Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về tạm giam và việc hoàn thiện quy định này

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.93 KB, 17 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC................................................................................................................................ 1
I. QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ TẠM GIAM.......................................2
1. Khái niệm vềbiện pháp ngăn chặn tạm giam................................................................2
2. Mục đích và ý nghĩa của biện pháp tạm giam..............................................................3
3. Đối tượng áp dụng.......................................................................................................4
4. Căn cứ áp dụng BPNC tạm giam.................................................................................6
5. Thẩm quyền ra lệnh tạm giam......................................................................................7
6. Thủ tục tạm giam.........................................................................................................8
7. Thời hạn tạm giam.......................................................................................................8
II. HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ TẠM GIAM...........................................9
1. Thực trạng áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam....................................................9
2. Phương hướng hoàn thiện quy định của pháp luật về tạm giam................................10
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................16

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Biện pháp ngăn chặn là một chế định quan trọng trong pháp luật tố tụng
hình sự. Áp dụng các quy định về biện pháp ngăn chặn một cách đúng đắn,
chính xác là sự bảo đảm cần thiết cho việc ngăn chặn và xử lý kịp thời, nghiêm
minh đối với kẻ phạm tội, bảo đảm không để lọt tội phạm, không làm oan người
vô tội.
Tạm giam là một trong những biện pháp ngăn chặn có tính chất nghiêm
khắc nhất trong các biện pháp ngăn chặn của tố tụng hình sự. Người bị áp dụng
biện pháp tạm giam bị cách ly với xã hội trong một thời gian nhất định, bị hạn
chế một số quyền công dân. Thời gian qua, trên cơ sở các quy định của Bộ luật
Tố tụng hình sự và các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật liên quan về tạm
giam, đã tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá
trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án; đảm bảo công bằng xã hội, đảm bảo
pháp chế và quan trọng nhất là đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.


Tuy nhiên, qua thực tiễn áp dụng các biện pháp ngăn chặn và đặc biệt là
biện pháp tạm giam đã nảy sinh một số khó khăn, vướng mắc cần phải sửa đổi,
bổ sung cho phù hợp với tình hình hiện nay, bởi vậy trong khuôn khổ bài tập lớn
học kỳ này em xin được trình bày những tìm hiểu của mình về vấn đề: “Quy
định của Bộ luật tố tụng hình sự về tạm giam và việc hoàn thiện quy định
này”. Do hiểu biết còn hạn hẹp, chưa có chiều sâu nên bài viết còn nhiều vướng
1


mắc, thiếu xót, em rất mong nhận được sự góp ý, dạy bảo của thầy cô để bài viết
được hoàn chỉnh hơn

B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ TẠM GIAM
1. Khái niệm vềbiện pháp ngăn chặn tạm giam
Tạm giam là biện pháp tạm thời tước tự do do Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát, Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo trong trường hợp do luật định.
Thời hạn tạm giam phụ thuộc vào giai đoạn tố tụng cũng như tính chất phức tạp
của vụ án mà bị can, bị cáo phải thực hiện.
Tạm giam là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất trong số các biện
pháp ngăn chặn. Nếu như các biện pháp ngăn chặn khác như “cấm đi khỏi nơi
cư trú”, “bảo lĩnh”, “đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để đảm bảo chỉ ảnh hưởng
đến các quyền tự do khác của công dân như quyền bất khả xâm phạm về thân
thể, quyền tự do giao tiếp, quyền hội họp. Còn các biện pháp bắt người, tạm giữ
cũng là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc, nó cũng hạn chế quyền tự do của
công dân, nhưng thời gian hạn chế quyền tự do trong băt và tạm giữ ngắn hơn
nhiều so với tạm giam. Trong vòng 24 giờ sau khi bị bắt, Cơ quan điều tra phải
lấy lời khai, ra quyết định tạm giữ hoặc trả lại tự do cho người bị bắt. Thời gian
tạm giữ là 3 ngày đêm và tối đa là 9 ngày đêm đối với trường hợp có gia hạn
tạm giữ. Trong khi đó thời hạn tạm giam để điều tra có thể lên đến 12 tháng

hoặc 16 tháng.
2


Tạm giam là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất nhưng lại không phải
là hình phạt tù bởi vì mục đích của tạm giam là ngăn chặn tội phạm và hành vi
trốn tránh pháp luật của người phạm tội, bảo đảm cho việc điều tra, truy tế, xet
xử hoặc thi hành án được tiến hành đúng đắn, còn hình phạt là biện pháp cưỡng
chế nghiêm khắc của Nhà nước do Tòa án áp dụng nhằm trừng phạt người phạm
tội và nhằm mục đích cải tạo họ thành người có ích cho xã hội.
Tạm giam là biện pháp có tính chất lựa chọn “có thể áp dụng” tức là
không phải bắt buộc áp dụng đồng loạt cho mọi bị can, bị cáo khi đã có đủ căn
cứ mà những căn cứ chỉ là điều kiện đủ để áp dụng tạm giam.
Với mục đích ngăn chặn và phòng ngừa tội phạm, việc quy định biện
pháp tạm giam trong BLTTHS có ý nghĩa rất quan trọng. Biện pháp tạm giam
góp phần nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước, củng cố, tăng cường pháp chế
XHCN, bảo vệ sự an toàn và vững mạnh của chế độ XHCN, bảo vệ tài sản, tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của công dân được Hiến pháp quy định
như quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền tự do cư trú và đi lại…, tạm
giam đúng còn bảo đảm cho việc đấu tranh phòng chống và phòng ngừa tội
phạm có hiệu quả, bảo đảm hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng được
thuận lợi, thể hiện sự chuyên chính của nhà nước XHCN trong việc đấu tranh
phòng chống tội phạm.
Như vậy có thể hiểu: “Tạm giam là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng
hình sự do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án áp dụng đối với bị can, bị
cáo phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng hay bị can, bị cáo
phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt
tù trên hai năm và có căn cứ để cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc
tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội”. 1Đây chính là quan điểm chính
thống của Trường Đại học Luật Hà Nội được nêu trong giáo Luật tố tụng hình

sự Việt Nam.
2. Mục đích và ý nghĩa của biện pháp tạm giam
2.1. Mục đích của tạm giam
Tạm giam được áp dụng đối với bị can, bị cáo trong các giai đoạn khác
nhau của tố tụng hình sự. Vì vậy, ngoài mục đích chung, thống nhất là ngăn
chặn không để bị can, bị cáo có điều kiện tiếp tục phạm tội hoặc có hành vi gây
khó khăn cho việc giải quyết vụ án thì ở mỗi gian đoạn tố tụng nhất định, việc
áp dụng biện pháp này còn có mục đích riêng nhằm bảo đảm thực hiện tốt chức
năng tố tụng của cơ quan áp dụng. Chẳng hạn, việc tạm giam đối với bị can
trong giai đoạn điều tra tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan điều tra có thể tiến
hành hoạt động thu thập chứng cứ từ lời khai của bị can vào bất cứ khi nào nếu
thấy cần thiết mà không phải triệu tập nhiều lần, đồng thời cũng giúp cho việc
1

Xem Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Tư pháp, Hà Nội, năm 2006,
Trang 224.

3


quản lí, giám sát bị can được chặt chẽ; việc tạm giam bị cáo sau khi tuyên án
nhằm đảm bảo cho việc thi hành án sau khi bản án có hiệu lực pháp luật được
thuận lợi.
2.2. Ý nghĩa của tạm giam
Thứ nhất, tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều tra xử lý tội phạm, ngăn
chặn nhanh chóng, làm rõ tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội là một
nhiệm vụ quan trong của Cơ quan điều tra, VKS, TAND. Áp dụng BPNC tạm
giam sẽ đảm bảo cho sự có mặt của bị can, bị cáo trong hoạt động tố tụng khi
cần thiết, bảo đảm tính chính xác, khác quan của hoạt động tố tụng (giữ bí mật
điều tra, không cho bị cáo cất giấy công cụ, phương tiện phạm tội…)

Thứ hai, việc quy định biện pháp tạm giam thể hiện sự cưỡng chế của Nhà
nước trong việc đấu tranh phòng ngừa tội phạm góp phần nâng cao hiệu lực
quản lý của Nhà nước, củng cố, tăng cường pháp chế XHCN. Biện pháp ngăn
chặn nói chung và biện pháp tạm giam nói riêng ảnh hưởng trưc tiếp tới quyền
tự do cá nhân, người bị áp dụng biện pháp này sẽ bị cách li khỏi xã hội trong
một thời gian nhất định, bị hạn chế một số quyền công dân: quyền tự do đi lại,
quyền bất khả xâm phạm về thân thể. Chính vì thế mà biện pháp tạm giam có tác
dụng ngăn ngừa tội phạm tiếp tục thực hiện, ngăn ngừa hậu quả hoặc gây khó
khăn cho quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án.
Thứ ba, việc quy định biện pháp tạm giam tạo cơ sở pháp lý vững chắc,
góp phần bảo đảm và tôn trọng các quyền cơ bản của công dân.BPNC tạm giam
không chỉ thể hiện tính cưỡng chế Nhà nước mà nó còn là phương tiện hữu hiệu
để bảo vệ những quyền đó khi nó có nguy cơ bị xâm hại hoặc đang bị xâm hại.
Thứ tư, tạm giam thể hiện tính ưu việt của nhà nước ta. Pháp luật XHCN
không cho phép bất cứ hành vi nào xâm hại tới quyền và lợi ích chính đáng của
công dân dù đó là do ai thực hiện.
3. Đối tượng áp dụng
3.1. Những trường hợp áp dụng
Biện pháp tạm giam chỉ áp dụng chi bị can, bị cáo. Những người không
phải là bị can, bị cáo thì không áp dụng biện pháp tạm giam mà có thể áp dụng
biện pháp ngăn chặn khác. Theo khoản 1 ĐIều 88 BLTTHS năm 2003 “Tạm
giam có thể được áp dụng đối với bị can, bị cáo trong những trường hợp sau
đây:
a) Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng; phạm tội rất nghiêm
trọng;
b) Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ
luật hình sự quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng người đó
có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm
tội.”
4



Nếu như BLHS trước đây quy định căn cứ là trên một năm tù và tương
ứng với nó BLHS có 11 tội danh có khung hình phạt cao nhất là trên 1 năm tù
thì BLHS 1999 quy định có 16 tội danh có khung hình phạt cao nhất đến 2 năm
tù. Đó là các tội quy định tại các Điều như Điều 94, 128, 129, 130, 148, 149,
152, 159… Theo các điều kiện thứ nhất thì trong các trường hợp trên, cơ quan
có thẩm quyền không được áp dụng biện pháp tạm giam.
Do những quy định trên, để cho việc áp dụng điều kiện này một cách có
căn cứ, trong quyết định khởi tố bị can, quyết định truy tố, quyết định đưa vụ án
ra xét xử cần nêu rõ tội danh và điều khoản của BLHS mà bị can, bị cáo bị áp
dụng.
Trong căn cứ này, ngoài điều kiện mà bị can, bị cáo phạm tội nghiêm
trọng, ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù trên 2 năm thì nó còn
phải thỏa mãn điều kiện: có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở
việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội.
Để xác định bị can, bị cáo có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, xét xử
hoặc có thể tiếp tục phạm tội, thường phải căn cứ vào việc điều tra, xét xử và sự
cần thiết của việc ngăn chặn tội phạm; nhân thân của bị can, bị cáo khi được áp
dụng BPNC ít nghiêm khắc hơn. Khi áp dụng BPNC ít nghiêm khắc hơn biện
pháp tạm giam nhưng sau đó bị can, bị cáo không thực hiện nghĩa vụ có mặt
theo giấy triệu tập của cơ quan tiến hành tố tụng, trốn tránh việc điều tra, xét xử
hoặc làm rõ sự thật của vụ án thì có thể xác định đó là hành động không thực
hiện các điều kiện của BPNC đã được áp dụng thì có thể bắt để tạm giam bị can,
bị cáo đó. Như vậy, chỉ khi nào có đầy đủ hai điều kiện kể trên mới được quyết
định tạm giam.
Qua nghiên cứu quy định của BLTTHS về tạm giam cho thấy, BPNC này
chỉ cần thiết khi các BPNC khác không đảm bảo được mục đích ngăn chặn tội
phạm.
3.2. Những trường hợp không áp dụng biện pháp tạm giam

Như đã phân tích ở trên, không phải bị can, bị cáo nào cũng phải áp dụng
biện pháp tạm giam. Khoản 2 Điều 88 BLTTHS 2003 đã quy định các trường
hợp không được áp dụng biện pháp tạm giam mà áp dụng các biện pháp khác,
trừ trường hợp đặc biệt:
- Bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang thời kỳ nuôi con dưới 36 tháng
tuổi có nơi cư trú rõ ràng.
- Bị can, bị cáo là người già yếu, người bị bệnh nặng có nơi cư trú rõ ràng.
Đối với bị can, bị cáo thuộc một trong hai trường hợp nói trên cần áp
dụng BPNC khác, có thể là cấm đi khỏi nơi cư trú hoặc bảo lãnh…
Tuy nhiên, đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang thời kì nuôi
con dưới 36 tháng tuổi, người già yếu, người bị bệnh nặng có nơi cư trú rõ ràng,
5


nếu có đủ điều kiện tạm giam thì vẫn có thể ra lệnh tạm giam, các trường hợp đó
được quy định cụ thể tại các điểm a, b, c của khoản 2 Điều 88 như sau:
- Bị can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã.
- Bị can, bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng tiếp tục
phạm tội hoặc cố ý gây cản trở nghiêm trọng đến việc điều tra, truy tố, xét
xử.
- Bị can, bị cáo phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia có đủ căn cứ cho rằng
nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.
Ngoài các quy định nói trên, có thể coi các trường hợp sau đây cũng là
các trường hợp không cần thiết phải tạm giam mà có thể áp dụng BPNC khác:
+ Người bị tạm giam có căn cước rõ ràng, hành vi phạm tội thuộc tội ít nghiêm
trọng, việc áp dụng các BPNC khác không ảnh hưởng đến việc điều tra, xét xử
hoặc thi hành án.
+ Người bị tạm giam được người khác bảo lãnh và có đủ điều kiện để áp dụng
BPNC này.
Điều 303 BLTTHS còn quy định việc tạm giam người chưa thành niên,

Theo quy định của điều này thì việc tạm giam người chưa thành niên phạm tội
phải có đủ ba điều kiện sau:
+ Phải có đủ căn cứ quy định tại các Điều 80, 81, 82, 86, 88 và 120 BLTTHS.
Đây là trường hợp người chưa thành niên phạm tội bị bắt trong trường hợp khẩn
cấp, bị bắt do phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã, bị tạm giữ, tạm giam để
ngăn chặn tội phạm và hành vi trốn tránh pháp luật của họ, bảo đảm cho việc
điều tra, truy tố, xét xử hoặc thi hành án.
+ Tội phạm do họ thực hiện là tội nghiêm trọng do cố ý, tội rất nghiêm trọng
hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
+ Họ đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 68 BLHS.
4. Căn cứ áp dụng BPNC tạm giam
BLTTHS không trực tiếp quy định các căn cứ áp dụng BPNC tạm giam
mà chỉ quy định áp dụng BPNC nói chung. Như Điều 79 BLTTHS “Để kịp thời
ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn
cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội, cũng như khi cần bảo
đảm thi hành án, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án trong phạm vị thẩm
quyền tố tụng của mình hoặc người có thẩm quyền theo quy định của Bộ luật
này có thể áp dụng một trong những biện pháp ngăn chặn sau đây: bắt tạm giữ,
tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để
bảo đảm”.
Trong số các căn cứ trên: căn cứ “kịp thời ngăn chặn tội phạm” chỉ áp
dụng cho trường hợp khẩn cấp như ở điểm a khoản 1 Điều 81 BLTTHS nhằm
kịp thời ngăn chặn hành vi phạm tội, không để tội phạm xảy ra hoặc hoàn thành
hay không để người phạm tội kết thúc hành vi phạm tội của mình, gây hậu quả
6


nguy hiểm cho xã hội. Căn cứ này không thể là căn cứ áp dụng cho BPNC tạm
giam vì đối tượng áp dụng BPNC tạm giam là bị can, bị cáo, hành vi phạm tội
của họ đã được thực hiện trong quá khứ. Như vậy có các căn cứ sau:

Thứ nhất, khi có căn cứ cho rằng bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho hoạt
động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Hành vi gây khó khăn cho hoạt
động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án được thể hiện qua việc sau khi thực
hiện hành vi phạm tội người phạm tội có thể bỏ trốn, tiêu hủy, làm giả hoặc thay
đổi chứng cứ, xóa các dấu vết của vụ án, mua chuộc, dụ lỗ, lừa phỉnh, khống chế
người làm chứng, người bị hại… dẫn đến gây khó khăn cho việc xác định, làm
rõ sự thật khách quan vụ án.
Từ thực tiễn cuộc đấu tranh chống tội phạm có thể rút ra những căn cứ
cần xem xét để nhận định bị can, bị cáo gây khó khăn cho việc tiến hành tố tụng
thường là:
Thứ hai, khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ tiếp tục phạm tội. Để
nhận định bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội phải dựa vào nhiều tình tiết và xem xét
đánh giá một cách tổng hợp. Những tình tiết đó thường là: Tính chất của tội
phạm mà bị can, bị cáo đã thực hiện; Nhân thân của bị can, bị cáo; Những biểu
hiện cụ thể của bị can, bị cáo như đe dọa, khống chế, mua chuộc người làm
chứng, người bị hại, sử dụng thời gian bất minh, đi lại gặp gỡ bọn tội phạm.
Thứ ba, để bảo đảm thi hành án hình sự. Công tác thi hành án thực sự là
vấn đề quan trọng. Khi cần bảo đảm thi hành án, tùy theo tính chất của từng vụ
án và nhân thân người bị kết án, Tòa án có thể áp dụng BPNC thích hợp, trong
đó có BPNC tạm giam để đảm bảo cho việc thi hành án.
5. Thẩm quyền ra lệnh tạm giam
Theo khoản 3 Điều 88:“Những người có thẩm quyền ra lệnh bắt được
quy định tại Điều 80 của Bộ luật này có quyền ra lệnh tạm giam. Lệnh tạm giam
của những người quy định tại điểm d khoản 1 Điều 80 của Bộ luật này phải
được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Trong thơi hạn ba
ngày, kể từ ngày nhận được lệnh tạm giam, đề nghị xét phê chuẩn và hồ sơ, tài
liệu liên quan đến việc tạm giam, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn
hoặc quyết định không phê chuẩn. Viện kiểm sát phải hoàn trả hồ sơ cho Cơ
quan điều tra ngay sau khi kết thúc việc xét phê chuẩn”.
Theo Điều 5 Thông tư liên tịch số 05/2005/TTLT – VKSNDTC – BCA –

BQP ngày 07/09/2005 về quan hệ phối hợp giữa cơ quan điều tra và viện kiểm
sát trong việc thực hiện một số quy định của BLTTHS năm 2003 quy định về
việc phê chuẩn lệnh tạm giam trong trường hợp người đang bị tạm giữa bị khởi
tố bị can (Khoản 3 Điều 88): thẩm quyền ra lệnh tạm giam có thể do nhiều chủ
thể khác nhau tùy thuộc vào giai đoạn tiến hành tố tụng. VKS là cơ quan kiểm
sát các hoạt động tư pháp sẽ kiểm tra, giám sát hoạt động này, đặc biệt đối với
lệnh tạm giam của thủ tướng, phó thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp phải được
7


VKS cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Thời hạn mà VKS phải xem xét để
ra quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn lệnh tạm giam cử cơ quan điều
tra ba ngày, kể từ ngày nhận được lệnh tạm giam, đề nghị xét phê chuẩn và hồ
sơ tài liệu liên quan tới việc tạm giam. VKS phải hoàn trả lại hồ sơ cho Cơ quan
điều tra ngay sau khi kết thúc việc xét phê chuẩn dù có phê chuẩn hay không.2
6. Thủ tục tạm giam
Với tính chất là biện pháp nghiêm khắc nên cần phải tuân theo những
trình tự thủ tục chặt chẽ. Theo quy định của BLTTHS năm 2003 thì việc áp
dụng biện pháp tạm giam phải có lệnh tạm giam.
Lệnh tạm giam phải ghi rõ ngày tháng; họ tên, chức vụ của người ra lệnh;
họ tên, địa chỉ của người bị áp dụng BPNC tạm giam; lý do tạm giam, thời hạn
tạm giam và giao cho người bị tạm giam một bản.
Bên cạnh đó khi tiền hành tạm giam một người thì cần đảm bảo các thủ
tục liên quan như: thực hiện trông nom người thân thích, bảo quản tài sản của
người bị tạm giam. Sau khi có lệnh tạm giam, cơ quan ra lệnh tạm giam phải
kiểm tra căn cước của người bị tạm giam nhằm xác định đúng đối tượng cần tạm
giam nhằm tránh trường hợp nhầm lẫn đồng thời cơ quan đã ra lệnh tạm giam
phải thông báo ngay cho gia đình của người bị tạm giam và cho chính quyền xã,
phường, thị trấn hoặc cơ quan tổ chức nơi người bị tạm giam cư trú hoặc làm
việc để gia đình họ cũng như các cơ quan tổ chức biết được sự việc và không

phải tiến hành những thủ tục tìm kiếm không cần thiết, gây tốn kém.
7. Thời hạn tạm giam
Thời hạn tạm giam được quy định tại Điều 71 BLTTHS năm 1988 nhưng
ở BLTTHS năm 2003 thì lại không quy định.
Ít nghiêm Nghiêm
Rất
Đặc biệt
trọng
trọng
nghiêm
nghiêm
trọng
trọng
Thời hạn điều tra
Gia hạn điều tra
Thời hạn truy tố
Gia hạn truy tố
Trả hồ sơ điều tra bổ
sung
Gửi hồ sơ cho tòa án
Tòa án chuẩn bị xét xử

60
30
20
10
120

90
90

90
15
120

120
150
150
30
120

120
480
480
30
120

3
30

3
15

3
60

3
120

Gia hạn chuẩn bị xét xử


15

15

30

30

2

Xem Thông tư liên tịch số 05/2005/TTLT – VKSNDTC – BCA – BQP ngày 07/09/2005 về quan hệ phối hợp giữa
cơ quan điều tra và viện kiểm sát trong việc thực hiện một số quy định của BLTTHS năm 2003.

8


Trả hồ sơ điều tra bổ 60
sung
Ra quyết định xét xử
15

60

60

60

15

15


15

Tổng cộng

473

618

1008

363

Tạm giam là BPNC được áp dụng để bảo đảm cho hoạt động của các cơ
quan tiến hành tố tụng và không để cho người phạm tội tiếp tục thực hiện tội
phạm. Tuy nhiên, cần khẳng định rằng đây không phải là hình phạt đối với
người phạm tội. Đây là đặc điểm để phân biệt “tạm giam” với “giam”. “Giam”
là biện pháp chấp hành hình phạt tù, người bị kết án phải cải tạo (trại giam)
một thời hạn bằng thời hạn tù mà Tòa án đã tuyên (được khấu trừ thời hạn đã bị
tạm giam). Do tạm giam không phải là hình phạt nên chế độ tạm giam khác với
chế độ người đang chấp hành hình phạt tù (Điều 89 BLTTHS).3
II. HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ TẠM GIAM
1. Thực trạng áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam
Tính đến năm 2014, số vụ án khởi tố mới là 77.913 vụ với 121.039 bị can,
tăng 2% về số vụ, nhưng giảm 2,19% về số bị can so với năm 2013.Tiến độ giải
quyết án từ điều tra, truy tố đến xét xử được các cơ quan tiến hành tố tụng giải
quyết cơ bản trong hạn luật định, nhiều địa phương đã quan tâm giải quyết dứt
điểm cơ bản trong hạn luật định, nhiều địa phương đã quan tâm giải quyết dứt
điểm án tồn đọng có bị can, bị cáo bị tạm giam kéo dài. Chất lượng xử lí trong
tạm giam được nâng cao, các trường hợp tạm giam rồi đình chỉ điều tra giảm

nhiều, số người tạm giam bị Tòa án các cấp xét xử rồi tuyên phạt mức hình phạt
bằng hoặc ngắn hơn tạm giam cũng giảm. VKS các cấp trả tự do theo khoản 6
Điều 23 Luật tổ chức VKSND 1992 cho những người bị tạm giam không có căn
cứ và trái luật cũng giảm dần.
Mặc dù đã có những tiến bộ trong việc áp dụng BPNC nghiêm khắc này,
song thời gian qua việc áp dụng các quy định về BPNC tạm giam trong thực tiễn
cũng vẫn còn những vi phạm tồn tại như sau: Đường lối áp dụng BPNC có nơi
có vụ chưa chính xác, không cần thiết giam cũng vẫn giam, chưa thực hiện đúng
các quy định tại Điều 88 BLTTHS, một số nơi còn giam cả người chưa thành
niên phạm tội ít nghiêm trọng có mức hình phạt dưới 2 năm, tạm giam đến khi
Tòa án xét xử tuyên án treo, tạm giam nhưng Tòa án tuyên mức án bằng hoặc
ngắn hơn thời gian bị cáo đã bị tạm giam. Cơ quan tiến hành tố tụng ở một số
nơi chưa chấp hành đúng quy định về thời hạn tạm giam.
Thời hạn điều tra, truy tố còn để kéo dài là do hồ sơ điều tra còn thiếu các
tài liệu chứng cứ, thủ tục tố tụng, cơ quan truy tố và cơ quan xét xử nghiên cứu
3

Xem Nghị định 89/NĐ-CP của Chính Phủ ban hành ngày 07/11/1998 về quy chế tạm giữ, tạm giam.

9


hồ sơ còn chậm, chưa phát hiện kịp thời các chứng cứ. Trong các vụ trả hồ sơ có
bị can bị tạm giam phải kéo dài thời hạn tạm giam gây khó khăn cho cơ quan
quản lí giam giữ. Chất lượng hồ sơ điều tra truy tố còn hạn chế do các nguyên
nhân: một số vụ án phức tạp có nhiều bị can bị phạm nhiều tội, việc đánh giá
chứng cứ buộc tội gặp khó khăn. Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán chưa
làm tròn trách nhiệm thu thập đầy đủ các tài liệu, chứng cứ để chứng minh tội
phạm trong quá trình điều tra, truy tố và chuẩn bị xét xử. Một số vụ án lớn phải
kéo dài do phải xin đường lối xử lí cảu các cơ quan tiến hành tố tụng các cấp.

2. Phương hướng hoàn thiện quy định của pháp luật về tạm giam
Hiện nay, cải cách tư pháp đang được Đảng và Nhà nước ta quan tâm coi
là nhân tố quan trọng thúc đẩy quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, góp phần thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh.
Để tiếp tục thực hiên, đẩy mạnh hơn công cuộc cải cách tư pháp, ngày 02
tháng 01 năm 2002 Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 08 – NQ/TƯ về một số
nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới và Nghị quyết 49 –
NQ/TƯ ngày 02/06/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Các
nghị quyết trên đã chỉ rõ nhiều vấn đề cụ thể của tố tụng hình sự cần phải được
nghiên cứu một cách toàn diện để thể chế hóa vào quy định của Bộ luật Tố tụng
hình sự (BLTTHS), tạo cơ sở pháp lý nâng cao chất lượng công tác điều tra, truy
tố, xét xử, thi hành án hình sự.
Như vậy, những quy định của pháp luật về biện pháp ngăn chặn tạm giam
cần phải có những sửa đổi bổ sung như sau:
2.1. Khái niệm về BPNC tạm giam
Các khái niệm về BPNC tạm giam chưa thật sự chính xác, chính vì vậy,
căn cứ Điều 88 BLTTHS thì khái niệm tạm giam nên được hiểu như sau: “tạm
giam là biện pháp ngăn chặn do cơ quan điều tra, viện kiểm sát hoặc tòa án
nhân dân áp dụng đối với bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng… có
thể trốn hoặc cản trở điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội và
người phạm tội quả tang hoặc bị bắt trong trường hợp khẩn cấp nhằm mục đích
ngăn chặn bị can, bị cáo có thể trốn hoặc cản trở điều tra, truy tố, xét xử hoặc
có thể phạm tội”.
2.2. Căn cứ áp dụng BPNC tạm giam (khoản 1 và khoản 2 Điều 88)
Thứ nhất, tại điểm a khoản 1 Điều 88 chưa phải là căn cứ đầy đủ để áp
dụng BPNC tạm giam. Khả năng phải chịu trách nhiệm hình sự tương ứng với
tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội có thể là một trong số
những vấn đề được người thực hiện hành vi phạm tội cân nhắc khi quyết định bỏ
trốn hay không bỏ trốn những không hề suy diễn rằng mọi bị can, bị cáo đều lựa

chọn biện pháp bỏ trốn khi biết mình có thể phải chịu mức phạt cao. Không ít bị
can, bị cáo khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm thì ăn năn hối hận, thành khẩn
10


khai báo để nhận được chính sách khoan hồng, giảm nhẹ hình phạt theo quy
định của pháp luật. Có những trường hợp tuy phạm tội rất nghiêm trọng hay đặc
biệt nghiêm trọng nhưng là với lỗi đột xuất, không dự mưu do nhất thời không
làm chủ được mình... có những trường hợp là bị can, bị cáo bị khởi tố, truy tố,
xét xử với tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng nhưng về sau lại được
thay đổi với tội nhẹ hơn. Trong trường hợp này việc áp dụng BPNC với họ liệu
có thiếu căn cứ? Tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi cao hay thấp, mức
hình phạt mà bị can, bị cáo có thể phải chịu và vấn đề cần được làm rõ, là yêu
cầu cần đạt tới trong giai đoạn hoạt động tố tụng nhưng không thể là căn cứ áp
dụng biện pháp tạm giam, căn cứ ấy phải là những căn cứ có thật, có khả năng
dự báo việc xảy ra bỏ trốn chứ không thể là căn cứ suy diễn.
Thứ hai, trong quy định tại điểm b khoản 1 Điều 88 và khoản 2 Điều 88
có sự mâu thuẫn, điểm b khoản 1 Điều 88 cùng loại với hai căn cứ “bỏ trốn và bị
bắt theo lệnh truy nã” và “được áp dụng biện pháp ngăn chặn…cản trở nghiêm
trọng đến việc điều tra, truy tố, xét xử” được quy định tại điểm a, b khoản 2
Điều 88. Nếu như ở điểm b khoản 1 Điều 88 còn phải thỏa mãn căn cứ “Bị can,
bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên
hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở điều tra, truy tố,
xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội” như là điều kiện cần thì ở điểm a, b khoản
2: bị can, bị cáo phạm bất cứ loại tội nào cũng có thể bị tạm giam. Tức là căn cứ
áp dụng biện pháp tạm giam của một số đối tượng đáng được hưởng chính sách
đặc biệt lại mở rộng hơn các đối tượng bình thường. BLTTHS dùng phân loại
tội phạm và mức hình phạt để làm căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam như trên
chưa thống nhất, phù hợp với các đối tượng khác nhau. Căn cứ theo khoản 1
Điều 88 thì chưa có bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án, cơ quan

tiến hành, người tiến hành tố tụng không thể khẳng định loại tội mà bị can, bị
cáo phạm được hay mức hình phạt như thế nào.
Thứ ba, một số quy định của BTTHS tuy không trực tiếp quy định các căn
cứ áp dụng BPNC có thể hiểu lầm là căn cứ áp dụng BPNC trong các giai đoạn
tố tụng là khác nhau. Đó là các quy định tại đoạn 3 Điều 177, khoản 1 Điều 288,
khoản 2 và khoản 3 Điều 243, khoản 5 Điều 250, đoạn 2 ĐIều 287.
Ngoài ra Điều 88 cũng chưa có quy định một trong số căn cứ tạm giam là
người bị bắt theo lệnh truy nã, chính vì thế Điều 88 cần sửa đổi bổ sung như sau:
“Điều 88. Tạm giam
1. Tạm giam được áp dụng đối với bị can, bị cáo, người bị kết án khi có
một trong số các căn cứ sau đây:
a. Bị can, bị cáo đã được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác mà vi phạm
đẫn đến không đạt được mục đích của việc áp dụng;
b. Bị can, bị cáo, người bị kết án bị bắt theo lệnh truy nã;
11


c. Bị can, bị cáo bị khởi tố điều tra, truy tố, xét xử đối với tội phạm mà xét
thấy có thể phải chịu hình phạt tù và không có nơi cư trí rõ ràng hoặc có căn cứ
cho rằng người đó có thể bỏ trốn hoặc cản trở điều tra, truy tố, xét xử hoặc có
thể tiếp tục phạm tội, trừ trường hợp được áp dụng biện pháp ngăn chặn bảo
lĩnh, biện pháp ngăn chặn đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để đảm bảo;
d. Bị can, bị cáo từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi bị khởi tố, truy tố, xét xử
đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, rất nghiêm trọng do cố ý và có một
trong các căn cứ quy định tại điểm a, b, c quy định tại khoản 1 điều này;
đ. Bị can, bị cáo từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị khởi tố, truy tố, xét xử
đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, nghiêm trọng do cố ý
và có một trong các căn cứ quy định tại điểm a, b, c khoản 1 Điều này;
2. Giữ nguyên
3. Khi quyết định áp dụng biện pháp tạm giam, người có thẩm quyền

quyết định áp dụng tạm giam phải có các tài liệu, chứng cứ nêu rõ được căn cứ
thực tế chứng minh sự cần thiết phải tạm giam theo quy định tại khoản 1 Điều
này;
4. “…”
2.3. Sự chênh lệch thời hạn tạm giam và thời hạn điều tra
Tạm giam là biện pháp ngăn chặn để giúp Cơ quan điều tra ngăn chặn tội
phạm bỏ trốn và thuận tiện trong việc điều tra vụ án hình sự. Chính vì vậy, thời
hạn tạm giam để điều tra phải phù hợp với thời hạn điều tra một vụ án hình sự.
Thời hạn điều tra một vụ án hình sự nhiều hơn thời hạn tạm giam bị can
sẽ dẫn đến tình trạng vụ án chưa điều tra xong, nhưng đã phải trả tự do cho bị
cáo bởi hết thời hạn tạm giam. Điều này dễ dẫn đến tình trạng bị can được thả sẽ
bỏ trốn, hủy bỏ tài liệu chứng cứ liên quan đến vụ án mà bị cáo cất giữ…và gây
khó khăn không nhỏ cho việc điều tra, truy tố, xét xử. Nhưng nếu hết thời hạn
tạm giam mà Cơ quan điều tra không thả bị can ra là vi phạm pháp luật. Cụ thể
theo quy định tại Điều 119 và Điều 120 của BLTTHS thì thời hạn điều tra tối đa
là 3 tháng. Đối với tội nghiêm trọng thì thời hạn điều tra tối đa là 12 tháng còn
thời hạn tạm giam để điều tra là 9 tháng và tội đặc biệt nghiêm trọng thì thời hạn
điều tra là 16 tháng nhưng thời hạn tạm giam lại chỉ có 12 tháng.
Như vậy, với quy định của luật mới thì thời hạn tạm giam để điều tra và
thời hạn điều tra vẫn lệch nhau. Điều này có nghĩa là chưa điều tra xong thì cơ
quan điều tra đã phải thả tội phạm hoặc cơ quan điều tra lại phải sử dụng cách cũ
là khi hết hạn tạm giam chưa điều tra xong thì cứ ra kết luận điều tra để rồi sẽ lại
được Viện Kiểm sát trả lại hồ sơ để điều tra tiếp.
Theo ý kiến cá nhân, thì vì việc quy định riêng về thời hạn tạm giam và
thời hạn điều tra thì pháp luật nên xem xét có một quy định thống nhất về thời
hạn tạm giam để điều tra chứ không chia ra thời hạn tạm giam và thời hạn điều
tra.
12



2.4. Chưa có quy định cụ thể về số lần hủy án để điều tra lại
Để hoàn thành một quy trình từ khi điều tra, truy tố đến lúc xét xử sơ
thẩm thì bị can, bị cáo có thể bị tạm giam tối đa từ 363 ngày đến 1008 ngày tùy
mức độ phạm tội. Tuy nhiên, trên thực tế, trong vụ án còn chưa rõ ràng về chứng
cứ, nếu bị cáo kháng cáo và may mắn được cấp phúc thẩm hủy án sơ thẩm để
điều tra, xét xử lại thì quy trình nói trên lại trở về điểm xuất phát ban đầu. Điều
đáng nói là trong trường hợp này, luật không hề quy định cụ thể được hủy án để
điều tra lại bao nhiêu lần, mặc dù biết rằng quy trình ấy vẫn phải tuân theo thời
hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Chính vì vật mà thời hạn tạm giam có thể bị
kéo dài vô thời hạn do bị cáo phải chờ điều tra, xét xử lại.
Theo ý kiến cá nhân, cần khắc phục thiếu sót này bằng cách bổ sung thêm
những quy định nhằm hạn chế mức tối đa tổng thời hạn tạm giam trong tất cả
các giai đoạn tố tụng của một vụ án. Quy định này nhằm buộc các cơ quan tiến
hành tố tụng thực hiện nhanh chóng nhiệm vụ của mình, tránh tình trạng tiến
hành tố tụng trì trệ kéo dài, chồng chéo các thời hạn tạm giam gây bất lợi cho bị
can, bị cáo.
2.5. Về xác định căn cứ tạm giam, hạn chế việc áp dụng biện pháp tạm giam
đối với một số loại tội phạm
Theo tiêu chí của Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành (Điều 88, Điều 303),
căn cứ để áp dụng hoặc không áp dụng biện pháp tạm giam dựa vào một số loại
tiêu chí như dựa vào sự phân loại tội phạm theo quy định của Bộ luật hình sự,
dựa vào khả năng mà bị can, bị cáo có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố,
xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội....Theo tôi, những căn cứ áp dụng biện pháp
tạm giam được nêu ở khoản 1 và khoản 2 Điều 88 BLTTHS là chưa thực sự phù
hợp và chưa đáp ừng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm. Cần xuất phát từ
mục đích của việc áp dụng biện pháp tạm giam để xác định căn cứ áp dụng
BPNC này cho phù hợp, đồng thời cũng tránh việc áp dụng biện pháp ngăn chặn
này một cách tùy tiện hoặc áp dụng BPNC này như một biện pháp để thay cho
các biện pháp điều tra. Vì tạm giam không phải là một hình phạt mà chỉ là một
BPNC việc bị can, bị cáo trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có

thể tiếp tục phạm tội mới nên cần phải coi khả năng bị can, bị cáo có thể trốn
hoặc cản trở điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội là căn cứ chủ
yếu để xem xet, quyết định việc tạm giam. Ngoài ra cũng cần xem xét đến một
số yếu tố khác có thể được dùng làm căn cứ để áp dụng (hoặc không áp dụng)
biện pháp ngăn chặn này như khả năng gây nguy hại đến an ninh quốc gia hoặc
trật tự an toàn xã hội của bị can, bị cáo nếu không tạm giam họ, loại và mức
hình phạt mà BLHS quy định đối với hành vi phạm tội được thực hiện, một số
yếu tố về nhân thân,…
Liên quan đến việc hạn chế việc tạm giam bị can, bị cáo đối với một số
loại tội phạm, BLTTHS của nước ta chưa có quy định đối với loại (nhóm) tội
13


phạm nào có thể hạn chế việc tạm giam. Trên thực tế có những trường hợp bị
can, bị cáo thuộc nhóm tội phạm về kinh tế – chức vụ, họ có nơi cư trú rõ ràng,
có đủ điều kiện để áp dụng BPNC khác, họ không có khả năng và điều kiện thực
tế để có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục
phạm tội nhưng họ vẫn bị tạm giam vì lý do đơn giản để phục vụ cho công tác
điều tra, truy tố, xét xử.
Theo cá nhân em, việc hạn chế bị can, bị cáo đối với một số loại tội phạm
là rất cần thiết. Trong điều kiện thực tế của Việt Nam hiện nay có thể hạn chế
việc tạm giam bị can, bị cáo đối với một số loại tội phạm sau:
+ Nhóm tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
+ Nhóm tội phạm về môi trường
+ Một số tội phạm thuộc nhóm tội phạm xâm phạm sở hữu trừ các tội:
cướp, bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản….
+ Một số tội phạm xâm phạm an toàn công cộng trật tự công cộng và trật
tự quản lý hành chính…
2.6. Căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam đối với người chưa thành niên phạm
tội

Dù Điều 303 đã có quy định dẫn chiếu đến Điều 88 và nhiều điều luật
khác nhưng do sự dẫn chiếu nhiều điều luật, nhiều căn cứ đã dẫn đến sự coi nhẹ
căn cứ tạm giam quy định tại Điều 88 và 79, người tiến hành tố tụng chỉ xem xét
về độ tuổi và tội phạm mà đã thực hiện là áp dụng BPNC tạm giam. Điều này
dẫn đến nhiều trường hợp bị can, bị cáo đang là học sinh, sinh viên không có
biểu hiện trốn tránh việc điều tra truy tố, xét xử và thi hành án nhưng vẫn bị áp
dụng biện pháp tạm giam, không được thực hiện quyền học tập, nghiên cứu mà
đáng ra họ chưa bị tước bỏ.
Chính những điều trên là nguyên nhân lớn dẫn đến việc áp dụng BPNC
tạm giam trong thời gian qua còn nhiều khó khăn và vướng mắc. Do đó cần sửa
đổi những căn cứ này theo tinh thần sau:
– Quán triệt tinh thần các nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp, xây
dựng căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam rõ ràng, cụ thể thống nhất trên cơ sở
vừa đảm bảo quyền cơ bản của công dân vừa đảm bảo thực hiện hoạt động tố
tụng có hiệu quả như nghị quyết số 49/NQ – TW ngày 02/06/2005 của Bộ chính
trị về chiến lược cải cách tư pháp…
– Không sử dụng kết quả phân loại tội phạm như cơ sở độc lập để xây
dựng căn cứ áp dụng BPNC mà coi bị can, bị cáo có thể cản trở, gây khó khăn
cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội là căn cứ chủ yếu
để xem xét và quyết định biện pháp tạm giam, trường hợp cần thiết thì có thể
căn cứ vào chế tài của quy phạm pháp luật hình sự quy định về tội phạm để áp
dụng.
14


– Sửa đổi Điều 177, 228, 243, 250, 287 theo hướng dẫn chiếu căn cứ áp
dụng biện pháp ngăn chặn về Điều 88 và 303.
2.7. Quy định của pháp luật chưa đặt vấn đề trách nhiệm pháp lí khi có vi
phạm trong việc tạm giam
Việc bắt tạm giam bị can, bị cáo phải có lệnh của người có thẩm quyền.

Lệnh bắt phải là lệnh hợp pháp với những nội dung như theo quy định tại khoản
2 Điều 88 BLTTHS 2003. Tuy nhiên, từ quy định này cũng nảy sinh một vấn đề
như: nếu việc tạm giam là trái pháp luật và VKS không phê chuẩn thì trách
nhiệm thuộc về Điều tra viên hay Thủ trưởng cơ quan điều tra? Trường hợp việc
tạm giam được VKS phê chuẩn thì người phê chuẩn có phải chịu trách nhiệm
không, nếu phải chịu thì trách nhiệm đến đâu? Điều này luật chưa quy định rõ
ràng nhưng trong thực tiễn lại xảy ra rất nhiều. Luật quy định, trong 3 ngày, kể
từ khi nhận được đề nghị xét phê chuẩn lệnh tạm giam và trả hồ sơ cho Cơ quan
điều tra. Nhưng nếu đến ngày cuối cùng, VKS không phê chuẩn, không khởi tố
được đối tượng vì cho rằng chưa đủ căn cứ, thì thời gian đối tượng bị tạm giam
chờ VKS phê chuẩn, cơ quan nào sẽ chịu trách nhiệm bồi thường trong khi cả
hai đều làm đúng luật? ĐIều này đã xảy ra trên thực tế và là một điều vô cùng
nổi cộm và cần giải quyết sớm.
Theo cá nhân em, pháp luật cần có quy định chặt chẽ hơn nữa về trách
nhiệm pháp lý của các cơ quan thực hiện những chức năng nhiệm vụ quan trọng
trong bộ máy nhà nước nói chung và những cá nhân trực tiếp thi hành pháp luật
nói riêng để tránh áp dụng một cách tùy tiện vì “không phải chịu trách nhiệm”
hoặc có thì cũng rất hạn chế.
2.8. Việc thu hẹp đối tượng người có thẩm quyền quyết định áp dụng biện
pháp tạm giam
Do tạm giam là hình thức ngăn chặn liên quan trực tiếp đến quyền tự do
cá nhân được quy định trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác, nên trình
tự, thủ tục, thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn này cần phải
được pháp luật quy định chặt chẽ. Pháp luật tố tụng hình sự chỉ nên giới hạn số
lượng đối tượng có thẩm quyền quyết định việc tạm giam theo hướng:
Về nguyên tắc chỉ nên giao cho cấp Trưởng (Viện trưởng Viện kiểm sát,
Chánh án tòa án) có quyền quyết định việc tạm giam. Trong trường hợp cấp
trưởng vắng mặt thì cấp Phó được cấp Trưởng ủy quyền mới có thẩm quyền
này.
Không giao cho người của Cơ quan điều tra thẩm quyền này mà họ chỉ có

quyền đề nghị Viện Kiểm sát cùng cấp xem xét, quyết định việc tạm giam bị
can, bị cáo nếu có đủ căn cứ theo quy định của pháp luật, tránh tình trạng lạm
dụng biện pháp tạm giam của Cơ quan điều tra để tiến hành điều tra.
Đối với cơ quan công an nói chung và các điều tra viên nói riêng, cần phải
thường xuyên học tập bồi dương nâng cao trình độ chuyên môn, ý thức chính trị,
15


đề cao ý thức tổ chức kỷ luật, năm chắc các quy định của pháp luật về bắt, tạm
giam, hiểu rõ tính chất, mục đích của các biện pháp tạm gaim; đảm bảo khi thực
hiện bắt người để tạm giam phải có lệnh và có sự phê chuẩn của Viện kiểm sát,
hạn chế tình trạng “tiền trảm hậu tấu” khi bắt người; tôn trọng và bảo vệ các
quyền và lợi ích hợp pháp của người bị bắt, người bị tạm giam; phối hợp và tạo
điều kiện thuận lợi cho luật sư tham gia quá trình bắt, tạm giam khi giải quyết
vụ án.
C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Biện pháp ngăn chặn tạm giam khi được áp dụng sẽ ảnh hưởng trực tiếp
đến các quyền cơ bản của công dân, làm họ bị cách li khỏi xã hội trong một
khoảng thời gian nhất định. Biện pháp tạm giam có thể được áp dụng trong
nhiều giai đoạn của tố tụng với những nhiều quy định được nêu trong bộ luật tố
tụng hình sự. Vì vậy nghiên cứu biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự
là việc hết sức cần thiết để đảm bảo cho việc kịp thời ngăn chặn hành vi phạm
tội, ngăn ngừa người phạm tội, bị can, bị cáo tiếp tục pháp tội, trốn tránh pháp
luật hoặc có những hành vi gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử cũng
như đảm bảo thi hành án, nhưng cũng để đảm bảo cho các quyền của công dân
được thực hiện một cách nghiêm túc.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. BLTTHS của nước Cộng hoà XHCN Việt Nam năm 2003.
2. Luật tổ chức toà án nhân dân năm 2002.

3. Luật tổ chức viện kiểm sát nhân dân năm 2002.
4. Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2008).
5. Thông tư liên tịch của Viện kiểm sát tối cao, Bộ công an và Bộ quốc phòng số
05/2005/TTLT-VKSTC-BCA-BQP ngày 07/9/2005 về quan hệ phối hợp giữa cơ
quan điều tra và viện kiểm sát trong việc thực hiện một số quy định của
BLTTHS năm 2003.
6. Giáo trình luật TTHS, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb.CAND, Hà Nội, 2009,
2010, 2011.
7. Khoa luật Đại học quốc gia Hà Nội, Giáo trình luật TTHS Việt Nam, Nxb.
Đại học quốc gia Hà Nội, 2001.
8. Bình luận khoa học BLTTHS năm 2003, Võ Khánh Vinh (chủ biên), Nxb.
16


CAND, Hà Nội, 2004, tr. 180 - 221.
9. Về tự do cá nhân và biện pháp cưỡng chế trong TTHS, Trần Quang Tiệp, Nxb.
CTQG, Hà Nội, 2005, tr. 42 - 168.
10.Tạp chí khoa học pháp lý tháng 2/2004.
11.Nguyễn Mai Bộ, “Thời hạn tạm giam trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003” – Tạp
chí luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Số 7/2008.
12.Lê Minh Tuấn, “Hoàn thiện một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về
tạm giam nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp”.
13.“Vướng mắc về thời điểm kết thúc của thời hạn tạm giữ và tạm giam được
quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự” - Tiến sỹ Đỗ Đức Hồng Hà và Cử
nhân Hoàng Thị Oanh.
14.Bàn về sự tùy nghi trong việc áp dụng biện pháp tạm giam.
/>
17




×