Tải bản đầy đủ (.doc) (73 trang)

Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý văn hóa trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (401.02 KB, 73 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Toàn cầu hóa là xu thế tất yếu trong sự phát triển của các quốc gia trên
thế giới.Toàn cầu hóa vừa là cơ hội, vừa là thách thức đối với mỗi quốc gia.
Cùng với đó là nguy cơ bị xói mòn, thậm chí đánh mất bản sắc văn hóa của
nhiều dân tộc do sự xâm thực của những nền văn hóa lớn là điều khó tránh
khỏi. Bối cảnh ấy đòi hỏi cần nâng cao năng lực cạnh tranh mà trước hết là
năng lực cạnh tranh từ chất lượng nguồn nhân lực. Nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, trong đó có đội ngũ cán bộ công chức làm công tác quản lý
trên mọi lĩnh vực phải là nhiệm vụ trước mắt trọng tâm và lâu dài. Bởi họ
chính là những người đi tiên phong trong việc đổi mới, nhằm đưa đất nước
nhanh chóng hòa nhập với xu thế chung mà vẫn giữ được bản sắc văn hóa dân
tộc.
Tuy nhiên, thực tế hiện nay, năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ quản
lý nhà nưóc nói chung, ngành văn hóa nói riêng đang đặt ra nhiều vấn đề khá
bức xúc, gây ra những hệ lụy thiếu tích cực, ảnh hưởng lớn đến hiệu lực và
hiệu quả trong công tác quản lý nhà nước. Một loạt những vi phạm, sai phạm
trong tổ chức thực thi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, tình
trạng không làm tròn, làm đủ, làm đúng, thậm chí vượt thẩm quyền liên quan
đến hoạt động văn hóa vẫn diễn ra ở nhiều lĩnh vực, tại nhiều địa phương
đang là hồi còi báo động cho chất lượng của đội ngũ cán bộ quản lý văn hóa
trong giai đoạn hiện nay.
Bên cạnh đó, vẫn tồn tại tình trạng không ít cán bộ quản lý ở các cấp
chính quyền địa phương và cấp cơ sở chưa được bồi dưỡng các kĩ năng quản
lý cơ bản, hoặc nếu có học thì cũng thiên về trang bị kiến thức lý luận, dẫn
đến quá trình tổ chức, điều hành công việc không tránh khỏi lúng túng, thiếu
tính chuyên nghiệp.
Cần phải có sự phân tích một cách khoa học trên cả phương diện lý
luận và thực tiễn, từ đó xây dựng các giải pháp mang tính ứng dụng nhằm



nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý văn hóa, đáp ứng nhu cầu phát
triển trong giai đoạn hiện nay. Đó là lý do chúng tôi chọn đề tài “Nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý văn hóa trong bối cảnh hội nhập quốc tế
hiện nay”
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
Nâng cao chất lượng cho đội ngũ cán bộ công chức, viên chức nói
chung, chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý nói riêng đã và đang là vấn đề nhận
được nhiều sự quan tâm của các nhà chuyên môn, giới nghiên cứu, đặc biệt
trong giai đoạn Nhà nước ta đang tiến hành cải cách hành chính. Đã có nhiều
công trình được công bố, đơn cử:
+ Đề án “Nâng cao chất lượng đội ngũ công chức ngành Văn hóa – Du
lịch – Thể thao” của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, giai đoạn 2010-2011
đã đề cập một cách tổng quan về tình hình chất lượng nguồn nhân lực làm
công tác văn hóa trong hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước; phân tích và
dự báo xu thế phát triển của đội ngũ cán bộ quản lý văn hóa trên các lĩnh vực,
trong đó có lĩnh vực văn hóa.
+ Đề án “Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành của hệ thống
cơ quan hành chính các cấp, giai đoạn 2012-2016” của UBND Thành phố Hà
Nội với mục đích xây dựng hệ thống cơ quan hành chính của Hà Nội vững
mạnh, hiện đại, hiệu quả; tổ chức bộ máy tinh gọn, đúng quy định của pháp
luật, phù hợp với thực tiễn Thủ đô. Trong đó đề cập đến việc bồi dưỡng cho
đội ngũ cán bộ quản lý các cấp, nhất là các cán bộ quản lý cấp cơ sở.
+ Luận văn Ths Xã hội học của Hoàng Thị Cầm “Thực trạng tình hình
văn hóa và công tác quản lý văn hóa trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa” (2006) đã
đi sâu hơn về những vấn đề bức thiết trong hoạt động văn hóa trên địa bàn
tỉnh Thanh Hóa và vai trò của đội ngũ cán bộ quản lý văn hóa trong việc đảm
bảo cho sự phát triển văn hóa tại địa phương.
+ Luận văn Ths Hành chính công về “Một số giải pháp nâng cao chất
lượng tuyển chọn và bố trí sử dụng CBCC cấp quận – Thực tiễn tại TP. Hồ
Chí Minh” (Võ Cao Sơn, 2006) đã phân tích thực trạng đội ngũ cán bộ công



chức nói chung trước yêu cầu của bối cảnh hội nhập hiện nay trên địa bàn một
thành phố lớn ở nước ta.
+ Luận văn Ths Hành chính công về “Nâng cao chất lượng tuyển dụng
công chức tại Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch trong giai đoạn hiện nay”
(Phan Thị Hương, 2011) đã đi sâu hơn vào một giải pháp thực tế và thiết yếu
là công tác tuyển dụng đội ngũ công chức của Bộ chủ quản ngành văn hóa.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu đều đã trực tiếp hoặc gián tiếp
nói đến công tác quản lý nhà nước về văn hóa gắn với một địa bàn cụ thể.
Nhưng đặt vấn đề trực tiếp về chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý văn hóa
trong bối cảnh hội nhập quốc tế cho đến nay vẫn chưa có một công trình, bài
nghiên cứu nào đề cập đến. Có thể nói luận văn hoàn toàn đã tiếp cận từ một
giác độ mới với một vấn đề cũng khá mới trong lĩnh vực nghiên cứu khoa
học.
3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Trong khuôn khổ của luận văn, người viết không có tham vọng đặt ra
những mục đích lớn lao. Điểm đến cuối cùng luận văn muốn đạt được là chỉ
ra hiện trạng về chất lượng thực tế của đội ngũ cán bộ quản lý văn hóa tại các
cấp chính quyền cơ sở (cấp huyện, cấp xã), phân tích và làm rõ nguyên nhân
của những thành tựu, yếu kém trong hoạt động quản lý lĩnh vực văn hóa. Xây
dựng một số tiêu chuẩn cho cán bộ quản lý văn hóa trong bối cảnh hội nhập
và đề ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng cho đội ngũ làm công tác
quản lý văn hóa. Đó là mục đích nghiên cứu của đề tài luận văn này.
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Luận văn hướng tới đối tượng cán bộ quản lý văn hóa cấp huyện và
cấp xã trên địa bàn một số tỉnh, thành phố với trình độ, kĩ năng giao tiếp và
một số phẩm chất cần thiết khác của người làm công tác quản lý trên lĩnh vực
văn hóa với những vấn đề đặt ra trong giai đoạn hiện nay.
- Với quy mô khiêm tốn của một luận văn tốt nghiệp, chúng tôi không

có tham vọng khảo sát và phân tích trên một bình diện rộng lớn tầm vĩ mô đối
với đội ngũ cán bộ quản lý văn hóa ở Việt Nam vốn khá đông đảo. Trong


khuôn khổ công trình này, chúng tôi chỉ tâp trung vào các đối tượng cán bộ
quản lý văn hóa tại tuyến cơ sở (cấp huyện, cấp xã) trên địa bàn một số tỉnh,
thành phố như: Hà Nội, Lào Cai, Thanh Hóa.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
5.1. Phương pháp luận
Để tiến hành nghiên cứu và triển khai luận văn, chúng tôi dựa trên
phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin với quan điểm duy vật và tư
duy biện chứng, xem xét, đánh giá vấn đề dựa trên những cứ liệu thực tế, đặt
trong mối quan hệ tổng hòa và xem xét trong cả quá trình. Chúng tôi cũng
dựa trên những quan điểm chính thống của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn
đề phát triển văn hóa trong bối cảnh hiện nay qua văn kiện của các kỳ Đại hội
Đảng toàn quốc.
5.2. Về phương pháp
Ngoài các phương pháp truyền thống, luận văn còn sử dụng một số
phương pháp nghiên cứu khoa học khác như: phương pháp điều tra xã hội
học, mô hình hóa, phương pháp chuyên gia…
6. Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
- Luận văn góp phần làm sáng rõ những kiến thức lý luận về quản lý
nhà nước trong lĩnh vực văn hóa, đội ngũ cán bộ quản lý, khái niệm về toàn
cầu hóa, bối cảnh hội nhập quốc tế và một số vấn đề lý luận khác.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài luận văn sẽ giúp cho các nhà nghiên
cứu bổ sung thêm nguồn cứ liệu thực tế. Là tài liệu tham khảo hữu ích cho
việc nghiên cứu đối với những vấn đề liên quan. Là một gợi ý cho các nhà
chuyên môn về cách thức tiếp cận, đánh giá đối với cán bộ quản lý văn hóa
tuyến cơ sở. Đồng thời sẽ góp phần hoàn thiện tiêu chí lựa chọn,bổ nhiêm đội
ngũ cán bộ quản lý văn hóa theo hướng phù hợp, chuyên nghiệp và tinh thông

nghiệp vụ quản lý văn hóa
7. KẾT CẤU LUẬN VĂN
Ngoài phần Mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm có 3 chương:


CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN THIẾT YẾU
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ ĐỘI NGŨ CÁN BỘ QUẢN LÝ
VĂN HÓA TUYẾN CƠ SỞ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
CHƯƠNG 3: KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ QUẢN LÝ VĂN HÓA TRONG BỐI CẢNH
HỘI NHẬP


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN THIẾT YẾU
1.1. KHÁI QUÁT VỀ QUẢN LÝ VĂN HÓA VÀ CÁN BỘ QUẢN
LÝ VĂN HÓA
1.1.1. Quản lý văn hóa
1.1.1.1. Khái niệm QLVH
Văn hóa là những giá trị vật chất và tinh thần (giá trị vật thể và phi vật
thể), là sản phẩm sáng tạo của con người. Văn hóa thể hiện mối quan hệ
tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội.
Chính vì vậy quản lý văn hóa là quản lý ba thành tố: giá trị vật chất và
tinh thần, quản lý con người để tạo ra các giá trị văn hóa mới và giữ gìn, bảo
tồn những giá trị văn hóa vốn có.
Quản lý văn hóa gắn liền với sự định hướng từ những quan điểm chủ
trương lớn nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho văn hóa phát triển. Thực
hiện những chức năng, thẩm quyền quản lý gắn với các địa bàn quản lý để
đảm bảo văn hóa phát triển hài hòa, đồng bộ với các lĩnh vực kinh tế xã hội

khác.
Quản lý văn hóa trong phạm vi luận văn được nghiên cứu gắn với quản
lý hoạt động văn hóa. Theo đó, quản lý hoạt động văn hóa là quản lý những
quá trình thực hành của cá nhân và các thiết chế xã hội trong việc sản xuất,
bảo quản, phân phối giao lưu và tiêu dùng.
1.1.1.2. Đặc điểm QLVH
Quản lý văn hóa theo nghĩa rộng không chỉ là hoạt động quản lý của
Nhà nước mà còn là sự tham gia quản lý của các thiết chế xã hội, của mỗi tổ
chức, cá nhân. Quản lý văn hóa không chỉ gắn với việc quản lý những yếu tố
hữu hình mà còn gắn với những yếu tố vô hình, mang tính trừu tượng như
những giá trị tinh thần, yếu tố tâm lý, tình cảm.


Cũng như các lĩnh vực kinh tế xã hội khác, văn hóa cũng dựa trên nền
tảng kinh tế, chính trị. Quản lý văn hóa vì vậy phải gắn liền với điều kiện kinh
tế và thể chế chính trị của mỗi quốc gia.
Quản lý văn hóa trong giai đoạn hiện nay là sự kết tinh của tinh hoa
truyền thống bản sắc văn hóa dân tộc, những nhân tố tiến bộ của thời đại và
nền văn minh nhân loại. Dù thế nào đi nữa, cũng như văn hóa dân tộc nói
chung, phải được phát triển đảm bảo tính dân tộc về hình thức, xã hội chủ
nghĩa về nội dung, thể hiện sự trao đổi các giá trị vật chất và tinh thần giữa
các dân tộc trên thế giới. Quản lý văn hóa có vai trò to lớn trong việc tác động
tích cực tới xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội Chủ
nghĩa. Một khi nó được xây dựng và hoàn thiện sẽ đảm bảo những yêu cầu
nhất định về xây dựng và thực hiện đạo đức cách mạng và văn hóa công sở,
kiến tạo và phát huy vai trò của triết lý quản lý mới. Quản lý văn hóa là một
hiện tượng vật chất – tinh thần phức tạp, nhiều tầng nấc, bao gồm những mặt
vật chất và tinh thần trong đời sống, hoạt động, hành vi của tổ chức đối với
các chủ thể của môi trường xung quanh và với chính những thành viên của
mình, nó cần phải hài hòa và tổng hợp, với các nhân tố có “tính văn hóa” cao,

góp phần đắc lực vào phát triển xã hội, phát triển con người.
QLNN về văn hóa là quản lý một lĩnh vực nhạy cảm, dễ gây ngoại
ứng. Vì thế đòi hỏi bên cạnh các biện pháp quản lý thông thường, phải có các
biện pháp mang tính đặc thù.
Văn hóa là lĩnh vực của nhiều cặp phạm trù. Trong bản thân các cặp
phạm trù đó có nảy sinh những mâu thuẫn. Mặt khác giữa cặp phạm trù này
với cặp phạm trù khác cũng nảy sinh mâu thuẫn. Ví như mâu thuẫn giữa nhu
cầu hưởng thụ văn hóa với khả năng đáp ứng của các hoạt động và sáng tạo
văn hóa; mâu thuẫn giữa việc đảm bảo tính dân chủ trong hoạt động sáng tạo
văn hóa nghệ thuật với khuôn khổ của pháp luật; mâu thuẫn giữa nhiệm vụ
giữ gìn văn hóa truyền thống và sự tiếp nhận những giá trị văn hóa mới truyền
thống… Làm sao để giải quyết được những mâu thuẫn đó để đảm bảo cho văn


hóa phát triển hài hòa - đó là nhiệm vụ quan trọng và cũng là yêu cầu đối với
quản lý văn hóa tại Việt Nam hiện nay.
1.1.1.3 Những yêu cầu trong quản lý văn hóa
Với những đặc điểm mang tính đặc thù, quản lý nhà nước về văn hóa
phải đảm bảo một số yêu cầu sau:


Văn hóa là hoạt động xã hội đa dạng, phong phú, vừa tĩnh

lại vừa động. Vì vậy, đây là hoạt động cần có sự quản lý nhà nước về
văn hóa và công tác tư tưởng gắn liền với quyền lực Nhà nước;


Văn hóa thuộc nhân dân, mọi người dân đều có quyền

hưởng thụ văn hóa và có nghĩa vụ đóng góp, bảo vệ nền văn hóa dân

tộc;


Trong việc quản lý văn hóa, ngoài hình thức Nhà nước,

cần thực hiện hình thức tự quản của nhân dân trong việc bảo vệ và phát
triển văn hóa, đảm bảo tính đa dạng của văn hóa, đáp ứng nhu cầu văn
hóa của nhân dân;


Xu thế xã hội hóa trong quản lý văn hóa là xu thế tất yếu;



Tạo điều kiện cho văn hóa phát triển hài hòa, nhịp nhàng

giữa các yếu tố của bản thân nó và trong quan hệ giữa văn hóa với kinh
tế, chính trị, xã hội;


Tạo cho hoạt động văn hóa có một cơ sở vật chất vững



Xây dựng một cơ chế quản lý văn hóa trên nguyên tắc chặt

chắc;
chẽ nhưng rộng rãi, không gò bó, đảm bảo quyền tự do dân chủ cho
công dân của chế độ XHCN nhiều đối tượng. Vì thế, ngoài nguyên tắc
quản lý chung cần có những nguyên tắc, quy định hợp lý với từng đối

tượng cụ thể, cần có luật định riêng cho từng hoạt động;


Cần xây dựng một đơn vị chuyên quản về văn hóa các dân

tộc thiểu số và các lĩnh vực văn hóa đặc biệt.


1.1.1.4. Nội dung cơ bản trong quản lý văn hóa
a. Xây dựng thể chế văn hóa
Quản lý Nhà nước về văn hoá trước hết gắn liền với việc xây dựng hệ
thống thể chế. Thể chế văn hóa là tổng hợp các phương pháp và cách thức thực
hiện việc quản lý nhà nước, bao gồm hệ thống các văn bản quy phạm pháp
luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý văn hóa ban hành nhằm
điều chỉnh về các mặt tổ chức và hoạt động, chế độ công vụ, tài chính, nhân
sự liên quan đến hệ thống văn hóa; bảo đảm hiệu lực, hiệu quả trong quản lý
nhà nước trong lĩnh vực văn hóa của bộ máy hành chính nhà nước. Theo đó
thể chế văn hóa bao gồm:
- Thể chế về pháp luật;
- Thể chế về bộ máy tổ chức;
- Thể chế về chính sách;
- Thể chế về đầu tư ngân sách;
- Thể chế về quy hoạch xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng.
b. Xây dựng thiết chế văn hóa
Việc xây dựng hệ thống thiết chế cho phù hợp với xu thế của sự phát
triển của xã hội cũng là một nội dung quan trọng trong quản lý Nhà nước về
văn hoá. Thiết chế văn hoá với tư cách là một bộ phận của khách thể quản lý.
Nhà nước quản lý hệ thống thiết chế bằng hình thức xây dựng các quy chuẩn
với những chức năng nhiệm vụ cụ thể của từng thiết chế.
Các thiết chế văn hoá liên quan đến hoạt động sáng tạo bao gồm các cơ

quan đơn vị nghiên cứu về khoa học và nghệ thuật, các hội sáng tác, các
doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh sản phẩm văn hoá;
- Các thiết chế liên quan đến công tác bảo tàng, thư viện, lưu trữ;
- Các thiết chế liên quan đến dịch vụ văn hoá như: khối các trường văn
hoá nghệ thuật, các cơ quan truyền bá nghệ thuật (rạp hát, triển lãm, rạp chiếu
phim…), các cơ sở sinh hoạt văn hoá nghệ thuật như Nhà văn hoá, Câu lạc
bộ, Công viên văn hoá…


c.. Hoạch định và tổ chức thực thi các chính sách văn hóa
- Hoạch định và tổ chức thực thi các chính sách văn hoá.
+ Trong thực tế, các văn bản pháp luật về văn hoá còn thiếu hoặc chưa
đủ sức bao quát được mọi lĩnh vực trong hoạt động văn hoá. Vì vậy việc xây
dựng chính sách văn hoá là điều cần thiết;
+ Chính sách văn hoá là tổng thể các nguyên tắc hoạt động, các cách
thực hành, các phương pháp quản lý hành chính và phương pháp ngân sách
dùng làm cơ sở cho lĩnh vực hoạt động văn hoá của đất nước nhằm đáp ứng
nhu cầu văn hoá của nhân dân;
+ Hoạch định chính sách phải dựa trên cơ sở mối tương quan giữa ba
thành phần chính cùng tham gia và chịu trách nhiệm trong việc xây dựng và
ban hành chính sách, bao gồm:


Chủ thể quyết định chính sách: Các nhà lãnh đạo và quản



Người thực hiện chính sách: Tập thể những người hoạt

lý;

động chuyên môn trong lĩnh vực văn hoá;


Người bị chính sách tác động đến: Các tầng lớp công

chúng cũng như tiềm năng của lĩnh vực văn hoá.
- Cơ chế thực hiện chính sách văn hoá.
+ Thông tin hoá trong quản lý văn hoá: Bao gồm quá trình tiếp nhận
thông tin, năng lực đánh giá, sử dụng thông tin và khả năng điều khiển thông
tin (Thông tin hiện trạng và thông tin dự báo);
+ Kế hoạch hoá trong QLNN về văn hoá: Xây dựng chiến lược phát
triển văn hoá trong nhiều khoảng thời gian khác nhau;
+ Chương trình hoá trong QLNN về văn hoá;
+ Xây dựng những chương trình văn hoá với những yêu cầu.
* Xác định mục tiêu của chương trình văn hoá;
* Chọn các hướng ưu tiên để đạt đến mục tiêu;
* Xác định nguồn lực cần huy động và có thể huy động được;


* Xác định cơ chế điều hành tối ưu đối với chương trình mục tiêu ấy.
Trong việc xây dựng các chính sách, chính sách đầu tư tài chính cho
văn hoá được coi là đầu tư cho phát triển. Vì vậy nó đóng vai trò quan trọng
đòi hỏi cần phải có sự cân đối hợp lý theo yêu cầu cụ thể của từng lĩnh vực
văn hoá. Trong đó phần ưu tiên hàng đầu là việc đầu tư cho việc giáo dục văn
hoá; thứ đến là lĩnh vực truyền bá văn hoá; cuối cùng là nguồn tài chính đầu
tư cho các lĩnh vực khác như thể thao, tôn giáo…Nguồn tài chính đầu tư cho
văn hoá được lấy từ ngân sách Nhà nước, từ các hoạt động xã hội hoá văn hoá
và từ lợi nhuận của chính bản thân hoạt động văn hoá.
d. Tổ chức bộ máy quản lý văn hoá
Trong quản lý Nhà nước về văn hóa, tổ chức bộ máy quản lý văn hoá

phải gắn liền với chức năng, nhiệm vụ của bộ máy quản lý từ trung ương đến
địa phương.
- Sơ đồ bộ máy QLNN về Văn hóa.

CHÍNH PHỦ

BỘ VĂN HÓA –DU
LỊCH - THỂ THAO

UBND TỈNH
SỞ VĂN HÓA –DU
LỊCH - THỂ THAO

PHÒNG VĂN HÓA
VÀ THÔNG TIN

UBND HUYỆN

UBND XÃ
(BAN VĂN XÃ)

Theo đó, cấp quản lý nhà nước về văn hoá cao nhất là Bộ Văn hoá, Thể
thao và Du lịch. Ở các cấp chính quyền địa phương có các cơ quan quản lý


nhà nước về chuyên ngành như: Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch (Cấp tỉnh);
phòng văn hoá (Cấp huyện - thị); Ban văn hoá (Xã, phường). Trong hệ thống
quản lý văn hoá đó, vai trò của chính quyền địa phương là vô cùng quan
trọng. Đây là nơi gắn liền với thực tế cơ sở, việc trao quyền và tăng cường các
hình thức tự quản văn hoá cho chính quyền địa phương là một trong những

phương cách đẩy mạnh sự phát triển văn hoá, bảo vệ tính đa dạng trong sự
thống nhất của văn hoá Việt Nam.
đ. Thanh tra, kiểm tra các hoạt động văn hoá
Đây là một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng trong QLNN về văn hoá.
Thông qua việc thanh kiểm tra, nhà nước thiết lập được trật tự cho các hoạt
động văn hoá, đưa các hoạt động văn hoá hoạt động theo khuôn khổ của pháp
luật. Những vấn đề sai phạm, tình trạng các hoạt động văn hoá bị lợi dụng, bị
thương mại hoá cũng sẽ được phát hiện và nhanh chóng điều chỉnh để hoạt
động thanh tra, kiểm tra đạt hiệu quả cần một mặt hoàn thiện và bổ sung các
văn bản quy phạm pháp luật. Tăng cường phối kết hợp với các cơ quan chức
năng, các đoàn thể, tổ chức chính trị, xã hội liên quan. Kiện toàn và nâng cao
trình độ cho đội ngũ cán bộ thanh tra của ngành và liên ngành từ trung ương
đến cơ sở. Tổ chức và sắp xếp lại các cơ quan quản lý nhà nước cũng như các
cơ quan sản xuất và cung ứng dịch vụ văn hoá.
1.1.2. Cán bộ quản lý văn hóa
1.1.2.1. Khái niệm về cán bộ quản lý và cán bộ quản lý văn hóa
Ở Việt Nam, theo quy định của Luật Cán bộ, công chức năm 2008, cán
bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ,
chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà
nước Việt Nam, Tổ chức chính trị – xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương (cấp tỉnh); ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh
(cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Cán bộ,


công chức, viên chức đều là những người đang thi hành công vụ hay dịch vụ
công.
Có hai định nghĩa cán bộ quản lý như sau:
+ Định nghĩa 1: Cán bộ quản lý là những người thực hiện những mục
tiêu nhất định thông qua những người khác.
+ Định nghĩa 2: Cán bộ quản lý là những người có thẩm quyền ra quyết

định dù là được phân quyền hay uỷ quyền.
Có thể phân chia cán bộ quản lý theo nhiều tiêu chí như sau:
* Theo cấp bậc quản lý.
Theo cấp bậc quản lý, cán bộ quản lý được phân chia thành: Cán bộ
quản lý cấp Trung ương, cán bộ quản lý cấp tỉnh và cán bộ quản lý cấp cơ sở
(cấp huyện, cấp xã).
- Cán bộ cấp Trung ương: Là những người công tác tại các cơ quan
Trung ương, có thẩm quyền ra các quyết định mang tính chiến lược của quốc
gia, của ngành, lĩnh vực.
- Cán bộ quản lý cấp tỉnh: Là những người có thẩm quyền ra các quyết
định chiến thuật, tổ chức thực thi các chủ trương, chính sách theo quan điểm
và pháp luật của Đảng, của Nhà nước. Những quyết định chiến thuật là những
quyết định có liên quan đến những lĩnh vực cụ thể trên địa bàn tỉnh.
- Cán bộ quản lý cấp cơ sở: Là những người thực hiện công vụ, tổ chức
thực thi công vụ, có thẩm quyền ra các quyết định mang tính tác nghiệp cho
những đơn vị cơ sở của hệ thống.
* Phân chia theo lĩnh vực quản lý có: Quản lý lĩnh vực văn hóa, thể
thao, du lịch, tài chính, y tế, thương mại, giao thông.
1.1.2.2. Cán bộ quản lý văn hóa gắn với đặc thù của ngành văn hóa
a. Những yếu tố đặc thù của ngành văn hóa
- Thứ nhất: Ngành văn hóa là một bộ phận quan trọng trực tiếp tác
động vào sự hình thành nhân cách, yếu tố tinh thần của con người;
- Thứ hai: Là ngành hội tụ được nhiều tinh hoa về trí tuệ và sự sáng tạo
của con người;


- Thứ ba: Ngành văn hóa được coi là một lực lượng đối ngoại. Trong
bối cảnh toàn cầu hóa, sự đối ngoại tạo nên các quan hệ liên thuộc với tư duy
hợp tác cộng hòa, tất cả cùng chiến thắng… là một yếu tố tất yếu. Văn hóa
đóng vai trò đi tiên phong, dẫn đường cho những cuộc giao lưu hữu nghị đó;

- Thứ tư: Văn hóa là một lĩnh vực nhạy cảm, đễ gây ngoại ứng.
Hoạt động văn hóa có ảnh hưởng và tác động lâu dài trên mọi phương
diện của xã hội và con người. Văn hóa Việt Nam đa dạng, phong phú, giàu
bản sắc nhưng cũng khá phức tạp.
b. Những yêu cầu đối với cán bộ quản lý văn hóa
Xuất phát từ những đặc thù của lĩnh vực văn hóa đã nêu trên, cán bộ
quản lý văn hóa cũng phải có những phẩm chất, năng lực phù hợp với đối
tượng quản lý. Do đó những yêu cầu cụ thể với người quản lý văn hóa trong
giai đoạn hiện nay bao gồm:
- Cán bộ quản lý phải đạt được các tiêu chuẩn chung về các tiêu chuẩn
cao hơn như tư duy mới về chính trị, có tinh thần trách nhiệm cao.
Về chuyên môn: Cán bộ quản lý phải hiểu được công việc, nắm vững
chuyên môn mà mình phụ trách.Đáp ứng được yêu cầu trong giai đoạn mới.
Về năng lực tổ chức: Có khả năng hiểu con người, biết giao việc, có
khả năng tập hợp được người dưới quyền và có khả năng gây ảnh hưởng và
lựa chọn các phương pháp lãnh đạo để có thể đi đến mục tiêu của tổ chức.
Về đạo đức.Người lãnh đạo, cán bộ quản lý phải có phẩm chất đạo đức
tốt đẹp, biết tôn trọng con người.
- Có năng lực lãnh đạo,cụ thể:
+ Có ham muốn làm lãnh đạo;
+ Có tầm nhìn chiến lược;
+ Có khả năng tập hợp quần chúng;


+ Có khả năng giao tiếp; (bao gồm cả việc sử dụng ngoại ngữ);
+ Có khả năng tư duy độc lập;
+ Có khả năng tổng hợp;
+ Biết dùng người;
+ Quyết đoán.
- Có hiểu biết và năng lực chuyên môn tốt.

1.2. TOÀN CẦU HÓA VÀ XU THẾ HỘI NHẬP QUỐC TẾ
1.2.1. Khái niệm toàn cầu hóa và xu thế hội nhập
Toàn cầu hóa không phải là hiện tượng mới mẻ, mà trái lại, nó đã xuất hiện
ở thế kỷ XVI và diễn ra mạnh mẽ hơn ở cuối thế kỷ XIX. Nhưng trong thời đại
hiện nay, toàn cầu hóa mang một nội dung với những nét đặc thù mới. Một số học
giả gọi toàn cầu hóa hiện nay là toàn cầu hóa tư bản chủ nghĩa. Bởi lẽ, quá trình
đó đang chịu sự chi phối mạnh mẽ của các nước tư bản, đặc biệt là các nước tư
bản lớn. Toàn cầu hoá hiện đang là xu thế tất yếu, khách quan, tác động mạnh mẽ
tới tất cả các quốc gia, dân tộc, đời sống xã hội của cả cộng đồng nhân loại, cũng
như cuộc sống của mỗi con người. Toàn cầu hoá không chỉ tạo ra cho các nước
những cơ hội, mà cả những thách thức to lớn.
Trong những năm gần đây, nhiều học giả trong và ngoài nước đã tập trung
phân tích nội dung và thực chất của quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra trên thế
giới. Không ai có thể phủ nhận được rằng toàn cầu hóa là một quá trình tất yếu và
đang tạo ra những cơ hội cho các nước có nền kinh tế đang phát triển hội nhập
vào nền kinh tế thế giới để trên cơ sở đó, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế và
đổi mới công nghệ. Thực tế trong mấy thập kỷ qua đã khẳng định rằng, nhờ tranh
thủ được cơ hội toàn cầu hóa, nhiều nước ở Châu Á vốn có nền kinh tế kém phát
triển tạo ra được tốc độ tăng trưởng kỷ lục về kinh tế và trở thành những “con
rồng” Châu Á.
Tuy nhiên, điều cần nhấn mạnh là ở chỗ, cơ hội mà toàn cầu hóa đem lại


cho các nước, các dân tộc không phải lúc nào cũng như nhau. Xét một cách đại
thể, các nước phát triển hơn về kinh tế, giàu có hơn sẽ được chia sẻ cơ hội nhiều
hơn các nước nghèo. Điều đó cũng có nghĩa là, toàn cầu hóa sẽ đem lại cho các
nước nghèo, đang phát triển nhiều thách thức hơn so với cơ hội.
1.2.2.Toàn cầu hóa với Việt Nam
Theo bảng xếp hạng của UNDP năm 1999 về chỉ số phát triển người,Việt
Nam được xếp thứ 110/144 nước, thuộc nhóm nước đang phát triển. Vì vậy,

những thách thức trong quá trình toàn cầu hóa đối với nước ta là hết sức lớn.
Thách thức lớn nhất đối với Việt Nam có lẽ là thách thức về kinh tế. Bởi vì nói
đến quá trình toàn cầu hóa, trước hết phải nói đến toàn cầu hóa về kinh tế, toàn
cầu hóa kinh tế là cơ sở của quá trình toàn cầu hóa nói chung. Việt Nam bắt đầu
tiến hành mở cửa và hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới từ năm 1986.
Theo tính toán của các nhà kinh tế, từ năm 1998 đến năm 1997, kinh tế Việt Nam
đạt được tốc độ tăng trưởng hơn 9% một năm. Đó là một thành tựu rất đáng phấn
khởi. Tuy nhiên, từ năm 1997 đến nay, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài
chính tiền tệ trong khu vực, nền kinh tế nước ta bắt đầu gặp nhiều khó khăn, tốc
độ tăng trưởng giảm xuống.
Ngay từ năm 1994, nhiều nhà kinh tế cũng như lãnh đạo của Việt Nam đã
nói đến nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tê. Để tránh nguy cơ đó, trong những năm
gần đây, Đảng và Nhà nước ta chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hoá và hiện đại
hóa. Đây là một chủ trương hoàn toàn đúng đắn để khắc phục nguy cơ tụt hậu.
Tuy nhiên, chủ trương đó được thực hiện trong điều kiện xuất phát thấp về kinh
tế, về cơ sở hạ tầng và trình độ quản lí của con người. Do vậy, những khó khăn
của việc thực hiện quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa là không nhỏ.
Chẳng hạn, xét về mặt cơ cấu tủa nền kinh tế, nước ta vẫn là nước nông nghiệp.
Thêm vào đó, nền công nghiệp lại phân bố không đều, tập trung chủ yếu ở 2 đầu
của đất nước. Người lao động có trình độ cao chủ yếu tập trung ở các thành phố
lớn. Do đó, sự phát triển công nghiệp ở các vùng sâu, vùng xa đã khó khăn lại


càng khó khăn hơn.
Mặt khác, do sự thay đổi của cơ chế quản lý, nhiều doanh nghiệp nhà nước
làm ăn thua lỗ kéo đài. Các sản phẩm sản xuất ra không đủ sức cạnh tranh với các
nước trong khu vực và thế giới.
Những thách thức về kinh tế sẽ tăng lên gấp bội, nếu như trong vài năm tới
nước ta từng bước hội nhập hoàn toàn vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Do đó,
nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế là nguy cơ thực tế. Bản thân nguy cơ này có bị

loại trừ hay không, điều đó phụ thuộc vào sự thành công của công cuộc đổi mới
và sự chuẩn bị các nguồn lực cho quá trình hội nhập.
Cùng với thách thức về kinh tế, toàn cầu hóa đang đặt ra cho nước ta
những thách thức lớn về mặt xã hội.
Trước hết là nạn thất nghiệp và thiếu việc làm. Kể từ khi nước ta bắt đầu
hội nhập, nền kinh tế trở nên năng động hơn. Các thành phần kinh tế có cơ sở
phát triển mạnh mẽ, nhưng sự cạnh tranh giữa chúng có phần quyết liệt hơn.
Chính sự cạnh tranh đó đã làm cho nhiều cơ sở sản xuất, nhiều doanh nghiệp bị
phá sản, nhiều cơ sở sản xuất phải tiến hành tinh giản biên chế. Tình trạng đó làm
tăng thêm đội ngũ những người không có việc làm hoặc có việc làm không đầy
đủ. Trong những thập kỷ đầu của thế kỷ XXI, quá trình hội nhập sẽ đòi hỏi đội
ngũ lao động có trình độ cao hơn. Nếu như đội ngũ người lao động Việt Nam
không được đào tạo và chuẩn bị về mặt công nghệ, quản lý thì tình trạng thất
nghiệp không những không giảm mà còn có nguy cơ tăng cao.
Theo báo cáo của Ngân hàng thế giới, khoảng cách giữa người giàu và
người nghèo ở Việt Nam trong những năm qua tăng không đáng kể. Tuy nhiên,
nếu như nạn tham nhũng không được đẩy lùi và Nhà nước không có những biện
pháp hữu hiệu hỗ trợ cho người nghèo, giải quyết công ăn việc làm cho người lao
động thì trong thập kỷ tới, khoảng cách giữa người giàu và người nghèo có thể sẽ
tăng một cách đáng kể.
Tình trạng thiếu việc làm, sự phân hóa giàu nghèo lại là một trong những


nguyên nhân dẫn đến tệ nạn xã hội và tội phạm hình sự. Bên cạnh tình trạng thất
nghiệp và sự phân hoá giàu nghèo có nguy cơ ngày càng tăng, tệ nạn xã hội và tội
phạm cũng là một thách thức không nhỏ đối với Việt Nam trong quá trình hội
nhập. Theo số liệu thống kê của các cơ quan chức năng, có thể rút ra nhận định
một cách khái quát rằng, kể từ năm 1986 đến nay, tệ nạn xã hội ở Việt Nam phát
triển mạnh về quy mô và số lượng, tính chất hoạt đồng của các tệ nạn xã hội này
ngày càng tinh vi. Tình hình tội phạm hình sự có nhiều biểu hiện phức tạp. Tổng

số vụ phạm pháp hình sự tuy không gia tăng đột biến, nhưng số vụ trọng án tăng
nhanh và chiếm tỷ lệ cao.
Điều đáng lưu ý là, trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển giao
lưu kinh tế quốc tế, các hoạt động tội phạm có yếu tố nước ngoài cũng phát triển
mạnh mẽ. Đó là hiện tượng người nước ngoài phạm tội ở Việt Nam và người Việt
Nam phạm tội ở nước ngoài. Một số loại tội phạm nguy hiểm trước đây chưa
từng thấy ở Việt Nam đã bắt đầu xuất hiện như: tội buôn bán phụ nữ và trẻ em
qua biên giới Trung Quốc và Campuchia, tội vận chuyển và buôn bán chất ma tuý
từ nước ngoài vào Việt Nam và từ Việt Nam đi các nước khác, tội cướp biển,
cướp máy bay, tội rửa tiền, tội khủng bố, bắt cóc con tin... Do mở rộng giao lưu,
việc xuất nhập cảnh vào Việt Nam thuận lợi hơn trước nên nhiều tên tội phạm
gây án ở nước ngoài rồi tìm cách chạy vào Việt Nam để ẩn náu, thậm chí nhiều
tên còn tiếp tục gây án tại Việt Nam. Trái lại, một số tên tội phạm đã gây ra
những vụ án nghiêm trọng ở Việt Nam rồi tìm cách chạy trốn ra nước ngoài hòng
lẩn tránh sự trừng trị của pháp luật Việt Nam. Trong những năm qua, các cơ quan
chức năng của Việt Nam đã phát hiện được hàng trăm vụ phạm tội do người nước
ngoài từ hơn 20 quốc tịch khác nhau gây ra ở Việt Nam và hàng chục người Việt
Nam gây án ở nước ngoài được xử lý và dẫn độ về Việt Nam.
Cùng với quá trình hội nhập và giao lưu quốc tế, tệ nạn xã hội và tội phạm
hình sự là một thách thức không nhỏ với Việt Nam.
Ngoài thách thức về kinh tế và xã hội, Việt Nam còn phải đối mặt với


thách thức không nhỏ về văn hóa. Toàn cầu hoá văn hoá có thể được hiểu là quá
trình văn hoá các dân tộc, thông qua giao lưu, dung hợp, xâm nhập và bổ sung lẫn
nhau, không ngừng phá vỡ tính hạn chế về khu vực và về mô hình của văn hoá
dân tộc mình và trong sự bình phán và chọn lọc của loài người mà đạt được sự
hoà đồng văn hoá, không ngừng chuyển các nguồn khu vực của văn hoá dân tộc
mình thành các nguồn hưởng thụ chung, sở hữu chung của loài người. Tuy nhiên,
điều cần chú ý là toàn cầu hoá văn hoá là một quá trình bao gồm sự xung đột,

giao lưu, dung hợp giữa các nền văn hoá dân tộc, đồng thời bản thân nó cũng là
một kết quả, tức là các nguồn khu vực của văn hoá các dân tộc có thể được loài
người cùng hưởng cùng sở hữu. Nhưng nó tuyệt nhiên không có nghĩa là sự mất
đi của các nền văn hoá dân tộc để hình thành nên một thứ văn hoá có tính toàn
cầu thống nhất, liên thông, phổ quát”
Như vậy, toàn cầu hoá văn hoá đã tạo ra những cơ hội, thách thức và rủi ro
đối với các nền văn hoá khác nhau trong việc quảng bá nền văn hoá của mình ra
bên ngoài. Trong quá trình toàn cầu hoá, các nền văn hoá đều bình đẳng, giao lưu
với nhau trong thế bình đẳng, đều có những chỗ “mạnh”, những chỗ “yếu”, đều
có “quyền” tự do nhìn nhận, lựa chọn, thử nghiệm để tiếp nhận từ “kẻ khác”
những gì mà họ muốn tiếp nhận.
Mặt khác, mức độ ảnh hưởng của văn hóa phương Tây đối với các nước,
bao gồm cả Việt Nam là rất khác nhau, và nó không chỉ là thách thức mà còn là
cơ hội cho sự phát triển văn hóa nói riêng và xã hội nói chung. Do toàn cầu hóa
và hội nhập quốc tế và do bản thân phương Tây có nền văn hóa phát triển lại tận
dụng được những thành tựu của cách mạng khoa học công nghệ, đặc biệt là cách
mạng thông tin nên có lẽ chưa bao giờ phương Tây lại có điều kiện thuận lợi
trong việc truyền bá văn hóa của mình ra bên ngoài như bây giờ. Thông qua hợp
tác kinh tế, chuyển giao công nghệ và các quá trình sản xuất kinh doanh, quản lý,
các nước phương Tây đã dùng mọi hình thức hấp dẫn để đưa văn hóa của mình
vào các nước đang và chậm phát triển. Đồng thời thông qua giao lưu văn hóa để


truyền bá văn hóa phương Tây. Đặc biệt là họ sử dụng các loại hình nghệ thuật
vốn là công cụ hấp dẫn và rất phát triển ở các nước phương Tây để tác động vào
văn hóa của các nước khác. Ngoài ra việc sử dụng những ngôn ngữ vốn rất phổ
biến trên thế giới như: Tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Tây Ban Nha,… trong các
hoạt động quốc tế (kinh tế, văn hóa, chính trị…) cũng như trên các phương tiện
truyền thông (internet, truyền hình….) càng tạo điều kiện thuận lợi cho sự thâm
nhập của văn hóa phương Tây vào các quốc gia khác

Thực ra, trong kỷ nguyên toàn cầu hóa hiện nay, sự lo ngại về khả năng
đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc là mối lo chung của các nước đang phát triển.
Một số học giả cho rằng, những luồng văn hóa ngày nay đang bị mất cân bằng,
thiên mạnh theo hướng từ những nước giàu tới chuyển sang và gây áp lực đối với
những nước nghèo. Người ta cũng nói nhiều đến thứ 'hàng hoá không trọng
lượng' với hàm lượng tri thức cao, chứ không phải là hàm lượng vật chất. Những
cuộc tấn công dữ dội đó của văn hóa nước ngoài có thể đe doạ tính đa dạng văn
hóa, và khiến cho dân chúng lo sợ đánh mất bản sắc văn hóa của mình'.
Rõ ràng là sự lo sợ đánh mất bản sắc là có cơ sở. Ngay ở Việt Nam, trong
những năm gần đây, nhiều nhà lãnh đạo cũng như nhiều học giả đã rất quan tâm
tới việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Bởi lẽ, Việt Nam là nước có truyền
thống văn hóa lâu đời Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, truyền thống văn hóa đó
đã trường tồn cùng lịch sử dân tộc. Trong suốt quá trình lịch sử, nền văn hóa Việt
Nam không những không bị mất bản sắc mà còn tiếp thu hoàn thiện thêm bởi các
nền văn hóa nước ngoài như văn hóa Trung Quốc, văn hóa Pháp, văn hóa Nga và
cả văn hóa Mỹ. Mặc dù vậy, không ai và không có gì có thể đảm bảo được rằng
con người Việt Nam sẽ không đánh mất bản sắc của mình trước xu thế toàn cầu
hóa, nếu như mỗi người Việt Nam cũng như mỗi cơ quan, tổ chức không có
những hành động cần thiết. Bởi lẽ, văn hóa bao giờ cũng mang tính lịch sử - cụ
thể một mặt, là sản phẩm của sự phát triển kinh tế - xã hội, và mặt khác, luôn chịu
sự tác động của chính bản thân văn hóa.


Trên đây là một số thách thức mà Việt Nam đã và đang gặp trong quá trình
hội nhập. Tuy nhiên, nói tới những thách thức điều đó không có nghĩa là chúng ta
hãy đóng cửa lại để từ bỏ con đường hội nhập với thế giới. Như trên chúng tôi đã
trình bày, toàn cầu hóa hoá là xu hướng tất yếu. Do vậy, đóng cửa sẽ không phải
là giải pháp tất. Phải khẳng định trong thời đại ngày nay, nếu nước nào đóng cửa
thì tất yếu sẽ bị cô lập và bị bật ra khỏi qũy đạo phát triển của thế giới. Những sai
lầm của Trung Quốc trong thời Khang Hy và những năm tiến hành cách mạng

văn hóa, cũng như thực tiễn những năm xây đựng đất nước trước đổi mới ở Việt
Nam là những bài học vô cùng bổ ích đối với chúng ta.
Từ xu thế của thế giới và thực tế của Việt Nam, chúng ta có thể khẳng định
rằng chủ động hội nhập là con đường tốt nhất để tranh thủ cơ hội và vượt qua
những thách thức của quá trình toàn cầu hóa. Đúng như Mahatma Gandhi đã
khẳng định một cách hùng hồn rằng: 'Tôi không muốn ngôi nhà của tôi bị bao
quanh bốn phía và các cửa sổ bị đóng kín. Tôi muốn làn gió văn hóa của tất cả
các xứ sở thổi quanh nhà tôi một cách tự do đến mức có thể. Song tôi không cho
phép bất kỳ điều gì làm nghiêng ngả đôi chân của mình'. Vậy vấn đề đặt ra là làm
thế nào để vẫn hội nhập vào xu thế phát triển của thế giới, nhưng vẫn giữ được
cái riêng của dân tộc mình, không tự đánh mất mình.
Lúc sinh thời, C.Mác đã từng khẳng định rằng xã hội chẳng qua chỉ là
những con người theo đuổi mục đích của bản thân mình, con người vừa là đạo
diễn, vừa là diễn viên của vở kịch về chính bản thân mình. Điều đó có nghĩa là,
bất kỳ sự biến đổi và phát triển nào trong xã hội, suy cho đến cùng, cũng đó con
người quyết định. Vì vậy, đế tranh thủ được cơ hội, vượt qua những thách thức
của toàn cầu hóa, việc chuẩn bị và bồi dưỡng con người về mọi mặt trong quá
trình hội nhập là hết sức quan trọng.
Vấn đề đặt ra hiện nay là phải tạo được những con người vừa có khả năng
nắm bắt công nghệ hiện đại, vừa có trách nhiệm cao với Tổ quốc, với đất nước.
Chỉ có như vậy, đất nước ta mới tránh được các nguy cơ tụt hậu và sánh vai được


với các cường quốc năm châu như lúc sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh hằng
mong mỏi.
1.2.3.Tác động của toàn cầu hóa
1.2.3.1. Tác động về kinh tế
Trước hết cần phải khẳng định trong cách nói toàn cầu hóa thực chất là
toàn cầu hóa kinh tế chứ không phải là toàn cầu hóa tất cả.Tất nhiên, toàn cầu
hóa kinh tế tác động rất mạnh đến các lĩnh vực khác.Mỗi dân tộc trong tiến

trình hội nhập toàn cầu hóa, vẫn giữ được những gíá trị văn hóa bản sắc.
Toàn cầu hóa kinh tế là một xu thế của lịch sử, là tất yếu khách quan bắt
nguồn từ sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, của cách mạng khoa
học công nghệ, của kinh tế thị trường... Điều này cho thấy, không một quốc
gia nào có thể phát triển nếu không biết tham gia vào quá trình toàn cầu hóa
kinh tế.Mặt khác, hiện nay các nước tư bản giàu có nhất (tập trung ở nhóm
G.7) với các công ty tư bản độc quyền xuyên quốc gia đang chi phối, thống trị
nền kinh tế thế giới. 57.000 công ty mẹ với 500 công ty hàng đầu có 500.000
chi nhánh đang kiểm soát 80% công nghệ mới, 40% nhập khẩu, 60% xuất
khẩu, 90% đầu tư trực tiếp nước ngoài. Họ chi phối thế giới về vốn, kỹ thuật,
công nghệ, tài chính, thương mại quốc tế, các tổ chức và thể chế kinh tế. Họ
còn nắm trong tay những phương tiện sản xuất tinh thần rất mạnh và nguồn
lực chất xám quan trọng. Do vậy, có thể nhận định rằng: toàn cầu hóa kinh tế
trong điều kiện hiện nay về cơ bản mang tính chất TBCN, là sự bành trướng
của quan hệ sản xuất TBCN ra toàn thể giới. Không hội nhập kinh tế, đóng
cửa là tự sát. Nhưng nếu không biết cách chủ động hội nhập thì cũng sẽ chết
trong sự "tha hóa".
1.2.3.2. Tác động về văn hóa
Toàn cầu hóa đã và đang trở thành xu thế tất yếu, chi phối các lĩnh vực
của đời sống xã hội, từ kinh tế đến văn hóa, từ kỹ thuật, công nghệ đến chính


trị, tư tưởng.Đặc điểm nổi bật của toàn cầu hóa là mối quan hệ đa diện, đa
chiều, nhiều cấp độ giữa các quốc gia, khu vực trong không gian mở. Ở đây
mối quan hệ mang tính toàn cầu tạo nên một bức tranh đa sắc màu, về mặt
hình thức tỏ ra phức tạp, song trên thực tế lại diễn ra theo những quỹ đạo nhất
định. Trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập đã diễn ra quá trình làm gần
những môtíp và chuẩn mực tư duy, nói khác đi, phát triển những môtíp và
chuẩn mực đó từ tầm mức dân tộc, khu vực lên tầm mức nhân loại. Càng gần
với thời đại chúng ta, quá trình này càng diễn biến nhanh chóng dưới tác động

của khoa học và công nghệ hiện đại.Mọi toan tính “bế quan toả cảng” ở khía
cạnh văn hóa trở nên khó khăn, nếu không nói là không thể. Tuy vậy, toàn
cầu hóa là một quá trình năng động, do đó không tồn tại một quỹ đạo bất biến,
một khuôn mẫu định sẵn cho các quốc gia.
Bản thân quá trình toàn cầu hóa, dù muốn hay không, cũng mang trên
mình nó nhân tố văn hóa, trước hết là văn hóa tinh thần. Trong lĩnh vực văn
hóa, tác động của toàn cầu hóa thể hiện trước hết ở sự va chạm và giao thoa
của những cách tiếp cận khác nhau trong nhận thức và ứng xử văn hóa, trong
việc xác lập những chuẩn mực, những giá trị, một mặt đảm bảo sự cân bằng
đa văn hóa, mặt khác buộc hệ thống chính trị cũng phải điều chỉnh, đổi mới,
nhằm đáp ứng những đòi hỏi của hội nhập, trước hết là hội nhập kinh tế, và
cùng với nó là giao lưu văn hóa, tiếp thu và tiếp biến giá trị. Hệ thống chính
trị chỉ tỏ ra có hiệu quả nếu vận hành trong mối quan hệ hài hòa với các thành
tố xã hội, nhất là lĩnh vực văn hóa, là lĩnh vực chịu tác động của toàn cầu hóa
hết sức nhanh chóng và có tính lan tỏa.
Bên cạnh đó, tính chất mâu thuẫn của toàn cầu hóa đã ảnh hưởng tiêu
cực đến nhiều mặt của đời sống chính trị, văn hóa, xã hội của nhiều dân tộc,
nhất là những dân tộc vừa thoát ra khỏi bóng mây của chế độ thực dân, đế
quốc, tìm kiếm cho mình một phương thức phát triển đặc trưng. Toàn cầu hóa
phá vỡ những rào cản, làm cho các dân tộc xích lại gần nhau, khai thông con
đường cho sự phát triển theo những quy chuẩn phổ biến, mở rộng không gian


cho sự liên kết và chuyển giao, sự đồng thuận và trách nhiệm chung, nhưng
lại dẫn đến nguy cơ suy giảm chủ quyền quốc gia và vai trò của nhà nước dân
tộc. Toàn cầu hóa có thể tạo nên hệ biến thái mới, làm thay đổi các chuẩn
mực, các giá trị, khiến cho cái hôm qua từng bị xem là cá biệt, nhưng hôm
nay lại trở thành cái phổ biến, và ngược lại, cái hôm qua được tôn vinh như
chân lý không thể bác bỏ, hôm nay có thể bị kết án như cái lỗi thời, không
phù hợp với xu thế chung. Song, quá trình toàn cầu hóa rất có thể nuốt chửng

cả một nền văn hóa, nếu nền văn hóa ấy không đủ sức vượt qua thách thức.
Toàn cầu hóa đã ảnh hưởng, tác động rất mạnh mẽ đến tư tưởng đạo
đức lối sống cả tích cực và tiêu cực.
Tác động tích cực
+ Toàn cầu hóa thúc đẩy rất nhanh, rất mạnh sự phát triển và xã hội hóa
lực lượng sản xuất, làm cho lực lượng sản xuất vốn mang bản chất quốc tế
ngày càng có tính phổ biến, đưa lại sự tăng trưởng cao, tạo ra các điều kiện
vật chất cho sự phát triển của con người, của xã hội.
+ Toàn cầu hóa kinh tế đặt ra sự phát triển bền vững, toàn diện, yêu cầu
phải đặc biệt chú ý tới môi trường sinh thái, môi trường xã hội đòi hỏi phải
xem con người là trung tâm của sự phát triển, là nguồn lực của mọi nguồn
lực.
+ Toàn cầu hóa chuyển giao công nghệ và truyền bá tư tưởng, lối sống
của các quốc gia với nhau trên quy mô ngày càng lớn. Những thành quả mới
mẻ, những khám phá, sáng tạo về khoa học, kỹ thuật, công nghệ, tổ chức quản
lý, sản xuất kinh doanh, lối sống, cách sống... tác động đến các dân tộc, đến
từng gia đình, từng người.
+ Toàn cầu hóa làm cho không gian hẹp lại: "làng toàn cầu” với thông
tin nhanh nhạy; "chợ văn hóa toàn cầu” với phim ảnh, báo chí, đồ chơi, trò
chơi... của nhân loại vào từng nhà; "đại siêu thị toàn cầu” với sinh hoạt, đồ ăn,
thức uống, ăn mặc, giải trí... đến từng người; "trụ sở lao động toàn cấu” với
thị trường sức lao động rộng lớn, phổ biến; "mạng lưới tài chính toàn cầu”


thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế-xã hội, tác động đến tất cả mọi mặt của
đời sống xã hội.
+ Toàn cầu hóa tạo thêm khả năng phát triển rút ngắn, làm cho thời
gian tăng giá trị, vừa tạo ra thời cơ và cũng là thách thức lớn cho tiến trình đổi
mới tư duy, đổi mới cách thức lãnh đạo, quản lý sâu rộng không chỉ ở tầm vĩ
mô quốc gia mà cả tầm vi mô ở từng doanh nghiệp, từng hộ gia đình.

+ Toàn cầu hóa, nhất là kinh tế thị trường đã đề cao trách nhiệm cá
nhân, gắn liền động cơ và hiệu quả như là một chuẩn mực giá trị trong hoạt
động của con người, trong nhân cách mỗi người. Nó buộc người ta phải khắc
phục lối tư duy cảm tính, phương thức tư duy kiểu "ngoại suy", chủ quan và
phải rèn luyện, nâng cao phương thức tư duy lý tính, lành mạnh. Mục đích,
động cơ phải trên cơ sở hiện thực và phải đi đôi với những biện pháp, những
phương tiện hữu hiệu để hiện thực hóa trong thực tế.
Tác động tiêu cực
Toàn cầu hóa không chỉ là cơ hội mà còn là thách thức lớn, không chỉ
có tác động tích cực mà còn có tác động tiêu cực.Ở những nước chậm và đang
phát triển thì sự thách thức và tác động tiêu cực lại càng lớn hơn, trong đó có
cả tư tưởng, đạo đức, lối sống.
+ Toàn cầu hóa kinh tế thúc đẩy cạnh tranh, nâng cao hiệu quả nhưng
điểm xuất phát không giống nhau, điều kiện không giống nhau, trình độ
không giống nhau dễ làm tổn thương suy nghĩ, dễ ngộ nhận, dễ "duy kinh tế",
"thuần túy kinh tế” mà phai lý tưởng, nhạt chính trị, chao đảo, ngả nghiêng
trong lý tưởng mục tiêu phải phấn đấu. Chẳng vậy mà có những người đã lập
luận: chủ nghĩa nào cũng được, chế độ nào cũng được miễn là kinh tế đời
sống phát triển. Sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, sự suy giảm niềm tin đối
với chủ nghĩa Mác-Lênin, với con đường đi lên CNXH ở một bộ phận dân cư
có nhiều lý do nhưng không thể không chú ý tới sự thâm nhập của toàn cầu
hóa kinh tế vào Việt Nam.


×