Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

đình chỉ tố tụng dân sự ở Toà án cấp sơ thẩm, Toà án cấp phúc thẩm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.47 KB, 11 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC..................................................................................................................................1
I, Vấn đề đình chỉ tố tụng dân sự ở Toà án cấp sơ thẩm...........................................................2
1, Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự........................................................................................2
2, Đình chỉ xét xử yêu cầu của đương sự...............................................................................5
II, Vấn đề đình chỉ tố tụng dân sự ở Toà án cấp phúc thẩm......................................................5
1, Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự........................................................................................5
2, Đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự............................................................................7
3, Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo, kháng nghị...............................................8
III, Kiến nghị hoàn thiện pháp luật.............................................................................................9
BÀI LÀM
1
Thực tế cho thấy quy định về đình chỉ là những quy định có vị trí quan
trọng trong việc giải quyết vụ án dân sự. Bởi lẽ đình chỉ được xem như một
phương thức xử lí đặc biệt của Toà án trong quá trình giải quyết vụ án dân sự.
Để hiểu rõ hơn chúng ta có thể tìm hiểu về vấn đề đình chỉ tố tụng dân sự ở
Toà án cấp sơ thẩm, Toà án cấp phúc thẩm.
I, Vấn đề đình chỉ tố tụng dân sự ở Toà án cấp sơ thẩm
Theo quy định của BLTTDS

(Bộ luật tố tụng dân sự 2004) hiện nay thì
vấn đề đình chỉ tố tụng dân sự ở Toà án cấp sơ thẩm gồm đình chỉ giải quyết
vụ án dân sự và đình chỉ xét sử yêu cầu của đương sự.
1, Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự
Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự là việc toà án quyết định ngừng việc
giải quyết vụ án dân sự khi có những căn cứ do pháp luật quy định. Theo đó,
sau khi có quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự thì các hoạt động tố
tụng giải quyết vụ án dân sự được ngừng lại.
Điều 192 BLTTDS quy định về các trường hợp đình chỉ giải quyết vụ án
dân sự:
- Nguyên đơn hoặc bị đơn là cá nhân đã chết mà quyền, nghĩa vụ của họ


không được thừa kế.
- Cơ quan, tổ chức đã bị giải thể hoặc bị tuyên bố phá sản mà không có cá
nhân, cơ quan, tổ chức nào kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của cơ quan, tổ
chức đó.
- Người khởi kiện rút đơn khởi kiện và được Toà án chấp nhận, hoặc người
khởi kiện không có quyền khởi kiện.
- Cơ quan, tổ chức rút văn bản khởi kiện trong trường hợp không có nguyên
đơn hoặc nguyên đơn yêu cầu không tiếp tục giải quyết vụ án.
2
- Các đương sự đã tự thoả thuận và không yêu cầu Toà án tiếp tục giải quyết
vụ án.
- Nguyên đơn đã được yêu cầu triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng
mặt.
- Đã có quyết định của Toà án mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp
tác xã là một bên đương sự trong vụ án mà việc giải quyết vụ án có liên quan
đến nghĩa vụ, tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã đó.
- Các trường hợp khác mà pháp luật có quy định.
Trong đó trường hợp “Người khởi kiện rút đơn khởi kiện và được Toà án
chấp nhận, hoặc người khởi kiện không có quyền khởi kiện” và trường hợp
“Các trường hợp khác mà pháp luật có quy định” đã được cụ thể hoá và
hướng dẫn thi hành tại mục II.10 Nghị quyết số 02//2006/NQ-HĐTP ngày
12/05/2006 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, hướng dẫn thi
hành các quy định trong Phần thứ hai “Thủ tục giải quyết vụ án tại Toà án cấp
sơ thẩm của Bộ luật tố tụng dân sự”.
Ngoài ra, khoản 2 Điều 192 BLTTDS quy định: “Toà án ra quyết định
đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, xoá tên vụ án đó trong sổ thụ lí và trả lại đơn
khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo cho đương sự nếu vụ án thuộc trường
hợp trả lại đơn khởi kiện quy định tại Điều 168 Bộ luật này”. Như vậy, quy
định này đã viện dẫn các căn cứ đình chỉ được quy định tại Điều 168
BLTTDS về những trường hợp trả lại đơn khởi kiện. Nói cách khác, trước khi

Toà án cấp sơ thẩm thụ lí vụ án mà phát hiện những căn cứ quy định tại Điều
168 BLTTDS thì Toà án phải trả lại đơn khởi kiện, tuy nhiên, nếu vì một lí do
nào đó mà Toà án đã thụ lí rồi mới phát hiện những căn cứ đó thì phải đình
chỉ giải quyết vụ án.
Tìm hiểu các quy định của pháp luật thì không có một quy định cụ thể
nào về thời điểm áp dụng đình chỉ giải quyết vụ án. Song, khoản 1 Điều 192
BLTTDS có ghi rõ: “Sau khi thụ lí vụ án thuộc thẩm quyền của mình, Toà án
ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong các trường hợp...”; Khoản
3
2 Điều 210 BLTTDS quy định về thủ tục ra bản án và quyết định của Toà án
tại phiên toà cũng có ghi: “Quyết định thay đổi người tiến hành tố tụng, người
giám định, người phiên dịch, chuyển vụ án, tạm đình chỉ hoặc đình chỉ giải
quyết vụ án, hoãn phiên toà phải được thảo luận, thông qua tại phòng nghị án
và phải được lập thành văn bản”. Từ đó cho thấy đình chỉ giải quyết vụ án
dân sự được Toà án cấp sơ thẩm áp dụng từ sau khi Toà án thụ lí giải quyết vụ
án đến trước khi ra bản án, quyết định sơ thẩm. Hiểu khác đi, Toà án cấp sơ
thẩm có thể đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử
hoặc tại phiên toà sơ thẩm.
Về hình thức của đình chỉ giải quyết vụ án là Quyết định đình chỉ giải
quyết vụ án dân sự với nội dung và mẫu văn bản được quy định tại Nghị
quyết số 02/2006/NQ-HĐTP.
Khoản 1 Điều 194 BLTTDS quy định: “Thẩm phán được phân công giải
quyết vụ án dân sự có thẩm quyền ra quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ
giải quyết vụ án dân sự đó”. Vậy về thẩm quyền thì thẩm quyền ra quyết định
đình chỉ giải quyết vụ án dân sự thuộc về thẩm phán được phân công giải
quyết vụ án dân sự đó. Tuy nhiên, Điều luật này không quy định rõ thẩm phán
có thẩm quyền ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong giai đoạn
nào của quá trình tố tụng. Mà theo quy định tại khoản 2 Điều 210 BLTTDS
đã trình bày ở trên thì các quyết định tại phiên toà sơ thẩm, trong đó có quyết
định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự phải được thảo luận, thông qua tại

phòng nghị án. Vậy, thẩm quyền ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân
sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử thuộc về thẩm phán được phân công giải
quyết vụ án dân sự đó, còn tại phiên toà sơ thẩm quyền này thuộc về Hội
đồng xét xử.
Về hậu quả pháp lí của việc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự đã được quy
định cụ thể tại Điều 193 BLTTDS và Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP.
Theo đó, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự chưa có hiệu lực pháp
luật ngay mà có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Nếu
4
không bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn kháng cáo kháng nghị theo
quy định của pháp luật, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự có hiệu
lực pháp luật và làm ngừng lại hoạt động tố tụng giải quyết vụ án dân sự.
Cùng với đó, đối tượng xét xử của Toà án trong vụ án dân sự là yêu cầu của
các đương sự không được Toà án giải quyết và Toà án xoá tên vụ án dân sự
trong sổ thụ lí.
2, Đình chỉ xét xử yêu cầu của đương sự
Khoản 2 Điều 218 BLTTDS quy định về xem xét việc thay đổi, bổ sung,
rút yêu cầu ghi rõ: “Trong trường hợp có đương sự rút một phần hoặc toàn bộ
yêu cầu của mình và việc rút yêu cầu của họ là tự nguyện thì Hội đồng xét xử
chấp nhận và đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu hoặc toàn bộ yêu cầu
đương sự đã rút”. Vậy, nếu trong vụ án dân sự có nhiều đương sự đưa ra yêu
cầu và trong đó chỉ có một hoặc một số rút yêu cầu, số còn lại vẫn giữ nguyên
yêu cầu của họ thì Toà án cấp sơ thẩm chỉ đình chỉ xét xử phần yêu cầu hoặc
toàn bộ yêu cầu của đương sự đã rút. Ví dụ: Nếu trong vụ án dân sự có một
nguyên đơn đưa ra nhiều yêu cầu mà sau đó họ rút một phần yêu cầu thì Toà
án chỉ đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu mà nguyên đơn đã rút.
II, Vấn đề đình chỉ tố tụng dân sự ở Toà án cấp phúc thẩm
Không giống như đình chỉ tố tụng dân sự ở Toà án cấp sơ thẩm, vấn đề
đình chỉ tố tụng dân sự ở Toà án cấp phúc thẩm gồm đình chỉ giải quyết vụ án
dân sự; đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự; đình chỉ xét xử phúc thẩm

đối với kháng cáo, kháng nghị.
1, Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự
Về căn cứ đình chỉ. Điều 278 BLTTDS quy định: “Hội đồng xét xử phúc
thẩm huỷ bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án nếu trong quá trình giải
5

×