Tải bản đầy đủ (.doc) (72 trang)

đề án mỗi xã phường một sản phẩm tỉnh quảng ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 72 trang )

UBND TỈNH QUẢNG NINH
BAN XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
**********

ĐỀ ÁN
MỖI XÃ, PHƯỜNG MỘT SẢN PHẨM TỈNH QUẢNG NINH
One Commune One Product Quang Ninh (OCOP-QN)

Thời gian thực hiện:
39 tháng (từ tháng 10/2013 đến tháng 12/2016)
Cơ quan chủ trì, thực hiện:
Ban Xây dựng Nông thôn mới tỉnh Quảng Ninh

Hạ Long, tháng 10 năm 2013


UBND TỈNH QUẢNG NINH
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
BAN XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

ĐỀ ÁN
MỖI XÃ, PHƯỜNG MỘT SẢN PHẨM TỈNH QUẢNG NINH
One Commune One Product Quang Ninh (OCOP-QN)
I. THÔNG TIN CHUNG
1. Tên đề án: Mỗi xã, phường một sản phẩm tỉnh Quảng Ninh
2. Thời gian thực hiện: 39 tháng, từ 10/2013 – 12/2016
3. Địa bàn thực hiện: Toàn bộ tỉnh Quảng Ninh
4. Cơ quan chủ trì, thực hiện: Ban Xây dựng Nông thôn mới tỉnh Quảng Ninh
Địa chỉ: Số 2, phường Hồng Hải – TP Hạ Long - Quảng Ninh
Điện thoại: 033 3533288



Fax: 033 3533288

5. Cơ quan tư vấn và phối hợp thực hiện dự án:
5.1. Tổ chức 1: Trung tâm Tư vấn Chính sách Nông nghiệp (CAP) - Viện Chính
sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp Nông thôn
Họ và tên thủ trưởng tổ chức: TS. Nguyễn Đỗ Anh Tuấn
Địa chỉ: 16 Thụy Khuê, Tây Hồ, Hà Nội
Điện thoại:

Fax.:

Email:
5.2. Tổ chức 2: Công ty TNHH MTV Dược khoa - Trường ĐH Dược Hà Nội
(DKPharma)
Họ và tên thủ trưởng tổ chức: PGS. TS. Trần Văn Ơn
Địa chỉ: 13-15 Lê Thánh Tông, Hà Nội
Điện thoại: 0904040037

Fax.: 043.9332 607

Email:
6. Danh sách cán bộ thực hiện đề án
Thời gian
TT

Họ và tên,

Tổ chức


học hàm học vị

công tác

Nội dung công việc
tham gia

làm việc
(Số tháng
2

quy đổi )
2

Một (01) tháng quy đổi là tháng làm việc gồm 22 ngày, mỗi ngày làm việc gồm 8 tiếng


Chủ nhiệm Đề án

24

1.

ThS. Trương Công Ngàn Trưởng Ban Xây dựng Nông
thôn mới tỉnh Quảng Ninh

2.

KS. Vi Xuân Trọng


Phó Ban Xây dựng Nông thôn
mới tỉnh Quảng Ninh

Phó chủ nhiệm

24

3.

KS. Hoàng Đình Sáu

Phó Ban Xây dựng Nông thôn
mới tỉnh Quảng Ninh

Phó chủ nhiệm

24

4.

ThS. Ngô Tất Thắng

Trưởng phòng Công tác khu
Thư ký dự án
vực miền Tây - Ban Xây dựng
Nông thôn mới tỉnh Quảng
Ninh

24


5.

ThS. Nguyễn Văn Công

Trưởng phòng KH-TH - Ban
Xây dựng Nông thôn mới tỉnh
Quảng Ninh

Tổ chức - kế hoạch –
hành chính

24

6.

TS. Nguyễn Đỗ Anh
Tuấn

Trung tâm Tư vấn Chính sách
Nông nghiệp (CAP)

Đồng trưởng nhóm
Tư vấn
Tư vấn về các mô
hình kinh tế, phát
triển doanh nghiệp
nhỏ và vừa, thu hút
đầu tư, nghiên cứu
chuỗi giá trị


24

7.

PGS. TS. Trần Văn Ơn

Công ty TNHH MTV Dược
khoa - Trường ĐH Dược Hà
Nội (DK Pharma Co. Ltd.)

Đồng trưởng nhóm
Tư vấn. Tư vấn về
mô hình OCOP,
quan hệ quốc tế,
hình thành và tái cấu
trúc doanh nghiệp,
tập huấn, phát triển
và tiếp thị sản phẩm,
quản trị doanh
nghiệp

24

8.

TS. Nguyễn Anh Phong

Trung tâm Chính sách Chiến
lược Nông nghiệp Nông thôn
miền Nam (SCAP)


Tư vấn về tổ chức
mô hình sản xuất
kinh doanh cộng
đồng và các chính
sách chiến lược
PTNN-NT

24

9.

ThS. Ngô Quang Thành

SCAP

Tư vấn về phân tích
khả năng cạnh tranh

6

10. ThS. Phạm Hà Thanh

Công ty TNHH MTV Dược
khoa - Trường ĐH Dược Hà
Nội

Tư vấn về nghiên
cứu phát triển và
thiết kế sản phẩm

hàng hoá

12

11. TS. Nguyễn Trung Kiên

Trung tâm Chính sách Chiến
lược Nông nghiệp Nông thôn
(CAP)

Tư vấn về phát triển
thị trường và
marketing nông sản

12

Tùng


12. Nguyễn Trường Giang

Công ty TNHH MTV Dược
khoa - Trường ĐH Dược Hà
Nội

Tư vấn về xây dựng
tiêu chuẩn chất
lượng hàng hoá

12


13. Nguyễn Thế Cường

Công ty TNHH MTV Dược
khoa - Trường ĐH Dược HN

Tư vấn về nâng cấp
sản phẩm, thiết kế
sản phẩm và tiêu
chuẩn chất lượng
hàng hoá

24

14. Mai Thành Trung

Công ty TNHH MTV Dược
khoa - Trường ĐH Dược Hà
Nội

Tư vấn thiết kế hệ
thống nhà xưởng sản
xuất

12

15. Th.S. Trần Thị Thanh

CAP


Tư vấn về phát triển
cộng đồng nông
nghiệp nông thôn

24

16. ThS. Lê Thị Thanh

SCAP

Tư vấn các sản phẩm
du lịch

12

17. PGS. TS. Panee Sirira-

ĐH Chiang Mai – Thái Lan

Tư vấn OTOP (Thái
Lan) và vận dụng ở
Việt Nam

3

18. Bà Thongphean

Giám đốc công ty cộng đồng
Chiang Mai - Thái Lan


Triển khai OTOP và
quản lý doanh
nghiệp cộng đồng

1

Nhàn

Huyền
ard

Srisawang

7. Dự kiến các bên tham gia đề án OCOP-QN
7.1. Chủ thể chính thực hiện đề án: Các cộng đồng trong tỉnh Quảng Ninh
tham gia Dự án
Các cộng đồng tham gia Dự án (gồm các tổ chức kinh tế tại cộng đồng (dưới dạng
HTX, công ty, hộ gia đình, hoặc các nhóm thích hợp) vừa là chủ thể triển khai, vừa là đối
tượng hưởng lợi của Dự án.
7.2. Các cơ quan, tổ chức trực tiếp triển khai đề án
7.2.1. Cơ quan chịu trách nhiệm tổ chức chính: Ban Nông thôn mới tỉnh
Quảng Ninh: Trách nhiệm chính trong việc xây dựng Dự án, tìm kiếm chuyên gia tư
vấn, triển khai các hoạt động và huy động các nguồn kinh phí để thực hiện Dự án. Đồng
thời có trách nhiệm điều phối các hoạt động của các đơn vị tham gia Dự án.
7.2.2. Chính quyền: UBND các cấp: Huyện, xã
Hệ thống chính qyền chịu trách nhiệm chính:
- Hình thành, quản lý hoạt động và chi lương, phụ cấp cho các bộ phận/cá nhân
thuộc hệ thống tổ chức OCOP tỉnh Quảng Ninh.
- Ban hành và tổ chức triển khai các chính sách hỗ trợ OCOP-QN trong phạm vi
của mình.

- Phân bổ/điều chỉnh các nguồn lực thực hiện OCOP-QN trong phạm vi của mình.
- Tham gia tuyên truyền về OCOP Quảng Ninh qua hệ thống của mình.


- Tổ chức cuộc thi sản phẩm cấp huyện để chọn sản phẩm thi cấp tỉnh.
7.2.3. Các ban ngành: Các sở, ban ngành chịu trách nhiệm:
- Sở Y tế: Hỗ trợ các cộng đồng xây dựng và bảo đảm các chỉ tiêu thuốc Y học cổ
truyền, vệ sinh an toàn thực phẩm, đánh giá các sản phẩm thiên nhiên, thực phẩm chức
năng, thuốc Y học cổ truyền.
- Sở tài chính: Cân đối tài chính cho các hoạt động của Dự án; hỗ trợ các tổ chức
kinh tế hình thành trong Dự án về nghiệp vụ, chế độ quản lý tài chính.
- Sở kế hoạch và Đầu tư: Lồng ghép các nội dung của Dự án vào Quy hoạch tổng
thể, kế hoạch dài hạn, 5 năm và hằng năm; phối hợp với Sở Tài chính lập dự toán ngân
sách và phân bổ ngân sách; hỗ trợ việc hình thành các tổ chức kinh tế do cộng đồng xây
dựng trong Dự án.
- Sở nông nghiệp và phát triển NT: Lồng ghép các hoạt động của Dự án vào các
hoạt động khuyến nông – lâm – ngư; hướng dẫn phát triển kinh tế hộ, trang trại, hợp tác
xã; tổ chức nghiên cứu ứng dụng các tiến bộ công nghệ để nâng cấp sản phẩm của Dự án.
- Sở Khoa học và Công nghệ: Tổ chức liên lạc và tìm kiếm các nhà khoa học,
trường, viện,… tham gia giải quyết các công nghệ sản xuất, chế biến, bảo quản, nâng cao
tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm; lập kế hoạch ngân sách hằng năm cho các đề tài nghiên
cứu khoa học - phát triển công nghệ và các dự án KHCN về các sản phẩm do cộng đồng
đăng ký.
- Sở Công - Thương: Chịu trách nhiệm: Lập kế hoạch ngân sách hằng năm cho
hoạt động khuyến công liên quan đến các tổ chức kinh tế hình thành bởi Dự án; tổ chức
hội chợ, hỗ trợ xúc tiến thương mại các sản phẩm thi được giải; tạo điều kiện cho các sản
phẩm được lưu thông trên thị trường.
- Sở Văn hoá - Thể thao và Du lịch: Nghiên cứu phát triển và triển khai các sản
phẩm du lịch nông thôn, quảng bá các hình ảnh về bản sắc văn hoá, sản phẩm của Dự án
trong các hoạt động văn hoá và du lịch trong tỉnh.

- Sở Lao động – Thương binh và xã hội: Đào tạo nghề lao động nông thôn gắn với
các sản phẩm OCOP.
7.2.4. Các tổ chức chính trị - xã hội – ngành nghề
- Liên minh các HTX và doanh nghiệp ngoài quốc doanh: Xây dựng và phát triển
tổ chức HTX và doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
- Hiệp hội các doanh nghiệp tỉnh Quảng Ninh: Tham gia vào các chuỗi giá trị hình
thành trong Dự án.- Hội Đông y: Chịu trách nhiệm: Tuyên truyền và động viên các hội
viên tham gia Dự án.
- Hội Nông dân: Chịu trách nhiệm: Tuyên truyền và động viên các hội viên tham
gia Dự án.
7.2.5. Các doanh nghiệp
- Sự tham gia của các doanh nghiệp (trong và ngoài tỉnh) sẽ được xác định cụ thể
thông qua hoạt động điều tra tổng thể cũng như trong quá trình triển khai Dự án.
7.2.6. Các trường dạy nghề trong tỉnh
Tham gia đào tao các ngành nghề liên quan đến dự án, quản trị kinh doanh, tiếp
thị cho các cộng đồng tham gia dự án.


7.3. Các cơ quan tư vấn triển khai đề án
7.3.1. Trung tâm Tư vấn Chính sách Nông nghiệp (CAP)
Tư vấn xây dựng đề cương, xây dựng kế hoạch hoạt động, xây dựng các mô hình
kinh tế, điều tra cơ bản, phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, thu hút đầu tư, tổ chức mô
hình sản xuất kinh doanh cộng đồng và các chính sách chiến lược PTNN-NT.
7.3.2. Công ty TNHH MTV Dược khoa- Trường ĐH Dược Hà Nội
Tư vấn xây dựng đề cương, xây dựng kế hoạch hoạt động, điều tra cơ bản, mô
hình OCOP, quan hệ quốc tế, hình thành và tái cấu trúc doanh nghiệp, tập huấn, phát
triển, nâng cấp và tiếp thị sản phẩm, tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm, quản trị doanh
nghiệp.
7.3.3. Hợp tác quốc tế
Tham gia phối hợp thực hiện Dự án còn có các chuyên gia có nhiều kinh nghiệm

trong việc xây dựng mô hình, triển khai mô hình, quản lý doanh nghiệp cộng đồng của
trường Đại học Chiang Mai (Thái Lan), Ban OTOP tỉnh Chiang Mai, doanh nghiệp cộng
đồng ở tỉnh Chiang Mai. Dự kiến cùng tham gia phối hợp thực hiện Dự án còn có các
chuyên gia có nhiều kinh nghiệm triển khai mô hình OVOP thuộc trường Đại học của
Nhật Bản, Tổ chức JICA Nhật Bản tại Việt Nam.
II. TÍNH CẤP THIẾT PHẢI THỰC HIỆN ĐỀ ÁN
2.1. Khái quát chung
Phong trào “Mỗi làng, một sản phẩm” (“Isson, Ippin” Undo - theo tiếng Nhật và
“One village, One product” Movement - theo tiếng Anh) ngày nay đã trở thành một cụm
từ mang tính khu vực dùng để chỉ những hoạt động phát triển nông thôn với những nét
đặc trưng riêng.
- “Mỗi làng” (isson, one village) là một khái niệm mang tính ước lệ của Phong
trào “Mỗi làng, một sản phẩm”, chỉ một cộng đồng dân cư cụ thể nào đó, không phân
biệt theo địa giới hành chính, cũng như về qui mô.
- “Một sản phẩm” (ippin, one product) cũng là một khái niệm mang tính ước lệ
của Phong trào “Mỗi làng, một sản phẩm”, dùng để chỉ sản phẩm đặc trưng của một cộng
đồng dân cư nào đó tạo ra. Sản phẩm này thường có những đặc điểm rất riêng biệt của
nơi sản xuất ra nó, khiến cho mọi người có thể dễ dàng nhận ra nơi sản xuất giữa những
sản phẩm cùng loại. Một cộng đồng dân cư, “một làng” có thể sản xuất ra nhiều loại sản
phẩm khác, nhưng trong Phong trào “mỗi làng, một sản phẩm” người ta thường chú
trọng vào việc nâng cao chất lượng của loại sản phẩm nào có nhiều nét đặc trưng của địa
phương nhằm tạo ra sự khác biệt và làm tăng khả năng cạnh tranh của chúng. Mặc dù
vậy, khái niệm “Một sản phẩm” được sử dụng ở đây hết sức mềm dẻo và khả thi. Một
làng, một cộng đồng dân cư có thể phát triển một hoặc nhiều sản phẩm của mình, nhưng
có khi hai hay nhiều “làng” có thể kết hợp với nhau theo kiểu sản xuất dây chuyền (có
“làng” chỉ sản xuất bán thành phẩm, làm nguyên liệu cho “làng” khác hoàn chỉnh sản
phẩm) để tạo ra một loại sản phẩm, hàng hoá nào đó. Khái niệm “sản phẩm” cũng rất
mềm dẻo, chúng có thể là các loại nông, lâm sản đặc trưng trong vùng, có thể đã qua chế
biến như nấm Shiitake, rượu Sochu, chanh Kabosu… nhưng cũng có thể là các dịch vụ
du lịch hay đơn thuần chỉ là những bài dân ca hoặc kỹ thuật canh tác nông nghiệp như

dịch vụ du lịch xanh (home stay)...


- Phong trào (undo, movement) không chỉ có nghĩa thông thường ban đầu mà là
khái niệm chỉ các hoạt động mang ý nghĩa quần chúng, sự phát triển nội sinh của mỗi
cộng đồng cư dân nói chung và cư dân nông thôn nói riêng. Ở Nhật Bản, chưa bao giờ
tồn tại các khái niệm như Chương trình “Mỗi làng, một sản phẩm” hay Dự án “Mỗi làng,
một sản phẩm” mà chỉ có khái niệm Phong trào “Mỗi làng, một sản phẩm” mà thôi.
2.1.1. Xuất xứ của Phong trào “Mỗi làng, một sản phẩm”
Cho đến cuối những năm 70 của thế kỷ 20, Nhật Bản về cơ bản đã thực hiện xong
công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Các ngành công nghiệp được hình
thành và phát triển mạnh mẽ ở khu vực thành phố thu hút người lao động từ các vùng
nông thôn. Mặc dù các khu vực này chỉ chiếm khoảng 20% diện tích đất tự nhiên nhưng
lại tập trung đến trên 80% dân số của cả nước đến học tập và làm việc. Thế hệ trẻ sau khi
tốt nghiệp các trường đại học, cao đẳng hoặc dạy nghề đều không muốn trở về vùng
nông thôn nơi mình đã sinh ra và lớn lên mà trụ lại tìm việc làm ở các thành phố và trung
tâm công nghiệp lớn. Một giáo sư trường Cao đẳng kỹ thuật Oita cho biết, ngay cả khi
học tập tại đây thì vẫn có 9 trong số 10 sinh viên tốt nghiệp tìm kiếm việc làm ở các
thành phố lớn khác. Điều này dẫn đến tình trạng hoang tàn của khu vực nông thôn nói
chung và của tỉnh nói riêng. Dân số sụt giảm, các căn nhà bị bỏ không do không có
người ở, nông nghiệp bị đình đốn do thiếu người làm… Tốc độ tăng dân số trong giai
đoạn 1960-1072 luôn nhỏ hơn 0%. Có những năm như năm 1965 tỷ lệ tăng dân số ở mức
-4,2% (âm 4,2%) làm cho dân số trong tỉnh sụt giảm nghiêm trọng. Nhiều vùng nông
thôn chỉ còn lại người già và trẻ nhỏ. Một số vùng quê đã tiến sát đến bờ vực của sự biến
mất. Người nông dân bị mất phương hướng sản xuất phần vì nguồn lao động bị thiếu hụt,
phần vì không nắm được nhu cầu tiêu dùng của “người thành phố”. Cuộc sống của người
dân nông thôn vì thế mà ngày càng trở lên nghèo khổ hơn, trong khi những cơ hội tìm
kiếm việc làm ở khu vực thành phố cứ hẹp dần lại theo thời gian. Hơn thế nữa, việc tận
dụng những lợi thế và nguồn tài nguyên thiên nhiên của cả khu vực nông thôn rộng lớn
phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế đất nước cũng bị hạn chế do thiếu lao động. Điều

quan trọng hơn là người ta đã dần đánh mất đi niềm tự hào về truyền thống tốt đẹp, lâu
đời, cũng như những cơ hội để phát triển mảnh đất quê hương.
Đến trước năm 1979, năm khởi đầu của Phong trào “Mỗi làng, một sản phẩm” thu
nhập đầu người của tỉnh chỉ đứng hàng thứ 39 trong số 47 tỉnh của Nhật Bản.
Ngay sau khi đắc cử vào chức vụ người đứng đầu chính quyền tỉnh Oita, ngài
Morihiko Hiramatsu đã tìm cách để khôi phục nền kinh tế của “mảnh đất trù phú” này.
Khi đó, ông đã cho thi hành “Kế hoạch chính sách công nghệ” (Technopolis Plan) và
“Kế hoạch chính sách biển” (Marinoplis Plan). Theo đó, kế hoạch thứ nhất nhằm vào
việc mời các nhà đầu tư thuộc các ngành công nghiệp công nghệ cao, chuyên sâu đến đầu
tư vào một số khu vực ở địa phương để cải thiện cơ cấu kinh tế (vốn nặng về nông
nghiệp) của tỉnh; Kế hoạch thứ hai hướng đến việc khuyến khích xây dựng các ngành sản
xuất vốn có thế mạnh của địa phương này là đánh bắt, chế biến hải sản và du lịch. Tuy
nhiên, việc thực hiện những kế hoạch này, ngay từ ban đầu đã gặp phải những khó khăn
ít người ngờ tới. Chẳng ai muốn đầu tư vào các ngành sản xuất công nghiệp ở vùng đất
mà việc tìm kiếm nguồn nhân công lại không mấy dễ dàng; cũng chẳng ai muốn đi nghỉ
nghơi, thư giãn ở những nơi đang dần trở thành phế tích…. Để giải quyết những khó
khăn này cùng với vấn đề cấp bách khi đó là phải cải thiện đời sống của cư dân nông
thôn trong điều kiện khó khăn về kinh phí trợ cấp của chính quyền trung ương, đồng thời
tổng kết thực tiễn phát triển nông thôn ở một số địa bàn trong tỉnh như Thị trấn Oyama,
thị trấn Yufuin… Ngài Morihiko Hiramatsu đã đề xuất thực hiện Phong trào “Mỗi làng,


một sản phẩm” trên địa bàn tỉnh Mục tiêu ban đầu của Phong trào này là khuyến khích
người dân nông thôn làm sống lại các giá trị tốt đẹp của quê hương mình, qua đó làm
tăng thu nhập và cải thiện bộ mặt nông thôn. Tuy nhiên, mục tiêu sâu xa hơn chính là
thông qua các hoạt động này, tạo sức quyến rũ của khu vực nông thôn, hạn chế sự di dân
tự do ra các thành phố và khu công nghiệp lớn trong cả nước, xây dựng nguồn nhân lực
đủ mạnh thực hiện công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá khu vực này trong tương lai,
đồng thời tạo ra sự chuyển dịch để đạt đến sự cân bằng về kinh tế cũng như về xã hội
giữa vùng nông thôn của địa phương với các thành phố lớn, giảm sự phụ thuộc về kinh tế

và ngân sách vào chính quyền trung ương.
2.1.2. Nội dung của Phong trào “Mỗi làng, một sản phẩm”
Mỗi địa phương (làng, xã, huyện), “mỗi làng” tuỳ theo điều kiện và hoàn cảnh
lịch sử của mình lựa chọn ra những sản phẩm độc đáo, mang đậm nét đặc trưng của địa
phương để phát triển. Các sản phẩm này có thể là những sản phẩm tiêu dùng cụ thể như
rau, quả, đồ gỗ… nhưng cũng có thể là các sản phẩm văn hoá, dịch vụ du lịch… Điều
quan trọng đối với các sản phẩm được lựa chọn là mặc dù chúng phải mang nét đặc
trưng, kết hợp được các yếu tố địa lý, văn hoá, truyền thống… của địa phương đó, nhưng
phải được thị trường Nhật Bản và thế giới chấp nhận.
Việc quảng bá rộng rãi các sản phẩm đã được lựa chọn trên thị trường trong nước
và thế giới sẽ làm tăng khả năng sản xuất và tiêu thụ chúng, tạo ra nhiều việc làm một
cách ổn định, đồng thời tăng thu nhập cho người dân địa phương. Trên cơ sở đó, tái đầu
tư nâng cao chất lượng để đẩy mạnh khả năng cạnh tranh sản phẩm. Nhờ sự xuất hiện
các sản phẩm “của làng” trên thị trường trong nước và thế giới, hình ảnh của địa phương
trong con mắt của những “người ngoài làng” được cải thiện. Điều này làm cho việc thu
hút khách du lịch đến địa phương trở nên dễ dàng hơn và quá trình công nghiệp hoá nông
thôn cũng được tiến hành một cách dần dần và vững chắc.
Để thực hiện nội dung này, hàng loạt vấn đề được đề cập và giải quyết một cách
triệt để như các việc xây dựng các nguyên tắc hoạt động của phong trào, vấn đề về tổ
chức sản xuất sản phẩm, tổ chức mạng lưới quảng bá và tiêu thụ sản phẩm, phân phối lợi
ích… Song song với đó là việc tái tạo và làm sống lại các giá trị văn hoá, lịch sử, truyền
thống của địa phương. Đưa các giá trị này vào giáo dục trong các trường học để nâng cao
lòng tự hào đối với quê hương của lớp trẻ.
Điều quan trọng cần được nhấn mạnh ở đây là phải làm sao cho mỗi người dân ở
địa phương đều có thể tham gia một cách tự nguyện vào Phong trào này với tư cách là
chủ nhân của các hoạt động. Chính quyền địa phương chỉ đóng vai trò trợ giúp cho
những nỗ lực, cố gắng của người dân chứ không phải là hướng dẫn hoặc ra mệnh lệnh
cho họ. Đây chính là động lực làm nên những thành công vang dội của Phong trào này.
2.1.3. Sự thành công của Phong trào
Trải qua hơn 20 năm phát triển, Phong trào OVOP đã đạt được những thành công

vang dội trong quá trình phát triển nông thôn, thu hẹp khoảng cách giữa nông thôn và
thành thị cả về kinh tế, văn hoá và lối sống. Thành công lớn nhất của Phong trào là tạo ra
niềm tin cho lớp trẻ - những người vốn đã có mặc cảm về sự yếu kém kinh tế của địa
phương, về sự phát triển của kinh tế nông thôn nơi họ đã sinh ra và lớn lên. Từ đó, chính
họ lại là người tìm ra những giải pháp khả thi để phát triển quê hương họ. Tạo ra tinh
thần thi đua trong khu vực nông thôn, làm đổi mới nền công nghiệp địa phương dựa trên
chính nền kinh tế và nguồn nhân lực của địa phương đó. Nâng tầm các hoạt động triển
lãm sản phẩm nông thôn của Phong trào tại Tokyo và các thành phố lớn khác của Nhật


Bản thành những sự kiện phổ biến và có ảnh hưởng tốt trong cư dân các thành phố này.
Làm sâu sắc thêm quá trình phát triển cộng đồng và mô hình “Phát triển nội sinh ở nông
thôn” cũng như các hoạt động sáng tạo ở các địa phương khác nhau trên toàn nước Nhật.
Phong trào này đã gắn kết được các hoạt động sản xuất nông nghiệp với chế biến
nông sản, tạo ra nhiều công ăn, việc làm, tăng giá trị gia tăng trong các sản phẩm, tăng
khả năng cạnh tranh của chúng, từ đó làm tăng thu nhập cho người dân nông thôn. Số
lượng sản phẩm thủ công được làm và bán ra tăng từ 143 loại sản phẩm, thu nhập 35,9 tỷ
yên khi phong trào mới bắt đầu lên 336 loại sản phẩm và cho thu nhập 141 tỷ yên vào
năm 2001. Nhiều nghề truyền thống tưởng như đã bị mai một được khôi phục lại, nhiều
nghề mới được phát triển (hiện tại trong Quận có khoảng 200 nghề mới được tạo dựng).
Nhiều hoạt động ở địa phương đã được tổ chức để tôn vinh “giá trị của làng” và tiêu thụ
sản phẩm như hoạt động “Mỗi làng, Một hội chợ”, “Mỗi cửa hàng, Một báu vật”… Các
mặt hàng nông sản phổ biến của địa phương từ chỗ ít được biết đến ngay trên thị trường
nội địa như nấm khô, rượu cất sochu từ lúa mạch, cam, chanh… đã trở lên phổ biến và có
giá bán khá cao như nấm khô Shiitake từ 1% đã tăng lên 32%, rượu sochu từ 1% lên
30,7% thị phần của thị trường nội địa, chanh Kabosu từ Oita (vùng cực nam của Nhật) đã
có mặt hàng ngày ở Hockaido (Vùng cực Bắc của Nhật)… Người phụ nữ Nhật ở vùng
này từ chỗ chỉ quen với công việc nội trợ, sống phụ thuộc vào chồng, đến nay đã rất quen
với công việc chế biến nông sản. Hiện tại đã có 339 nhóm phụ nữ tự quản làm công tác
chế biến nông sản như Nhóm phụ nữ chế biến nước cà chua ở Ogi, chế biến bánh Karinto

ở Amagase… Doanh thu từ các loại sản phẩm của Phong trào OVOP của Quận Oita tăng
từ 330 triệu USD năm 1980 lên 1.300 triệu USD năm 2001. Thu nhập bình quân đầu
người của Quận Oita từ 12.300 USD/người/năm (năm 1979), đứng thứ 39 trong số 47
quận của Nhật, tăng lên 26.100 USD/người/năm (năm 2000) và hiện vươn lên đứng thứ
25 trong toàn quốc và là tỉnh có thu nhập tính theo đầu người đứng hàng đầu trong khu
vực Kuyshu. Thu nhập này tương đương với thu nhập tính theo đầu người của người dân
Mỹ. Xã hội chuyển biến từ trạng thái sản xuất chung (Gross production), trạng thái muốn
tăng thu nhập cho mọi người sang trạng thái thoả mãn chung (Gross satisfaction), trạng
thái xã hội mà mọi người dân đều cảm thấy hài lòng về cuộc sống của mình. Khi sử dụng
bộ chỉ số về các yếu tố ảnh hưởng đến cuộc sống của Chính phủ Nhật Bản để đánh giá
thì Oita là một trong những tỉnh có cuộc sống thuận lợi nhất (đứng thứ 11 trong 47 tỉnh
của Nhật Bản và đứng hàng đầu ở khu vực Kyushu).
Điều quan trọng là nhờ sự phát triển của Phong trào OVOP mà nguồn nhân lực
của Quận Oita đã được nâng cao, cơ sở hạ tầng và du lịch phát triển mạnh mẽ, tạo điều
kiện thu hút đầu tư từ các công ty lớn như Toyota, Canon, Toshiba… tạo ra khu công
nghiệp rất phát triển ở địa phương. Không những thế, nhờ sự nổi tiếng của Phong trào mà
nhiều sự kiện văn hoá, thể thao lớn của thế giới và nước Nhật như Vòng chung kết giải
bóng đá thế giới năm 2002, Cuộc đua xe đạp quốc tế người tàn tật hàng năm… cũng đã
được tổ chức tại đây.
Trong 20 năm từ năm 1979 đến năm 1999 Phong trào “Mỗi làng, Một sản phẩm”
đã đưa số loại sản phẩm trong tỉnh đã tăng từ 143 (năm 1980) lên 329 (năm 1990), trong
đó có 132 loại sản phẩm có doanh thu 100 triệu Yên/năm và 19 loại sản phẩm có doanh
thu trên 1 tỷ Yên/năm. Tổng doanh thu từ các sản phẩm của Phong trào trong giai đoạn
này đạt khoảng trên 141 tỷ yên/năm.


2.1.4. Một số mô hình điển hình của Phong trào “Mỗi làng, một sản phẩm”
2.1.4.1. Điểm dừng xe ven đường trong Phong trào “Mỗi làng, một sản phẩm”
Tiêu thụ sản phẩm, nhất là lượng sản phẩm làm ra từ sau khi phát động Phong trào
luôn là một trong những khó khăn của Phong trào này cũng như các cuộc vận động khác.

Những người lãnh đạo Phong trào “mỗi làng, một sản phẩm” đã đưa ra ý tưởng xây dựng
ở ven đường giao thông liên tỉnh hoặc đường quốc lộ những điểm dừng xe để khách qua
đường vừa có thể dừng chân sau một chặng đường dài vừa có thể mua các sản phẩm đặc
trưng của địa phương. Địa điểm để xây dựng các điểm dừng xe lại được chọn sao cho
vừa thuận tiện cho hành trình của khách hàng vừa mang được những đặc trưng quan
trọng nhất của địa phương. Thông thường đó là những nơi có phong cảnh đẹp, có những
mặt hàng đặc sản hoặc là nơi mang đậm nét văn hoá của địa phương. Điểm dừng chân
ven đường tại Thác nước Harariji (còn gọi là thác của phương Đông), một cảnh đẹp nổi
tiếng của vùng Oku-Bungolà một điển hình của sự kết hợp này.
Các điểm dừng xe này thường có 3 khu vực chính: khu vực lưu giữ, trưng bày các
sản phẩm truyền thống cũng như sản phẩm đặc trưng của địa phương; khu vực bán các
sản phẩm của địa phương và khu vực dịch vụ du lịch, vui chơi, giải trí. Khu vực lưu giữ,
trưng bày sản phẩm thường còn hay được dùng để tổ chức các lễ hội, các cuộc vui chơi
của người dân trong vùng (vốn rất hay được tổ chức ở Nhật Bản hiện nay), giao lưu văn
hoá với khách hàng và với cư dân các vùng khác, đồng thời cũng là nơi giáo dục truyền
thống, dạy nghề thủ công cổ truyền cho lớp trẻ. Khu vực bán sản phẩm thường chỉ nhằm
mục đích tiêu thụ các sản phẩm được làm ra trong vùng, có tính độc đáo so với sản phẩm
của các vùng, địa phương khác. Khu vực dịch vụ du lịch cũng được tổ chức theo xu
hướng tận dụng tối đa nét đẹp, nét văn hoá hay độc đáo của địa phương.
Trải qua hơn 20 năm xây dựng và hoạt động nhiều điểm dừng xe ven đường đã
vượt qua những mục đích ban đầu của nó, trở thành những điểm hấp dẫn khách du lịch
của nhiều nơi trong nước và khách nước ngoài. Rất nhiều gia đình trong vùng cũng như ở
các thành phố khác đã đến nghỉ cuối tuần tại điểm dừng xe ven đường tại Konohanagarten, hoặc ở Thác Harariji…
2.1.4.2. Xây dựng các nhóm phụ nữ chế biến nông sản
Trong hoàn cảnh dân số tụt giảm hàng năm, nguồn nhân công khan hiếm, cách tốt
nhất để có thể sản xuất ra những sản phẩm của địa phương như Phong trào mong muốn,
làm sống lại niềm tự hào của người dân trong vùng là tổ chức những nhóm phụ nữ (theo
truyền thống thường không tham gia công việc xã hội) làm công tác chế biến nông sản.
Các nhóm này, ban đầu được chính quyền trợ cấp một phần kinh phí để xây dựng cơ sở
sản xuất, tư vấn công nghệ chế biến, nơi tiêu thụ sản phẩm, còn người sản xuất tiến hành

mua sắm thiết bị, tổ chức sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Nhiều nơi như xưởng sản xuất
nước cà chua cô đặc tại Thị trấn Ogi, 2-3 nhóm phụ nữ chung nhau một khu nhà xưởng
do chính quyền trợ giúp để tiến hành sản xuất sản phẩm của mình. Điều quan trọng là
Phong trào đã thổi được lòng tin, niềm tự hào và ý nghĩa của công việc sản xuất vào các
nhóm này để họ ngày càng nâng cao chất lượng, cũng như khả năng tiêu thụ sản phẩm
của mình.
Trải qua hơn 20 năm tiến hành Phong trào, đã có 339 nhóm phụ nữ chế biến nông
sản được thành lập và đi vào hoạt động. Những khẩu hiệu như “Nước ép cà chua Ogi đi
lên Hockaido” hay “Karinto (một loại bánh vùng Amagase) tiến vào Hoa Kỳ” … đã song
hành cùng họ nhiều năm qua tạo ra một niềm kiêu hãnh và tự tin để vượt qua những khó
khăn trong sản xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm.


2.1.4.3. Thị trấn Oyama: “Đưa cây mận (Ume) và hạt dẻ tiến vào
Thị trấn Oyama có hình chiếc lá mỏng mảnh, nằm ở độ cao 100-500 m so với mực
nước biển, có chiều dài 18 km từ Bắc xuống và chiều rộng 10 km từ Đông sang Tây.
Diện tích canh tác chỉ chiếm 10% tổng diện tích tự nhiên. Phần còn lại được bảo phủ bởi
rừng thông liễu. Hai ngành sản xuất chính của Thị trấn này là nông nghiệp và lâm
nghiệp. Vào những năm 1955, dân số của Thị trấn vào khoảng 6.400 người, sống chủ yếu
ở vùng nông thôn bằng những sản phẩm có tính tự sản, tự tiêu trong phạm vi trang trại
của mình. Sản phẩm chính của họ chỉ là gạo, lúa mạch. lúa mì và chăn nuôi. Chính quyền
tỉnh đã nỗ lực khuyến khích nông dân tăng sản lượng gạo bằng chính sách "mỗi nông
dân, một gói” (one bag per farmer). Tuy nhiên, do địa hình rừng núi, bị chia cắt, ruộng
đất hẹp nên việc sử dụng máy móc cho canh tác lúa gặp nhiều khó khăn nên nhiều nông
dân ở đây đã từ bỏ ý định tiếp tục trồng lúa để chuyển sang các loại cây trồng khác có
nhiều thuận lợi hơn.
Thay cho lúa, họ đã chọn cây mận và cây hạt dẻ. Đó là những loại cây trồng khá
phù hợp với điều kiện đất đai và khí hậu nơi đây, cũng như rất phù hợp với điều kiện ít
lao động. Hơn thế nữa, ngoài việc cho thu nhập cao hơn cây lúa, mận và hạt dẻ còn có
thể chế biến được nhiều loại sản phẩm phù hợp với nhu cầu tiêu dùng của các thành phố

và khu đô thị lớn. Với với khẩu hiệu dễ nhận thấy “Đưa cây mận và hạt dẻ tiến vào ”
người dân Thị trấn này đã mạnh dạn từ bỏ cây lúa truyền thống để chuyển mạnh sang
triển khai các chiến dịch trồng mận và hạt dẻ. Đó chính là khởi nguồn của Phong trào
NPC (Phong trào trồng mận và hạt dẻ mới- New Plums and Chestnuts Movement). Chiến
dịch này nhắm tới mục tiêu giảm thời gian lao động nhưng vẫn tăng thu nhập hơn là việc
tạo ra một quá trình sản xuất ở trình độ cao hơn và được giới trẻ ủng hộ rất nhiệt tình.
Vào thời gian đó, chuyện đi ra nước ngoài còn quá xa vời đối với người dân một huyện
miền núi như Oyama, nên cơ hội “tiến vào Hawaii” đã đem lại cho những thiếu niên ở
vùng quê này sự hy vọng và tự tin một cách thầm kín. Không khí trong thị trấn đã trở nên
sáng sủa hơn và mặc dù còn có một số khó khăn nhưng việc tiêu thụ nông sản đã tăng
lên.
Pha đầu của Phong trào NPC đã kết thúc thành công, pha 2 đã được bắt đầu vào
năm 1964 với mục tiêu phát triển rộng rãi loại cây trồng này hơn và nâng cao kiến thức
của người dân. Hiện tại, thành phố đang phát triển pha thứ 3 với mục tiêu nâng cao chất
lượng môi trường sống lên ngang bằng hoặc cao hơn so với các thành phố và đưa thị trấn
trở thành một trung tâm văn hoá của khu vực.
Năm 1966, nhóm người đầu tiên của thị trấn Oyama đã tiến vào . Cho đến nay đã
có rất nhiều người đã và đang làm những cuộc hành trình tiến vào Hawaii, cũng như tiến
vào nhiều vùng đất khác như Trung Quốc, Israel… bởi thu nhập từ nông nghiệp của
người nông dân ở đây đã cao hơn khá nhiều so với thu nhập của cơ dân thành phó trong
vùng.
Nền nông nghiệp công nghệ cao Oyama bắt đầu với việc trồng mận và hạt dẻ,
ngày nay đã phát triển với nhiều loại cây trồng khác nhau như rau xanh, nấm enokitake
và nameko… Thị trấn hiện nay có đến hơn 50 loại sản phẩm thực phẩm chế biến từ các
loại rau, quả, hoa phong lan và các loại cỏ làm thuốc trong vùng. Hầu hết các loại sản
phẩm này đều được sản xuất bằng phương pháp nuôi cấy mô. Đây là một trong hai điểm
khởi đầu của Phong trào “Mỗi làng, một sản phẩm”.
Konohana - Garten là một điểm đỗ xe bên đường, là nơi tiêu thụ sản phẩm, đồng
thời là trung tâm văn hoá, du lịch và giao lưu giữa cộng đồng cư dân Thị trấn Oyama với



mọi người. Trong khu vực này, ngoài cửa hàng tiêu thụ sản phẩm, còn có phòng trưng
bày sản phẩm của Thị trấn và khu vực dịch vụ phục vụ nhu cầu của du khách đến tham
quan, mua sản phẩm. Mọi người dân trong vùng đều có thể đem sản phẩm của mình đến
cửa hàng này để tiêu thụ. Các sản phẩm có số lượng lớn, có thị trường tiêu thụ ngoài
vùng đều được tập trung về đây trước 6 giờ sáng hàng ngày để bộ phận tiêu thụ sản phẩm
chuyên trách bố trí biện pháp đóng gói, phương tiện chuyên chở…
Các sản phẩm trong cửa hàng tại đây rất đa dạng về chủng loại, mẫu mã, nhưng
phần lớn là các sản phẩm được sản xuất từ nền nông nghiệp trong vùng như các loại rau,
quả, cây thuốc đặc sản, các sản phẩm nông, lâm nghiệp chế biến như bánh, kẹo, mứt
mận, đồ gốm, sản phẩm thủ công… Điểm đặc biệt là các gian hàng đều ghi rõ đơn vị
(hợp tác xã, cá nhân…) sản xuất ra sản phẩm được bán trong đó. Bên cạnh đó mỗi sản
phẩm đều có nhãn ghi rõ số đăng ký của đơn vị sản xuất, tên người sản xuất, tên sản
phẩm, giá sản phẩm, ngày đưa sản phẩm đến bán… thậm chí, nhiều sản phẩm còn để cả
ảnh của người sản xuất ra sản phẩm đó nhằm nâng cao uy tín của sản phẩm và lòng tự tin
của người sản xuất. Các sản phẩm thủ công truyền thống như đồ mây tre đan, đồ gỗ mỹ
nghệ, đồ gốm, sản phẩm nông sản chế biến theo phương pháp cổ truyền… chiếm phần
lớn các sản phẩm được tiêu thụ ở đây. Ngoài ra, ở đây còn có rất nhiều sản phẩm truyền
thống được sản xuất theo thiết kế mới, các sản phẩm mới mang đậm phong cách của
Phong trào “Mỗi làng, một sản phẩm”. Người dân nơi đây đã phát huy tối đa tính sáng
tạo của mình để tạo ra nhiều sản phẩm độc đáo. Cây ớt đỏ, cây đại mạch… ở đây được
trồng không chỉ dùng để ăn quả, để chế biến rượu sochu mà còn dùng để tạo ra những
"bó hoa" cực kỳ hấp dẫn, đem lại sự thích thú của cả người dân địa phương và du khách
dến thăm quan.
Hàng năm, vào mùa xuân, người ta thường tổ chức các cuộc hoà nhạc cổ điển tại
phòng trưng bày sản phẩm truyền thống nhằm giới thiệu sản phẩm, cách chế biến chúng
và những nét văn hoá truyền thống được lưu giữ trong các sản phẩm địa phương… cho
người tiêu thụ biết. Thêm vào đó, các số liệu về thời tiết, khí hậu và những thông tin khác
về Thị trấn Oyama được giới thiệu rộng rãi và đều đặn trên các phương tiện thông tin đại
chúng khiến cho ngày càng có nhiều người từ các địa phương khác nhau đến đây tham

quan, nghỉ ngơi, thưởng thức và mua sản phẩm. Ngày nay, người nông dân của Thị trấn
vẫn đang hết sức cố gắng, nỗ lực để thực hiện mục tiêu có được một nền nông nghiệp
tuần làm 4 ngày và một cuộc sống nhàn hạ, tươi vui.
2.1.4.4. Himeshima: Nơi sản xuất tôm lớn nhất Nhật Bản
Himeshima là một hòn đảo nhỏ thuộc địa phận tỉnh, dân số khoảng 3.000 người.
Nhìn chung cuộc sống nơi đây khó khăn hơn các địa phương trong đất liền rất nhiều.
Người dân trên đảo sống chủ yếu bằng nghề đánh bắt hải sản và làm muối. Năm 1959,
hưởng ứng chính sách của Chính phủ Nhật bản, người ta đã xây dựng một số trang trại
nuôi tôm trên những cánh đồng muối cũ song các trang trại này nhanh chóng bị thất bại.
Năm 1975, Chính quyền đảo thành lập hợp tác xã nuôi tôm với mục tiêu cải thiện đời
sống, hạn chế sự di dân từ đảo đến các thành phố lớn trên đất liền. Những năm đầu thành
lập, do thiếu kỹ thuật, Hợp tác xã gặp không ít khó khăn, thất bại. Nợ nần chồng chất.
Tham gia vào Phong trào “Mỗi làng, một sản phẩm”, được sự tư vấn và khuyến khích
của chính quyền, kỹ thuật nuôi tôm dần dần được cải thiện, khả năng tiêu thụ sản phẩm
được nâng cao. Chẳng bao lâu, Himeshima trở thành địa phương nuôi tôm lớn nhất Nhật
Bản với giá trị sản lượng đạt trên 1,7 tỷ yên/năm. Điều quan trọng nhất là sự thành công
này đã lôi kéo được những thanh niên của đảo trước đây đã đến những thành phố lớn tìm
kiếm công ăn, việc làm trở về quê hương tham gia vào Hợp tác xã nuôi tôm. Đây là một


trong những địa phương hạn chế được sự sụt giảm dân số nhờ vào những thành công về
phát triển kinh tế.
2.1.4.5. Kitsuki: Trồng quít bằng nền nông nghiệp công nghệ cao
Bán đảo Kunisaki nằm ở phần phía Đông của tỉnh . Nơi đây có khí hậu ôn hoà, rất
thích hợp cho việc phát triển cây quít. Tuy nhiên, vào những năm 70 của Thế kỷ 20 do sự
bùng nổ của sản xuất, giá quít giảm thê thảm làm cho những người trồng quít ở khu vực
này bị lao đao.
Vào năm 1975, một số nông dân của thành phố Kitsuki - một thành phố nhỏ ở
phía bán đảo Kunisaki đã thành lập nhóm trồng quít trong nhà kính trực thuộc Hợp tác xã
nông nghiệp của thành phố với mục tiêu là nâng cao giá trị của cây quít và tăng thu nhập

của nông dân. Ban đầu, nhóm nông dân này đầu tư vào giống quít Satsuma, một giống
quít có thể cho thu hoạch sớm hơn các giống khác đến 6 tháng. Mặc dù gặp phải nhiều
khó khăn như giá dầu cao, chi phí sản xuất do đó cũng rất cao nhưng họ vẫn vững tin vào
công việc của mình vì giá quít của họ cao hơn giá quít trồng ngoài đồng rất nhiều. Đến
năm 1979, khi tham gia vào Phong trào “Mỗi làng, một sản phẩm” họ đã được hỗ trợ
trong việc nâng cao năng lực tổ chức, mở rộng sản xuất. Những kỹ năng như điều khiển
nhiệt độ, kỹ thuật canh tác cũng được hỗ trợ để hoàn thiện. Đặc biệt, họ đã được hỗ trợ
rất nhiều trong việc tiếp cận công nghệ cao (hệ thống điều khiển từ xa để kiểm soát nhiệt
độ trong nhà kính) và giới thiệu, tiếp thị trong việc tiêu thụ sản phẩm. Chính vì vậy, sản
xuất ngày càng ổn định. Cho đến nay đã có trên 100 hộ của Thành phố tham gia vào mô
hình này. Sản phẩm của họ làm ra thường đứng trong tốp đầu của Nhật Bản cả về chất
lượng và giá cả. Doanh thu từ quít trồng trong nhà kính đạt 3 tỷ yên/năm và là một trong
3 huyện có diện tích quít trồng trong nhà kính lớn nhất nhật Bản. Giá bán trung bình của
quít nhà kính của thành phố Kitsuki là 300 Yên/100g. Người ta đã so sánh và thấy rằng
khi chỉ bán với giá 200 Yên/100g thì giá trị gia tăng từ việc trồng quít nhà kính của khu
vực này cũng đã cao hơn giá trị gia tăng trong việc sản xuất xe hơi của hãng Toyota.
Điều này cho thấy nếu người nông dân tự tin và sáng tạo, có thể sản xuất ra được những
sản phẩm có giá trị, có giá bán cao và hiệu quả lao động của họ có thể sánh ngang với
hiệu quả của những hãng công nghiệp lớn như
2.1.4.6. Yufuin: Phát triển quê hương bằng du lịch phong cảnh
Tỉnh Oita có rất nhiều suối nước nóng và Yufuin là một trong những địa phương
sở hữu nguồn tài nguyên này, Tuy nhiên, Thị trấn lại không thể khai thác được lợi thế
này. Một phần, do Yufuin nằm rất gần Thành phố Beppu - Một thành phố nổi tiếng toàn
thế giới về du lịch ở khu vực suối nước nóng nên bị lép vế. Phần khác, do sự bùng nổ của
việc khai thác nguồn nước nóng cho du lịch những năm 1965 nên đã có rất nhiều người
phản đối việc sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên này cho du lịch. Những người phản
đối đã thành lập ra Uỷ ban bảo vệ thiên nhiên Yufuin. Uỷ ban này đã xây dựng một
phong trào chống lại sự phát triển du lịch đến các vùng suối nước nóng. Nhưng cái Uỷ
ban này ngoài việc kêu la “bảo vệ thiên nhiên” ra họ lại chẳng có một hành động nào
thiết thực ngoài việc ngăn cấm khách du lịch. Do vậy, các suối nước nóng của thị trấn

Yufuin cứ lặng lẽ chảy trong lòng đất. Từ thực tế đó, người dân địa phương đã thực hiện
một chiến lược độc đáo nhằm bảo vệ thiên nhiên của mình. Đó là dự án “Ưu tiên phát
triển chăn nuôi”. Hơn ai hết, người dân ở đây hiểu rằng chỉ có phát triển đàn gia súc mới
có thể tận dụng được lợi thế của địa phương và thiên nhiên do vậy sẽ được bảo vệ.
Tuy nhiên, do mức thu nhập thấp nên ban đầu nông dân ở đây không có khả năng
mua nổi con giống gia súc để phát triển kế hoạch của mình. Do vậy, họ đã kêu gọi những


cư dân thành phố đầu tư vào kế hoạch này với số vốn khoảng 200.000 Yên. Thực tế đã
chứng tỏ kế hoạch của họ mang tính khả thi cao. Người thành phố rất thích thú với kế
hoạch này vì họ có thể được sở hữu một số lượng gia súc nhất định trong khi vẫn ổn định
cuộc sống ở thành phố. Số lượng gia súc tăng nhanh trong khi thiên nhiên được bảo vệ
một cách bền vững. Mối quan hệ giữa “người nhà quê” và “người thành phố” được cải
thiện và nguồn suối nước nóng của Yufuin trở thành nổi tiếng khắp vùng.
Thêm vào đó người dân Yufuin còn tổ chức nhiều dự án khác như dự án khác để
thu hút sự chú ý của khách du lịch như Dự án “Buổi hoà nhạc dưới bầu trời đầy sao” năm
1974 hay Dự án “Liên hoan phim ngoài trời” năm 1975 (do trong thời điểm này Thị trấn
không có bất cứ một rạp chiếu phim nào). Dự án này rất thành công và sau đó trở thành
một sự kiện diễn ra hàng năm, thu hút nhiều người yêu thích điện ảnh từ khắp mọi miền
của Nhật Bản. Từ những dự án phát triển quê hương rất độc đáo của mình, những người
dân thường của Thị trấn Yufuin đã làm cho địa phương này trở thành nổi tiếng trong cả
nước. Hàng năm có khoảng 3,8 triệu khách du lịch, chủ yếu là thanh niên đến tham quan
Yufuin. Sự nổi tiếng của Thị trấn còn hấp dẫn cả những đại diện của giới văn nghệ và lao
động trí óc của nước Nhật Bản cũng như nhiều vị khách quan trọng đến từ nước ngoài
như các Phó thủ tướng nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa Tian Jiyun, Wu Xueqian và
Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Anh- Ngài Geoffrey How… Cũng từ thành công của thị trấn
này mà Phong trào “Mỗi làng, một sản phẩm” có cơ sở thực tiễn để hình thành và phát
triển.
2.1.4.7. Nakatsue: Mang mỏ vàng vào cuộc sống
Nakasue là một làng miền núi nằm ở phía tây của tỉnh. Dân số trong làng khoảng

1.600 người, sống chủ yếu bằng nghề rừng. Trước đây, làng này có một mỏ vàng. Khi
còn hoạt động, mỏ vàng này đã đem lại thu nhập khá lớn cho người dân với số lượng
khoảng 7.500 người. Tuy nhiên, từ năm 1972 mỏ vàng này đóng cửa và người dân trở
nên nghèo khổ.
Vào thời gian đó, Trưởng thôn đã phải suy nghĩ xem làm cách nào để có thể khôi
phục làng quê khi cứ hết người này đến người khác bỏ quê ra các thành phố lớn tìm công
ăn, việc làm. Ông ta đem điều này ra bàn bạc với đám thanh niên còn trụ lại quê và đi
đến quyết định sử dụng cái mỏ vàng đã hết thời (Taio Gold mine) vào công việc có ích
hơn. Đó là du lịch. Năm 1980, Nakatsue xây dựng Dự án tham quan mỏ vàng cũ (Taio
Gold mine Project). Vì Dự án này ngốn hết phần lớn ngân sách hàng năm của làng nên
họ phải bù lại phần tiền đã chi tiêu bằng các dự án nông, lâm nghiệp khác. Nhiều người
đã phản đối dữ dội Dự án Taio Gold mine. Sự phản đối này mạnh mẽ đến mức đe doạ sự
tồn tại của ngôi làng nếu như Dự án này không thành công.
Tháng 4 năm 1983, bảo tàng ngầm của Mỏ vàng cũ đã được hoàn thành với quy
mô đón khoảng 110.000 khách du lịch mỗi năm. Tuy nhiên, thật là bất ngờ, ngay trong
năm đầu tiên đi vào hoạt động, Bảo tàng này đã đón trên 500.000 khách đến tham quan,
chiêm ngưỡng. Trong thời gian mùa hè, trên đường làng nườm nượp xe ô tô chở khách
đến tham quan. Sự đông đúc khiến cho giao thông trong làng bị tắc nghẽn - điều chưa
bao giờ từng xảy ra ở đây. Có những ngày, số khách tham quan lên đến 7.000 người, gấp
5 lần số dân trong làng.
Lợi nhuận thu được từ Dự án đã vượt quá 1 tỷ yên ngay năm đầu tiên. Thành công
của Dự án đã kích thích sự phát triển kinh tế địa phương như phát triển các loại cây
trồng, đặc sản địa phương phục vụ khách tham quan, cũng như nâng cao nhận thức của
người dân địa phương để họ có thể trở thành hướng dẫn viên… Ví dụ như trước đây


người dân trong làng chẳng mấy mặn mà lắm với việc trồng cây Wasabi- một loại gia vị
cho món sashimi, vì không biết bán cho ai, nhưng từ khi có Dự án khôi phục mỏ vàng cũ,
việc trồng Wasabi trở nên sôi động vì họ cần làm ra nhiều sashimi phục vụ nhu cầu của
khách tham quan.

2.1.4.8. Showa: Khôi phục thị trấn từ truyền thống văn hoá và lịch sử
Showa là một thị trấn nhỏ nằm trong thành phố Bungotakada của bán đảo
Kunisaki. Đây là vùng đất có một truyền thống lịch sử và văn hoá huy hoàng, là vùng
“đất phật” của Nhật Bản với điện thờ “Fukiji” có những đường cong duyên dáng và hoa
mỹ. Trước đây, Thị trấn này rất phồn thịnh do các hoạt động thương mại và những cửa
hàng sầm uất. Tuy nhiên, khi đất nước đi vào thời kỳ công nghiệp hoá và hiện đại hoá thì
trái ngược lại, Thị trấn trở lên tiêu điều vì giới trẻ bị hấp dẫn bởi cuộc sống phồn hoa nơi
thị thành đã không còn thiết tha với công việc buôn bán ở quê hương. Các siêu thị mọc
lên ở khắp nơi khiến cho những cửa hàng, cửa hiệu, nơi đã từng là những khu phố buôn
bán đông vui, niềm tự hào thuở trước của Thị trấn trở nên hoang tàn. Đâu đó chỉ còn sót
lại một vài cửa hiệu nhỏ bé với những người bán hàng già nua. Thậm chí người dân Thị
trấn đã có lúc nói rằng ngày nay những con phố buôn bán xưa “chỉ còn là những con phố
dành cho chó và mèo dạo chơi” (!). "Thị trấn sẽ đi về đâu?” không ai nói ra điều đó
nhưng ai cũng có mối lo âu giống nhau về tương lai của Thị trấn. Câu chuyện khôi phục
lại thị trấn quê hương của người dân Showa bắt đầu từ những sự hoang tàn như vậy.
Đầu tiên mọi người tập trung phát hiện những tiềm năng của Thị trấn. “Những
kho báu hình như vẫn còn tiềm ẩn đằng sau mỗi cửa hàng đổ nát và trong tâm trí của mỗi
con người”. Từ đó xây dựng lên bộ mặt của Thị trấn dựa trên những gì đã có. Để làm
việc này, những cư dân Thị trấn đã đi tham quan hơn 100 bảo tàng và công viên trên
khắp đất nước Nhật Bản nhằm tìm ra mô hình của Thị trấn trong tương lai. Cái tương lai
mà mọi người ở đây hy vọng sẽ là “Kỷ nguyên Showa” giống như những “Kỷ nguyên
Minh Trị”, “Kỷ nguyên Edo”…, từng là niềm tự hào của người dân Nhật Bản trước đó.
Và cuối cùng, người ta đã tìm ra phương cách để phát triển Thị trấn quê hương mình. Đó
là kết hợp giữa thương mại và du lịch hướng tới việc biến Thị trấn của những nhà bảo
tàng thành “thị trấn bảo tàng”. Những biển chỉ đường, cửa sổ nhôm kính…, sản phẩm
của thời hiện đại có thể làm ảnh hưởng đến hình ảnh của một “Showa” trước kia đều
được thay bằng những gì mà trước kia nó đã có như biển chỉ đường bằng gỗ, cửa sổ gỗ
cổ truyền…. Các cửa hiệu được đầu tư để phục hồi lại hình dáng và phong cách xưa kia.
Năm 2001, khi mới bắt đầu công cuộc phục hồi và xây dựng “Kỷ nguyên Showa” chỉ có
9 cửa hàng được Chính quyền trợ cấp tài chính cho phục chế, nhưng các năm sau, mỗi

năm đều có 8 cửa hàng được nhận trợ cấp nói trên. Cửa hàng “bánh kẹo và đồ chơi dành
cho mẹ và em bé” của ông Hironobu Komiya đã trưng bày 50.000 hiện vật trong số
200.000 hiện vật đã được sưu tập từ khắp nơi trên nước Nhật Bản. Không chỉ có những
bà mẹ và em bé mà ngay cả những người đàn ông lớn tuổi cũng đều rất hạnh phúc khi
đến thăm cửa hàng này. Bảo tàng mây tre đan đã sưu tập và trưng bày hàng trăm sản
phẩm thủ công được chế tạo bằng tre, trúc, mây, giang… từ thời xa xưa cho đến ngày
nay. Hoạ sỹ Yoshisuke Kurosaki đã xây dựng Bảo tàng truyện tranh của Thị trấn Showa
bao gồm rất nhiều bức tranh về hình ảnh của một thị trấn Showa cổ kính và xinh đẹp. Hệ
thống “hướng dẫn viên du lịch” của Thị trấn được hình thành từ sự tự nguyện của người
dân địa phương. Bằng sự nhiệt tình và mến khách, các tình nguyện viên hướng dẫn du
lịch luôn cố gắng hết sức mình để cho du khách có thể cảm nhận được đầy đủ nhất hình
ảnh đẹp đẽ của Thị trấn quê hương họ. Sự cố gắng của người dân Showa đã được đền
đáp xứng đáng. Từ chỗ chẳng có ai thèm đến “những con phố chỉ dành cho chó và mèo”
đến nay Thị trấn đã đón không dưới 200.000 khách du lịch mỗi năm; đã có 320 nhóm


tình nguyện viên hướng dẫn du lịch và 500-600 nhóm báo cáo viên phục vụ khách du
lịch một cách nhiệt tình và vô tư. Với khẩu hiệu “Mỗi cửa hàng, Một kho báu” Thị trấn
Showa đang biến “sự hoang tàn” của mình thành một lợi thế hấp dẫn khách du lịch, làm
nên một kỷ nguyên mới cho quê hương mình – “Kỷ nguyên Showa”.
2.1.4.9. Ajimu: Đưa khách du lịch về tận nhà người dân
Ajimu là một thị trấn nông nghiệp thuần tuý thuộc thành phố , có dân số 8.548
người, đa phần là theo Phật giáo. Sản phẩm chủ yếu của địa phương là lúa gạo và nho.
Tham gia Phong trào “Mỗi làng, một sản phẩm”, với quyết tâm làm sống lại vùng đất
quê hương, chính quyền và nhân dân ở đây đã sáng tạo ra hình thức “Du lịch xanh” hay
còn gọi là du lịch tại gia (Green tourism hay Farm stay, Home stay) nhằm phát huy thế
mạnh về nông nghiệp và truyền thống văn hoá của địa phương. Tham gia vào hình thức
này, khách du lịch được đưa về sống tại nhà của một nông dân, hoà mình vào mọi hoạt
động của họ, nhất là các hoạt động sản xuất nông nghiệp. Vì thế, khách du lịch có nhiều
cơ hội hơn để tìm thấy những nét độc đáo trong lao động, phong tục, tập quán và truyền

thống văn hoá của cộng đồng cư dân nơi đây, thậm chí họ còn được mời trực tiếp tham
gia các hoạt động sản xuất nông nghiệp truyền thống như cày, bừa, cấy… trên đồng
ruộng. Do được đắm mình trong không khí làng quê, được tự tay làm ra một phần các
sản phẩm nông nghiệp, được hưởng không khí đón tiếp nồng ấm của người nông dân,
thưởng thức những món ăn dân tộc truyền thống mà cuộc sống thành phố đã tước đi của
họ, nên khách du lịch rất thích thú với hình thức du lịch này. Chính vì vậy, mặc dù chỉ
mới hình thành từ năm 1996 nhưng mỗi năm Thị trấn Ajimu cũng có đến 165.000 khách
du lịch (gấp 20 lần dân số địa phương) từ khắp nơi đổ về. Sự thành công của mô hình
“Du lich xanh” ở Ajimu đã hình thành một phương pháp làm du lịch mới ở Nhật BảnPhương pháp Ajimu.
2.1.4.10. Saganoseki: Thương hiệu làm nên sự thành công
Người dân ở Saganoseki sống chủ yếu bằng nghề đánh bắt hải sản. Có rất nhiều
loại cá được đánh bắt ở đây nhưng chủ yếu là cá ngừ. Do sống dựa vào biển nên ngư dân
phải chịu nhiều rủi ro từ thiên nhiên. Thêm vào đó sản phẩm làm ra ít được mọi người
biết đến nên cuộc sống của họ gặp không ít khó khăn. Năm 1991, một số cá nhân và hợp
tác xã nghề cá ở đây đã đưa sản phẩm của mình lên tiêu thụ ở Thủ đô nhưng đều bị từ
chối. Cho đến tận năm 1998 hầu hết các sản phẩm đánh bắt được đều phải bán cho
thương lái nên đều bị ép cấp, ép giá. Giá bán có lúc tụt xuống chỉ còn 550 yên/kg. Năm
1997, Hiệp hội nghề cá của Saganoseki bắt đầu xây dựng nhãn hiệu hàng hoá “cá ngừ
Seki” và sau đó là nhãn hiệu hàng hoá "Macaron" cho sản phẩm của mình. Mỗi con cá
ngừ ở đây trước khi đưa đi tiêu thụ đều được phân loại, đánh giá chất lượng một cách cẩn
thận. Khi đã đạt tiêu chuẩn, chúng đều được gắn nhãn hiệu hàng hoá “cá ngừ Seki” hoặc
"Macaron" ở đuôi để phân biệt với sản phẩm của nơi khác. Cùng với sự trợ giúp trong
những chiến dịch xúc tiến thương mại của Phong trào “Mỗi làng, một sản phẩm”, cá ngừ
Saganoseki dần dần đã được chấp nhận tại các thị trường khó tính như Tokyo,
Fukuoka… Nhãn hiệu “cá ngừ Seki” “Macaron” dần dần trở nên nổi tiếng trên thị trường
cả nước. Nhờ vậy, giá bán hiện nay luôn cao hơn các lọai sản phẩm cùng loại khác.
Trong khi cá ngừ mang nhãn hiệu “Cá ngừ Seki” được bán với giá 3.000 yên/kg hoặc cá
ngừ mang nhãn hiêu “Macaron” là 5000 yên/kg thì các loại cá ngừ không nhãn hiệu này
chỉ bán được với giá 1.000 yên/kg. Hiện tại, thương hiệu Macaron đã nổi tiếng đến mức
các hợp tác xã nghề cá ở đây đã có thể thực hiện phương thức bán hàng đến tận nhà

thông qua các phương tiện thông tin (điện thoại, mạng internet..) chứ không còn phải bán
qua thương lái như trước đây. Trong tương lai gần, bằng sự thành công của mình, Hiệp


hội các hợp tác xã nghề cá Saganoseki đang dự kiến chuyển toàn bộ sản lượng đánh bắt
của mình sang chế biến để nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm và hiệu quả của sản
xuất.
2.1.5. Sự lan toả của Phong trào “Mỗi làng, một sản phẩm” trên thế giới
2.1.5.1. Tính tương đồng giữa mục tiêu, đặc điểm của Phong trào “Mỗi làng, một
sản phẩm” với chính sách phát triển nông thôn của một số nước trong khu vực và trên
thế giới
Các nhà nghiên cứu của Trường đại học Ritsumeikan Asia Pacific của Nhật Bản
đã đi sâu nghiên cứu và phát hiện ra rằng có rất nhiều điểm tương đồng về mục tiêu và
đặc điểm giữa Phong trào “Mỗi làng, một sản phẩm” với chính sách phát triển nông thôn
của nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Các nghiên cứu chỉ ra rằng Phong trào
“Mỗi làng, một sản phẩm” có những mục tiêu và đặc điểm chính sau:
Mục tiêu











Mục tiêu A: Xoá đói giảm nghèo và tăng thu nhập cho dân cư nông thôn.
Mục tiêu B: Tạo ra công ăn việc làm cho nông dân

Mục tiêu C: Hạn chế sự sụt giảm dân số và di dân tự do từ nông thôn ra thành phố
Mục tiêu E: Bảo vệ môi trường và giữ gìn sự ổn định xã hội
Đặc điểm
Đặc điểm 1: Phát hiện những tiềm năng của khu vực nông thôn
Đặc điểm 2: Hướng việc phát triển các sản phẩm và dịch vụ vào phục vụ mục đích
hội nhập toàn cầu.
Đặc điểm 3: Phát hiện và xây dựng những thị trường tiềm năng cả trong nước và
trên thế giới.
Đặc điểm 4: Cải thiện chất lượng sản phẩm và dịch vụ cho phù hợp thị hiếu thị
trường và nâng cao giá trị gia tăng.
Đặc điểm 5: Trao quyền cho cư dân và cộng đồng cư dân nông thôn thông qua các
hoạt động phong trào
Đặc điểm 6: Theo đuổi mục tiêu phát triển bền vững và ổn định xã hội.

2.1.5.2. Sự quan tâm của một số nguyên thủ quốc gia trên thế giới đối với Phong
trào “Mỗi làng, Một sản phẩm” của Nhật Bản
Nhìn chung, do có nhiều sự tương đồng giữa Phong trào “Mỗi làng, một sản
phẩm” của tỉnh Oita với chính sách phát triển nông thôn của các quốc gia nên đã có rất
nhiều nhà lãnh đạo cao cấp của các nước và vùng lãnh thổ trên thế giới, nhất là các nước
trong khu vực Đông Nam á quan tâm, tìm hiểu Phong trào này. Cho đến nay, hầu hết các
nguyên thủ quốc gia của các nước trong khu vực Đông Nam á và lãnh đạo của một số
nước và vùng lãnh thổ trên thế giới đã đến thăm hoặc mời Ngài Morihiko Hiramatsu- cha
đẻ của Phong trào OVOP, đến thăm và làm việc tại nước mình để học tập kinh nghiệm và
áp dụng mô hình của Phong trào OVOP của Quận Oita cho nước mình. Một số quốc gia
còn tặng thưởng cho Ngài Morihiko Hiramatsu những phần thưởng cao quý của đất nước
mình để ghi nhận công lao đóng góp của ông cho công cuộc phát triển nông thôn thông
qua việc sáng tạo và vận dụng thành công Phong trào “Mỗi làng, một sản phẩm” ở Oita,
điển hình như:
• Thủ tướng Thái lan Thatsin Siwatra đã đến thăm 20/10/2001 và ngay sau đó xây
dựng nên Phong trào “One Tambon, One Product” (Mỗi làng một sản phẩm) khá

thành công ở nước này.


• Thủ tướng Malaysia Mahathir Bin Mohomad đã đến tháng 12/1991.
• Tổng thống Philippine đã tặng Ngài Hiramatsu giải thưởng “RAMON
MAGSAYSAY” tháng 8/1995 và đã đến thăm tháng 9/1995.
• Thủ tướng Campuchia Hunsen đã đến thăm ngày 16/11/2002.
• Thủ tướng Lào Boun Nhang Vorachith đã đến thăm 11/2002 và Trường Đại học
Quốc gia Lào đã trao bằng Giáo sư danh dự cho Ngài Hiramatsu.
• Trung Quốc đã có nhiều hoạt động liên kết với Phong trào “Mỗi làng một sản
phẩm” của Nhật như trao tặng Ngài Hiramatsu giải thưởng “Hữu nghị”; các nhà
lãnh đạo cấp cao như Phó chủ tịch Nhà nước Zeng Quinghong tiếp Ngài
Hiramatsu tại Đại Lễ đường Nhân dân….
• Tổng thống Kim Dae Jung của Hàn Quốc đã tiếp ngài Hiramatsu năm 1998.
• Chủ tich Nhà nước Mông Cổ Bagabandi đã tiếp và tặng giải thưởng Công dân
danh dự Bayanhongor cho Ngài Hiramatsu, tháng 8, năm 2002.
• Tổng thống nước Cộng hoà , Ngài Bakili Muluzi đã đến thăm
• Tháng 9 năm 2003 Ngài Morihiko Hiramatsu đã tham dự Hội thảo Phong trào
“Mỗi làng, Một sản phẩm” được tổ chức tại Tunisia và trở thành Chủ tịch danh dự
của Hội đồng tư vấn quốc gia về Phong trào “Mỗi làng, Một sản phẩm” của quốc
gia này.
• Tháng 6 năm 2009, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn Viêt
Nam Hồ Xuân Hùng đã đến Oita thăm và làm việc với ngài Hiramatsu về Phong
trào “Mỗi làng một sản phẩm”; Tháng 9 năm 2009, Ngài Hiramatsu đã đến Việt
Nam tham dự buổi tọa đàm về Phong trào “Mỗi làng một sản phẩm” tại Hà Nội và
yết kiến Phó Thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng.
2.1.5.3. Ảnh hưởng của Phong trào “Mỗi làng, một sản phẩm” (Phong trào
OVOP) trong khu vực và trên thế giới
• Đối với nước Nhật
Do có những thành công của Phong trào OVOP tại Quận Oita, việc phát triển

nông thôn chủ yếu dựa vào nguồn lực và làm sống lại những giá trị của địa phương đã
được nhiều học giả quan tâm nghiên cứu. Phương pháp phát triển nông thôn nội sinh
(endogenous rural development) đã được hình thành, phát triển và là một trong những
phương pháp được sử dụng khá phổ biến để phát triển nông thôn ở Nhật Bản, cũng như
những dự án phát triển nông thôn do Nhật Bản giúp đỡ. Đến năm 1988 đã có trên 70%
chính quyền địa phương (cấp quận) ở Nhật Bản, kể cả nhưng vùng nông thôn ở vùng cực
Bắc xa xôi như vùng Hockaido đã áp dụng ý tưởng của phong trào OVOP trong quá trình
phát triển nông thôn của mình.
• Đối với khu vực và thế giới
Cho đến nay đã có rất nhiều nước và khu vực, nhất là các quốc gia trong khu vực
Đông và Đông Nam Châu Á đã áp dụng ý tưởng của Phong trào OVOP của Quận Oita,
tạo ra các phong trào, chương trình của riêng mình.
• Tại Trung Quốc có những Phong trào như: “Mỗi nhà máy, Một sản phẩm”, “Mỗi
thành phố, một sản phẩm”, “Mỗi làng, một báu vật”.
• Tại Thái Lan có Chương trình OTOP (One Tambon, One Product).
• Tại Philippine có Phong trào “One Barangay, One Product” (Mỗi làng, một sản
phẩm) và “, One Product” (Mỗi thị trấn, một sản phẩm).


• Tại Malaysia có Phong trào “Satu Kampung, Satu Produk” (Mỗi làng, một sản
phẩm), Hiện tại là Phong trào "Satu Daerah, Satu Industry" (SDSI hay "mỗi làng
một nghề").
• Tại Indonesia (Đông Java) có Phong trào “Back to Village” (Trở lại làng quê).
• Ở Campuchia có Phong trào “, One Product” (Mỗi làng, một sản phẩm).
• Tại Malawi có Phong trào “, One Product” (Mỗi làng, một sản phẩm).
• Tại Hàn Quốc có Chương trình "Mỗi làng một nhãn hiệu).
• Ở Hoa Kỳ (Bang ) có Phong trào “One Paris, One Product” (Mỗi xứ một sản
phẩm).
Từ tháng 2 đến tháng 9 năm 2006, Chính phủ Nhật Bản đã triển khai chiến dịch
“Mỗi làng, một sản phẩm” như là một trong những giải pháp trợ giúp cho những nước

kém phát triển nhất ở châu á, châu Phi và những vùng khác trên thế giới. Đây là một
phần trong “Sáng kiến thương mại” mà Thủ tướng Koizumi đã tuyên bố vào tháng
9/2005 trước Hội nghị Bộ trưởng thương mại của WTO được tổ chức tại Hồng Kông.
Trong Chiến dịch này các nước kém phát triển nhất sẽ được tạo cơ hội tổ chức triển lãm,
giới thiệu các sản phẩm của mình với người tiêu dùng của thị trường Nhật Bản. Qua đó,
họ có thể học được những kinh nghiệm về phát triển sản phẩm của các địa phương đến
các thị trường quốc tế- một trong những bài học thành công từ Phong trào “Mỗi làng,
một sản phẩm” tại Oita. Cũng trong năm này, Chính phủ Nhật Bản đã đưa ra một
Chương trình kéo dài 3 năm nhằm trợ giúp kỹ thuật cho các nước nói trên để triển khai
các hoạt động liên quan đến Phong trào “Mỗi làng, một sản phẩm”. Tổng kinh phí trợ
giúp lên đến 10 tỷ USD và số người được tham dự vào các khoá đào tạo, học tập kinh
nghiệm của Phong trào “Mỗi làng, một sản phẩm” có thể lên đến 10 000 người.
2.1.6. Một số bài học kinh nghiệm trong việc triển khai Phong trào “Mỗi
làng, một sản phẩm”
2.1.6.1. Ba nguyên tắc của Phong trào
Một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những thành công vang dội của
Phong trào "Mỗi làng, một sản phẩm” chính là ngay từ ban đầu các nhà lãnh đạo đã đưa
ra được ba nguyên tắc cơ bản làm chỗ dựa, là kim chỉ nam cho mọi hoạt động tiếp theo.
Ba nguyên tắc đó là “Địa phương hướng đến toàn cầu” (Local yet Global), “Độc lập và
sáng tạo” (Independent and Creativity) và “Đào tạo nguồn nhân lực” (Human Resource
Development).
(1) Địa phương hướng đến toàn cầu:
Nguyên tắc đầu tiên của Phong trào là “Bạn phải đưa địa phương của bạn đến với
toàn thế giới”. Nếu bạn càng làm việc ở địa phương nhiều bao nhiêu thì ngược lại bạn
càng phải làm sao để thế giới biết đến bạn nhiều bấy nhiêu; sản phẩm của bạn càng mang
tính độc đáo của địa phương bạn thì bạn càng phải làm sao để cho sản phẩm đó dễ dàng
hội nhập vào thị trường thế giới. Thí dụ, “Ontayaki”, một loại đồ gốm đặc sản của vùng
núi Hita, nhưng lại được thế giới thừa nhận do nhiều nguyên nhân khác nhau, song quan
trọng hơn cả là nó có được sự cộng tác của Bernard Leach - một thợ gốm người Anh. Có
thể nói ngay rằng không phải bất cứ cái gì của địa phương cũng có thể được thế giới thừa

nhận ngay. Để gia nhập vào thị trường thế giới, các sản phẩm cần được cải tiến, thiết kế
lại cho phù hợp thị hiếu của người tiêu dùng. Chính vì vậy Phong trào này cố gắng tìm
cách cải tiến các công nghệ truyền thống để tạo ra các sản phẩm được thị trường thế giới
chấp nhận.


Một ví dụ điển hình là sản phẩm nấm khô Shiitake. Đây là một sản phẩm nổi tiếng
toàn cầu của và nhiều nơi khác, chiếm đến 20% giá trị xuất khẩu của địa phương. Để có
được thành quả như vậy, tỉnh Oita đã tiến hành rất nhiều hoạt động nhằm quảng bá hình
ảnh của sản phẩm này, trong đó có việc trao một chiếc Cup đựng đầy nấm Shiitake cho
người chiến thắng trong cuộc thi “Đại Sumo”, một sự kiện thể thao có tầm cỡ quốc gia
của Nhật Bản; thành lập “Trung tâm nghiên cứu và hướng dẫn nuôi trồng, sử dụng nấm
tỉnh Oita” để đẩy mạnh nghiên cứu cải thiện công nghệ trồng, chế biến cũng như sử dụng
nấm nhằm nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm này trên thị trường thế giới.
(2) Độc lập và sáng tạo
Nguyên tắc thứ hai, rất quan trọng là phát huy tính độc lập, tự tin và sáng tạo của
mỗi người dân, mỗi cộng đồng địa phương. Nguyên tắc này vừa đảm bảo cho sự thành
công vừa nói lên một cách rõ ràng tính nội sinh của Phong trào. Ngay từ khi mới bắt đầu
Phong trào, Ngài Morihiko Hiramatsu đã nói với mọi người rằng ông không muốn bắt
mọi người phải tham gia Phong trào “Mỗi làng, một sản phẩm”. Nếu một thị trấn, một
làng nào đó không muốn tham gia Phong trào thì họ có thể không cần tuân thủ nguyên
tắc này. Nếu một huyện nào đó chăm chỉ, cố gắng trong việc phát triển nông thôn thì họ
có thể tăng dân số của họ lên. Còn các địa phương khác thì thường là có sự tụt giảm dân
số. Và nếu như một cộng đồng nào đó có sự tụt giảm dân số kéo dài thì rất có thể họ sẽ
gặp nhiều khó khăn trong các lĩnh vực khác.
Ví dụ như khi số trẻ em bị giảm thì trường học sẽ bị đóng cửa và số lượng bác sỹ,
người chăm sóc sức khoẻ ở địa phương cũng ít đi… Tất cả những điều này đều là kết quả
của những giải pháp chưa thích hợp trong phát triển nông thôn. Chính quyền tỉnh không
thể giúp đỡ được gì nếu như bản thân cộng đồng cư dân địa phương không làm gì ngoài
việc kêu ca, than vãn. Thêm vào đó, khi mỗi cộng đồng dân cư chọn ra một sản phảm

nào đó để tham gia Phong trào, họ đều phải tính đến những rủi ro cùng chi phí phải bỏ
ra để thúc đẩy phát triển sản phẩm đó. Bất kỳ một phong trào nào cũng khó có sự sống
thật sự nếu như nó chỉ dựa vào sáng kiến và trợ cấp của chính quyền trung ương hoặc của
chính quyền tỉnh. Bởi vì các cơ quan này không thể cứ mãi trợ cấp cho địa phương được.
Họ chỉ có thể góp phần, khuyến khích và thúc đẩy phong trào mà thôi. Nếu như bạn xây
dựng một phong trào nào đó bằng cách trợ cấp cho nó thì gần như chắc chắn rằng phong
trào đó sẽ bị chấm dứt khi nguồn trợ cấp không còn. Hơn nữa, khi nhận được trợ cấp từ
phong trào để phát triển một sản phẩm nào đó, nếu sản phẩm đó không bán được ra thị
trường thì người dân địa phương có quyền yêu cầu chính quyền phải mua lại sản phẩm
đó cho họ. Trong những trường hợp như vậy, không có sự độc lập và tự tin, thì phong
trào phát triển nông thôn sẽ không trở thành hiện thực. Chính vì vậy, tính độc lập cực kỳ
quan trọng. Nguyên tắc này làm cho chính quyền xã, huyện, thôn quan tâm hơn đến công
việc của mình, còn người dân có thể tự mình điều chỉnh được những rủi ro xẩy ra. Thêm
vào đó, nếu bạn phải bỏ tiền ra để làm bất cứ việc gì thì bạn sẽ phải có sự tính toán sao
cho công việc đó tiến triển thuận lợi và số tiền bỏ ra không bị mất đi. Rõ ràng là khi mọi
nỗ lực của bạn được đền đáp thì bạn sẽ càng cố gắng hơn để có được thành công vang
dội hơn. Trong một vài trường hợp, do thiếu kinh nghiệm, người nông dân có thể bị thất
bại, song động lực và lòng quyết tâm mà họ có được còn quan trọng hơn những mất mát,
rủi ro mà họ gặp phải. Chúng ta cần phải kiên quyết từ bỏ cái chiến lược phát triển nông
thôn và cung cấp trợ cấp cho các địa phương theo kiểu áp đặt từ trên xuống.
Khi người dân đã có động lực, họ sẽ có cách hành động phù hợp trong lựa chọn
sản phẩm của địa phương mình và tổ chức sản xuất chúng một cách hiệu quả nhất. Nói
cách khác chính sự độc lập lại kích thích tính sáng tạo phát triển một cách tối đa trong


cộng đồng dân cư khi tham gia vào Phong trào. Sau này, khi Phong trào đã thu được
những thắng lợi nhất định, đã có rất nhiều trường hợp người dân lên gặp các nhà lãnh
đạo Phong trào và Chính quyền tỉnh nhưng không phải để xin trợ cấp mà là muốn được
tư vấn xem sản phẩm của địa phương họ đã chọn có phù hợp với thị trường không, có
bán được không. Lịch sử của vùng Oita ta từ xa xưa là một lịch sử của sự chia cắt thành

những khu vực nhỏ - những han (một tổ chức cộng đồng vừa theo địa giới hành chính
vừa theo kiểu thị tộc phong kiến, vào giai đoạn 1868, Oita bị chia thành 14 han) nên hiện
tại giữa các khu vực nhỏ trong tỉnh khó có sự đoàn kết nhất trí với nhau, nhất là trong
kinh tế. Đây là một đặc tính của tỉnh và những người lãnh đạo Phong trào đã biến đặc
tính này thành thế mạnh phát triển. Việc kích thích tính cạnh tranh giữa các vùng đã tạo
ra tính sáng tạo của người dân và động lực phát triển của Phong trào. Người dân luôn có
suy nghĩ rằng “nếu có một làng nào đó đang sản xuất nấm Shiitake, thì họ cũng có thể
sản xuất loại nấm đó nhưng sản phẩm của họ nhất định phải khác với sản phẩm của làng
bên cạnh đó”. Xây dựng và phát triển động lực tham gia Phong trào luôn là điều quan
trọng nhất.
(3) Phát triển nguồn nhân lực
Nguyên tắc thứ ba của Phong trào là những hoạt động nhằm phát triển nguồn nhân
lực địa phương. Có thể nói những hoạt động này vừa là phương tiện và là mục tiêu của
bất cứ một loại hình phát triển nông thôn nào.
Rất nhiều người đã biết một trong những nguyên nhân khiến cho Phong trào có
sức lan toả mạnh mẽ trên địa bàn huyện và sau này là trên toàn nước Nhật Bản cũng như
trên thế giới chính là việc lựa chọn và nhân rộng những thành công trong quá trình phát
triển nông thôn của thị trấn Yufuin và Oyama. Qua thực tế của hai địa phương này, Ngài
Morihiko Hiramatsu đã nhận ra rằng những cộng đồng năng động thường có những nhà
lãnh đạo năng động, sáng tạo. “Hãy học cách xử thế từ các nhà lãnh đạo này và từ thực tế
diễn ra tại địa phương của bạn” chính là mục đích của việc thành lập các trường đào tạo
“Oita-vùngđất của sự thịnh vượng” được thành lập từ năm 1983. Phương châm hoạt
động của các trường này là “Mở ra những chân trời mới cho người học thông qua tính
độc lập và tự nguyện của họ, để cho họ tự hoàn thiện mình và mang sự thịnh vượng đến
vùng đất quê hương họ bằng việc ứng dụng những cố gắng của họ vào cuộc sống ở địa
phương mình”. Việc đào tạo chủ yếu dựa vào thực tế. Mỗi trường đào tạo khoảng 30 học
viên và học trong 2 năm. Chỉ tiêu đánh giá hàng năm do chính người học xác định một
cách tự nguyện.
Trong năm đầu tiên, trường mời các học giả đến dạy về bí quyết phát triển nông
thôn. Không có bài vở nào được soạn sẵn cả. Người học phải tự mình tìm ra lối đi của

mình dựa trên kinh nghiệm của những thành công và thất bại mà họ đã trải qua. Năm thứ
hai là thời gian hoạt động thực tế. Người học tiến hành những hoạt động thực tế trong
việc tổ chức mọi người nhằm giải quyết các vấn đề của cộng đồng, ví dụ như tổ chức các
sự kiện diễn ra trong cộng đồng, xây dựng kế hoạch phát triển các ngành sản xuất…
Có hai vấn đề cần được nhấn mạnh đến các học viên. Vấn đề thứ nhất là phương
châm “Kiên nhẫn là một sức mạnh”. Bản thân thực tế thì không quá khó khăn, nhưng để
tiếp tục kế hoạch của mình khi vừa trải qua những thất bại không phải một việc làm dễ
dàng gì. Và vấn đề thứ hai chính là “Suy nghĩ đến toàn cầu khi hoạt động tại địa
phương”. Trên thực tế, khi bạn đứng trên quan điểm toàn cầu thì những hoạt động của
bạn sẽ tận dụng được sức mạnh của cộng đồng.


Cho đến nay đã có khoảng 800 sinh viên đã tốt nghiệp những trường học nói trên
và họ đã đóng vai trò lãnh đạo rất tích cực trong việc phát triển địa phương của họ. Hoạt
động của các trường “mảnh đất của sự thịnh vượng” đã tạo ra một loại hình trường tương
tự ở các địa phương khác nhau và lớp trẻ tham gia rất sôi nổi. Kết quả là hầu hết mọi
người đều thấm nhuần được nguyên tắc “Độc lập và sáng tạo”. Để phát triển một dự án
phát triển nông thôn nào đó, người ta sẽ không phụ thuộc vào bất cứ ý kiến chỉ đạo nào
từ Thủ đô; mọi người sẽ giới thiệu dự án của mình dựa trên nhữg đặc điểm của địa
phương mình là chính. Đó cũng chính là tinh thần của Phong trào “Mỗi làng, Một sản
phẩm”. Điều quan trọng trong mỗi dự án phát triển nông thôn, phát triển khu vực chính
là thái độ độc lập của địa phương.
Vấn đề tuổi tác và giới tính được đặc biệt chú ý trong các hoạt động phát triển
nguồn nhân lực bằng cách tổ chức các loại hình, cơ sở đào tạo phù hợp. Tuy nhiên,
không phải như vậy mà nội dung “nghĩ về toàn cầu” được xem nhẹ với đối tượng là phụ
nữ nội trợ hoặc trẻ em.
Có thể nói nguồn nhân lực là chiếc chìa khoá để làm sống lại vùng đất quê hương.
Một khi động lực và nguồn năng lượng của lớp trẻ ở mỗi địa phương được phát huy thì
việc phát triển nông thôn của khu vực đó sẽ đem lại hiệu quả không thể lường trước
được. Điều cần thiết là phải tạo cho những người trẻ tuổi, nhận thức được tính toàn cầu

trong công việc phát triển nông thôn và cơ hội thực hiện hoạt động của mình trong cộng
đồng.
Cũng cần được nhắc lại là Phong trào “Mỗi làng, một sản phẩm” không chỉ đơn
thuần là một phong trào phát triển sản phẩm. Mục đích cao nhất của Phong trào này là
tạo cho mọi người ở địa phương niềm tự hào về quê hương của họ, từ đó sẵn sàng đón
nhận mọi thời cơ cũng như thách thức của quá trình hội nhập toàn cầu.
2.1.6.2. Vai trò của chính quyền địa phương
“Mỗi làng, một sản phẩm” là một phong trào phát triển nông thôn nội sinh. Chính
vì vậy, chính quyền chỉ đóng vai trò hỗ trợ cho những hoạt động của Phong trào. Những
lĩnh vực hỗ trợ quan trọng nhất của chính quyền là hỗ trợ kỹ thuật; quảng bá, xúc tiến
tiêu thụ sản phẩm, xây dựng cơ sở hạ tầng, trợ giúp tài chính và đào tạo nguồn nhân
lực….
Trong quá trình phát triển của Phong trào, Chính quyền tỉnh luôn trợ giúp kỹ thuật
một cách tích cực cho bất cứ địa phương nào tham gia Phong trào dựa trên những sáng
kiến của riêng họ. Khi một địa phương nào muốn xây dựng một nhà lạnh để tàng trữ nấm
Shiitake, Chính quyền sẵn sàng trợ cấp cho họ. Khi họ muốn cải thiện kỹ năng sản xuất,
chế biến…, Chính quyền sẽ đưa ra những hướng dẫn kỹ thuật. Có thể nói rằng, khi triển
khai Phong trào “Mỗi làng, một sản phẩm”, Chính quyền sẽ sẵn sàng trợ giúp địa phương
trong việc tạo ra động lực của Phong trào bằng cách cung cấp cho họ những hướng dẫn
kỹ thuật và trợ giúp trong nghiên cứu, phát triển sản phẩm. Chẳng hạn như quít ở Nhật
Bản thường thu hoạch vào tháng 10 hàng năm, nhưng những người trồng quít muốn thu
hoạch vào tháng 5 để nâng cao giá trị và tăng thu nhập. Vì vậy, họ phải xây dựng nhà
kính và sử dụng dầu để sưởi ấm cho cây trong mùa đông. Trong trường hợp đó, Chính
quyền tỉnh sẵn sàng trợ cấp cho những nghiên cứu nâng cao năng suất lao động và tiết
kiệm năng lượng được tiến hành tại các trạm nghiên cứu, thực nghiệm của tỉnh. Ngành
chế biến nông sản, thực phẩm cũng được quan tâm thích đáng nhằm tạo ra giá trị gia tăng
và nâng cao khả năng tiêu thụ sản phẩm. Các cơ sở nghiên cứu như Trạm nghiên cứu
thực nghiệm chăn nuôi, Trung tâm hướng dẫn, chỉ đạo cây cảnh, Trung tâm nghiên cứu



và chỉ đạo nấm… được thành lập để nghiên cứu, cải thiện công nghệ truyền thống cũng
như áp dụng những công nghệ tiên tiến như công nghệ sinh học, chọn tạo các loại cây
trồng mới… cho địa phương.
Việc quảng bá, xúc tiến tiêu thụ sản phẩm của Phong trào “Mỗi làng, một sản
phẩm” được Chính quyền tỉnh Oita đặc biệt quan tâm với nhiều loại hình hoạt động khác
nhau như tổ chức các hội thi sản phẩm của làng, hình thành các điểm giới thiệu sản phẩm
ở những nơi thu hút nhiều khách du lịch trong cả nước nhất là những nơi tập trung nhiều
thanh niên; tổ chức những chiến dịch trình diễn, giới thiệu sản phẩm; tổ chức các hội
chợ, nhất là hội chợ ở các thành phố lớn; xây dựng thương hiệu cho các sản phẩm của
Phong trào; huy động toàn bộ hệ thống thông tin trong tỉnh và một số hệ thống thông tin
trong cả nước tuyên truyền cho Phong trào và các sản phẩm được làm ra… Ví dụ như
việc tổ chức chiến dịch “những ngọn rau bay” đã được thiết kế và tổ chức rất rầm rộ với
sự tham gia của nhiều tổ chức và cá nhân ở nhiều thành phố lớn trong cả nước, nhằm tiêu
thụ một cách tốt nhất số lượng rau xanh được sản xuất ra trong tỉnh. Ví dụ như việc tổ
chức trạm trình diễn và bán sản phẩm chanh Kabosu, một đặc sản của tỉnh, rất thích hợp
cho món Sashimi, tại Shibuya, nơi thu hút rất nhiều thanh niên, hay việc tổ chức tiêu thụ
rượu sochu, một đặc sản khác của địa phương tại các nhà hàng sang trọng của Thủ đô
Tokyo. Ví dụ như việc tổ chức "One village, One product" Market (chợ "mỗi làng, một
sản phẩm") tại sân bay Kansai.
Các cơ sở sản xuất tại địa phương thường xuyên nhận được những sự hỗ trợ kịp
thời của Chính quyền tỉnh về phương pháp tổ chức và quản lý sản xuất. Đặc biệt là
những hoạt động nhằm phát hiện ra những tiềm năng, lợi thế phát triển của địa phương
phục vụ cho những dự án phát triển làng quê, khu vực. Nhờ vậy các cơ sở sản xuất luôn
có được hiệu quả cao trong việc phát triển sản phẩm của mình.
Ngoài ra, trong những điều kiện cụ thể, khi cần phát triển những mô hình đặc biệt
có tính đột phá của phong trào, những sự trợ giúp về tài chính từ Chính quyền tỉnh đối
với địa phương cũng được thực hiện, cho dù nguồn trợ giúp đó không nhiều nhưng luôn
được sử dụng đúng mục đích và rất có hiệu quả. Chẳng hạn như muốn phát triển các tổ
chức của phụ nữ làm công tác chế biến nông sản, Chính quyền tỉnh đã trợ cấp cho họ một
phần kinh phí để xây dựng cơ sở sản xuất, hay khi cần khôi phục các cửa hiệu của Thị

trấn Showa phục vụ cho dự án phát triển du lịch của địa phương này, Chính quyền đã trợ
cấp tài chính mỗi năm cho cho việc khôi phục 8 cửa hàng nằm trong khu phố buôn bán
cổ, đồng thời góp 1/3 số vốn cần thiết của Dự án của Thị trấn này…
2.1.6.3. Vai trò của người lãnh đạo địa phương
Người đứng đầu chính quyền địa phương đóng một vai trò cực kỳ quan trọng,
quyết định đến sự thành công của Phong trào. Ở, người ta thường nói rằng không có
Ngài Morihiko Hiramatsu ở cương vị tỉnh trưởng thì không có Phong trào “Mỗi làng,
một sản phẩm”.
Ngay từ khi mới đắc cử chức tỉnh trưởng Oita, bằng sự nhạy bén của mình Ông
đã tổng kết những thành công trong quá trình phát triển nông thôn tại Thị trấn Oyama và
Thị trấn Yufuin để xây dựng nền tảng cho Phong trào. Nghiên cứu và đề xuất ba nguyên
tắc quan trọng, làm kim chỉ cho mọi hoạt động của Phong trào.
Ở một tỉnh mà sự không đoàn kết, nhất trí đã trở thành truyền thống từ thời phong
kiến như tỉnh thì tạo ra một sự đồng thuận trong triển khai Phong trào “Mỗi làng, một sản
phẩm” quả là không dễ dàng gì. Bằng kinh nghiệm hoạt động của mình, Ngài Morihiko
Hiramatsu đã huy động gần như tất cả các nguồn lực có trong tay để thực hiện kế hoạch


đã được vạch ra. Ông huy động tất cả các phương tiện thông tin đại chúng trong tỉnh
tuyên truyền cho Phong trào, tổ chức các hội nghị với những người lãnh đạo ở cấp
huyện, xã… (một kiểu hội nghị Diên Hồng) về Phong trào, cũng như tiếp xúc, vận động
các nhà lãnh đạo ở cấp cao hơn để tạo ra sự đồng thuận, nhất trí của mọi tầng lớp xã hội.
Trong buổi ban đầu của Phong trào, khó khăn chồng chất, Ngài Morihiko
Hiramatsu đã đứng ra quyên góp được 100 triệu yên từ các nhà tài trợ để lập nên “Quỹ
khuyến khích phát triển phong trào mỗi làng, một sản phẩm tỉnh Oita” để trợ giúp cho
các dự án phát triển, làm sống lại cộng đồng quê hương của những địa phương có tâm
huyết với Phong trào.
Đích thân Ngài Morihiko Hiramatsu với cương vị là người đứng đầu Chính quyền
địa phương đã tổ chức nhiều buổi diễn thuyết quan trọng và tổ chức các chiến dịch tuyên
truyền qui mô lớn kể cả ở địa phương và trong toàn nước Nhật Bản về Phong trào“Mỗi

làng, một sản phẩm”, cũng như để quảng bá sản phẩm. Chỉ riêng chiến dịch “Những
ngọn rau bay” nhằm xúc tiến tiêu thụ rau xanh của tỉnh Oita, đích thân Ngài Tỉnh trưởng
đã “bay” 143 lần đến các thành phố, địa phương trong cả nước để diễn thuyết, thuyết
phục mọi người sử dụng các sản phẩm này.
Cũng chính Ngài Morihiko Hiramatsu là người đề xuất và trực tiếp giảng dạy một
số chuyên đề quan trọng trong hệ thống các trường đào tạo “Oita-mảnh đất của sự trù
phú”, một nền tảng quan trọng trong phát triển nguồn nhân lực phát triển nông thôn ở địa
phương.
Thêm vào đó, Ngài Morihiko Hiramatsu còn viết rất nhiều bài báo và xuất bản
nhiều cuốn sách để giới thiệu Phong trào. Một trong những cuốn sách đó là cuốn “Nghĩ
về thế giới và hành động tại địa phương” nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đào tạo
nguồn nhân lực trong việc làm sống lại các giá trị của làng quê trong tương lai và tạo ra
nguồn động lực thực sự của phong trào phát triển nông thôn trong giai đoạn mới, giai
đoạn trong và sau quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
2.1.6.4. Vai trò của người dân nông thôn trong Phong trào “Mỗi làng, một sản
phẩm”
Cũng cần được nhắc lại là Phong trào “Mỗi làng, một sản phẩm” là một hoạt động
phát triển nông thôn nội sinh nên người dân nông thôn đóng luôn vai trò chủ đạo trong
mọi hoạt động. Chính họ là người phát hiện ra tiềm năng của quê hương mình, lập kế
hoạch để phát triển các sản phẩm mang đặc thù của vùng quê mình. Cũng chính họ là
người đứng ra tổ chức, trang trải kinh phí, đồng thời chịu mọi ruỉ ro (nếu có) cho các dự
án phát triển nông thôn của mình.
Động lực cơ bản làm nên sức sống bền vững và cũng là thành công lớn nhất của
Phong trào “Mỗi làng, một sản phẩm” chính là việc đặt người dân nông thôn vào vị trí
trung tâm của quá trình triển khai, phát triển của mọi hoạt động trong Phong trào. Đó
cũng là ý nghĩa của từ “Phong trào” và là nguyên nhân vì sao ở đây người ta chỉ nói và
viết về “Phong trào “Mỗi làng, một sản phẩm”” chứ chưa bao giờ có khái niệm về
chương trình hay dự án “Mỗi làng, một sản phẩm”.
2.2. Tình hình triển khai OVOP ở Việt Nam
Đến cuối năm 2004, khu vực nông thôn Việt Nam bao gồm 9.012 xã, 583 thị trấn

với 60,4 triệu người, chiếm 73,6% dân số cả nước. Lao động trong ngành nông – lâm
nghiệp là 23 triệu người, chiếm 55.4% lao động cả nước. Tỷ lệ thời gian được sử dụng
làm việc ở tuổi lao động ở khu vực nông thôn là 79,1%. Khu vực nông thôn có vai trò


quan trọng trong phát triển đất nước vì có các nghề thủ công - vốn quí của khu vực nông
thôn; có nguồn lực ban đầu - vốn quí trong quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất
nước và là khu vực giữ sự cân bằng về sinh thái và xã hội.
Mặc dù vậy, trong nhiều thập kỷ qua các hoạt động phát triển nông thôn chủ yếu
theo hướng ngoại sinh (extrinsic development): Phát triển dựa trên nguồn lực bên ngoài,
với các hoạt động chính là (i) xây dựng mô hình kinh tế - xã hội (thông qua các dự án,
chương trình phát triển nông thôn) theo ý chí chủ quan của những người lãnh đạo hoặc
dập khuôn từ các mô hình sẵn có nào đó; (ii) ít chú ý đến các điều kiện cụ thể và mong
muốn của người dân trong khu vực; (iii) chú trọng xây dựng các cơ sở và dây truyền sản
xuất hàng loạt, dựa trên nhu cầu của các lực lượng bên ngoài khu vực nông thôn, nhằm
tận dụng lợi thế của nông thôn (đất đai, nhân lực).
Các chương trình, dự án này dựa trên nguồn lực từ nguồn ngân sách nhà nước, các
tổ chức khác trong và ngoài nước và có đặc điểm là: thành công nhanh chóng nhưng
thiếu bền vững và kết thúc sau khi kết thúc các dự án, chương trình; khó tận dụng các
nguồn tài nguyên thiên nhiên trong khu vực; người tiêu dùng còn xem nhẹ các sản phẩm
bản địa; người dân chưa chú trọng các sản phẩm truyền thống; chưa gia tăng giá trị, chủ
yếu bán dưới dạng thô. Hậu quả thường thấy là: Người dân rơi vào nợ nần do đã trót đầu
tư theo các chương trình, dự án; khoét sâu hố ngăn cách giàu nghèo; gây ra các vấn đề
môi trường bức xúc; tăng lượng di cư ra thành thị; và gây đảo lộn trật tự xã hội nông
thôn, xói mòn các nền văn hóa.
Từ những lý do trên, dựa trên kinh nghiệm các nước như Nhật Bản, Thái Lan,
v.v... cần lưu ý phát triển nông thôn theo hướng nội sinh (intrinsic development), vì nó
chú trọng các nguồn lực sẵn có, làm động lực phát triển (đất đai, điều kiện địa lý, lòng tự
hào, khả năng sáng tạo, v.v…). Các hoạt động chủ yếu là: xây dựng các doanh nghiệp,
HTX vừa và nhỏ; sử dụng công nghệ địa phương; tập trung vào chế biến nông sản, các

sản phẩm thủ công, các dịch vụ phục vụ cho sự phát triển các ngành công nghiệp ở đô
thị.
Việc nhận thức, vận dụng và triển khai OVOP vào Việt Nam và phù hợp với điều
kiện của Việt Nam là một quá trình và vẫn tiếp tục tiếp diễn. Ngay từ cuối những năm
1990s, một số nhà khoa học, nhà quản lý ngành ở Việt Nam đã cố gắng tìm hiểu và vận
dụng OVOP vào Việt Nam, đặc biệt là trong ngành nông nghiệp. Điển hình là Đề án
“mỗi làng một nghề” với điểm nhấn là các làng nghề ở Việt Nam. Một số địa phương ở
Việt Nam đã cố gắng triển khai Mỗi làng một nghề, như Thừa Thiên – Huế, Bình Định,
TP Hồ Chí Minh, Vĩnh Long,... Tuy nhiên, đến nay việc triển khai đề án gặp nhiều khó
khăn vì nhiều lý do khác nhau.
- Thiếu các hiểu biết cặn kẽ về OVOP: bản chất của OVOP, cách triển khai
OVOP, các cách áp dụng OVOP ở các quốc gia khác nhau, các bài học thành công, thất
bại.
- Rộng, bao trùm nhưng mất phương hướng: Với việc tập trung vào “nghề”, điểm
mấu chốt là sản phẩm bị coi nhẹ. Điều này dẫn đến sản phẩm, yếu tố quan trọng nhất để
tạo ra doanh thu và nuôi sống người dân, bị đặt xuống vị trí thứ yếu.
- Theo hướng “từ trên xuống”: Các nội dung, nghề,... đã được định sẵn từ trên
xuống, các chủ thể tham gia là người dân không được tham gia ngay từ đầu và dẫn đến
tham gia một cách thụ động.
- Thiếu các hiểu biết cặn kẽ về thực tiễn một cách tổng thể: Các nội dung được
thiết kế trên các hiểu biết chung chung về các làng nghề, nông thôn Việt Nam, thiếu các


×