Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng công ty TNHH MTV phát triển du lịch Thanh niên VIệt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (338.81 KB, 50 trang )

MỞ ĐẦU
1- Lý do chọn đề tài
Tổ chức cơ sở đảng có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng trong hệ thống
tổ chức của Đảng, là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở. Vì vậy
nâng cao năng lực lãnh đạo sức chiến đấu của là một nội dung cơ bản, là vấn
đề có tính quy luật của công tác xây dựng đảng. Nhận thức rõ vai trò của năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong thời kỳ đổi mới và xây dựng
đất nước vì vậy khi tổ chức Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (từ
ngày 18 đến 25/4/2006) Đảng ta đã chọn chủ đề của đại hội là “Nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn
dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công tác đổi mới, sớm đưa đất nước ta thoát
khỏi tình trạng kém phát triển”; và mới đây, ngày 02/02/2008 đồng chí Tổng
Bí thư Nông Đức Mạnh đã ký ban hành Nghị quyết số 22- NQ/T.Ư “ Về
Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất
lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên” do Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành
Trung ương Đảng thảo luận và thông qua.
2- Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay, tình hình thế giới, khu vực có những diễn biến phức tạp, khó
lường; cách mạng nước ta có những thuận lợi, thời cơ mới đồng thời đứng
trước những khó khăn, thách thức lớn. Sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đang đi vào chiều sâu; nhiệm vụ xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới đặt ra yêu cầu ngày
càng cao với công tác xây dựng đảng nói chung, xây dựng tổ chức cơ sở đảng
nói riêng.
Nâng cao NLLĐ và SCĐ của TCCSĐ trong chi bộ Công ty có ý nghĩa
quyết định trong việc xây dựng đơn vị trong lĩnh vực kinh doanh, đảm bảo sự
lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với đơn vị . Các bộ
phận trực thuộc Công ty có nhiệm vụ khai thác kinh doanh ,sản xuất, sửa
chữa, cải tiến, hiện đại hóa, đồng thời nằm trong đơn vị thuộc Trung ương
Đoàn có công tác chính trị có nhiệm vụ tham gia sản xuất kinh tế, góp phần
phát huy vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế


quốc dân theo định hướng X đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên, công nhân viên
phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, ý thức trách nhiệm rất cao, có trình độ
quản lý, chuyên môn kỹ thuật giỏi để giữ gìn và phát triển được năng lực sản
xuất kinh doanh hoàn thành mọi nhiệm vụ phục vụ kế hoạch đăng ký TWĐ ;
đồng thời thực hiện sản xuất kinh doanh có hiệu quả kinh tế - xã hội cao. Với
tư cách là một nguồn lực để xây dựng tiềm lực kinh doanh sẵn sàng quyết tâm
cao để hoàn thành kế hoạch đề ra.
Những năm vừa qua Cty TNHH MTV Phát triển Du Lịch Dịch vụ
TNVN thực hiện chuyển đổi từ cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung, bao
cấp sang cơ chế hạch toán kinh doanh, các tổ chức cơ sở Đảng đã giữ vững
vai trò lãnh đạo trong mọi hoạt động của đơn vị, đưa đơn vị từng bước phát
1


triển. Trong xu thế hội nhập kinh tế thế giới, các bộ phận thuộc Cty phải tiếp
tục đổi mới cơ chế quản lý sản xuất kinh doanh, thực hiện những “luật chơi”
chung trong hoạt động kinh tế, vừa phải có năng lực cạnh tranh cao trong cơ
chế thị trường để tồn tại và phát triển, đồng thời phải bảo toàn và phát triển
năng lực sản xuất kinh doanh.
Để đáp ứng yêu cầu lãnh đạo toàn diện đối với đơn vị đảm bảo hoàn
thành nhiệm vụ phục vụ khách hàng cũng như công tác chính trị trong mọi
tình hình, đồng thời phát triển sản xuất kinh doanh, đóng góp vào sự nghiệp
công nghiệp hóa , hiện đại hóa.Các tổ chức cơ sở Đảng trong các đơn vị
thuộc Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên phát triển Du Lịch Dịch
Vụ Thanh Niên Việt Nam (VYST) phải có năng lực lãnh đạo toàn diện và sức
chiến đấu cao, xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh và doanh nghiệp
vững mạnh toàn diện .
Lý luận và thực tiễn xây dựng, hoạt động của các bộ phận trực thuộc
Công ty đang đòi hỏi phải nghiên cứu tìm ra những giải pháp nhằm nâng cao
năng lực lãnh đạo,sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng ở các đơn vị thuộc

Công ty trong giai đoạn hiện nay. Đây là vấn đề cơ bản, cấp thiết cả về lý luận
và thực tiễn.
3- Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích:
Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về năng lực lãnh đạo,
SCĐ của tổ chức cơ sở Đảng trong Công ty đề xuất một số giải pháp cơ bản
nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, SCĐ của tổ chức cơ sở Đảng (TCCSĐ)
trong đơn vị đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Nhiệm vụ:
- Phân tích làm rõ một số nội dung cơ bản về NLLĐ, SCĐ của TCCSĐ
Công ty TNHHMTV phát triển Du Lịch Dịch Vụ TNVN
- Đánh giá đúng thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân và một số kinh nghiệm
nâng cao NLLĐ, SCĐ của TCCSĐ trong Công ty .
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao NLLĐ, SCĐ của
TCCSĐ Công ty TNHH MTV Phát triển Du Lịch Dịch Vụ trong giai đoạn
hiện nay.
4- Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của đề tài là nâng cao
NLLĐ, SCĐ của TCCSĐ trong Công ty TNHH MTV Phát triển Du lịch Dịch
Vụ TNVN .
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu vấn đề Năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng Cty TNHH MTV Phát Triển
Du Lịch Dịch Vụ TNVN trong thời kỳ hiện nay.
5- Phương pháp nghiên cứu
2


Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác Lênin, sử dụng phương pháp kết hợp giữa nghiên cứu lý luận với tổng
kết thực tiễn, lô-gic và lịch sử, phân tích tổng hợp, điều tra khảo sát, lấy ý

kiến chuyên gia và một số phương pháp khác.
6. Những đóng góp về khoa học và ý nghĩa của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần làm sáng tỏ thêm lý luận và
thực tiễn công tác xây dựng tổ chức xây dựng Đảng biện pháp lãnh đạo, chỉ
đạo nâng cao NLLĐ, SCĐ của TCCSĐ trong đơn vị thúc đẩy sự phát triển
vững chắc của các đơn vị.
Đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu cho các
cơ quan quản lý của Công ty, trong giảng dạy ở các Học viện, nhà trường về
môn học xây dựng đảng, công tác đảng, công tác chính trị ở các DN.
7- Kết cấu của đề tài
Đề tài gồm: Phần Mở đầu,3 chương, kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo, phụ lục.

3


NỘI DUNG
Chương I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH
ĐẠO, SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG CÔNG TY TNHH
MTV PT DU LỊCH DỊCH VỤ TNVN
1.1. Cơ sở lý luận của nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của tổ chức cơ sở Đảng
1.1.1. Khái niệm tổ chức cơ sở Đảng
Ngay từ ngày đầu của phong trào công nhân quốc tế, khi xác định vị trí
vai trò của các chi bộ đảng ở cơ sở, C.Mác và Ph. Ăngghen đã nhấn mạnh :
Phải “Biến mỗi chi bộ thành trung tâm và hạt nhân của hiệp hội công nhân,
trong đó lập trường và lợi ích của giai cấp vô sản được đưa ra thảo luận độc
lập với những ảnh hưởng tư sản”. Phát triển của tư tưởng C.Mác và
Ph.Ăngghen, trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội trên lĩnh vực tổ

chức và tiến hành xây dựng một Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân,
V.I.Lênin luôn chăm lo xây dựng, xác lập vai trò lãnh đạo của các tiểu tổ
công nhân dân chủ xã hội, phát triển các tiểu tổ đó trở thành những chi bộ cơ
sở của Đảng bộ Bônsêvich Nga trong các nhà máy, công xưởng, khu dân cư.
Người yêu cầu “những chi bộ ấy liên hệ chặt chẽ với nhau và với Trung ương
Đảng, phải trao đổi kinh nghiệm lẫn cho nhau, phải làm tốt công tác cổ động,
tuyên truyền, công tác tổ chức; phải thích nghi với mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội, với tất cả mọi loại và mọi tầng lớp quần chúng lao động; những chi bộ
ấy phải thông qua công tác muôn hình, muôn vẻ đó mà rèn luyện bản thân
mình, rèn luyện Đảng, giai cấp, quần chúng một cách có hệ thống” (20-232,
233).
Trong sự nghiệp cách mạng của Đảng ta, những bài học thành công
cũng như chưa thành công đều gắn liền với vị trí, vai trò của tổ chức cơ sở
Đảng.Đảng ta khẳng định: Những thành tựu đã đạt được, những tiềm năng
được khai thác, những kinh nghiệm có giá trị đều bắt nguồn từ sự nỗ lực phấn
đấu của quần chúng ở cơ sở mà hạt nhân là tổ chức đảng. Nhưng mặt khác sự
yếu kém của nhiều TCCSĐ đã hạn chế những thành tựu của cách mạng. Vị
trí, vai trò của TCCSĐ được khái quát và khẳng định như sau :
- TCCSĐ là cầu nối, nối liền các cơ quan lãnh đạo của Đảng đối với
quần chúng nhân dân. Mọi tâm tư, nguyện vọng của quần chúng nhân dân
thông qua tổ chức cơ sở đảng mà được phản ánh lên tổ chức đảng cấp trên.
- TCCSĐ là nơi trực tiếp đưa đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của nhà nước vào quần chúng và tổ chức cho quần chúng thực
hiện thắng lợi trong thực tiễn.

4


- TCCSĐ là nơi trực tiếp giáo dục, rèn luyện, kết nạp, sàng lọc đảng
viên, nơi đào tạo cán bộ cho Đảng; nơi xuất phát để cử ra cơ quan lãnh đạo

các cấp của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể chính trị – xã hội.
- TCCSĐ là đơn vị chiến đấu cơ bản của Đảng, nơi bảo đảm tính tiên
phong, tính trong sạch của Đảng, là nơi mà mọi hoạt động xây dựng nội bộ
Đảng được tiến hành; là trung tâm đoàn kết nội bộ Đảng và tập hợp đoàn kết
quần chúng nhân dân.
Do có một vị trí, vai trò quan trọng như vậy nên Đảng ta và Chủ tịch
Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm xây dựng TCCSĐ và luôn khẳng định “ Mỗi
chi bộ của Đảng phải là một hạt nhân lãnh đạo quần chúng ở cơ sở, đoàn kết
chặt chẽ, liên hệ mật thiết với quần chúng, phát huy được trí tuệ và lực lượng
vĩ đại của quần chúng”. Chi bộ là nền móng của Đảng, chi bộ tốt thì mọi việc
sẽ tốt.
1.1.2. Khái niệm nâng cao năng lực lãnh đạovà sức chiến đấu của tổ
chức cơ sở Đảng
Đảng là đội tiền phong của giai cấp công nhân; trong điều kiện Đảng
cầm quyền, Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của
hệ thống chính trị; hoạt động của Đảng là hoạt động lãnh đạo, vì vậy NLLĐ
và SCĐ là vấn đề thuộc về bản chất của Đảng cũng như các TCCSĐ. Hoạt
động lãnh đạo của TCCSĐ phải tuân thủ quy trình chặt chẽ, liên tục, bao gồm
nghiên cứu, vận dụng Chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường
lối, quan điểm của Đảng, chỉ thị, nghị quyết của cấp trên; đề ra nghị quyết,
chủ trương, biện pháp lãnh đạo; tuyên truyền vận động cho mọi cán bộ , Đảng
Viên , quần chúng hiểu rõ, thấm nhuần và tổ chức cho họ thực hiện tốt nhất
nghị quyết đã đề ra. Do vậy NLLĐ của TCCSĐ là tổng hợp những khả
năng, điều kiện chủ quan của TCCSĐ để hoàn thành hoạt động lãnh đạo
toàn diện, mọi mặt đối với đơn vị, với chất lượng cao. Đó là hoạt động kết
hợp nhuần nhuyễn giữa lý luận và thực tiễn, không bảo thủ trì trệ, cũng không
cứng nhắc, rập khuôn, máy móc.
Năng lực lãnh đạo của TCCSĐ trước hết là năng lực trí tuệ, đó là khả
năng nhận thức lý luận một cách sâu sắc, toàn diện; quán triệt đầy đủ nhiệm
vụ và đánh giá đúng tình hình; trên cơ sở đó vận dụng một cách sáng tạo lý

luận vào thực tiễn của đơn vị, đề ra được nghị quyết đúng, chủ trương biện
pháp lãnh đạo phù hợp với sự phát triển của tình hình nhiệm vụ. Cuộc sống
luôn vận động và phát triển, cho nên năng lực lãnh đạo còn thể hiện ở khả
năng dự báo, nhạy bén với những vấn đề mới nảy sinh, có khả năng luận giải
đúng đắn và giải quyết có hiệu quả. Chính vì vậy Các Mác và Ph.Ănghen đã
phân biệt sự khác nhau giữa những người cộng sản và những người vô sản là
“họ hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ là họ hiểu rõ những điều
kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào vô sản” (26-615). V.I.Lênin
khẳng định: “không có lý luận cách mạng thì không có phong trào cách
mạng”. “chỉ có đảng nào được một lý luận tiền phong hướng dẫn thì mới có
khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiền phong” (19-32). Chủ tịch Hồ Chí Minh
5


luôn căn dặn và đòi hỏi cán bộ,Đảng viên phải ra sức học tập, trau dồi lý luận
chủ nghĩa Mác-Lênin, vì đó: “…không những là cái “cẩm nang” thần kỳ,
không những là cái kim chỉ nam, mà còn là mặt trời soi sáng con đường
chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng
sản” (28-128). Trong quá trình lãnh đạo, các TCCSĐ phải có năng lực nghiên
cứu, tổng kết thực tiễn, đây là yêu cầu đảm bảo cho sự lãnh đạo của Đảng nói
chung và TCCSĐ nói riêng luôn phát triển đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Nắm
vững những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
đường lối quan điểm của Đảng, chỉ thị, nghị quyết của cấp trên chính là cơ sở
để các TCCSĐ nâng cao năng lực trí tuệ, đề ra được chủ trương, biện pháp
lãnh đạo đúng đắn, phù hợp với điều kiện hoàn cảnh và nhiệm vụ cụ thể của
mỗi cơ sở.
Năng lực lãnh đạo của TCCSĐ còn là năng lực, trình độ tổ chức hoạt
động thực tiễn. Đó là khả năng tuyên tuyền, giáo dục, vận động và hướng dẫn
quần chúng thực hiện các nghị quyết đã đề ra, đưa nghị quyết vào cuộc sống.
Trong quá trình tổ chức thực hiện nghị quyết, TCCSĐ phải làm tốt công tác

kiểm tra; xây dựng TCCSĐ, các tổ chức đoàn thể quần chúng và đơn vị vững
mạnh, thường xuyên sơ tổng kết, rút kinh nghiệm, góp phần xây dựng tổ chức
đảng cấp trên và bổ sung, hoàn thiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, với vai trò tiền phong của mình,
TCCSĐ không những phải có NLLĐ tốt mà còn phải có SCĐ cao. Chính vì
vậy C.Mác và Ph.Ănghen đã khẳng định: “Vậy là về mặt thực tiễn, những
người cộng sản là bộ phận kiên quyết nhất trong các Đảng công nhân ở các
nước, là bộ phận luôn thúc đẩy phong trào tiến lên…” (26-614, 615). Theo
V.I.Lênin, cuộc đấu tranh của Đảng rộng lớn và phức tạp hơn nhiều so với
đấu tranh kinh tế, do đó tổ chức của Đảng “phải là tổ chức của những người
cách mạng, có nghĩa là tổ chức của những phần tử ưu tú nhất của giai cấp
công nhân” và “Hãy cho tôi một tổ chức những người cách mạng và chúng tôi
sẽ đảo ngược nước Nga lên” (19-162).
Sức chiến đấu của TCCSĐ trước hết là sự giác ngộ chính trị cao, bản
lĩnh chính trị vững vàng, đặc biệt trong những lúc cách mạng gặp khó khăn
hay có những bước ngoặt lịch sử. Đây là lúc các thế lực thù địch tăng cường
tấn công vào Đảng về mọi mặt, là lúc trong đội ngũ phong trào cách mạng có
sự do dự, phân tâm, giảm sút ý chí chiến đấu.
Sức chiến đấu của TCCSĐ là sự thống nhất cao về ý chí và hành động,
giữ vững niềm tin, phát huy sức mạnh của cả doanh nghiệp, vượt qua mọi khó
khăn thử thách.
Sức chiến của TCCSĐ là khả năng giữ vững nguyên tắc tổ chức và
sinh hoạt Đảng, phát huy dân chủ, giữ nghiêm kỷ luật, tăng cường đoàn kết
thống nhất trong Đảng. Để thực hiện được những yêu cầu trên, các TCCSĐ
phải tăng cường công tác kiểm tra, tích cực đấu tranh tự phê bình và phê bình,
giúp đỡ nhau khắc phục khuyết điểm, nỗ lực phấn đấu vươn lên.
6



Trong suốt quá trình hoạt động, mỗi tổ chức, cá nhân không thể tránh
khỏi những thiếu sót sai lầm, nên việc phải tìm ra những khuyết điểm, nguyên
nhân của những khuyết điểm đó để cùng nhau sửa chữa là một biện pháp để
hoàn thiện mỗi Đảng viên phải nâng cao sức mạnh của tổ chức cơ sở Đảng .
Như vậy SCĐ của TCCSĐ là khả năng giữ vững được vai trò lãnh đạo
trước mọi diến biến phức tạp của tình hình nhiệm vụ; là khả năng “miễn
dịch”, đấu tranh thắng lợi với những tác động tiêu cực và âm mưu, thủ đoạn
chống phá của kẻ thù; là sức mạnh vượt qua mọi khó khăn, thử thách, hoàn
thành mọi nhiệm vụ; là khả năng tự khắc phục những hạn chế, khuyết điểm
trên cơ sở tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng, tự phê
bình và phê bình, xây dựng đội ngũ cán bộ , Đảng viên thực sự tiền phong,
gương mẫu, giữ nghiêm kỷ luật, làm cơ sở cho xây dựng tổ chức cơ sở Đảng
vững mạnh, lãnh đạo đơn vị hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ.
Từ những luận điểm trên, có thể khái quát:
Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của TCCSĐ là khả năng nắm
vững và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nghị quyết, chỉ
thị của cấp trên vào thực tiễn tình hình, nhiệm vụ của đơn vị; là bản lĩnh
chính trị với trình độ nhận thức lý luận và năng lực thực tiễn để đề ra chủ
trương, biện pháp lãnh đạo đúng đắn; tuyên truyền giác ngộ, vận động
quần chúng, tổ chức thực hiện và kiểm tra sát sao nhằm thực hiện thắng
lợi nghị quyết; là sự đoàn kết thống nhất trên cơ sở thực hiện nghiêm túc
nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt Đảng, tự phê bình và phê bình; là ý chí quyết
tâm, sức mạnh vượt qua mọi thử thách, phấn đấu vươn lên hoàn thành
nhiệm vụ; kiên quyết đấu tranh khắc phục những biểu hiện tiêu cực sai sót
trong tổ chức Đảng và đơn vị, đấu tranh chống lại mọi âm mưu, thủ đoạn
phá hoại của kẻ thù, xây dựng TCCSĐ luôn thực sự vững mạnh, hoàn
thành thắng lợi mọi nhiệm vụ.
Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu là hai thành tố có mối quan hệ biện
chứng tạo thành một chỉnh thể thống nhất, làm nên sức mạnh và sự bền vững

của TCCSĐ. Trong năng lực lãnh đạo đã hàm chứa sức chiến đấu , có NLLĐ
mới có sức chiến đấu.Sức chiến đấu cao là sự thể hiện của NLLĐ vững vàng.
NLLĐ là cơ sở tiền đề cho SCĐ và ngược lại SCĐ là điều kiện để củng cố
NLLĐ, làm cho NLLĐ được nâng cao và phát huy. Hai thành tố này luôn đan
xen tác động, thúc đẩy lẫn nhau và đều xuất phát từ yếu tố tự thân, điều kiện
chủ quan của TCCSĐ; không thể có năng lực lãnh đạo tốt mà sức chiến đấu
lại yếu và ngược lại. Như vậy, mỗi hoạt động lãnh đạo của tổ chức cơ sở
Đảng đều là sự thể hiện cụ thể của NLLĐ và SCĐ; và để xây dựng tổ chức cơ
sở Đảng vững mạnh, không thể tách rời NLLĐ với SCĐ.
Công cuộc xây dựng đất nước theo con đường đi lênchủ nghĩa xã hội
là cuộc cách mạng sâu sắc nhất, toàn diện nhất và triệt để nhất. Từ một nước
nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu, bị chiến tranh tàn phá nặng nề, chúng ta phải
bắt tay vào xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội trong điều
7


kiện phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đang lâm vào thoái trào; xu
thế hội nhập kinh tế thế giới trong sự cạnh tranh khốc liệt; các thế lực thù địch
tìm mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá quyết liệt sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội của Đảng ta, nhân dân ta. Trong tình hình đó, đòi hỏi Đảng ta phải thật
sự vững mạnh, thực sự trí tuệ, có SCĐ cao để lãnh đạo toàn dân tộc vượt qua
mọi khó khăn, thử thách đi đến thắng lợi cuối cùng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
chỉ rõ: “Để đảm bảo thắng lợi của cách mạng, vấn đề có ý nghĩa quyết định là
phải nâng cao hơn nữa SCĐ của toàn Đảng ta, phát huy hơn nữa tác dụng
lãnh đạo của Đảng ta trên mọi mặt công tác” (29-201) và “Đảng mạnh là do
chi bộ tốt” (32-95). Hay nói cách khác, mỗi tổ chức cơ sở Đảng có NLLĐ tốt,
SCĐ cao là cơ sở đảm bảo để xây dựng Đảng vững mạnh, hoàn thành sứ
mạng vẻ vang của mình.
Thấm nhuần những lời dạy của Người, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa,hiện đại hóa đất nước, phương hướng và mục tiêu tổng

quát của công tác xây dựng Đảng nhiệm kỳ 2006 – 2010 là “ Tiếp tục tự đổi
mới, tự chỉnh đốn Đảng, tăng cường bản chất giai cấp công nhân và tính tiên
phong, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng
Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, có bản
lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức cách mạng trong sáng, có tầm trí tuệ cao,
có phương thức lãnh đạo khoa học luôn gắn bó với nhân dân.” ( 7 – 279) coi
đó là một trong những vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng,
chỉnh đốn đảng hiện nay. Và như vậy, không ngừng nâng cao NLLĐ và SCĐ
của TCCSĐ đã góp phần quan trọng, quyết định nâng cao NLLĐ và SCĐ của
toàn Đảng. Đó là yêu cầu tất yếu khách quan, có tính quy luật trong công tác
xây dựng Đảng.
1.1.3. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê Nin, của tư tưởng Hồ Chí
Minh, của Đảng Cộng sản về nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của tổ chức cơ sở Đảng
Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, đẩy nhanh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đang đặt ra yêu cầu ngày càng cao về sự lãnh đạo của Đảng nói
chung và của các TCCSĐ nói riêng. Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm
BCHTW (khóa VI) đã nêu: “ Trong điều kiện chuyển sang thực hiện cơ chế
quản lý mới, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của đơn vị kinh tế cơ sở, mở
rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, các tổ chức cơ sở Đảng phải thực sự là hạt
nhân lãnh đạo chính trị trong tập thể lao động”. Với đặc điểm là đơn vị cơ sở
trong tổ chức hoạt động kinh doanh nhưng hoạt động của các bộ phận lại phải
tuân thủ Luật Công Ty và các quy định quản lý kinh tế của Nhà nước. Cho
nên ngoài những biểu hiện chung nhất về NLLĐ và SCĐ của các tổ chức cơ
sở Đảng trong quân đội nói chung như: khả năng vận dụng chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước,
nghị quyết, chỉ thị của cấp trên; giáo dục, tuyên truyền, giác ngộ cho cán bộ ,
Đảng viên và quần chúng, xây dựng và tổ chức thực hiện nghị quyết; thực
hành xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh , tổ chức chỉ huy và các tổ
chức quần chúng vững mạnh toàn diện , lãnh đạo và tiến hành kiểm tra
8



..v.v… NLLĐ và SCĐ của các tổ chức cơ sở Đảng ở các bộ phận trong Công
ty ( VYST) còn có những đặc trưng riêng.
Trước hết, NLLĐ và SCĐ của các tổ chức cơ sở Đảng trong các bộ
phận thuộc Công ty (VYST) được thể hiện ở khả năng lãnh đạo giữ vững
tính định hướng xã hội chủ nghĩa trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh
và đời sống sinh hoạt xã hội, văn hóa, tinh thần của đơn vị. Hoạt động của
các bộ phận có đặc điểm riêng biệt là vừa phải tuân thủ các quy luật hoạt
động kinh doanh, vừa chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế cơ bản, đặc
biệt chịu sự tác động cả mặt tích cực, cả mặt trái của cơ chế thị trường. Do
vậy năng lực lãnh đạo, SCĐ của các TCCSĐ ở các bộ phận thể hiện ở khả
năng giáo dục cho cán bộ, công nhân viên thấm nhuần các quan điểm, đường
lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, xác định được vị trí, vai trò của đơn vị
trong sự nghiệp xây dựng đơn vị; trách nhiệm của VYST trong công cuộc chủ
nghĩa hóa, hiện đại hóa đất nước. Đó chính là việc xây dựng sức mạnh chính
trị tinh thần của bộ phận ; thực sự là “đội quân sản xuất” đồng thời cũng là
“đội quân công tác, đội quân chiến đấu”, góp phần hình thành một lực lượng
nòng cốt về chính trị của thành phần kinh tế nhà nước nói riêng và làm định
hướng cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân nói chung trong quá trình công
nghiệp hóa hiện đại hóa. Đây cũng chính là điểm khác biệt đặc trưng nhất về
NLLĐ của các tổ chức cơ sở Đảng ở các bộ phận so với tổ chức cơ sở Đảng
trong các bộ phận đang kinh doanh tại bộ phận trong đơn vị.
Trong điều kiện vừa phải giữ gìn và phát triển năng lực sản xuất kinh
doanh sẵn sàng hoàn thành nhiệm vụ sản xuất kinh doanh, đồng thời phải
cạnh tranh gay gắt trong hoạt động sản xuất kinh doanh , các tổ chức cơ sở
Đảng ở Công Ty trong đơn vị TWĐ phải lãnh đạo giải quyết tốt mối quan
hệ giữa yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chính trị trung tâm (sản xuất kinh
doanh ,hoạt động công tác chính trị trong mọi tình huống) với lợi ích kinh tế
của DN, thực hiện toàn diện cả mục tiêu hiệu quả kinh tế, cả mục tiêu, hiệu

quả chính trị-xã hội, quốc phòng-an ninh.Tổ chức cơ sở Đảng phải nắm vững
nhiệm vụ của Công Ty , đặc biệt là nhiệm vụ sản xuất kinh doanh, để đề ra
nghị quyết lãnh đạo đúng đắn, phát huy vai trò quản lý điều hành, tinh thần
trách nhiệm, năng động sáng tạo của bộ máy quản lý, chấp hành nghiêm pháp
luật của Nhà nước, quy định của Công ty, vừa hoàn thành các chỉ tiêu về
chính trị, vừa sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Trên cơ sở đó, nâng cao đời
sống vật chất,văn hóa, tinh thần cho cán bộ, công nhân viên ; thực hiện các
chính sách xã hội; góp phần xây dựng cơ sở chính trị, kinh tế, văn hóa ở địa
phương. Đặc biệt, lãnh đạo thực hiện quan điểm của Đảng về kết hợp kinh
doanh với kinh tế (chính trị với KT), kinh tế với chính trị phải được thể hiện
ở cả nhận thức và cả trong mọi hoạt động của Công Ty . Trong điều kiện thời
bình, sản xuất kinh doanh không phải “bằng mọi giá”, “nước sông công lính”
như trước đây, mà phải “bằng mọi cách” để thực hiện cho tốt, nhưng không
phải vì vậy mà không tính đến việc tiết kiệm trong sản xuất để giảm chi cho
ngân sách. Đồng thời mọi hoạt động kinh tế, dù với mục tiêu lợi nhuận là
chính, nhưng không được để ảnh hưởng đến dây chuyền sản xuất kinh doanh,
9


nhiệm vụ sản xuất kinh doanh mà ngược lại mỗi bước phát triển về kinh tế
của đơn vị phải tạo được cơ sở vật chất cũng như tinh thần để bảo toàn và
phát triển năng lực kinh doanh. Do yêu cầu phục vụ kinh doanh nên hoạt động
kinh doanh mang tính “phi doanh nghiệp”, thường mâu thuẫn với tính hiệu
quả về kinh tế, nên việc giải quyết hài hòa giữa mục tiêu lợi nhuận với nhiệm
vụ kinh doanh là một bài toán khó. Vì vậy NLLĐ toàn diện và SCĐ của tổ
chức cơ sở Đảng ở các bộ phận được thể hiện rõ nét trong việc vận dụng tốt
nhất các quan điểm, đường lối của Đảng, các quy luật kinh tế, vượt qua mọi
khó khăn thử thách, lãnh đạo thực hiện tốt cả nhiệm vụ sản xuất, cả đảm bảo
hiệu quả kinh tế trong sản xuất kinh doanh. Hay nói cách khác, kết quả thực
hiện thắng lợi nhiệm vụ sản cuất trong đơn vị; Sản xuất kinh doanh có hiệu

quả kinh tế cao, bảo toàn và phát triển được năng lực kinh doanh, Đơn vị
phát triển bền vững là biểu hiện chủ yếu của NLLĐ, SCĐ của tổ chức cơ sở
Đảng ở các đơn vị thuộc Công ty .
Do đặc điểm loại hình đơn vị là doanh nghiệp kinh doanh nên sự lãnh
đạo của các tổ chức cơ sở Đảng ở các đơn vị thuộc Công ty không chỉ dừng
lại ở khâu ra nghị quyết, hoạch định chủ trương, định hướng phát triển đơnvị,
xây dựng tổ chức và công tác cán bộ ..v.v.. mà phải trực tiếp tham gia quản lý
toàn diện mọi mặt hoạt động của Công Ty bằng cách phải trực tiếp kiểm tra,
giám sát chặt chẽ việc tổ chức thực hiện của người quản lý điều hành. Khác
với các đơn vị bộ đội thường trực, hoạt động của các bộ phận trong Công ty
rất đa dạng, phức tạp như một xã hội thu nhỏ, môi trường công tác của cán bộ,
Đảng viên gắn trực tiếp với nhiều quan hệ về tiền bạc, vật chất và những cám
dỗ lợi ích cá nhân; quyền lợi của người lao động, nhất là thu nhập, tiền lương
phụ thuộc trực tiếp vào hiệu quả sản xuất kinh doanh do người quản lý điều
hành trực tiếp quyết định. Sự dân chủ về kinh tế, công bằng trong phân phối
thu nhập hay mức độ của các hành vi tham nhũng, thu lợi cá nhân là những
yếu tố tác động rất lớn tới tư tưởng, tình cảm và tâm lý của tập thể những
người lao động trong bộ phận . Vì vậy, NLLĐ, SCĐ của tổ chức cơ sở Đảng
ở các Bộ phận kinh doan là khả năng kiểm tra toàn diện, tập trung vào những
vấn đề then chốt, nhạy cảm nhất như quản lý quy trình công nghệ, chất lượng
sản phẩm, quản lý tài chính, đầu tư xây dựng cơ bản, hợp đồng kinh tế trong
giao dịch thương mại, phân phối tiền lương và các quyền lợi khác gắn với đời
sống của người lao động.
Hoạt động Công ty, Các bộ phận trong các đơn vị có những đặc thù
riêng; tiến hành điều chỉnh hoạt động trong mọi lĩnh vực đơn vị lý. Các tổ
chức cơ sở Đảng phải căn cứ đặc điểm tổ chức, chức năng nhiệm đều không
hợp vụ của đơn vị để định ra những nội dung chủ yếu của hoạt động phải xác
định kinh doanh. Do vậy lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức hoạt động kinh doanh ở
các bộ phận bám sát nhiệm vụ chính trị của Công ty, góp phần nâng cao hiệu
quả sản xuất kinh doanh cũng chính là biểu hiện của NLLĐ và SCĐ của tổ

chức cơ sở Đảng trong các bộ phận trực thuộc Công ty.
Là đơn vị kinh doanh nhưng đồng thời cũng là tổ chức hành chính và
cũng vẫn hoạt động công tác đoàn thể tại Công ty,tổ chức cơ sở Đảng phải
10


thực hiện nghiêm quy định, quy trình công tác tổ chức và cán bộ; mọi vấn đề
về cán bộ và công tác cán bộ phải do tập thể cấp ủy quyết định trên cơ sở
phát huy trách nhiệm cá nhân của người giám đốc. Xây dựng được đội ngũ
cán bộ đủ về số lượng, có chất lượng cao, cơ cấu ngành nghề hợp lý, đáp ứng
được yêu cầu nhiệm vụ trước mắt cũng như phát triển lâu dài là thể hiện
NLLĐ của tổ chức cơ sở Đảng ở Công ty. NLLĐ, SCĐ của tổ chức cơ sở
Đảng của Công ty còn thể hiện ở việc thực hiện tốt cuộc vận động xây dựng
chỉnh đốn Đảng, luôn quan tâm kịp thời kiện toàn hệ thống tổ chức đảng theo
đúng quy định, đặc biệt là kiện toàn các cấp ủy trên cơ sở xây dựng đội ngũ
Đảng viên có số lượng phù hợp, chất lượng tốt, giữ vững bản chất giai cấp
công nhân, phẩm chất “bộ đội Cụ Hồ”. Đảm bảo nơi nào có con người, có
hoạt động của Công , nơi đó phải có sự lãnh đạo của tổ chức đảng. Phát huy
tinh thần tự phê bình và phê bình, giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ
trong sinh hoạt đảng, xây dựng tổ chức của mình luôn làm tốt việc phân loại
tổ chức đảng và Đảng viên kịp thời biểu dương khen thưởng những tổ chức
đảng và Đảng viên tốt, đấu tranh với những biểu hiện tiêu cực sai trái, kiên
quyết đưa ra khỏi Đảng những Đảng viên vi phạm kỷ luật, ý chí phấn đấu
kém, không hoàn thành nhiệm vụ.
“ Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”. Vì vậy, xây dựng các tổ
chức quần chúng vững mạnh và lãnh đạo các tổ chức này hoạt động đúng
chức năng, nhiệm vụ là trách nhiệm và cũng thể hiện vai trò hạt nhân chính
trị, sức mạnh của tổ chức cơ sở Đảng. Trên cơ sở triển khai thực hiện tốt quy
chế dân chủ ở Công ty TNHH MTV phát triển Du Lịch Dịch Vụ TNVN
(VYST), tạo nên môi trường kinh tế-văn hóa-xã hội lành mạnh trong đơn vị

và khu dân cư, động viên mọi nguồn lực vật chất và tinh thần trong tập thể lao
động nhằm thực hiện mục tiêu chung là phát triển VYST, nâng cao đời sống
vật chất, văn hóa tinh thần cho người lao động, đáp ứng tích cực vào việc xây
dựng tổ chức cơ sở Đảng vững mạnh và VYST toàn diện.
NLLĐ và SCĐ thể hiện chất lượng của tổ chức cơ sở Đảng , vì vậy
NLLĐ và SCĐ của tổ chức cơ sở Đảng ở các bộ phận phải thực sự được bảo
đảm bởi những yếu tố tạo thành vững chắc.
Trước hết NLLĐ, SCĐ của TCCSĐ trong VYST trong suốt quá trình
lãnh đạo xây dựng đơn vị cùng với mục tiêu “xây dựng được phát triển kinh
doanh độc lập, tự chủ, có tiềm lực tương đối mạnh, phù hợp với sự phát triển
của nền kinh tế đất nước…” (Báo cáo tổng kết năm ) lãnh đạo tập trung chỉ
đạo xây dựng, củng cố tổ chức đảng, nâng cao NLLĐ toàn diện, năng lực tổ
chức thực hiện, tăng cường đoàn kết, chấp hành kỷ luật trong Đảng và thực
hiện nền nếp, có hiệu quả công tác kiểm tra đảng ở các bộ phận trực thuộc
Công ty “đặc biệt là phát huy vai trò lãnh đạo của các đảng bộ, chi bộ trong
Công ty … xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của tổ chức đảng, vai trò trách
nhiệm của cấp ủy và bí thư, của cơ quan chính trị, cán bộ chính trị; xây dựng
mối quan hệ chặt chẽ giữa đảng bộ, chi bộ với bộ máy quản lý và đoàn thể
quần chúng trong đơn vị, với cấp trên. Tiếp tục làm rõ nội dung, phương thức
lãnh đạo của TCCSĐ trong Công ty ” (Nghị quyết chi bộ )
11


Quán triệt các quan điểm, đường lối của Đảng, các chỉ thị, nghị quyết
của chi bộ xác định: “Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện cuộc vận động xây dựng
chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết TW6(lần 2), nâng cao năng lực
lãnh đạo toàn diện và sức chiến đấu của các cấp uỷ, tổ chức đảng, nâng cao
tính tiền phong gương mẫu của đội ngũ đảng viên; xây dựng cấp uỷ, tổ chức
đảng trong sạch vững mạnh làm nòng cốt xây dựng Công ty đáp ứng yêu cầu
phát triển nhiệm vụ của đơn vị trong tình hình mới…”. (Báo cáo của chi bộ

tại Đại hội CNVC 2006-2010).
Triển khai các nghị quyết của các cấp ủy đảng cấp trên, các TCCSĐ
thực sự quan tâm xây dựng tổ chức mình luôn trong sạch vững mạnh , xây
dựng đơn vị vững mạnh toàn diện , lãnh đạo đơn vị hoàn thành xuất sắc mọi
nhiệm vụ được giao.
Thứ hai, NLLĐ và SCĐ của tổ chức cơ sở Đảng, được tạo thành bởi
nhân tố cơ bản là chất lượng đội ngũ Đảng viên . Đội ngũ Đảng viên là
những người trực tiếp đóng góp xây dựng các nghị quyết của Đảng, đồng
thời họ cũng là những người trực tiếp quán triệt đến quần chúng, tổ chức thực
hiện, đưa nghị quyết của đảng vào cuộc sống, là cầu nối giữa Đảng với quần
chúng. Qua hoạt động thực tiễn của mỗi Đảng viên, đường lối và nghị quyết
của tổ chức đảng các cấp được kiểm nghiệm tính đúng đắn và điều chỉnh kịp
thời. Chất lượng đội ngũ Đảng viên trước hết được tạo nên và biểu hiện ở
phẩm chất năng lực của Đảng viên , hay nói cách khác là cái đức, cái tài của
Đảng viên . Hoạt động trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh , đội ngũ Đảng
viên trong đơn vị thuộc Công ty thường xuyên phải chịu sự tác động trực
tiếp của cơ chế thị trường và tiếp xúc với sự cám dỗ lợi ích vật chất, chủ
nghĩa cá nhân, thực dụng, cục bộ, hẹp hòi… Vì vậy bản lĩnh chính trị, phẩm
chất năng lực của người Đảng viên được thể hiện rõ nét nhất trong những
tình huống phải xử lý hài hòa giữa lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể, giữa lợi
ích cục bộ với lợi ích chung của Công ty , của đất nước, giữa lợi ích vật chất
với ý thức chính trị-tinh thần, kiên định trước những chuyển biến, những tình
huống phức tạp về chính trị xã hội , tác động tiêu cực từ bên ngoài. Thực tế
cho thấy, không ít cán bộ Đảng viên đã có những đóng góp cho sự nghiệp
chiến đấu, chiến thắng của quân đội trước đây, nhưng đã gục ngã trước những
“viên đạn bọc đường” trong thời kỳ chuyển đổi cơ chế vừa qua. Muốn khắc
phục khuyết điểm đó, đòi hỏi người cán bộ , Đảng viên trong các bộ phận
trực thuộc Công ty phải rèn luyện cái “tâm” và cái “tài” để tạo ra chỗ dựa
chính trị-tinh thần vững chắc, có khả năng “miễn dịch”, có “sức đề kháng”
trước mọi tác động tiêu cực của mặt trái cơ chế thị trường, phòng chống “diễn

biến hòa bình” trên lĩnh vực kinh tế, xây dựng được quyết tâm vượt qua mọi
khó khăn thử thách hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
Hoạt động sản xuất kinh doanh là một hoạt động tổng hợp của nhiều
lĩnh vực như khoa học kỹ thuật - công nghệ, tổ chức quản lý sản xuất, tài
chính, thương mại… nên cái “tài” của người cán bộ,Đảng viên còn yêu cầu
cả về trình độ chuyên môn kỹ thuật, nghiệp vụ để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
ngày càng cao. Không những vậy, năng lực trí tuệ còn là cơ sở để xây dựng
12


củng cố phẩm chất chính trị cho người Đảng viên . Nhiệm vụ kinh
doanh,chính trị đòi hỏi người Đảng viên phải có tư duy chính trị đúng đắn,
phẩm chất kiên định, vững vàng, cẩn trọng. Nhu cầu cạnh tranh thị trường lại
đòi hỏi người quản lý kinh doanh phải năng động, nhạy bén, sáng tạo, dám
nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm và biết xử lý “mềm dẻo”, khôn khéo
trong những tình huống kinh doanh phức tạp, khẩn trương. Một Đảng viên đã
công tác lâu năm trong đơn vị thuộc TWĐ , thậm chí đã trải qua thử thách
trong chiến đấu, nhưng nếu không có hiểu biết nhất định về sản xuất kinh
doanh quản trị đơn vị , quan hệ thị trường… thì không thể đáp ứng được yêu
cầu nhiệm vụ trong doanh nghiệp và ngược lại một cán bộ rất giỏi về sản
xuất kinh doanh , nhưng ý thức chính trị không cao, nhận thức nhiệm vụ
không rõ ràng, không có gắn bó tư tưởng, tình cảm với đơn vị thì dễ mắc sai
lầm, sa vào chủ nghĩa cá nhân, dễ “chệch hướng” nhiệm vụ chính trị .
Như vậy chất lượng của từng người Đảng viên tạo nên chất lượng của
đội ngũ Đảng viên , là nhân tố cơ bản tạo nên NLLĐ và SCĐ của tổ chức cơ
sở Đảng trong Công ty đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Để
lãnh đạo cách mạng, Đảng phải mạnh. Đảng mạnh là do chi bộ tốt. Chi bộ tốt
là do cán bộ ,Đảng viên tốt”. (32-95).
Tuy nhiên, chất lượng đội ngũ Đảng viên còn thể hiện ở số lượng và cơ
cấu của đội ngũ ấy. Do tính chất tổ chức lực lượng tương đối ổn định, nên cơ

sơ cán bộ nhân viên biên chế vào các bộ phận cũng ổn định.Công ty có điều
kiện xây dựng đội ngũ Đảng viên về mặt số lượng, với cơ cấu hợp lý, góp
phần tạo nên NLLĐ và SCĐ của tổ chức cơ sở Đảng . Với đa số quân số là
công nhân trực tiếp lao động trên các dây chuyền sản xuất, đồng thời số cán
bộ quản lý ở các phòng ban hầu hết là có bằng cấp chuyên môn nên công tác
xây dựng đội ngũ Đảng viên ở đơn vị rất thuận lợi trong việc giữ vững, tăng
cường bản chất giai cấp công nhân, có điều kiện bố trí đủ Đảng viên làm nòng
cốt ở tất cả các bộ phận, mọi lĩnh vực hoạt động của đơn vị , nhất là những bộ
phận trọng yếu. Tỷ lệ lãnh đạo hợp lý, với số lượng Đảng viên và cơ cấu phù
hợp là điều kiện để tạo nên chất lượng, sức mạnh của cả đội ngũ Đảng viên ,
đảm bảo sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện, sâu sát của tổ chức cơ sở Đảng với
mọi mặt hoạt động của đơn vị.
Thứ ba, chất lượng của cấp ủy và đội ngũ ván bộ chủ trì là một trong
những yếu tố quyết định NLLĐ toàn diện và SCĐ của các TCCSĐ ở các bộ
phận Trong sự chuyển biến rất nhanh của tình hình chính trị-xã hội, trong sự
vận động ngày càng đa dạng, phức tạp của hoạt động kinh tế, đòi hỏi các cấp
ủy đảng phải nắm vững tình hình, đề ra nghị quyết lãnh đạo đúng đắn, tiến
hành quán triệt sâu sắc đến quần chúng và tổ chức thực hiện nghị quyết đã đề
ra. Đội ngũ cán bộ chủ trì là những người trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo vận
dụng và tổ chức thực hiện đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước, nghị quyết của các tổ chức đảng hàng ngày ở từng bộ phận kinh doanh
dịch vụ Khách sạn Chất lượng thực hiện nhiệm vụ của đơn vị phụ thuộc chủ
yếu vào khả năng chỉ huy, quản lý điều hành của đội ngũ này. Đúng như Bác
Hồ đã dạy “Công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”
13


(27-273). Như vậy, cấp ủy đảng và đội ngũ cán bộ chủ trì có chất lượng cao
là cơ sở, là điều kiện để nâng cao NLLĐ toàn diện và SCĐ của tổ chức cơ sở
Đảng ở Công ty .

Thứ tư, NLLĐ và SCĐ của TCCSĐ trong Công ty được bồi đắp thêm
nhờ sức mạnh của các tổ chức, các lực lượng trong đơn vị tổ chức cơ sở Đảng
luôn gắn bó trực tiếp với quần chúng mọi nơi, mọi lúc. Do sự gắn bó đó mà
mọi hoạt động của tổ chức đảng và Đảng viên luôn được quần chúng giám
sát và phản ánh lại, giúp cho từng Đảng viên hoàn thiện mình, giúp cho tổ
chức cơ sở Đảng đánh giá đúng tình hình, nhận thức được những mặt mạnh
cũng như những hạn chế yếu kém của mình để có chủ trương, biện pháp lãnh
đạo phù hợp hơn. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “ Phải luôn do nơi quần
chúng mà kiểm soát những khẩu hiệu và chỉ thị đó có đúng hay không…”
(27-249) “Nếu không như vậy thì những nghị quyết và chỉ thị đó sẽ hóa ra là
lời nói suông, mà còn hại đến lòng tin cậy của nhân dân đối với Đảng” (27250).
Trong các bộ phận thuộc Công ty, lực lượng quần chúng được tập hợp,
sinh hoạt trong các tổ chức Công đoàn, Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ. Dù
chức năng, nhiệm vụ của mỗi tổ chức có khác nhau, nhưng đều cùng một mục
đích giáo dục, vận động đoàn viên, hội viên tích cực tham gia thực hiện
nhiệm vụ chính trị của đơn vị, là nơi phát hiện, bồi dưỡng, rèn luyện, giới
thiệu cho chi bộ những quần chúng ưu tú để kết nạp vào Đảng. Hiệu quả
trong hoạt động của các tổ chức quần chúng góp phần làm cho sức mạnh của
TCCSĐ được nâng lên.
Thứ năm, NLLĐ, SCĐ của các TCCSĐ trong các bộ phận thuộc Công
ty (VYST) được củng cố thêm nhờ sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng ủy Chủ tich
kiêm giám đốc Công ty và hướng dẫn của ban bí thư TWĐ. Là cấp trên của tổ
chức cơ sở Đảng ; với chức năng nhiệm vụ của mình, Đảng ủy, lãnh đạo đơn
vị trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng , tiến
hành công tác Đảng, đoàn thể có trách nhiệm chăm lo bồi dưỡng kiện toàn,
nâng cao chất lượng cấp ủy và đội ngũ cán bộ, Đảng viên, hướng dẫn, kiểm
tra việc chấp hành nguyên tắc tổ chức, chế độ sinh hoạt đảng và hoạt động
của tổ chức cơ sở đảng.
Những nhân tố tạo thành NLLĐ và SCĐ của các TCCSĐ ở các bộ phận
trong Công ty đã nêu ở trên có mối quan hệ biện chứng thống nhất với nhau,

nhân tố này là tiền đề cho nhân tố kia và ngược lại, tuy nhiên vị trí vai trò
của các nhân tố này không ngang bằng nhau, trong đó chất lượng của đội
ngũ Đảng viên và cấp ủy đảng là nhân tố cơ bản, quyết định nhất. Nói như
vậy không có nghĩa là những yếu tố khách quan khác thì không cần lưu ý
như: âm mưu thủ đoạn của kẻ thù, sự tác động mặt trái của cơ chế thị trường,
sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, kỹ thuật, công nghệ, cũng như tình hình
chính trị-kinh tế-xã hội của địa bàn, của đất nước. Nhưng rõ ràng, những yếu
tố này không phải là yếu tố quyết định, mà hoàn toàn có thể giải quyết theo
14


hướng giữ vững và nâng cao NLLĐ và SCĐ của tổ chức cơ sở Đảng bằng
nhân tố chủ quan là chất lượng đội ngũ Đảng viên và cấp ủy đảng.
1.1.4 Nội dung nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ
chức cơ sở đảng trong Công ty .
Điều 21 Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam (Đại hội X) đã xác định:
“TCCSĐ (chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở) là nền tảng của Đảng, là hạt nhân
chính trị ở cơ sở”. Tổ chức cơ sở Đảng trong đơn vị là nơi thực hiện sự lãnh
đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Công ty từ cơ sở. Với
những đặc điểm về tổ chức, tính chất nhiệm vụ và hoạt động của đơn vị , các
TCCSĐ có NLLĐ và SCĐ cao mới nắm vững đường lối, chủ trương của
Đảng, Nhà nước, tình hình chính trị-kinh tế-xã hội của đất nước và thế giới,
bồi dưỡng bản chất giai cấp công nhân và xây dựng phẩm chất cách mạng,
bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ , công nhân viên , phát huy tiềm năng
của các tổ chức, mỗi thành viên trong đơn vị , quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ
được giao. Và như vậy TCCSĐ mới thực sự trở thành hạt nhân lãnh đạo
chính trị trong đơn vị. .
Trước sự tác động gay gắt của cơ chế thị trường, việc giữ gìn và phát
triển năng lực sản xuất kinh doanh tại đơn vị, giữ vững định hướng nhiệm vụ
chính trị của Công ty , giải quyết mâu thuẫn giữa lợi ích kinh tế với thực hiện

nhiệm vụ sản xuất kinh doanh, đòi hỏi TCCSĐ ở đơn vị phải có những dự
báo, nắm bắt tình hình, nhạy bén với những vấn đề mới; đề ra được nghị
quyết lãnh đạo đúng đắn, phù hợp, xây dựng chiến lược sản xuất kinh doanh ,
những chủ trương, biện pháp tổ chức thực hiện thắng lợi nghị quyết, giữ vững
định hướng nhiệm vụ chính trị của một đơn vị. Có NLLĐ và SCĐ, TCCSĐ
mới giải quyết tốt được mối quan hệ giữa cấp ủy và người giám đốc, phát huy
trách nhiệm cá nhân, tính năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm của giám
đốc và đội ngũ cán bộ, Đảng viên, đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh
doanh của Công ty đúng hướng, có hiệu quả, chấp hành nghiêm pháp luật
Nhà nước, các quy định của Công ty .
Có NLLĐ và SCĐ; tổ chức cơ sở Đảng mới xây dựng được bộ máy tổ
chức chỉ huy hợp lý, có hiệu lực, xây dựng được các quy chế làm việc, phân
định rõ chức năng lãnh đạo và chức năng điều hành sản xuất kinh doanh,
thực hiện được chức năng kiểm tra toàn diện đối với mọi hoạt động của mọi
tổ chức, cá nhân trong đơn vị trong việc thực hiện nghị quyết của tổ chức
đảng các cấp.
Trong đơn vị, các tổ chức quần chúng vừa là lực lượng chủ yếu để thực
hiện nhiệm vụ chính trị của Công ty, vừa là lực lượng nòng cốt để xây dựng
tổ chức đảng. Lãnh đạo, xây dựng các tổ chức quần chúng vững mạnh, hoạt
động đúng chức năng nhiệm vụ, mở rộng dân chủ ở Công ty, vừa là trách
nhiệm, vừa thể hiện vai trò “người nhạc trưởng” của TCCSĐ trong Công ty .
NLLĐ và SCĐ càng cao thì TCCSĐ càng giữ vững được vai trò lãnh
đạo của mình, là điều kiện để củng cố sự đoàn kết thống nhất, giữ nghiêm nề
nếp, nguyên tắc tổ chức sinh hoạt, xây dựng đội ngũ cán bộ Đảng viên. NLLĐ
15


và SCĐ của TCCSĐ chính là yếu tố quyết định để xây dựng tổ chức cơ sở
Đảng vững mạnh, xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện. Hay nói cách khác,
NLLĐ và SCĐ của TCCSĐ ở các đơn vị thuộc Công ty góp phần nâng cao uy

tín và sức mạnh lãnh đạo của tổ chức đảng, quyết định sự phát triển đúng định
hướng, xây dựng đơn vị vững mạnh, luôn luôn hoàn thành mọi nhiệm vụ
được giao và điều đó có ý nghĩa quyết định sự tồn tại hay không tồn tại trên
thực tế đối với mỗi đơn vị thuộc Công ty .
1.2 Cơ sở thực tiễn của nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của tổ chức cơ sở Đảng.
1.2.1. Cơ sở thực tiễn của Đảng bộ trong việc nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của tooe chức cơ sở Đảng.
Đảng ta luôn quan tâm đến việc không ngừng nâng cao NLLĐ, SCĐ
của các TCCSĐ và xác định đây là yêu cầu khách quan, cấp bách mang tính
quy luật trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay. Do tổ chức, chức
năng, nhiệm vụ, cơ chế hoạt động ở các bộ phận tại Công ty có những đặc
điểm riêng biệt,nên việc nâng cao NLLĐ, SCĐ của các TCCSĐ trong các bộ
phận này ngoài những vấn đề chung như ở các loại hình tổ chức khác, còn
cần có những nội dung, biện pháp riêng cho phù hợp.
Nâng cao NLLĐ, SCĐ của các TCCSĐ ở các bộ phận Công ty là phát
huy mọi tiềm năng của yếu tố nội sinh và cả yếu tố khách quan; khắc phục
hạn chế để làm cho TCCSĐ có khả năng tốt hơn, lãnh đạo Công ty hoàn
thành nhiệm vụ sản xuất kinh daonh trong cơ chế thị trường, đồng thời đáp
ứng mọi yêu cầu phục vụ kinh doanh trên cơ sở bảo toàn và phát triển được
năng lực sản xuất kinh doanh .
Từ những luận giải về NLLĐ, SCĐ của TCCSĐ nêu trên, có thể khẳng
định rằng: Nâng cao NLLĐ, SCĐ của tổ chức cơ sở Đảng ở bộ phận thuộc
Công ty là nâng cao vai trò, khả năng và hiệu lực lãnh đạo toàn diện của tổ
chức đảng đối với mọi hoạt động của đơn vị. Nâng cao NLLĐ, SCĐ của
TCCSĐ ở các bộ phận nhằm xây dựng bản thân TCCSĐ trong sạch vững
mạnh, thực sự trở thành hạt nhân lãnh đạo chính trị ở Công ty, xây dựng đơn
vị vững mạnh toàn diện, các tổ chức quần chúng trong đơn vị vững mạnh
xuất sắc.
NLLĐ, SCĐ của tổ chức cơ sở Đảng được tạo thành từ chất lượng đội

ngũ cán bộ, Đảng viên, cấp ủy các cấp, từ chi bộ đến đảng ủy cơ sở. Vì vậy
nâng cao NLLĐ, SCĐ của tổ chức cơ sở Đảng phải làm cho mọi cán bộ, Đảng
viên, các tổ chức đảng nhận thức rõ trách nhiệm của mình trong việc tự giác
học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ mọi mặt, tích cực tham gia vào nhiệm vụ
lãnh đạo đơn vị, xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh .
NLLĐ, SCĐ của tổ chức cơ sở Đảng ở các bộ phận Công ty được thể
hiện rất đa dạng, phong phú; được tạo nên bởi cả yếu tố chủ quan, cả những
yếu tố khách quan khác, nhưng yếu tố tự thân là chính. Vì vậy chủ thể tác
16


động để nâng cao NLLĐ, SCĐ của TCCSĐ là đội ngũ cán bộ, Đảng viên và
cấp ủy.
Hoạt động của các bộ phận rất rộng, phức tạp trên nhiều lĩnh vực: chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… Vì vậy mọi chủ trương, biện pháp lãnh đạo
Công ty đều là sản phẩm trí tuệ tập thể của đội ngũ Đảng viên, đặc biệt tập
trung ở cấp ủy và đội ngũ cán bộ chủ trì. Mỗi Đảng viên ở từng lĩnh vực công
tác của mình, vừa có trách nhiệm trực tiếp thực hiện nghị quyết của cấp ủy,
vừa thể hiện vai trò là người tổ chức, hướng dẫn cho quần chúng cùng thực
hiện; qua đó thẩm định tính đúng đắn của nghị quyết, giúp cho cấp ủy điều
chỉnh, hoàn thiện kịp thời, nâng cao hiệu quả lãnh đạo. Trong đơn vị, mọi tổ
chức, mọi cá nhân vừa là đối tượng lãnh đạo, nhưng cũng vừa là lực lượng
trực tiếp góp phần nâng cao NLLĐ và SCĐ của TCCSĐ; tuy nhiên, vai trò tác
dụng của từng lực lượng này có tác dụng không ngang nhau.
Tổ chức chỉ huy là nơi cụ thể hóa chủ trương nghị quyết của cấp ủy
thành những mục tiêu, nhiệm vụ trong sản xuất kinnh doanh cũng như trong
xây dựng Công ty. Với thẩm quyền là chủ tài khoản Công ty , ban giám đốc
có trách nhiệm tạo điều kiện về lực lượng, phương tiện, vật chất, tài chính cho
các hoạt động công đoàn, đoàn thanh niên, làm cho hoạt động công đoàn,
đoàn thanh niên tạo nên động lực tinh thần cho mọi thành viên trong thực

hiện nhiệm vụ chính trị của mình. Tổ chức chỉ huy là lực lượng trực tiếp, có
hiệu quả nhất trong nâng cao NLLĐ, SCĐ của tổ chức cơ sở Đảng .
Sức mạnh của Đảng bắt nguồn từ mối quan hệ máu thịt với quần chúng,
tổ chức cơ sở Đảng trong Công ty là cầu nối giữa Đảng với quần chúng, là
người trực tiếp tổ chức các phong trào cách mạng của quần chúng, tạo điều
kiện cho các tổ chức quần chúng thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình,
chăm lo đời sống, giải quyết những tâm tư nguyện vọng của quần chúng và
qua thực tiễn hoạt động của các tổ chức quần chúng, tiếp thu những sáng kiến,
kinh nghiệm của quần chúng để bổ sung, hoàn thiện chủ trương lãnh đạo. Với
đặc điểm của sản xuất công nghiệp, quần chúng trong các bộ phận thuộc
Công ty là những người được đào tạo nghề nghiệp cơ bản, làm việc trong các
dây chuyền sản xuất có tổ chức chặt chẽ, kỷ luật nghiêm túc, được chọn lọc
đảm bảo các tiêu chuẩn chính trị nhất định, nên nếu biết giáo dục, vận động,
khơi dậy và phát huy sức mạnh tiềm tàng của họ, thì họ sẽ là một lực lượng
quan trọng nâng cao NLLĐ và SCĐ của TCCSĐ.
Nâng cao NLLĐ, SCĐ của TCCSĐ ở các bộ phận Công ty không thể
tách rời sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng ủy, Thủ trưởng đơn vị, hướng dẫn
của TWĐ. Do tổ chức lực lượng, nhiệm vụ chính trị, nhất là nhiệm vụ sản
xuất kinh doanh của Công ty trong từng thời kỳ có sự thay đổi theo yêu cầu
của cấp trên, đặt trong tổng thể hệ thống nhiệm vụ của các bộ phận Công ty ,
nên nội dung công tác xây dựng TCCSĐ phải được đặt dưới sự lãnh đạo
thống nhất của cấp ủy đảng, hướng dẫn của cơ quan chính trị cấp trên mới
đúng hướng và có hiệu quả.
17


Để có sức mạnh hoàn thành tốt vai trò, chức năng của mình, TCCSĐ
phải nâng cao được cả NLLĐ, cả SCĐ. Nâng cao NLLĐ là cơ sở để củng cố
và tăng cường SCĐ; nâng cao SCĐ chính là làm cho NLLĐ của TCCSĐ được
phát huy, có hiệu quả hơn. Biện pháp nâng cao NLLĐ và SCĐ của TCCSĐ

trong các bộ phận Công ty phải phát huy được tính tích cực, chủ động của
chủ thể là đội ngũ cán bộ, Đảng viên và cấp ủy các cấp trong bộ phận, đồng
thời tranh thủ sự hướng dẫn chỉ đạo của Đảng ủy Thủ trưởng Công ty, động
viên được trách nhiệm tham gia xây dựng tổ chức đảng của các tổ chức, lực
lượng quần chúng trong đơn vị .
Nâng cao NLLĐ, SCĐ của TCCSĐ ở các bộ phận là nhiệm vụ tuy có
nhiều khó khăn nhưng đó là vấn đề cấp thiết và hoàn toàn có thể thực hiện
thắng lợi, góp phần vào cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay.
1.2.1. Cơ sở thực tiễn của Đảng bộ trong việc nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng
Nâng cao NLLĐ, SCĐ của TCCSĐ trong bộ phận phải đảm bảo sự
lãnh đạo toàn diện của TCCSĐ đối với mọi hoạt động của Công ty trên cơ sở
quán triệt quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước
về quản lý kinh tế-xã hội, xây dựng phát triển Công ty. Trong quá trình lãnh
đạo sự nghiệp đổi mới, đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
Đảng ta chủ trương tổ chức sắp xếp, đổi mới nâng cao hiệu quả của các doanh
nghiệp Nhà Nước, trong đó có Công ty. Cùng với nhiều hình thức sở hữu
nguồn vốn, phân định rõ chức năng lãnh đạo của tổ chức đảng với điều hành
quản lý của đại diện chủ sở hữu, nhưng được phép tham gia các hình thức sở
hữu khác để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, phục vụ cho mục tiêu
phát triển năng lực sản xuất Công ty Vì vậy các TCCSĐ phải nắm vững
đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các quy định của cơ
quan cấp trên (TWĐ) và thực tiễn của doanh nghiệp để đề ra chủ trương
lãnh đạo phù hợp, phát huy được thuận lợi, vượt qua khó khăn, đáp ứng yêu
cầu trước mắt và lâu dài, đưa Công ty phát triển bền vững, đúng định hướng
nhiệm vụ.
Nâng cao NLLĐ, SCĐ của TCCSĐ phải toàn diện trên cơ sở xây dựng
chính trị, tư tưởng, tổ chức, lấy xây dựng đội ngũ Đảng viên làm then chốt.
Trong điều kiện quản lý kinh tế mới, mất dần đi những điều kiện ưu đãi, bao
cấp; phải cùng “sân chơi”, cùng “luật chơi” với các Công ty thành phần kinh

tế khác. Những tác động của mặt trái cơ chế thị trường cùng với âm mưu
“diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch đối với Công ty là những vấn đề
làm cho cán bộ, Đảng viên, và cả các tổ chức cơ sở Đảng trong Công ty dễ bị
chệch hướng. Dù trong cơ chế quản lý kinh tế vẫn là một bộ phận của đơn vị
trực thuộc TWĐ các tổ chức cơ sở Đảng vẫn là tế bào của Đảng bộ TWĐ Vì
vậy phải trên cơ sở xây dựng chính trị, tư tưởng và tổ chức vững vàng thì việc
nâng cao NLLĐ, SCĐ của tổ chức cơ sở Đảng mới bám sát và đáp ứng được
yêu cầu lãnh đạo ở Công ty Muốn làm được điều đó, TCCSĐ phải có đội ngũ
18


Đảng viên đủ về số lượng, cơ cấu hợp lý, chất lượng cao làm nòng cốt để việc
nâng cao NLLĐ, SCĐ có hiệu quả thiết thực.
Nâng cao NLLĐ, SCĐ của TCCSĐ trên cơ sở tuân thủ nguyên tắc tập
trung dân chủ, chấp hành nghiêm nghị quyết, chỉ thị, mệnh lệnh của cấp trên,
giữ vững sự đoàn kết, thống nhất trong cấp ủy, tổ chức đảng và trong toàn
đơn vị. Trong hoạt động của Công ty, hiệu quả sản xuất kinh doanh phụ thuộc
rất lớn, nhiều khi chủ yếu vào người giám đốc. Cho nên, tuy cùng trong cấp
ủy, nhưng nếu ý thức đảng không cao, người giám đốc vẫn thường có tâm lý
là “cấp trên”. Cộng với việc giải quyết không tốt mối quan hệ giữa cấp ủy với
ban giám đốc, đặc biệt khi cấp ủy đã mất đoàn kết thì cũng khó giữ được sự
đoàn kết trong tổ chức đảng, tạo nên sự hoang mang, mất lòng tin trong toàn
đơn vị. Như vậy vai trò lãnh đạo của TCCSĐ sẽ bị suy giảm, không có điều
kiện để nâng cao được NLLĐ và SCĐ. Nâng cao NLLĐ, SCĐ của TCCSĐ
chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở chấp hành nghiêm nguyên tắc tập trung
dân chủ, giữ vững sự đoàn kết thống nhất trong cấp ủy và toàn Công ty .
Nâng cao NLLĐ, SCĐ của TCCSĐ là trách nhiệm của mọi tổ chức,
mọi lực lượng trong Công ty, trong đó trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, Đảng
viên và cấp ủy là quyết định. Từ luận giải về những yếu tố tạo thành NLLĐ
và SCĐ của TCCSĐ ở bộ phận có thể khẳng định: muốn nâng cao được

NLLĐ, SCĐ, TCCSĐ phải phát huy được trách nhiệm của tổ chức chỉ huy,
của các tổ chức quần chúng và mọi thành viên trong Công ty. Đây là những
lực lượng cùng tạo nên sức mạnh tổng hợp xây dựng TCCSĐ vững mạnh, có
NLLĐ và SCĐ cao. Tuy nhiên, tất cả sức mạnh của các lực lượng đó phải
thông qua đội ngũ cán bộ, Đảng viên, đặc biệt là cấp ủy, để được triển khai
thành những chủ trương, biện pháp cụ thể, mới có tác dụng thiết thực.
Nâng cao NLLĐ, SCĐ của TCCSĐ trong các bộ phận không thể tách
rời sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng ủy, Thủ trưởng và hướng dẫn của Đảng
ủy TWĐ . Đảng ủy, Thủ trưởng phải nắm vững đặc điểm tình hình, nhiệm vụ
của đơn vị , trên cơ sở yêu cầu của công tác xây dựng Đảng trong đơn vị để
lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn các TCCSĐ ở các bộ phận tiến hành công tác
giáo dục chính trị, tư tưởng, kiện toàn tổ chức và xây dựng đội ngũ cán bộ,
Đảng viên, tổ chức kiểm tra, uốn nắn, chấn chỉnh kịp thời những sai sót yếu
kém để các TCCSĐ thực sự có NLLĐ toàn diện, SCĐ cao, lãnh đạo Công ty
hoàn thành mọi nhiệm vụ.
Quá trình nâng cao NLLĐ, SCĐ của TCCSĐ phải kết hợp chặt chẽ với
các mặt công tác khác trong DN. Mỗi bước tiến bộ trong nâng cao NLLĐ,
SCĐ của TCCSĐ là điều kiện để thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ, đồng thời
kết quả cao trong các mặt công tác, hoạt động của DN là cơ sở để nâng cao
NLLĐ, SCĐ của TCCSĐ.
1.2.2 Đối với đất nước,địa phương
Những thành tựu đã đạt được, những tiềm năng được khai thác, những
kinh nghiệm có giá trị đều bắt nguồn từ sự nỗ lực phấn đấu của quần chúng ở
cơ sở mà hạt nhân là tổ chức đảng. Nhưng mặt khác sự yếu kém của nhiều
19


TCCSĐ đã hạn chế những thành tựu của cách mạng. Muốn Đảng mạnh thì
phải có TCCSĐ mạnh, muốn TCCSĐ mạnh thì phải không ngừng củng cố,
nâng cao NLLĐ, SCĐ. NLLĐ và SCĐ của TCCSĐ là hai thành tố gắn bó

chặt chẽ với nhau trong một chỉnh thể, vừa tạo nên, vừa là biểu hiện rõ nét
nhất sức mạnh và độ bền vững của TCCSĐ. NLLĐ và SCĐ là kết quả của cả
quá trình xây dựng và hoạt động thực tiễn của TCCSĐ, được quyết định cơ
bản bởi những yếu tố tự thân, điều kiện chủ quan, đồng thời với sự lãnh đạo,
chỉ đạo của các cấp ủy cấp trên. NLLĐ và SCĐ của TCCSĐ ở các bộ phận
trong Công ty là yếu tố quyết định việc hoàn thành nhiệm vụ sản xuất kinh
doanh (VYST), nâng cao hiệu quả hoạt động kinh tế, đưa Công ty phát triển
đúng định hướng, bảo toàn và phát triển được năng lực sản xuất kinh daonh
hoàn thanh vượt mức kế hoạch đưa ra TWĐ, giữ vững sự ổn định chính trị, tư
tưởng, xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện .

20


Chương II
THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM NÂNG CAO
NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO, SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA TỔ CHỨC CƠ SỞ
ĐẢNG CÔNG TY TNHH MTV PHÁT TRIỂN DU LỊCH DỊCH VỤ
TNVN TRONG NĂM 2012-2015
2.1 Khái quát về tình hình hoạt động của Công ty.
Tiền thân của Công ty là đơn vị thuộc TWĐ Thanh Niên Cộng Sản Hồ
Chí Minh . Có chức năng nghiên cứu tham mưu đề xuất cho Ban Bí thư trung
ương Đoàn về chủ chương,hoạt động tham quan Du Lịch đảm bảo nội dung
giáo dục của Đoàn phù hợp với tuổi trẻ .
- Phối hợp chặt chẽ với Tổng cục du lịch Việt Nam để tổ chức hoạt
động du lịch cho Thanh thiếu niên Việt Nam và khách Quốc tế.
- Quan hệ với Hội đồng du lịch thanh niên thế giới và tổ chức du lịch
của Thanh niên các nước Xã Hội Chủ Nghĩa để trao đổi kinh nghiệm và phối
hợp hoạt động du lịch đào tạo cán bộ.
Hầu hết các bộ phận ở Công ty về tổ chức được xây dựng có khoa

học, bao gồm; Bộ phận Nhà hàng, bộ phận khách sạn, Bộ phận kinh doanh,
bộ phận kỹ thuật, bảo vệ, Nhà khách Đồ Sơn, Trung tâm hoạt động và Giao
lưu Thanh Thiếu Niên Việt Nam, các bộ phận hoạt động trên lĩnh vực kinh
doanh đúng nghành nghề, đúng chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước, quy định của TWĐ; chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của
người lao động. Trong Công ty, theo cấp độ tổ chức, tổ chức đảng có các loại
hình tương ứng: Đảng bộ cấp trên trực tiếp cơ sở, Đảng bộ cơ sở, Đảng bộ bộ
phận và các chi bộ. Đảng bộ cấp trên trực tiếp cơ sở, Công ty chia ra làm các
tổ Đảng ở các bộ phận. Đảng bộ cơ sở, Đảng bộ bộ phận được tổ chức ở Công
ty, các tổ Đảng thuộc Chi Bộ Công ty .
2.2. Thực trạng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ
chức cơ sở đảng ở ( VYST)
2.2.1. Những ưu điểm và thành tựu
Khi đất nước chuyển từ nền kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp sang
nền kinh tế thị trường, các bộ phận trong Công ty cũng từng bước vượt qua
khó khăn, thử thách để tồn tại và thích nghi dần với cơ chế mới. Tuy nhiên, sự
chuyển hóa về nội dung, phương thức lãnh đạo của các tổ chức cơ sở Đảng
chưa theo kịp với sự phát triển của tình hình nhiệm vụ.
Nhận thức rõ yêu cầu đòi hỏi mới, để nâng cao NLLĐ và SCĐ của các
tổ chức Đảng trong Đảng bộ Công ty, Căn cứ vào hướng dẫn của Đảng ủy
Trung ương Đoàn về việc thực hiện nghị quyết TW ( khóa XI) chuyển biến
sâu sắc về ý thức trách nhiệm chính trị của các cấp ủy, mọi CB, ĐV đối với
công tác xây dựng Đảng”; đồng thời “Tập trung sức xây dựng hệ thống tổ
chức cơ sở Đảng vững mạnh toàn diện , phát huy vai trò hạt nhân lãnh đạo
21


chính trị và đoàn kết, từng bước làm chuyển biến tình hình những tổ chức cơ
sở yếu kém...”. Nghị quyết xác định: “cần kiện toàn và bồi dưỡng đội ngũ bí
thư đảng các cấp. Bí thư là người chủ trì công tác của cấp ủy, thực sự được

tín nhiệm qua dân chủ bầu cử, có phẩm chất đạo đức, năng lực, bản lĩnh xử
trí tình huống khó khăn và khả năng đoàn kết. Không phân biệt cán bộ chính
trị hoặc cán bộ chỉ huy”; phải “Củng cố kiện toàn cơ quan chính trị và đội
ngũ cán bộ chính trị cả về cơ cấu, số lượng và chất lượng, cả cán bộ chủ trì,
cơ quan và cơ sở để nâng cao hiệu lực xây dựng Đảng và công tác chính trị”.
Trước tình hình nhiệm vụ và thực trạng của các TCCSĐ; các bộ phận
có sự chuyển quan trọng, NLLĐ và SCĐ dần được nâng lên, thể hiện ở một
số nội dung chủ yếu:
Chi bộ đã quan tâm lãnh đạo xây dựng các TCCSĐ, chỉ đạo kiện toàn
về tổ chức, chăm lo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ,Đảng viên, trước hết là về
chính trị, tư tưởng. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ ( 2012- 2015 ) xác định rõ
những nội dung trọng tâm của công tác xây dựng Đảng trong Công ty là:
“Tiếp tục thực hiện cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng với quyết tâm
nỗ lực cao hơn, xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh, phát huy bản
chất giai cấp công nhân, giữ vững nguyên tắc “Đảng lãnh đạo Công ty tuyệt
đối, trực tiếp về mọi mặt”, nâng cao tính tiền phong, gương mẫu của Đảng
viên. Bồi dưỡng nâng cao trình độ, kiến thức, NLLĐ toàn diện và SCĐ của tổ
chức đảng và đội ngũ Đảng viên làm nòng cốt xây dựng Công ty vững mạnh
toàn diện, khắc phục những yếu kém, ngăn chặn và đẩy lùi những suy thoái,
tạo sự chuyển biến tích cực trên cả ba mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức”.
Nghị quyết Đại hội Đản bộ Công ty nhấn mạnh: “Tiếp tục đẩy mạnh
thực hiện cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị
quyết TW6( lần 2), nâng cao NLLĐ toàn diện và SCĐ của các cấp uỷ, tổ chức
đảng, nâng cao tính tiên phong gương mẫu của đội ngũ đảng viên, xây dựng
cấp uỷ, tổ chức đảng trong sạch vững mạnh làm nòng cốt xây dựng Công ty
vững mạnh toàn diện, đáp ứng yêu cầu phát triển nhiệm vụ của Công ty
trong tình hình mới ”.
Nhờ đó, nhận thức về vai trò hạt nhân chính trị của TCCSĐ trong Công
ty được đúng đắn hơn. Các cấp ủy, tổ chức đảng ở cơ sở đã chủ động nắm bắt
tình hình, lãnh đạo chặt chẽ công tác giáo dục chính trị tư tưởng; tập trung

hướng vào việc nâng cao nhận thức cho cán bộ, Đảng viên về chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước; đặc biệt là Nghị quyết 27/QĐ-TW ngày
16/6/2003 của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và phát triển CNQP; Pháp
lệnh . Quán triệt cho cán bộ, Đảng viên ,công nhân viên có nhận thức đầy đủ
và đúng đắn về đường lối chính trị, các quan điểm về xây dựng và phát triển
kinh doanh ; về nhiệm vụ chính trị của đơn vị , cũng như của mỗi đơn vị. Các
hoạt động chính trị, tư tưởng đã hướng vào việc phát huy tinh thần dân chủ,
tập trung trí tuệ của cán bộ , Đảng viên vào xây dựng các chủ trương, biện
pháp cụ thể, sát đúng để lãnh đạo Công ty; nâng cao trách nhiệm chính trị,
22


động viên tinh thần chủ động, sáng tạo, khắc phục khó khăn, nâng cao hiệu
quả công tác, gắn với nhiệm vụ, chức trách của tập thể và cá nhân.
Lãnh đạo chặt chẽ, sâu sát, nhạy bén về công tác tư tưởng luôn là nội
dung, nhiệm vụ cơ bản của tổ chức đảng trong toàn Công ty và đã được các
bộ phận thực hiện nghiêm túc, có chất lượng, hiệu quả. Cơ quan chính trị, cán
bộ chính trị các cấp đã phát huy được chức năng tham mưu cho cấp ủy, chỉ
huy về công tác tư tưởng, đồng thời là lực lượng chủ trì tiến hành công tác
giáo dục chính trị, tư tưởng. Công tác này được tiến hành sâu rộng, toàn diện
theo nội dung, chương trình quy định của TWĐ, gắn với tình hình, nhiệm vụ
của Công ty. Những hoạt động tích cực, thường xuyên trong công tác giáo
dục chính trị đã góp phần quan trọng giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng
trong toàn Công ty cũng như trong mỗi bộ phận .
Căn cứ vào nhiệm vụ của Công ty, tình hình cụ thể của TCCSĐ, các
cấp ủy đã luôn quan tâm đến việc nâng cao NLLĐ, SCĐ của tổ chức mình
qua nội dung xây dựng tổ chức đảng trong các nghị quyết thường kỳ hoặc
nghị quyết chuyền đề. Các vấn đề về kiện toàn tổ chức đảng, các tổ chức chỉ
huy, tổ chức quần chúng, đào tạo bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ, Đảng
viên , nhất là cấp ủy và cán bộ chủ chốt, đổi mới nội dung, phương thức lãnh

đạo của cấp ủy, giữ vững nguyên tắc sinh hoạt đảng, thực hiện công tác kiểm
tra, luôn được quan tâm lãnh đạo, tổ chức thực hiện có hiệu quả.
Các cấp ủy, tổ chức đảng đã nghiêm túc chấp hành Điều lệ Đảng, qui
định của Đảng ủy TWĐ về tổ chức sự lãnh đạo của Đảng trong đơn vị. Hệ
thống tổ chức đảng đã được kiện toàn củng cố tương ứng với hệ thống tổ
chức chỉ huy. Hiện tại có 5/5 bộ phận có tổ chức đảng trực thuộc chi bộ Công
ty (trong đó có 26 đảng viên= 23% được chia làm 5 tổ Đảng tương ứng với 5
bộ phận chuyên môn chính trị của đơn vị ). Chi ủy gồm 5 đồng chí
Các cấp ủy đảng đã thường xuyên chăm lo kiện toàn tổ chức đảng, gắn
việc củng cố kiện toàn tổ chức đảng với chấn chỉnh, kiện toàn tổ chức chính
quyền; từng bước cụ thể hóa cơ chế lãnh đạo của Đảng cho phù hợp với quy
mô tổ chức lực lượng, tính chất, nhiệm vụ của từng loại hình đơn vị, nhất là
các đơn vị sản xuất kinh doanh dịch vụ, bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất từ
ban lãnh đạo xuống các bộ phận thực hiện nghiêm nguyên tắc tổ chức và chế
độ sinh hoạt Đảng, đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao chất lượng sinh
hoạt, đẩy mạnh công tác kiểm tra, tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong
đảng bộ, đơn vị. Trong xây dựng tổ chức đảng ở các bộ phận, luôn lấy xây
dựng chi bộ làm khâu then chốt; kết hợp chặt chẽ xây dựng đội ngũ cán bộ
với xây dựng đội ngũ Đảng viên , kiện toàn cấp ủy với sắp xếp, bổ nhiệm cán
bộ chủ trì, gắn xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh với xây dựng
đơn vị vững mạnh toàn diện. Chú trọng kiện toàn cấp uỷ và tổ chức đảng cho
phù hợp với việc chấn chỉnh tổ chức lực lượng và tình hình, đặc điểm sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Qua các kỳ đại hội, chất lượng cấp uỷ
được nâng lên, cấp uỷ viên mới chiếm 23%, đảng uỷ viên có trình độ đại học
và trên đại học trên 90%, hầu hết cán bộ chủ trì đều trúng cấp uỷ với số phiếu
23


tín nhiệm cao. Công tác xây dựng nâng cao chất lượng đội ngũ Đảng viên
được các đảng bộ quan tâm chỉ đạo, gắn với xây dựng đội ngũ cán bộ. Đại đa

số Đảng viên phát huy được vai trò tiên phong gương mẫu, có phẩm chất đạo
đức tốt, có trách nhiệm đối với nhiệm vụ được giao, được quần chúng tín
nhiệm. Công tác phát triển đảng trong các Công ty được chú trọng, hàng năm
kết nạp trên 07 đồng chí, tăng 2 đồng chí so với chỉ tiêu năm trước. Hiện còn
5 đồng chí đang chờ chuẩn y của Đảng ủy TWĐ, cử được 9 đồng chí đi học
lớp nhận thức về Đảng. Việc kết nạp và chuyển Đảng chính thức chi bộ làm
rất công phu tỉ mỉ và đúng quy định. Các đồng chí Đảng viên mới được xem
xét kết nạp vào Đảng đảm bảo chất lượng đã phát huy được phẩm chất của
người Đảng viên bổ xung được đội ngũ, tăng cường sức chiến đấu chi bộ.
Việc đánh giá phân loại tổ chức đảng và Đảng viên được tiến hành
nghiêm túc, có chất lượng; NLLĐ và SCĐ của các TCCSĐ trong các bộ phận
được nâng lên. Thực hiện nghiêm nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công
tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ. Đội ngũ cán bộ hiện nay, đa số đào tạo
cơ bản, 89 % đội ngũ cán bộ và 100% cán bộ chủ trì có trình độ đại học và
trên đại học, 83% cán bộ là Đảng viên, còn lại là trình độ trung cấp và tương
đương. Tích cực triển khai kế hoạch đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ đáp
ứng yêu cầu trước mắt và chuẩn bị cho nhiệm vụ lâu dài (nhất là đội ngũ cán
bộ chủ trì, cán bộ quản lý, cán bộ chuyên môn các ngành đặc thù kinh
doanh). Số cán bộ có các ngành nghề phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ sản xuất
kinh doanh đã được quan tâm đào tạo và tuyển chọn, tỷ lệ ngày càng tăng lên
như: nhân viên phục vụ buồng, bàn …… từng bước khắc phục sự mất cân đối
về ngành nghề đào tạo trong đội ngũ cán bộ. Nhìn chung đội ngũ cán bộ
trong các bộ phận có bản lĩnh chính trị vững vàng, có lối sống trong sạch,
lành mạnh, gắn bó với ngành kinh doanh khách sạn nhà hàng, được quần
chúng tín nhiệm; có kiến thức, kinh nghiệm trong tổ chức, quản lý, chỉ đạo,
đảm bảo quá trình sản xuất kinh doanh phục vụ chuyên nghiệp có trình độ kỹ
năng nghề nghiệp, mạnh dạn dám nghĩ, dám làm; có khả năng nắm bắt, vận
dụng đường lối, chính sách của Đảng vào thực tiễn công tác. Đây chính là sự
đảm bảo quan trọng để hiệu quả lãnh đạo của các cấp uỷ đảng được phát huy
trên thực tế, là tiền đề vững chắc tạo nên bước phát triển cao hơn của các

đảng bộ, Công ty trong giai đoạn tới.
Sự lãnh đạo toàn diện của TCCSĐ đối với mọi hoạt động của đơn vị
được đảm bảo; nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ
trách được giữ vững. Việc xây dựng, bổ sung và hoàn thiện quy chế làm việc
của cấp uỷ, chi bộ được coi trọng; đồng thời cũng lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng
hệ thống quy chế làm việc trong các bộ phận , nhất là các quy chế, quy định
về kinh tế, tài chính, quản lý và sử dụng lao động, phân phối thu nhập...Hệ
thống quy chế đó là cơ sở để bảo đảm thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ
theo quy định Công ty, thống nhất lãnh đạo mọi hoạt động của đơn vị và giải
quyết tốt mối quan hệ giữa lãnh đạo, chỉ huy.
Nội dung và phương thức lãnh đạo của các cấp ủy đảng từng bước
được đổi mới phù hợp với nhiệm vụ và điều kiện hoạt động của các bộ phận
24


thực hiện tốt cơ chế “Đảng lãnh đạo, Giám đốc điều hành, Công nhân làm
chủ”, thống nhất quy trình ra nghị quyết và tổ chức triển khai kiểm tra thực
hiện nghị quyết; nghị quyết đề ra ngày càng sát hợp và có tính khả thi. Nề
nếp, chế độ sinh hoạt, chế độ “Ngày Đảng” được các cấp uỷ, chi bộ duy trì
khá tốt; ngoài sinh hoạt ra nghị quyết lãnh đạo toàn diện, chú trọng ra nghị
quyết lãnh đạo chuyên đề, tập trung giải quyết những vấn đề trọng yếu của
Công ty. Chất lượng sinh hoạt của các cấp ủy, chi bộ được nâng lên cả về tính
lãnh đạo, tính giáo dục và tính chiến đấu. Đặc biệt đã lãnh đạo và tiếp tục
thực hiện nghiêm túc cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng, tạo ra sự
chuyển biến quan trọng trong công tác xây dựng đảng, góp phần giữ gìn sự
đoàn kết, thống nhất trong đảng bộ, đơn vị. Công tác bồi dưỡng lý luận,
nghiệp vụ về công tác xây dựng đảng cho cấp uỷ mới được chú trọng, có nội
dung phù hợp, kết hợp giữa yêu cầu chung của Đảng bộ Tổng cục với thực tế
tổ chức đảng ở các bộ phận .
Công tác kiểm tra đảng có sự chuyển biến rõ nét. Nội dung kiểm tra

tập trung chủ yếu vào việc thực hiện nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng
đảng; kiểm tra Đảng viên về lập trường chính trị, tư tưởng, thực hiện chức
trách nhiệm vụ được giao và phẩm chất đạo đức, lối sống; kiểm tra những tổ
chức đảng và Đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm và kiểm tra việc khắc phục
những mặt còn yếu kém đã được chỉ ra trong đợt sinh hoạt tự phê bình và phê
bình. Trong 7 năm từ 2000- 2007 không có tổ chức đảng, bộ phận nào trong
Công ty bị xử lý kỷ luật. Số cán bộ, Đảng viên vi phạm kỷ luật bị xử lý không
có, Công tác kiểm tra đã góp phần củng cố, giữ vững nguyên tắc lãnh đạo của
Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, góp phần thúc đẩy hoàn thành
nhiệm vụ chính trị, xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh, xây dựng
Công ty vững mạnh toàn diện, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, Đảng
viên; ngăn ngừa các hiện tượng tiêu cực phát sinh.
Lãnh đạo, chỉ huy các bộ phận luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo xây
dựng các tổ chức quần chúng vững mạnh, hoạt động đúng chức năng, hướng
vào việc hoàn thành nhiệm vụ chính trị của đơn vị. Hoạt động của các tổ chức
quần chúng đã gắn với các phong trào thi đua, phong trào văn hoá-thể thao,
xây dựng môi trường văn hoá... góp phần tích cực nâng cao NLLĐ toàn diện
và SCĐ của các tổ chức cơ sở Đảng trong đơn vị . Các tổ chức quần chúng đã
đóng góp nhiều ý kiến xây dựng các nghị quyết, chủ trương biện pháp lãnh
đạo của cấp ủy, chi bộ nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đơn vị; tham gia
quản lý, giáo dục, rèn luyện và giám sát mọi hoạt động của cán bộ Đảng viên.
Hoạt động của các tổ chức quần chúng đã góp phần quan trọng vào việc thực
hiện nhiệm vụ chính trị của Công ty và góp phần xây dựng tổ chức cơ sở
Đảng trong sạch vửng mạnh.
Cơ quan chính trị, đội ngũ cán bộ chính trị các bộ phận đã được quan
tâm kiện toàn; có số lượng,cơ cấu hợp lý, từng bước nâng cao chất lượng đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ của Công ty. Những năm qua, mặc dù có sự điều chỉnh
về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức lực lượng trong Công ty, nhiều khó khăn gay
gắt trong sản xuất kinh doanh, nhưng các tổ chức cơ sở Đảng đã lãnh đạo
25



×