Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Tìm hiểu thực trạng giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp tại Việt Nam hiện nay. Phân tích một tình huống thực tế để minh họa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.08 KB, 17 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
I. Khái quát về bảo hiểm nhân thọ.
1. Khái niệm, đặc điểm của bảo hiểm nhân thọ.
2. Một số nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ.

Trang
1
1
1
1
2

3. Vai trò của bảo hiểm nhân thọ.

2

4. Vài nét về bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp.

3

II. Quy định của pháp luật về hợp đồng bảo hiểm nhân thọ.
1. Khái niệm.
2. Một số khái niệm và những điểm cần lưu ý khi ký kết hợp đồng

4
4
5

bảo hiểm nhân thọ.


3. Thiết lập, thực hiện và chấm dứt hợp đồng.
6
III. Thực trạng giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp tại Việt

9

Nam.
1. Thực tiễn giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm nhân thọ hỗn
hợp tại Việt Nam.
2. Nguyên nhân của thực trạng.

9
12

IV. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định về giao kết và thực hiện
hợp đồng bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp tại Việt Nam.
1.

2.

Giải pháp pháp lý.

Đối với các cơ quan quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm.
3. Đối với các doanh nghiệp bảo hiểm.

KẾT LUẬN

14
14
14

14
15

1


MỞ ĐẦU
Trong quá trình tái sản xuất con người với tư cách là chủ thể của ý thức luôn phải
đối đầu với nhiều các rủi ro: những rủi ro do chính con người tạo ra và những rủi ro từ tự
nhiên. Như vậy thì cần phải có được sự đảm bảo đó cho những rủi ro, đó là cơ sở và tiền
đề khách quan cho sự ra đời của hoạt động bảo hiểm. Hoạt động bảo hiểm ra đời nhằm
mục đích bảo đảm cho sự an toàn của con người, tài sản vật chất, của cải xã hội. Hiện nay,
cùng với sự phát triển của thị trường nhiều loại bảo hiểm đã ra đời. Tuy nhiên, trong phạm
vi giới hạn bài luận, em chỉ xin đi sâu tìm hiểu, phân tích thực trang giao kết và thực hiện
hợp đồng bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp tại Việt Nam.
NỘI DUNG
I. Khái quát về bảo hiểm nhân thọ.
1. Khái niệm, đặc điểm của bảo hiểm nhân thọ.
a. Khái niệm.
“Bảo hiểm nhân thọ là loại nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp người được bảo
hiểm sống hoặc chết” (khoản 12 Điều 3 Luật Kinh doanh bảo hiểm).
Bảo hiểm nhân thọ là sự cam kết giữa công ty bảo hiểm với người tham gia bảo
hiểm mà trong đó công ty bảo hiểm có trách nhiệm trả số tiền bảo hiểm (số tiền bảo hiểm)
cho người tham gia khi người tham gia có những sự kiện đã định trước còn người tham gia
bảo hiểm có trách nhiệm nộp phí bảo hiểm đầy đủ và đúng thời hạn.
b. Đặc điểm.
Bảo hiểm nhân thọ là một loại nghiệp vụ bảo hiểm cho người được bảo hiểm sống
hoặc chết. Chính vì vậy mà bảo hiểm nhân thọ mang những đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, tuổi thọ, tính mạng, sức khỏe con người không xác định được giá trị.
Thứ hai, sự kiện bảo hiểm không không hoàn toàn gắn liền với rủi ro. Sự kiện bảo

hiểm là sự kiện khách quan do các bên thỏa thuận hoặc pháp luật quy định mà khi sự kiện
đó xảy ra thì doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi
thường cho người được bảo hiểm.
Thứ ba, chỉ công ty bảo hiểm nhân thọ mới được cung cấp. Bảo hiểm nhân thọ là
bảo hiểm con người đây là thuộc tính cơ bản nhất của bảo hiểm thọ các loại bảo hiểm khác
không khác.
Thứ tư, đây là loại hợp đồng dài hạn và thường mang tính tiết kiệm.
Thứ năm, bảo hiểm nhân thọ là loại hợp đồng với các điều khoản mẫu nên yêu cầu
rất cao về tính linh hoạt và tính minh bạch.
2


2. Một số nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ.
Khoản 1 Điều 7 Luật kinh doanh bảo hiểm quy định các loại nghiệp vụ bảo hiểm
nhân thọ bao gồm:
a) Bảo hiểm trọn đời: là nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp người được bảo hiểm
chết trong bất kỳ thời điểm nào trong suốt cuộc đời của người đó.
b) Bảo hiểm sinh kỳ: là nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp người được bảo hiểm
sống đến một thời hạn nhất định, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho
người thụ hưởng, nếu người được bảo hiểm vẫn sống đến thời hạn được thỏa thuận trong
hợp đồng bảo hiểm;
c) Bảo hiểm tử kỳ: là loại nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp người được bảo hiểm
chết trong một thời hạn nhất định, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm
cho người thụ hưởng, nếu người được bảo hiểm chết trong thời hạn được thỏa thuận trong
hợp đồng bảo hiểm;
d) Bảo hiểm hỗn hợp là nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp bảo hiểm sinh kỳ và bảo hiểm
tử kỳ;
đ) Bảo hiểm trả tiền định kỳ: là nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp người được bảo
hiểm sống đến một thời hạn nhất định; sau thời hạn đó doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền
bảo hiểm định kỳ cho người thụ hưởng theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm;

e) Bảo hiểm liên kết đầu tư;
g) Bảo hiểm hưu trí: là nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp người được bảo hiểm
đạt đến độ tuổi xác định được doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm theo thỏa thuận
trong hợp đồng bảo hiểm.
3. Vai trò của bảo hiểm nhân thọ.
Thứ nhất, đối với người dân, BHNT góp phần ổn định cuộc sống cho các cá nhân
và gia đình, là chỗ dựa tinh thần cho người được bảo hiểm.
Thứ hai, thông qua dịch vụ BHNT, một dịch vụ có đối tượng tham gia rất đông đảo,
các nhà bảo hiểm thu được phí để hình thành quỹ bảo hiểm, quỹ này được sử dụng chủ
yếu vào mục đích bồi thường, chi trả và dự phòng. Khi nhàn rỗi, nó sẽ là nguồn vốn đầu tư
hữu ích góp phần phát triển và tăng trưởng kinh tế. Nguồn vốn này không chỉ có tác dụng

3


đầu tư dài hạn, mà còn góp phần thực hành tiết kiệm, chống lạm phát và tạo thêm công ăn
việc làm cho người lao động.
Thứ ba, BHNT là một công cụ hữu hiệu để huy động những nguồn tiền mặt nhàn
rỗi ở các tầng lớp dân cư trong xã hội để thực hành tiết kiệm, góp phần chống lạm phát.
Thứ tư, BHNT còn góp phần giải quyết một số vấn đề về mặt xã hội như: tạo thêm
công ăn việc làm cho người lao động, tăng vốn đầu tư cho việc giáo dục con cái, tạo ra
một nếp sống đẹp, tiết kiệm có kế hoạch….
4. Vài nét về bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp.
a. Khái niệm, đặc điểm.
- Khái niệm:
Bảo hiểm hỗn hợp (còn được gọi là bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp hay bảo hiểm sinh
mạng tổng hợp) là nghiệp vụ bảo hiểm, trong đó, kết hợp cả bảo hiểm sinh kỳ, bảo hiểm tử
kỳ và các sản phẩm bảo hiểm bổ trợ kết hợp.
Như vậy, bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp là một nghiệp vụ bảo hiểm tổng hợp về con
người. Nghiệp vụ bảo hiểm này vừa mang nội dung của bảo hiểm tử kỳ, vừa mang nội

dung của bảo hiểm tử kỳ, đồng thời, còn có thể kèm theo các sản phẩm bảo hiểm bổ trợ,
nên theo nghiệp vụ bảo hiểm này, nếu người được bảo hiểm chết trong thời hạn bảo hiểm,
thì người được hưởng quyền lợi sẽ được nhận tiền bảo hiểm. Nếu hết thời hạn bảo hiểm
mà người được bảo hiểm vẫn còn sống thì họ sẽ được nhận tiền bảo hiểm. Ngoài ra, nếu
trong thời hạn bảo hiểm mà người được bảo hiểm bị tai nạn bất ngờ hoặc ốm đau, thì cũng
được nhận tiền bảo hiểm (nếu hợp đồng bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp đó có kèm theo sản
phẩm bảo hiểm bổ trợ về tai nạn và sức khỏe.
-

Đặc điểm

+ Số tiền bảo hiểm được trả khi hết hạn hợp đồng hoặc người được bảo hiểm bị tử
vong trong thời hạn hợp đồng còn hiệu lực.
+ Thời hạn bảo hiểm xác định thường là: 5 năm, 10 năm, 20 năm…..
+ Phí bảo hiểm thường đóng định kỳ và không thay đổi trong suốt thời gian bảo
hiểm.
+ Có thể được chia lãi thông qua đầu tư phí bảo hiểm và cũng có thể được hoàn phí
khi không có điều kiện tiếp tục tham gia.
-

Mục đích:

+ Đảm bảo cuộc sống cho gia đình và người thân.
4


+ Tạo lập quỹ giáo dục, hưu trí, trả nợ.
+ Dùng làm vật thế chấp để khởi nghiệp kinh doanh…..
b. Các loại hình bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp.
Hiện nay, trên thế giới đang thực hiện nhiều loại hình bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp

như:
-

Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp 10 năm

-

Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp 20 năm

-

Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp 30 năm

-

Hợp đồng bải hiểm nhân thọ hỗn hợp chấm dứt tại tuổi 55 hoặc 60.

Ngoài ra, trong bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp người ta còn phân loại theo phương
pháp trả tiền bảo hiểm gồm:
-

Loại 1: Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp thông thường

-

Loại 2: Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp ứng trước số tiền bảo hiểm.

II. Quy định của pháp luật về hợp đồng bảo hiểm nhân thọ.
3.


Khái niệm.

Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ thực chất cũng là một hợp đồng kinh tế. Là sự cam
kết giữa hai bên mà trong đó bên nhận bảo hiểm có trách nhiệm và nghĩa vụ chi trả số tiền
bảo hiểm cho bên tham gia khi có các sự kiện bảo hiểm xảy ra đối với người được bảo
hiểm; còn bên tham gia bảo hiểm có trách nhiệm, nghĩa vụ đóng phí bảo hiểm theo như
quy định trong hợp đồng đã được pháp luật thừa nhận. Như vậy, trong mỗi hợp đồng bảo
hiểm nhân thọ đều có hai bên:
- Bên nhận bảo hiểm hay doanh nghiệp bảo hiểm:
+ Có trách nhiệm, nghĩa vụ chi trả số tiền bảo hiểm theo đúng như quy định trong
hợp đồng. Đây là trách nhiệm lớn nhất mà doanh nghiệp bảo hiểm phải thực hiện.
+ Bên nhận bảo hiểm không có quyền truy đòi phí bảo hiểm dưới hình thức khiếu
nại nếu như bên tham gia không có khả năng đóng phí.
+ Các sự kiện bảo hiểm liên quan đến cả hai bên trong hợp đồng thường bao gồm:
tử vong, đáo hạn hợp đồng, sống đến độ tuổi nhất định, một số trường hợp khác liên quan
đến điều khoản bổ sung….
-

Bên tham gia bảo hiểm: Có thể có 3 người sau đây:

+ Người được bảo hiểm: Là người mà tính mạng, tình trạng sức khỏe cũng như
những sự kiện có liên quan đến tuổi thọ của họ được bảo hiểm. Người được bảo hiểm có
thể là những người đã trưởng thành, có đủ năng lực pháp lý để tự ký hợp đồng cho chính
5


mình và cũng có thể là những người chưa đủ tuổi thành niên phải giao tên của mình cho
người khác đi kí kết hợp đồng bảo hiểm theo đúng quy định pháp luật. Tuy nhiên, người
được bảo hiểm có được tham gia hay không còn phụ thuộc vào kết quả đánh giá rủi ro của
các nhà bảo hiểm.

+ Người tham gia bảo hiểm: Là người trực tiếp đứng ra yêu cầu bảo hiểm, thỏa
thuận và ký kết hợp đồng, đồng thời thực hiện nghĩa vụ nộp phí bảo hiểm. Tuy nhiên
người tham gia bảo hiểm phải có năng lực hành vi pháp lý mà nhà nước quy định.
+ Người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm: Là người được hưởng số tiền bảo hiểm
hoặc các khoản trợ cấp do công ty bảo hiểm thanh toán như đã nêu trong hợp đồng. Người
thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm do người tham gia bảo hiểm chỉ định. Trong nhiều trường
hợp cần chỉ định người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm thứ nhất với người tiếp theo sau để
đề phòng trường hợp khi người được hưởng quyền lợi đầu tiên bị chết trước người được
bảo hiểm….
2. Một số khái niệm và những điểm cần lưu ý khi ký kết hợp đồng bảo hiểm
nhân thọ.
- Hiệu lực của hợp đồng: Thường được tính từ ngày nộp phí bảo hiểm đầu tiên kể
cả theo tháng, quý, năm. Ngày nộp phí bảo hiểm đầu tiên phải được ghi chép thống nhất
và chính xác trong cả hóa đơn thu phí và cả giấy yêu cầu bảo hiểm.
- Tuổi của người được bảo hiểm hay tham gia bảo hiểm căn cứ vào tuổi trong giấy
khai sinh, chứng minh thư, hộ chiếu hay hộ khẩu. Căn cứ vào ngày sinh trong các loại giấy
tờ này để tính độ tuổi được nhận bảo hiểm. Thực tế, thường có hai cách xác định tuổi:
+ Xác định tuổi gần với ngày sinh nhật. Ví dụ: Ngày sinh 06/03/1988. Ngày được
nhận bảo hiểm 26/02/2008. Cách này tuy đơn giản nhưng không chính xác, do vậy ít được
các công ty bảo hiểm sử dụng.
+ Xác định tuổi theo ngày sinh nhật ngay sau ngày bắt đầu được nhận bảo hiểm.
Đây là cách tính phổ biến. Ví dụ: Ngày sinh 10/03/2003. Ngày được nhận bảo hiểm
20/03/2008 thì em bé này có độ tuổi là 6 tuổi khi được nhận bảo hiểm (tính theo sinh nhật
năm 2009).
- Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ có thể chuyển đổi từ loại này sang loại khác. Việc
chuyển đổi này hoàn toàn do hai bên thỏa thuận.
- Những rủi ro loại trừ trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ: doanh nghiệp bảo hiểm
nhân thọ không chịu trách nhiệm chi trả trong những trường hợp sau đây:
+ Người được bảo hiểm tự tử.
6



+ Người được bảo hiểm bị kết án tử hình.
+ Người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm cố ý gây tử vong cho người được bảo hiểm.
Tuy nhiên, khi có nhiều người được thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm mà những người khác
không phải là tội phạm hay tòng phạm thì vẫn được hưởng số tiền bảo hiểm mà công ty
chi trả.
+ Trường hợp chiến tranh, nội chiến gây ra cái chết cho người được bảo hiểm.
- Nhà bảo hiểm không có quyền đơn phương hủy bỏ hợp đồng nếu như chưa thông
báo cho bên tham gia biết. Nhà bảo hiểm có quyền tự động thanh toán số tiền bảo hiểm
giảm nếu như phát hiện tuổi của người được bảo hiểm lớn hơn tuổi thực hoặc trong thời
gian thực hiện hợp đồng vì một lý do nào đó bên tham gia không có khả năng đóng phí
trong một thời gian nhất định.
- Giá trị giải ước (Giá trị hoàn lại) là số tiền người tham gia bảo hiểm được nhận
theo quy định trong điều khoản của hợp đồng khi người tham gia bảo hiểm yêu cầu hủy bỏ
hợp đồng hoặc hợp đồng chấm dứt trước hạn. Trong hợp đồng luôn chỉ rõ về giá trị giải
ước từng năm một cách đầy đủ.
- Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ có thể dùng là vật thế chấp để vay vốn hoặc người
tham gia có thể ứng trước một khoản tiền nhất định giống như việc công ty bảo hiểm cho
họ vay tiền. Khoản tiền ứng trước này các công ty thường lấy trong phần dự phòng phí
bảo hiểm.
Khi nghiên cứu và tìm hiểu về sản phẩm bảo hiểm nhân thọ, khách hàng cần nghiên
cứu thật kỹ lưỡng những điểm trên để có thể đưa ra những quyết định đúng đắn nhằm ký
kết hợp đồng bảo hiểm nhân thọ phù hợp với nhu cầu và mong muốn của mình.
4.

Thiết lập, thực hiện và chấm dứt hợp đồng.

a.


Thiết lập hợp đồng.

Thiết lập hợp đồng bảo hiểm nhân thọ phải dựa trên những nguyên tắc cơ bản sau:
Nguyên tắc công bằng đôi bên cùng có lợi: Nguyên tắc này đòi hỏi người tham gia
bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm phải thiết lập hợp đồng trên cơ sở tôn trọng lợi ích
của nhau. Các bên hưởng những quyền lợi đồng thời phải thực hiện những nghĩa vụ nhất
định. Nguyên tắc này thể hiện rất rõ tính song vụ của hợp đồng bảo hiểm nhân thọ.
Nguyên tắc bàn bạc thống nhất: Đây là nguyên tắc đòi hỏi các bên tham gia phải tỏ
rõ ý muốn của mình khi thiết lập hợp đồng và phải đạt được sự thống nhất về ý muốn đó.
Có sự bàn bạc thông nhất dựa trên tinh thần tự nguyện như vậy mới mong đảm bảo mối
7


quan hệ lâu dài giữa các bên và nhằm hạn chế việc hủy bỏ hợp đồng bảo hiểm nhân thọ
trước hạn.
Nguyên tắc tự nguyện: Tự nguyện thiết lập hợp đồng có nghĩa là bên này không
dựa vào ưu thế kinh tế để áp đặt cho bên kia, ép bên kia xác lập hợp đồng.
Nguyên tắc không làm tổn hại lợi ích chung của xã hội: lợi ích chung của xã hội là
lợi ích cộng đồng, lợi ích căn bản của mọi người trong xã hội mà các đạo luật khác quy
định. Do vậy, hai bên trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ phải cùng nhau bảo vệ những lợi
ích chung ấy.
Sau khi nắm chắc các nguyên tắc của việc thiết lập hợp đồng, hai bên cùng nhau
thực hiện các quy trình thiết lập hợp đồng.
Đầu tiên là bước khai báo rủi ro: Theo đó, bên tham gia bảo hiểm khai báo rủi ro và
cung cấp những thông tin cần thiết có liên quan đến đối tượng bảo hiểm cho doanh nghiệp
bảo hiểm theo một phiếu in sẵn gọi là giấy yêu cầu bảo hiểm. Để thực hiện khâu này,
khách hàng cần thực hiện nghiêm túc nguyên tắc trung thực tuyệt đối để nhằm giúp công
ty bảo hiểm đánh giá rủi ro một cách chính xác và định phí bảo hiểm phù hợp.
Thứ hai là bước chấp nhận bảo hiểm: Sau khi doanh nghiệp bảo hiểm nhận được
giấy yêu cầu bảo hiểm, qua quá trình xét duyệt thấy phù hợp với điều kiện bảo hiểm và

đóng dấu vào giấy yêu cầu bảo hiểm. Điều đó chứng tỏ doanh nghiệp bảo hiểm đã chấp
nhận cam kết.
Thứ ba, thỏa thuận về việc nộp phí bảo hiểm: Sau khi chấp nhận bảo hiểm, hai bên
cùng thỏa thuận với nhau về việc nộp phí bảo hiểm. Phí bảo hiểm nhận thọ có thể nộp một
lần hoặc nộp định kỳ do hai bên thỏa thuận. Phí bảo hiểm nhân thọ thường được đại lý bảo
hiểm đến tận nhà thu phí.
Thứ tư, cấp hợp đồng bảo hiểm: Hợp đồng bảo heiemr chính là văn bản chứng thực
cho việc giao kết hợp đồng giữa hai bên. Một bộ hợp đồng bảo hiểm nhân thọ bao gồm
hợp đồng gốc, giấy yêu cầu bảo hiểm, hóa đơn thu phí bảo hiểm lần đầu tiên….
b.

Thực hiện hợp đồng

Thực hiện hợp đồng bảo hiểm nhân thọ là quá trình hai bên thực hiện quyền và nghĩa
vụ dã cam kết.


Quyền và nghĩa vụ của bên tham gia bảo hiểm
-

Bên tham gia bảo hiểm có quyền:

+ Lựa chọn doanh nghiệp bảo hiểm để mua bảo hiểm nhân thọ
8


+ Yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm giải thích các điều kiện, điều khoản bảo hiểm,
cấp đơn hoặc giấy yêu cầu bảo hiểm.
+ Đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng nếu doanh nghiệp bảo hiểm có hành vi
lừa dối để ký kết hợp đồng….

+ Yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường khi sự kiện
bảo hiểm xảy ra.
+ Thay đổi liên quan đến hợp đồng.
-

Bên tham gia bảo hiểm có nghĩa vụ:

+ Kê khai đầy đủ, trung thực theo mọi cho tiết liên quan đến hợp đồng.
+ Đóng phí đầy đủ theo thời gian và phương thức đã thỏa thuận trong hợp đồng bảo
hiểm.
+ Thông báo cho doanh nghiệp bảo hiểm khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra để doanh
nghiệp bảo hiểm nhanh chóng xác minh và hoàn tất thủ tục giải quyết.
+ Áp dụng các biện pháp đề phòng hạn chế tổn thất để hạn chế tối đa hậu quả của
rủi ro.


Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp bảo hiểm:
-

Doanh nghiệp bảo hiểm có quyền:

+ Thu phí bảo hiểm theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm.
+ Yêu cầu khách hàng cung cấp đầy đủ thông tin liên quan đến hợp đồng.
+ Đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng nếu bên tham gia cố ý cung cấp thông
tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng….
+ Từ chối trả tiền bảo hiểm hoặc từ chối thanh toán bồi thường cho khách hàng
trong trường hợp không thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm hoặc đối với các điều khoản
loại trừ.
+ Yêu cầu khách hàng áp dụng các biện pháp đề phòng hạn chế tổn thất….
-


Doanh nghiệp bảo hiểm có nghĩa vụ:

+ Giải thích cho khách hàng về các điều kiện, điều khoản của hợp đồng.
+ Cấp giấy yêu cầu bảo hiểm và bộ hợp đồng bảo hiểm cho bên tham gia bảo hiểm
ngay sau khi giao kết hợp đồng.
+ Bồi thường hoặc trả tiền bảo hiểm cho bên tham gia đối với những sự kiện bảo
hiểm ghi trong hợp đồng.
+ Giải thích bằng văn bản lý do từ chối trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường.
c.

Chấm dứt hợp đồng.
9


Hợp đồng bảo hiểm được chấm dứt khi hợp đồng đã hoàn thành, tổn thất đã xảy ra
và doanh nghiệp bảo hiểm đã thực hiện đầy đủ các cam kết đối với khách hàng hoặc trong
trường hợp hủy bỏ hợp đồng. Lúc này, hợp đồng sẽ chấm dứt hiệu lực pháp luật.
III. Thực trạng giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp tại
Việt Nam.
1. Thực tiễn giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp tại
Việt Nam.
Thứ nhất, doanh nghiệp bảo hiểm vi phạm nguyên tắc tự do tham gia giao kết hợp
đồng bảo hiểm. Một số doanh nghiệp bảo hiểm đã sử dụng các biện pháp hành chính gây
sức ép, lôi kéo, ép buộc người tham gia bảo hiểm phải mua bảo hiểm hoặc sử dụng dịch vụ
môi giới bảo hiểm tại một doanh nghiệp, trái với quyền tự do lựa chọn và giao kết hợp
đồng.
Thứ hai, hiện nay hầu hết các hợp đồng bảo hiểm, đặc biệt là hợp đồng bảo hiểm
nhân thọ đều dựa theo mẫu của nước ngoài nên khi chuyển đổi ngôn ngữ, một số từ ngữ
còn mới mẻ và khó hiểu.

Thứ ba, khách hàng không đọc kỹ những điều khoản trong hợp đồng, giao phó
hoàn toàn hồ sơ cho các đại lý kê khai hoặc vì nể nang mà ký đại. Chính điều này dẫn đến
tình trạng không hiểu rõ các điều khoản trong quá trình thực hiện hợp đồng dễ dẫn đến
tranh chấp mà không có chứng cứ để tự bảo vệ quyền lợi của mình.
Thứ tư, một nguyên tắc quan trọng hàng đầu trong bảo hiểm là khách hàng phải
trung thực tuyệt đối. Khi đồng ý tham gia bảo hiểm, khách hàng sẽ có trách nhiệm phải kê
khai đầy đủ và chính xác vào hồ sơ yêu cầu bảo hiểm, tuân thủ các quy tắc điều khoản hợp
đồng. Công ty còn để khách hàng có một thời gian nhất định (14 hoặc 21 ngày - tùy nơi)
để xem xét lại bản hợp đồng. Những gì khách hàng còn thắc mắc, hay không muốn tham
gia nữa thì hủy hợp đồng lấy tiền lại. Vấn đề sức khỏe của khách hàng cũng rất quan
trọng để các công ty bảo hiểm chấp nhận bảo hiểm hay không, tính phí bảo hiểm như thế
nào, nên công ty nào cũng rất kỹ lưỡng. Tuy nhiên, hiện nay khách hàng khai sai, khai
thiếu do không nhớ, không để ý không phải ít vì nghĩ những chi tiết ấy không quan trọng.
Thứ năm, tình trạng trục lợi bảo hiểm tại Việt Nam là khá phổ biến nhưng để phát
hiện được lại rất khó khăn. Trong những trường hợp này, giải pháp duy nhất là công ty
bảo hiểm huỷ hợp đồng và việc chấm dứt hợp đồng bảo hiểm là hợp pháp và được quy
định trong Điều 23, Luật Kinh doanh bảo hiểm. Trên thực tế, bất cứ công ty bảo hiểm nào
cũng đều liên tục xem xét và đánh giá rủi ro của các khách hàng được bảo hiểm. Nếu tại
10


thời điểm nào đó trong thời gian hiệu lực hợp đồng, rủi ro vượt quá khả năng bảo hiểm
của công ty thì công ty tiến hành chấm dứt hợp đồng và trả lại phí cho phần thời gian chưa
bảo hiểm. Điều này áp dụng cho tất cả các loại hình bảo hiểm và có qui định rõ ràng việc
đơn phương chấm dứt hợp đồng trong hợp đồng bảo hiểm.
Thứ sáu, pháp luật quy định nghĩa vụ giải thích hợp đồng bảo hiểm trước hết thuộc
về doanh nghiệp bảo hiểm (thực hiện trực tiếp hoặc thông qua đại lý) và việc giải thích
này phải theo hướng có lợi cho người mua bảo hiểm nếu điều khoản không rõ ràng. Khi có
tranh chấp giữa doanh nghiệp bảo hiểm và khách hàng liên quan đến những quy định của
điều khoản hợp đồng, toà án có nghĩa vụ làm sáng tỏ ý nghĩa và nội dung của hợp đồng

bảo hiểm đó và thường sẽ ưu tiên giải thích theo hướng có lợi hơn cho người mua bảo
hiểm và/hoặc người được hưởng quyền lợi bảo hiểm. Tuy nhiên, Luật kinh doanh bảo
hiểm chỉ dừng lại ở quy định nguyên tắc giải thích hợp đồng bảo hiểm mà không nói đến
cách thức giải thích hợp đồng này như thế nào. Do đó, khi có tranh chấp xảy ra, việc giải
thích hợp đồng bảo hiểm phải căn cứ vào các quy định khác của pháp luật nếu có, bởi về
nguyên tắc áp dụng luật, việc giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm trước hết sẽ chịu sự
điều chỉnh của Luật kinh doanh bảo hiểm.
Tại Việt Nam, xung quanh vấn đề giải thích hợp đồng bảo hiểm, có rất nhiều quan
điểm khác nhau trong đó có không ít những quan điểm xuất phát từ việc không hiểu hoặc
cố tình không hiểu cách thức giải thích hợp đồng nên đưa ra nhận định chủ quan của mình,
xúi giục những người mua bảo hiểm chưa am hiểu về lĩnh vực pháp luật, khởi kiện doanh
nghiệp bảo hiểm gây mất ổn định xã hội, bản thân người mua bảo hiểm cũng mất nhiều
thời gian, tiền bạc theo đuổi vụ kiện do bị thua kiện. Vụ kiện sau đây là một ví dụ điển
hình:
Ông Nguyễn Văn T. và Bà Ngô Thị K. tham gia Hợp đồng Bảo hiểm nhân thọ thời
hạn 05 năm cho chính mình với số tiền bảo hiểm (STBH) ghi tại Phụ lục 1- Mục III của
Hợp đồng Bảo hiểm như sau:
+ STBH của Hợp đồng chính (Bảo hiểm và tiết kiệm)

:

20.000.000 đồng

+ STBH của Điều khoản riêng I

:

20.000.000 đồng

+ STBH của Điều khoản riêng II (Bảo hiểm chi phí phẫu thuật) :


20.000.000 đồng

(Bảo hiểm thương tật toàn bộ vĩnh viễn do tai nạn)

11


Đến ngày đáo hạn Hợp đồng bảo hiểm nói trên, Công ty bảo hiểm nhân thọ PT đã
thanh toán cho Ông T. và Bà K. với STBH của Hợp đồng chính cho mỗi người là
20.000.000 đồng cộng với lãi chia thêm.
Được sự tư vấn của Văn phòng Luật sư HV, ông T. và bà K. đã làm đơn yêu cầu
Bảo Việt Nhân thọ PT thanh toán thêm STBH của các điều khoản riêng I, II với lý do viện
dẫn là tại Điều 2 điểm 2.1 điều khoản Hợp đồng chính có ghi: “Đến ngày đáo hạn hợp
đồng bảo hiểm, Công ty sẽ thanh toán cho người được bảo hiểm toàn bộ số tiền bảo hiểm
đã cam kết tại Phụ lục 1- Mục III của Hợp đồng Bảo hiểm”.
Thực tế, đề nghị của bà K. với sự viện dẫn như trên là không có cơ sở pháp lý do đã
hiểu điều khoản này một cách quá cứng nhắc, máy móc theo hướng “chẻ chữ” mà không
căn cứ vào các cách thức giải thích hợp đồng đã được quy định tại Điều 408 Bộ luật dân
sự năm 1995 (do tại thời điểm giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm của bà K. và ông
T., Bộ luật dân sự 2005 chưa ra đời nên Bảo Việt lấy Bộ luật dân sự 1995 để giải thích).
Lý do như sau:
Thứ nhất, bản chất của hợp đồng chính và điều khoản riêng I, II mà ông T. và bà K.
đã tham gia là hoàn toàn khác nhau. Hợp đồng chính là loại sản phẩm bảo hiểm hỗn hợp
vừa tiết kiệm vừa bảo hiểm (nghĩa là trong thời hạn có hiệu lực của hợp đồng nếu người
được bảo hiểm (NĐBH) gặp rủi ro thương tật toàn bộ vĩnh viễn hoặc bị tử vong thì Công
ty bảo hiểm sẽ trả STBH và nếu khi hợp đồng đáo hạn mà NĐBH còn sống thì sẽ được
nhận STBH). Còn điều khoản riêng I (Bảo hiểm thương tật toàn bộ vĩnh viễn do tai nạn)
và riêng II (Bảo hiểm chi phí phẫu thuật) đơn thuần là sản phẩm bảo hiểm rủi ro (nghĩa là
chỉ có rủi ro quy định trong các điều khoản riêng này xảy ra đối với NĐBH thì Công ty

bảo hiểm mới trả tiền bảo hiểm theo các điều khoản riêng này). Điều này được giải thích
rõ ngay tại Điều 2 điều khoản riêng I, II “Số tiền bảo hiểm theo điều khoản này được hiểu
là giới hạn trách nhiệm tối đa của Công ty bảo hiểm đối với hậu quả của từng rủi ro được
bảo hiểm xảy ra đối với Người được bảo hiểm”. Đây cũng là lý do tại sao số phí bảo hiểm
của hợp đồng chính lại gấp rất nhiều lần số phí bảo hiểm của điều khoản riêng trong khi có
cùng STBH .
Thứ hai, giới hạn trách nhiệm của Công ty bảo hiểm nhân thọ PT đối với người
mua bảo hiểm, người được bảo hiểm đã được phân định rõ ràng, tách biệt tại phần quyền
lợi bảo hiểm của điều khoản hợp đồng chính và điều khoản riêng I, II. Theo đó, Công ty
12


bảo hiểm thanh toán STBH cho NĐBH khi hợp đồng đáo hạn chỉ được đề cập tại Điều 2
của điều khoản hợp đồng chính còn tại điều khoản riêng I, Công ty bảo hiểm chỉ trả STBH
khi “NĐBH bị thương tật bộ phận vĩnh viễn do tai nạn” (phần III) và điều khoản riêng II
khi “NĐBH bị phẫu thuật do bệnh tật hoặc tai nạn”(Điều 5 phần II). Nếu không bị rủi ro,
tai nạn trong thời gian hợp đồng bảo hiểm thì khi đáo hạn, NĐBH không được nhận số
tiền theo điều khoản riêng này.
Thứ ba, việc ký kết Hợp đồng Bảo hiểm Nhân thọ giữa Công ty bảo hiểm PT và
ông T., bà K. trước tiên được dựa trên cơ sở là Giấy yêu cầu bảo hiểm mà Ông, Bà đã tự
kê khai. Ngay tại phần đầu của Giấy yêu cầu bảo hiểm này đã ghi: “Sau khi tìm hiểu Điều
khoản, Biểu phí do Bộ Tài chính ban hành kèm theo Quyết định số …, tôi đồng ý tham gia
bảo hiểm …và làm Giấy yêu cầu bảo hiểm này kê khai đầy đủ, trung thực các chi tiết sau
đây”. Đồng thời tại Điểm 2 Phần II (Điều kiện bảo hiểm) của Giấy yêu cầu bảo hiểm Ông,
Bà cũng ghi rõ: STBH của hợp đồng chính, STBH của điều khoản riêng I, STBH của điều
khoản riêng II. Như vậy, ngay từ khi thể hiện nguyện vọng tham gia bảo hiểm, các điều
kiện bảo hiểm đã được Ông, Bà phân định rõ ràng, các điều khoản của Hợp đồng chính và
các điều khoản riêng I, II cũng đã được giải thích chi tiết và cụ thể.
Với những lý do trên, mặc dù Điều 2 điểm 2.1 của bản điều khoản Hợp đồng chính
có ghi: “Đến ngày đáo hạn hợp đồng bảo hiểm, Công ty sẽ thanh toán cho người được bảo

hiểm toàn bộ số tiền bảo hiểm đã cam kết tại Phụ lục 1- Mục III của Hợp đồng Bảo hiểm”
nhưng vì quy định này chỉ nằm trong điều khoản hợp đồng chính (chứ không nằm trong
điều khoản riêng I, II) nên “toàn bộ số tiền bảo hiểm” mà ông T. và bà K. viện dẫn phải
được hiểu là toàn bộ và chỉ số tiền của hợp đồng chính (20.000.000 đồng) chứ không thể
bao gồm cả STBH của các điều khoản riêng và cũng không thể coi điều khoản này là
“không rõ ràng”. Việc giải thích hợp đồng nói chung và hợp đồng bảo hiểm nhân thọ nói
riêng không chỉ đơn thuần căn cứ vào câu chữ trong điều khoản, theo hướng có lợi cho
người mua bảo hiểm mà phải giải thích theo nghĩa phù hợp nhất với ý chí đích thực của
các bên khi giao kết hợp đồng, tính chất, toàn bộ nội dung của hợp đồng, và trong mối liên
hệ với các điều khoản khác.
4.

Nguyên nhân của thực trạng.

a.

Về các quy định của pháp luật.

13


- Do những kẽ hở pháp luật và do thực tiễn thực hiện pháp luật chứ nghiêm, thiếu
sự kiểm tra, kiểm soát và xử lý dẫn đến nhiều người nảy sinh hành vi gian lận bảo hiểm.
- Hệ thống pháp luật của nước ta chưa có những hình phạt thích đáng cho những kẻ
lợi dụng các kẽ hở của pháp luật. Luật Kinh doanh bảo hiểm hiện nàu chỉ có quy định cho
phép doanh nghiệp từ chối bồi thường hay hủy bỏ hợp đồng khi phát hiện có hành vi gian
đối, cung cấp thông tin sai sự thật. Tuy nhiên, việc giải quyết như vậy vẫn nằm trong
khuôn khổ quan hệ dân sự. Hơn nữa, gian lận bảo hiểm là hành vi nhằm chiếm đoạt tài
sản. Tuy nhiên để buộc tội đối với khách hàng đối với các doanh nghiệp đó là điều không
dễ. Bởi vì các tội danh về kinh tế cần phải có yếu tố thiệt hại mới có thể kết tội và định

khung hình phạt.
- Hiện nay, pháp luật quy định mức phạt hợp đồng còn quá thấp, chưa đủ sức răn đe
đối với các bên trong thực hiện hợp đồng.
b. Về phía doanh nghiệp bảo hiểm.
- Công tác tuyển dụng, đào tạo, quản lý đại lý, cán bộ còn buôn lỏng, thiếu kiểm
tra, kiểm soát nội bộ, các quy trình nghiệp vụ… chưa chặt chẽ và còn có những lỗ hổng có
thể bị kẻ xấu lợi dụng.
- Vai trò kiểm tra, giám sát của Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát và các cố đông
chưa được phát huy đầy đủ.
- Do lỗi vô tình hay cố ý của các nhân viện bảo hiểm. Họ có thể ghi sau ngày tham
gia bảo hiểm trên giấy chứng nhận bảo hiểm hoặc do thiếu trách nhiệm đã không đánh gia
đúng mức độ nghiêm trọng của rủi ro, hoặc có thể nhân bảo hiểm thông đồng với khách
hàng để trục lợi bảo hiểm. Họ có thể đánh giá cao mức độ tổn thất hoặc vạch đường đi
nước bước cho khách hàng lợi dụng các kẽ hở về thủ tục, bồi thường để trục lợi.
c. Về phía khách hàng.
Do ý thức của những người tham gia bảo hiểm và nguồn lợi thu được từ việc gian
lận bảo hiểm rất lớn. Bởi vậy, có không ít kẻ gian dối, mua bảo hiểm khi đã bị tai nạn hoặc
cố tình gây ra tổn thất để đòi bồi thường. Đồng thời, một bộ phận người tham gia bảo
hiểm không ý thức được trách nhiệm đạo đức và pháp lý của mình nên đã thông đồng và
có hành vi giạn lận với những người có liên quan như y, bác sĩ, những người làm chứng
trong các tai nạn, rủi ro…
14


IV. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định về giao kết và thực hiện
hợp đồng bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp tại Việt Nam.
3.

Giải pháp pháp lý.


- Nhà nước cần sớm ban hành quy định xử phạt trường hợp lừa đảo và trục lợi bảo
hiểm như một chế tài răn đe, bởi đây là hành vi lừa đảo, gây thiệt hại đến lợi ích của
những khách hàng chân chính.
- Đơn giản hóa các điều khoản hợp đồng bảo hiểm sao cho rõ ràng, dễ hiểu, gần gũi
với lối tư duy và cách hiểu của người Việt Nam. Các doanh nghiệp bảo hiểm, đặc biệt là
cách doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài cần Việt hóa nhiều hơn nữa các thuật ngữ bảo
hiểm. Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam có thể thống nhất hợp đồng bảo hiểm mẫu của một số
sản phẩm bảo hiểm cho tất cả các doanh nghiệp bảo hiểm.
4.

Đối với các cơ quan quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm.

- Áp dụng nghiêm minh các chế tài hành chính, hình sự để răn đe, xử lý những
trường hợp cố tình vi phạm, bảo đảm trật tự, kỷ cương pháp luật.
- Do những hành vi gian lận bảo hiểm liên quan đến nhiều đối tượng, sử dụng
những phương thức, thủ đoạn và mức độ vi phạm khác nhau, để đấu tranh có hiệu quả đối
với các hành vi này đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bên có liên quan bao
gồm: các doanh nghiệp bảo hiểm, các nhà cung cấp dịch vụ và cơ quan chức năng.
- Khuyến khích các doanh nghiệp xâu dựng các nguyên tắc quả trị doanh nghiệp an
toàn, thận trọng và hiệu quả, áp dụng quy trình kiểm tra, kiểm soát nội bộ, quy trình xử lý
công việc có sự phối hợp của các phòng ban chức năng.
3. Đối với các doanh nghiệp bảo hiểm.
- Truyền thông tới khách hàng trong quá trình tư vấn bảo hiểm và phục vụ khách
hàng thông điệp: quyền lợi bảo hiểm luôn tương xứng với mức phí bảo hiểm; việc chi trả
đúng hợp đồng chính là đảm bảo công bằng và quyền lợi cho khách hàng tham gia bảo
hiểm.

15



- Linh hoạt trong giải quyết quyền lợi bảo hiểm. Nếu xác định được rằng khách
hàng không trục lợi bảo hiểm, có thể bồi thường thiện chí, bồi thường nhân đạo trong
trường hợp rủi ro không thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm.
- Xây dựng quy trình nghiệp vụ khách hàng sao cho đảm bảo trả lời kịp thời các
thắc mắc của khách hàng, tránh để “cái sảy nảy cái ung”, “con kiến thành con voi”, giải
quyết nhanh chóng đúng, đủ quyền lợi bảo hiểm.
- Tổ chức các hội nghị khách hàng, các buổi tuyên truyền, thuyết trình về bảo hiểm
trong các cơ quan, xí nghiệp, trường học, các địa bàn dân cư.
- Doanh nghiệp bảo hiểm cần phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng tuyên
truyền, đưa tin về một số vụ trục lợi bảo hiểm, gây thiệt hại lớn để cảnh báo người dân về
xu hướng này.
- Xây dựng qui trình đánh giá rủi ro hợp lý, nhanh chóng, giảm tối đa thời gian và
sự phiền phức đối với khách hàng nhưng vẫn đảm bảo các yêu cầu của công ty. Các bộ
phận khác nhau của công ty như đại lý, phòng thẩm định, phòng kinh doanh… cần phối
hợp chặt chẽ khi thẩm định giấy yêu cầu bảo hiểm của khách hàng. Các đại lý và nhân
viên khai thác cần thực hiện tốt công tác đánh giá rủi ro ban đầu, tránh trường hợp khai
thác những khách hàng có sức khỏe không đáp ứng yêu cầu dẫn đến phải từ chối bảo
hiểm. Có chế độ thưởng phạt hợp lý liên quan đến việc đánh giá rủi ro.
KẾT LUẬN
Trong điều kiện nền kinh tế nước ta có nhiều biến chuyển mạnh mẽ, đang trên đà
phát triển và hội nhập. Muốn tạo được bước đi vững chắc trong cơ chế thị trường đòi hỏi
ngành bảo hiểm nói chung và bảo hiểm nhân thọ nói riêng phải đạt được yêu cầu, mục tiêu
của công tác bảo hiểm. Do kiến thức lý luận cũng như thực tiễn còn nhiều hạn chế nên
chắc chắn bài viết còn nhiều thiếu sót và hạn chế. Rất mong nhận được sự nhật xét, chỉ
bảo từ quý thầy, cô để bài viết của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn./.

16


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.

Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000; Luật sửa đổi, bổ sung Luật kinh doanh bảo hiểm
năm 2011.

2.

Bộ luật dân sự năm 2005.

3. Trần Vũ Hải, Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ - Những vấn đề lí luận và thực tiễn, Nxb. Tư
pháp, Hà Nội, 2006.
4. TS. Phạm Văn Tuyết, Bảo hiểm và kinh doanh bảo hiểm theo pháp luật Việt Nam, Nxb.
Tư pháp, Hà Nội, 2007.
5. Một số website:
/> /> /> /> /> />
17



×