Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Sự tham gia tố tụng của viện kiểm sát ở Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm và thực tiễn thực hiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.97 KB, 12 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC................................................................................................................................ 1
A. MỞ ĐẦU............................................................................................................................. 1
B. NỘI DUNG.......................................................................................................................... 2
I. Khái quát chung về nhiệm vụ quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân
sự........................................................................................................................................ 2
1. Nhiệm vụ, quyền hạn của viện kiểm sát trong tố tụng dân sự......................................2
2. Ý nghĩa của sự tham gia của viện kiểm sát trong hoạt động tố tụng dân sự................3
II. Quy định của pháp luật hiện hành về sự tham gia của Viện kiểm sát ở Tòa án cấp sơ
thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm...........................................................................................3
1. Viện kiểm sát kiểm sát thụ lý vụ án dân sự..................................................................3
2. Viện kiểm sát kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án.................................................5
3. Viện kiểm sát tham gia phiên tòa, phiên họp................................................................7
3.1. Viện kiểm sát tham gia phiên tòa, phiên họp ở Tòa án cấp sơ thẩm.........................7
3.2 Viện kiểm sát tham gia phiên tòa, phiên họp ở Tòa án cấp phúc thẩm......................8
III. Một số nhận xét và kiến nghị về thực tiễn tham gia của viện kiểm sát vào quá trình tố
tụng dân sự......................................................................................................................... 9
1. Những điểm còn hạn chế trong quy định của pháp luật về hoạt động tố tụng dân sự
của viện kiểm sát............................................................................................................. 9
2. Một số kiến nghị để hoàn thiện pháp luật...................................................................10
C. KẾT LUẬN........................................................................................................................ 10
Danh mục tài liệu tham khảo:................................................................................................11

A. MỞ ĐẦU
Luật sửa đổi bổ sung một số điều của bộ luật tố tụng dân sự năm 2005 đã có
những điểm sửa đổi cơ bản trong nhiệm vụ và quyền hạn của Viện kiểm sát
nhân dân trong tố tụng dân sự. Theo đó, mở rộng hơn các quyền năng và nhiệm
vụ này của viện kiểm sát. Điều đó, có ý nghĩa quan trọng trong việc cải cách tư
pháp cũng như nâng cao hiệu quả của hoạt động tố tụng dân sự. Chính vì thế để
làm hơn những vấn đề mang tính lý luận cũng như thực tiễn, em xin được
1




nghiên cứu đề tài số 6: “ Sự tham gia tố tụng của viện kiểm sát ở Tòa án cấp
sơ thẩm, phúc thẩm và thực tiễn thực hiện.”
B. NỘI DUNG
I. Khái quát chung về nhiệm vụ quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân
trong tố tụng dân sự.
1. Nhiệm vụ, quyền hạn của viện kiểm sát trong tố tụng dân sự
Viện kiểm sát (VKS)là cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện việc kiểm sát các
hoạt động tố tụng dân sự theo quy định của pháp luật. Tuy cũng là cơ quan tiến
hành tố tụng dân sự nhưng viện kiểm sát không có nhiệm vụ, quyền hạn giải
quyết các vụ việc dân sự như Tóa án. Viện kiểm sát chỉ kiểm sát tuân theo pháp
luật trong việc giải quyết vụ việc dân sự và thi hành án để bảo đảm cho việc giải
quyết các vụ việc dân chủ và thi hành án dân sự kịp thời, đúng pháp luật. Trong
tố tụng dân sự, viện kiểm sát có nhiệm vụ quyền hạn tuân theo pháp luật tố tụng
dân sự. Theo đó, nhiệm vụ, quyền hạn của viện kiểm sát bao gồm:
- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết vụ việc dân sự của
Tòa án như kiểm sát việc thụ lý, lập hồ sơ, hòa giải, xét xử, ra bản án,
quyết định giải quyết vụ việc dân sự;
- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc tham gia tố tụng của những
người tham gia tố tụng và những người liên quan trong quá trình giải
quyết vụ việc dân sự;
- Yêu cầu kiến nghị, kháng nghị các bản án, quyết định của Tòa án theo
quy định của pháp luật nhằm đảm bảo giải quyết vụ việc dân sự kịp thời ,
đúng pháp luật;
- Tham gia các phiên tòa xét xử vụ án dân sự, phiên họp giải quyết việc dân
sự theo thẩm quyền giải quyết của tòa án theo quy định của pháp luật;
- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của đương sự , cơ quant hi hành án,
chấp hành viên, cá nhân và tổ chức liên quan đến việc thi hành bản án


2


quyết định của tòa án; kháng nghị các quyết định về thi hành án của cơ
quan thi hành án;
- Kiểm sát việc giải quyết khiếu nại của tòa án, cơ quan thi hành án và
những người có thẩm quyền trong việc giải quyết các khiếu nại phát sinh trong
quá trình giải quyết vụ việc dân sự và thi hành án dân sự; giải quyết các khiếu
nại thuộc thẩm quyền của viện kiểm sát.
2. Ý nghĩa của sự tham gia của viện kiểm sát trong hoạt động tố tụng dân sự
Sự tham gia tố tụng của viện kiểm sát trong tố tụng dân sự có ý nghĩa to lớn
trong việc bảo vệ tính tối cao của pháp luật. Viện kiểm sát có vai trò quan trọng
trong việc thực thiện nhiệm vụ giám sát việc thực thi pháp luật của các cơ quan
tư pháp.
Sự tham gia của viện kiểm sát góp phần phát hiện và đẩy lùi những hạn chế, tiêu
cực, thiếu sót trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự của tòa án, đồng thời góp
phần nâng cao tinh thần trách nhiệm của thẩm phán trong hoạt động giải quyết
vụ việc dân sự.
Sự tham gia của việc kiểm sát đảm bảo cho việc giải quyết vụ việc dân sự của
các cấp nhanh chóng, khách quan, toàn diện, đầy đủ và kịp thời, đảm bảo mọi
bản án, quyết định của tòa án có căn cứ và đúng pháp luật, đảm bảo mọi bản án ,
quyết định dân sự của tòa án đã có hiệu lực pháp luật được đưa rat hi hành đúng
pháp luật.
II. Quy định của pháp luật hiện hành về sự tham gia của Viện kiểm sát ở
Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm
1. Viện kiểm sát kiểm sát thụ lý vụ án dân sự
Trong cuộc sống, khi có phát sinh tranh chấp dân sự hay phát sinh yêu cầu giải
quyết việc dân sự thì các chủ thể tham gia quan hệ dân sự có quyền bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình bằng việc khởi kiện vụ án ra Tòa hoặc yêu
cầu giải quyết việc dân sự. Việc khởi kiện vụ án hoặc yêu cầu giải quyết các

3


việc dân sự của các chủ thể được pháp luật ghi nhận và bảo vệ bằng cách Tòa án
thụ lý giải quyết vụ việc dân sự sau khi xem xét các điều kiện để thụ lý vụ việc
dân sự.Đây cũng là bước đầu trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự của Tòa
án. Việc thụ lý vụ việc dân sự của Tòa án được tiến hành dưới sự kiểm sát của
viện kiểm sát cụ thể:
Ở cấp sơ thẩm, theo quy định tại Điều 174 Bộ luật tố tụng dân sự
(BLTTDS), trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày thụ lý vụ việc dân sự,
Toà án thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp về việc Toà án đã
thụ lý vụ việc dân sự. Văn bản thông báo phải có đầy đủ các nội dung chính quy
định tại Khoản 2 Điều 174 BLTTDS.
Sau khi nhận được thông báo thụ lý vụ án hoặc văn bản trả lại đơn khởi kiện của
Tòa án, Kiểm sát viên phải vào sổ thụ lý theo dõi, kiểm tra văn bản thông báo
thụ lý theo những nội dung được quy định tại Điều 174 BLTTDS; lập phiếu
kiểm sát theo dõi vi phạm để tổng hợp kiến nghị với Toà án các vi phạm về thời
hạn gửi thông báo, nội dung, hình thức thông báo; theo dõi quyết định chuyển
vụ án của Toà án và xem xét kiến nghị với Chánh án Tòa án về việc trả lại đơn
khởi kiện theo quy định tại Điều 170 BLTTDS.
Trường hợp Toà án không gửi, chậm gửi thông báo thụ lý hoặc văn bản trả lại
đơn khởi kiện vụ việc dân sự cho Viện kiểm sát hoặc nội dung, hình thức thông
báo không đúng quy định của pháp luật thì Viện kiểm sát có quyền yêu cầu hoặc
kiến nghị với Toà án khắc phục vi phạm.1
Đối với cấp phúc thẩm, pháp luật không có quy định cụ thể về việc kiểm sát việc
thụ lý đơn của Tòa án cấp này gây khó khăn cho việc kiểm sát của viện kiểm sát
đối với hoạt động của Tòa án. Chính vì thế, Tòa án có quyền gửi hoặc không gửi
thông báo về việc thụ lý vụ án ở trình tự phúc thẩm. Đây là sự thiếu sót trong
quy định của pháp luật tạo nên sự không thống nhất trong hoạt động kiểm sát
1


Theo mục 1.2 phần 6, sổ tay Kiểm sát viên />
4


của viện kiểm sát ở các địa phương trong việc kiểm sát việc thụ lý đơn của Tòa
án.
2. Viện kiểm sát kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án
Đối với việc kiểm sát các quyết định của Tòa án để thực hiện quyền kiến nghị:
VKSND thực hiện quyền kiểm sát đối với: Quyết định chuyển vụ việc dân sự
cho Tòa án khác (Điều 37 BLTTDS); Quyết định nhập hoặc tách vụ án (khoản 3
Điều 38); Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời
(Điều 123); Quyết định trả lại đơn khởi kiện của Tòa án (khoản 2 Điều 168)
Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm (Điều 195); Quyết định đưa vụ án ra xét
xử phúc thẩm (Điều 258); Quyết định hoãn phiên tòa sơ thẩm (Điều 208); Quyết
định hoãn phiên tòa phúc thẩm (Điều 266),…
Đối với việc kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án để thực hiện quyền kháng
nghị:
Viện kiểm sát thực hiện quyền kiểm sát đối với: Quyết định công nhận sự
thỏa thuận của các đương sự; Quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án; Quyết
định đình chỉ giải quyết vụ án; Bản án sơ thẩm; Bản án phúc thẩm. Khi thực
hiện kiểm sát bản án, quyết định giải quyết vụ việc dân sự của Toà án, nếu phát
hiện có vi phạm trong quá trình giải quyết vụ việc, Viện kiểm sát có quyền yêu
cầu, kiến nghị hoặc kháng nghị theo quy định của pháp luật cụ thể như sau:
Khi phát hiện vi phạm pháp luật nghiêm trọng thì báo cáo Viện trưởng
kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm (đối với quyết định tạm đình chỉ, quyết định
đình chỉ; bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật. Kháng nghị
theo thủ tục phúc thẩm của Viện kiểm sát là văn bản pháp lý làm phát sinh một
thủ tục tố tụng mới yêu cầu Toà án phải xem xét lại toàn bộ hoặc một phần bản
án, quyết định bị kháng nghị nhằm mục đích bảo đảm cho việc xét xử được

chính xác, công minh và đúng pháp luật, đồng thời sửa chữa những sai lầm
5


trong bản án, quyết định của toà án; kiểm tra tính hợp pháp và có căn cứ của bản
án hoặc quyết định của toà án.
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 252 BLTTDS, thời hạn kháng nghị đối với
bản án của Toà án cấp sơ thẩm của Viện kiểm sát cùng cấp là mười lăm ngày,
của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là ba mươi ngày, kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp Kiểm sát viên không tham gia phiên toà thì thời hạn kháng nghị tính
từ ngày Viện kiểm sát cùng cấp nhận được bản án.
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 252, Khoản 2 Điều 317 BLTTDS, thời hạn
kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp đối với quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ
giải quyết vụ án của Toà án cấp sơ thẩm, quyết định giải quyết việc dân sự là
bảy ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là mười ngày, kể từ ngày Viện
kiểm sát cùng cấp nhận được quyết định trừ trường hợp quy định tại Khoản 2
Điều 358 và Khoản 2 Điều 372 BLTTDS.
Theo Điều 256 BLTTDS thì Viện kiểm sát ra quyết định kháng nghị có quyền
thay đổi, bổ sung kháng nghị trước khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc
thẩm. Nếu thời hạn kháng nghị vẫn còn thì việc thay đổi phạm vi kháng nghị
được chấp nhận, nếu thời hạn kháng nghị đã hết thì việc thay đổi phạm vi kháng
nghị không được vượt quá phạm vi kháng nghị ban dầu.

Trước khi bắt đầu phiên tòa, việc rút kháng nghị có thể do Viện kiểm sát ra
quyết định kháng nghị hoặc Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp quyết định. Tại
phiên tòa phúc thẩm, việc rút kháng nghị thuộc thẩm quyền của Kiểm sát viên
tham gia phiên tòa.
Trong quá trình kiểm sát bản án, quyết định, xét thấy cần thiết để bảo đảm
việc kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm hoặc để bảo vệ quan điểm
kháng nghị tại phiên tòa, Viện kiểm sát có thể trực tiếp hoặc làm văn bản yêu

6


cầu đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp cho Viện kiểm sát hồ sơ, tài
liệu, vật chứng theo quy định tại khoản 4 Điều 85, khoản 2 Điều 94 BLTTDS và
hướng dẫn tại Điều 4 của Thông tư liên tịch số 04/2012/TTLT.
3. Viện kiểm sát tham gia phiên tòa, phiên họp
3.1. Viện kiểm sát tham gia phiên tòa, phiên họp ở Tòa án cấp sơ thẩm
Khoản 2 Điều 21 BLTTDS quy định: "Viện kiểm sát nhân dân tham gia các
phiên họp sơ thẩm đối với các việc dân sự; các phiên tòa sơ thẩm đối với những
vụ án do Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ hoặc đối tượng tranh chấp là tài sản
công, lợi ích công cộng, quyền sử dụng đất, nhà ở hoặc có một bên đương sự là
người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất, tâm thần”.
- Các trường hợp Viện kiểm sát tham gia phiên toà sơ thẩm:
Theo quy định tại Điều 25, Điều 27, Điều 29 và Điều 31 BLTTDS Tòa án có
thẩm quyền giải quyết những tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh
doanh, thương mại và lao động. Tuy nhiên, VKSND không tham gia tất cả các
phiên tòa sơ thẩm giải quyết tranh chấp dân sự mà chỉ tham gia trong những
trường hợp do pháp luật quy định. Theo quy định tại Thông tư liên tịch số
04/2012/TTLT-VKSNDTC-TANDTC ngày 01/8/2012 của Viện kiểm sát nhân
dân tối cao và Tòa án nhân dân tối cao Hướng dẫn một số quy định của
BLTTDS về kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự.
- Các trường hợp Viện kiểm sát tham gia phiên họp sơ thẩm giải quyết việc dân
sự:
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 21 BLTTDS Viện kiểm sát phải tham gia tất
cả các phiên họp sơ thẩm giải quyết việc dân sự của Toà án.
Toà án gửi hồ sơ việc dân sự cùng với quyết định mở phiên họp cho Viện
kiểm sát ngay sau khi Toà án ra quyết định mở phiên họp. Trong thời hạn 7

7



ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ, Viện kiểm sát phải trả lại hồ sơ cho Toà án
để mở phiên họp theo quy định tại Khoản 1 Điều 313 BLTTDS.
3.2 Viện kiểm sát tham gia phiên tòa, phiên họp ở Tòa án cấp phúc thẩm.
Theo quy định tại các khoản 3 Điều 21, khoản 2 Điều 264, Điều 280, Điều 292
và Điều 310 BLTTDS thì Viện kiểm sát phải tham gia tất cả các phiên tòa, phiên
họp phúc thẩm giám đốc thẩm, tái thẩm.
Khoản 3 Điều 21quy định "Viện kiểm sát nhân dân tham gia phiên tòa,
phiên họp phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm”.
Theo quy định tại Điều 262 BLTTDS, sau khi ra quyết định đưa vụ án ra xét
xử, Tòa án cấp phúc thẩm phải chuyển hồ sơ vụ án cho VKS cùng cấp nghiên
cứu. Thời hạn nghiên cứu hồ sơ của VKS cùng cấp là mười lăm ngày, kể từ
ngày nhận được hồ sơ vụ án; hết thời hạn đó, VKS phải trả hồ sơ vụ án cho Tòa
án.
Kiểm sát viên VKS cùng cấp phải tham gia phiên tòa phúc thẩm, nếu vắng
mặt thì phải hoãn phiên tòa (Điều 264, Điều 266 BLTTDS)
Theo Điều 280 BLTTDS quy định về thủ tục phúc thẩm đối với quyết định của
Tòa án cấp sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì khi phúc thẩm đối với quyết
định của Tòa án cấp sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị, Hội đồng phúc thẩm
không phải mở phiên tòa, không phải triệu tập các đương sự, trừ trường hợp cần
phải nghe ý kiến của họ trước khi ra quyết định. Tuy nhiên, Khoản 2 Điều 280
BLTTDS lại quy định Kiểm sát viên VKS cùng cấp tham gia phiên họp phúc
thẩm quyết định của Tòa án sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị. Như vậy, việc
tham gia phiên họp phúc thẩm đối với quyết định của Tòa án của VKS là bắt
buộc.

8



III. Một số nhận xét và kiến nghị về thực tiễn tham gia của viện kiểm sát
vào quá trình tố tụng dân sự.
1. Những điểm còn hạn chế trong quy định của pháp luật về hoạt động tố tụng
dân sự của viện kiểm sát.
Bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2011 đã được triển khai thực hiện,
là cơ sở quan trọng để cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong
quá trình giải quyết các vụ việc dân sự và công dân thực hiện quyền và lợi ích
hợp pháp của mình. Tuy nhiên, qua một thời gian tổ chức thực hiện, một số chế
định, quy định của Bộ luật này và các văn bản giải thích hướng dẫn còn nhiều
bất cập, gây khó khăn và thực hiện chưa được thống nhất. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, như đã trình bày ở trên, pháp luật không có quy định về việc kiểm
sát việc thụ lý vụ án ở cấp phúc thẩm. Đây là một trong những thiếu sót của
pháp luật khiến cho việc áp dụng pháp luật khó khăn và không đồng nhất.
Thứ hai, trong việc kiểm sát bản án và các quyết định của tòa án, tại các điều
Điều 187. Ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, Điều
194.Thẩm quyền ra quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án dân sự:
quy định về thời hạn của Tòa án đã ra quyết định phải gửi quyết định đó cho
Viện kiểm sát cùng cấp. Tuy nhiên, để có căn cứ kiểm sát việc chấp hành pháp
luật cho việc ban hành các quyết định của Tòa án thì ngoài việc gửi các quyết
định, Tòa án cùng cấp còn phải gửi cho Viện kiểm sát các tài liệu làm căn cứ
cho việc ban hành các quyết định. Tuy nhiên, pháp luật không quy định rõ Tòa
án phải gửi các tài liệu này. Chính vì thế, Viện kiểm sát không thể thực hiện
kiểm sát một cách đúng đắn và hiệu quả.
Thứ ba, trong việc tham gia phiên tòa phiên họp của viện kiểm sát, Điều 234.
Phát biểu của Kiểm sát viên:Điều luật quy định Kiểm sát viên chỉ phát biểu ý
kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của
Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố
tụng. Quy định như trên là chưa phù hợp và đầy đủ.
9



Thứ tư, một cách tổng quát thì những quy định của pháp luật trong hoạt động
tố tụng dân sự của viện kiểm sát còn chồng chéo, không đồng nhất gây khó khắn
cho hoạt động kiểm sát nói riêng cũng như hoạt động tố tụng nói chung.
2. Một số kiến nghị để hoàn thiện pháp luật
Từ những điểm còn hạn chế trên, em xin đưa ra một số kiến nghị để hoàn
thiện pháp luật về hoạt động tố tụng dân sự của viện kiểm sát như sau:
Thứ nhất, cần có quy định bổ sung về việc kiểm sát việc thụ lý đơn của Tòa
án ở cấp phúc thẩm cũng như ở những thủ tục tái thẩm, giám đốc thẩm.
Thứ hai, pháp luật cần quy Tòa án phải có nghĩa vụ gửi các quyết định của
mình cho viện kiểm sát có kèm theo các tài liệu là căn cứ của các quyết định đó,
để thuận tiện hơn cho việc kiểm sát các hoạt động của Tòa của Viện kiểm sát.
Thứ ba, ngoài những quy định về việc kiểm sát việc tuân theo pháp luật của
các cơ quan tiến hành tố tụng tại phiên tòa còn cần quy định thêm Kiểm sát viên
được phát biểu ý kiến về đường lối giải quyết vụ án nhằm giúp cho Hội đồng xét
xử ra bản án, quyết định đúng pháp luật, nâng cao được vai trò, vị thế của Kiểm
sát viên tại phiên tòa xét xử các vụ án dân sự theo thủ tục sơ thẩm.
Thứ tư, cần pháp điển hóa pháp luật để các quy định của pháp luật về hoạt
động tố tụng dân sự của viện kiểm sát nói riêng và hoạt động của viện kiểm sát
nói chung được đồng bộ, thuận tiện cho việc thực thi pháp luật trên thực tế.
C. KẾT LUẬN
Như vậy, có thể thấy được Viện kiểm sát đóng một vai trò quan trọng trong hoạt
động tố tụng dân sự ở các cả cấp sơ thẩm và phúc thẩm. Việc hoàn thiện và mở
rộng hơn các quy định pháp luật nhằm nâng cao quyền hạn và trách nhiệm của
viện kiểm sát sẽ giúp cho hoạt động tố tụng được hiệu quả và minh bạch hơn.

10


Qua đó, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo vệ pháp chế xã hội

chủ nghĩa.

Danh mục tài liệu tham khảo:
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, giáo trình Luật tố tụng dân sự, NXB
CAND, năm 2012
2. Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 (sửa đổi bổ sung năm 2011)

11


3. Hoàng Thị Quỳnh Chi, Những điểm mới cơ bản về vai trò của Viện kiểm
sát trong tố tụng dân sự theo luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ
luật tố tụng dân sự ,Toà án nhân dân. Toà án nhân dân tối cao, Số
12/2011, tr. 8 - 11, 38
4. />5. />
12



×