Tải bản đầy đủ (.docx) (88 trang)

Phát triển hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp trên địa bàn huyện thái thụy, tỉnh thái bình trong giai đoạn hiện nay - Khoá luận tốt nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (559.98 KB, 88 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đề tài có tính cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn:
- Về lý luận, hợp tác xã (HTX) là một tổ chức kinh tế vừa có ý nghĩa kinh tế
vừa mang tính xã hội và nhân văn sâu sắc. Có thể nói, ý tưởng HTX là một ý
tưởng hợp tác kinh tế vĩ đại của các bậc tiền bối. Ý tưởng này đã hình thành
một cách tự nhiên từ những đòi hỏi, nhu cầu thực tế của con người trong
hoạt động kinh tế. Những lý luận về kinh tế hợp tác mà nòng cốt là hợp tác
xã đã được Mác, Ăngghen, LêNin nghiên cứu và đi vào hoạt động thực tiễn
của nước Nga. Dựa trên cơ sở lý luận đó cùng với việc hiểu được vị trí, vai
trò, ý nghĩa của “Kinh tế Nhà nước cùng với kinh tế tập thể trở thành nền
tảng vững chắc của nền kinh tế”1. Khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới,
chuyển nền kinh tế sang hoạt động theo cơ chế thị trường, HTX cũng được
đổi mới cả về nội dung, hình thức hoạt động, biểu hiện cụ thể ở việc ban
hành Luật HTX (năm 1996). Tuy nhiên, trong thực tế hoạt động theo mô
hình HTX kiểu mới của các HTX nông nghiệp vấp phải rất nhiều khó khăn
làm cho hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp. Tổng kết 5 năm thực hiện
chuyển đổi HTX theo Luật HTX (1996), Hội nghị Trung ương 5 khóa IX
(3/2002) đã ra Nghị quyết về: Tiếp tục đổi mới phát triển và nâng cao hiệu
quả kinh tế tập thể, trong đó nhấn mạnh Nhà nước phải tạo điều kiện thuận
lợi cho HTX nông nghiệp phát triển. Trên cơ sở Nghị quyết của Đảng và
thực tiễn hoạt động của HTX kiểu mới, kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XI
(ngày 26/11/2003) đã thông qua Luật HTX mới (Luật HTX năm 2003 có
hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2004).

1 Đảng cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội.

1



- Về thực tiễn, sau 7 năm hoạt động theo tinh thần của Luật HTX mới
2003, các HTX đã có những bước phát triển nhưng chưa đều, chưa thực sự đi
sâu, đi sát vào đời sống của người lao động nhất là các hợp tác xã nông
nghiệp (HTX NN) ở các địa phương. Điều đó cho thấy, để phát triển HTX,
trong đó có HTXNN, cần tiếp tục nghiên cứu, đổi mới chính sách.
Huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình – được biết đến là một huyện thuần
nông và phát triển kinh tế nông nghiệp có ý nghĩa lớn đối với phát triển kinh
tế xã hội của huyện. Để phát triển nông nghiệp thì một yếu tố giữ vai trò quan
trọng đó chính là hoạt động của các HTXNN. Từ khi triển khai thực hiện Luật
HTX năm 1996 và năm 2003 đến nay, HTX nông nghiệp ở huyện Thái Thụy
có bước phát triển mới, đã đáp ứng được một phần nhu cầu của nông dân, của
hộ sản xuất - kinh doanh nông nghiệp, đóng góp quan trọng vào quá trình
phát triển kinh tế-xã hội của địa bàn. Tuy nhiên, HTX nông nghiệp ở huyện
Thái Thụy cũng còn tồn tại một số yếu kém như: Hầu hết các HTXNN kiểu
mới đều thiếu vốn, trong lúc các thủ tục để vay vốn còn nhiều bất cập; cơ sở
vật chất, kỹ thuật của các HTXNN vừa thiếu, vừa lạc hậu nên gây nhiều khó
khăn trong việc mở rộng hoạt động SXKD; thiếu cán bộ có năng lực quản lý,
có tâm huyết và khả năng điều hành các hoạt động; phương hướng kinh doanh
không ổn định. Vì vậy, hiệu quả kinh tế của HTX còn thấp, thu nhập của
người lao động trong các HTX còn thấp, sức hấp dẫn của các HTXNN chưa
cao, HTX nông nghiệp phát triển chưa tương xứng với tiềm năng và vai trò
kinh tế-xã hội vốn có của nó…
Như vậy, sự tồn tại của các HTX nông nghiệp kiểu mới là cần thiết
nhất là trong quá trình huyện đang đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa (CNH, HĐH) nông nghiệp, nông thôn. Nhưng không phải là sự tồn tại
1 cách hình thức mà phải thực sự hoạt động có hiệu quả thì người nông dân
mới thấy hết được ý nghĩa, vai trò của nó. Vấn đề cơ bản và cấp bách đặt ra

2



đối với huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình là phải đánh giá đúng tình hình và
kết quả hoạt động của các HTX, rút ra những kinh nghiệm và đề ra những giải
pháp tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả kinh tế của các HTX nông nghiệp
kiểu mới.
Đề tài “Phát triển hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp trên địa bàn huyện
Thái Thụy, tỉnh Thái Bình trong giai đoạn hiện nay”, để nhìn lại quá trình
hoạt động của HTX DVNN trong những năm qua, rút ra những hạn chế, những
bài học thành công. Từ đó, đề ra các giải pháp góp phần thực hiện mục tiêu,
các yêu cầu đặt ra đối với hoạt động của một HTX DVNN. Hướng tới mục tiêu
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn trong những năm sắp tới của huyện.
2. Tình hình nghiên cứu những vấn đề liên quan đến đề tài
Đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả HTX nông nghiệp là một
trong những vấn đề được Đảng và Nhà nước quan tâm. Trong suốt quá trình
cách mạng XHCN ở nước ta, vấn đề HTX nông nghiệp là chủ đề được nhiều
cơ quan khoa học, nhiều nhà nghiên cứu xem xét dưới nhiều góc độ, phạm vi
và mức độ khác nhau. Có thể nêu một số công trình tiêu biểu như:
- Lương Xuân Quỳ, Nguyễn Thế Nhã, “Đổi mới tổ chức và quản lý
HTX trong nông nghiệp nông thôn”, Nxb Nông nghiệp, 1999. Các tác giả đã
khái quát toàn bộ quá trình phát triển của các hình thức tổ chức, quản lý các
HTX trong nông thôn Việt Nam từ trước đến khi chuyển sang kinh tế thị
trường và phân tích thực trạng mô hình tổ chức quản lý các HTX ở một số địa
phương tiêu biểu. Trên cơ sở đó phác họa một số phương hướng và giải pháp
chủ yếu để xây dựng mô hình tổ chức có hiệu quả cho các loại hình HTX.
- Nguyễn Văn Bình, Chu Tiến Quang, Lưu Văn Sùng, “ Kinh tế hợp
tác, hợp tác xã ở Việt Nam- Thực trạng và định hướng phát triển”, Nxb Nông
nghiệp, 2001. Các tác giả đã hệ thống hóa quá trình hình thành, phát triển các
lọai hình kinh tế hợp tác, hợp tác xã trên thế giới và ở Việt Nam với những

3



thành công và tồn tại, từ đó nêu lên định hướng phát triển phù hợp đường lối
đổi mới của Đảng và Nhà nước ta.
- Phạm Thị Cần, Vũ Văn Phúc, Nguyễn Văn Kỷ, “Kinh tế hợp tác
trong nông nghiệp nước ta hiện nay”, Nxb Chính trị quốc gia, 2003. Các tác
giả tập trung trình bày những vấn đề lý luận và thực tiễn về kinh tế hợp tác,
HTX; sự cần thiết khách quan phải lựa chọn các mô hình kinh tế hợp tác,
HTX phù hợp với đặc điểm, điều kiện nông nghiệp, nông thôn nước ta, đề
xuất những giải pháp phát triển các mô hình kinh tế hợp tác, HTX trong nông
nghiệp, nông thôn Việt Nam hiện nay.
- Luận văn Thạc sĩ kinh tế của tác giả Trần Minh Tâm, năm 2000, về
“Phát triển kinh tế hợp tác ở ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh - Thực trạng
và giải pháp”. Tác giả nghiên cứu lý luận và thực tiễn hoạt động của kinh tế
hợp tác xã ở thành phố Hồ Chí Minh và đề xuất các giải pháp phát triển.
- Luận văn thạc sĩ kinh tế của tác giả Lê Thùy Hương, năm 2003, về
“Kinh tế tập thể trên địa bàn tỉnh Hải Dương, thực trạng và giải pháp”. Tác
giả trình bày vai trò, tính tất yếu khách quan của việc phát triển kinh tế tập
thể; đánh giá thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế tập thể trên địa bàn
tỉnh Hải Dương.
- PGS.TS. Vũ Văn Phúc, “Về chế độ kinh tế hợp tác xã ở nước ta”;
Tạp chí Lý luận chính trị, số 1/2002.
- Nguyễn Văn Tuất, “ Hợp tác xã nông nghiệp các tỉnh đồng bằng
sông Cửu Long- Nhìn từ thực tiễn”; Tạp chí Khoa học về chính trị, 2002, số
3.
Một số bài viết của các tác giả như: Trần Ngọc Dũng, Mai Công Hòa,
Hoàng Việt…
Nhìn chung, các công trình kể trên đã nghiên cứu nhiều khía cạnh của
hợp tác xã nông nghiệp; trong đó, các công trình nghiên cứu trước năm 2001


4


chủ yếu đi vào làm rõ những yếu kém của mô hình hợp tác xã kiểu cũ, luận
giải sự cần thiết, thực trạng chuyển đổi mô hình HTX theo Luật HTX (1996);
các công trình nghiên cứu sau năm 2001, nghiêng về nghiên cứu sự phát triển
của kinh tế tập thể theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX.
Cho đến nay chưa có đề tài nghiên cứu cụ thể về HTX dịch vụ nông
nghiệp trên địa bàn Thái Thụy, Thái Bình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của khóa luận là vận dụng lý luận cơ bản về HTX và
HTXNN để đánh giá tình hình phát triển HTX DVNN của huyện Thái Thụy,
tỉnh Thái Bình, từ đó đưa ra một số phương hướng, giải pháp nhằm phát triển
HTX DVNN của huyện Thái Thụy trong thời gian tới.
Để đạt được mục đích đó, khóa luận có những nhiệm vụ:
- Luận giải cơ sở lý luận về phát triển HTX, HTX nông nghiệp kiểu mới, HTX
DVNN.
- Khái quát và đánh giá thực trạng phát triển HTX DVNN trên địa bàn huyện
Thái Thụy, tỉnh Thái Bình
- Phân tích phương hướng, đề xuất các giải pháp phát triển HTX DVNN trên
địa bàn huyện Thái Thụy.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là HTX DVNN trên địa bàn huyện
Thái Thụy, tỉnh Thái Bình. Giới hạn nghiên cứu từ năm 2008 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu để tài
Khóa luận dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin; tư tưởng
Hồ Chí Minh; đường lối, quan điểm, những tổng kết kinh nghiệm của Đảng
và chính sách pháp luật của Nhà nước; kế thừa có chọn lọc các công trình
nghiên cứu khoa học có nội dung nghiên cứu gần với đề tài.
Tác giả sử dụng kết hợp nhiều phương pháp để nghiên cứu đề tài:

phương pháp phân tích, tổng hợp, khái quát vấn đề; phương pháp trừu tượng
hóa khoa học; phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn; phương pháp điều
tra; phương pháp thống kê…
6. Dự kiến đóng góp của khóa luận

5


- Phác họa bức tranh nhiều chiều về HTX DVNN trên địa bàn huyện Thái
Thụy, tỉnh Thái Bình trong giai đoạn hiện nay.
- Đánh giá, đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm phát triển hơn nữa HTX
DVNN ở huyện Thái Thụy trong thời gian tới theo đúng định hướng, vai trò
của nó, để thúc đẩy nông nghiệp của huyện ngày càng phát triển, góp phần
nâng cao đời sống của nông dân huyện nhà.
7. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, để tài được
kết cấu thành ba chương:
Chương 1: Một số lý luận chung về phát triển HTX nông nghiệp
kiểu mới ở nước ta.
Chương 2: Thực trạng phát triển hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp
trên địa bàn huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình trong giai đoạn hiện nay.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp phát triển hợp tác xã dịch vụ
nông nghiệp trên địa bàn huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

6


NỘI DUNG
Chương 1
MỘT SỐ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁT TRIỂN HTX NÔNG NGHIỆP

KIỂU MỚI Ở NƯỚC TA
1.1 Quan điểm về hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới
1.1.1 Quan điểm của chủ nghĩa Mác - LêNin về hợp tác xã nông nghiệp
Lịch sử phát triển của xã hội loài người chính là lịch sử của sự phát
triển LLSX, đi với nó là một QHSX phù hợp. Sự hợp tác giữa người và người
không chỉ vì yêu cầu của sản xuất mà còn cả yêu cầu của cuộc sống để nương
tựa nhau, hỗ trợ nhau và bảo vệ cho nhau.
Trong lý luận “hiệp tác” của mình, Mác đã làm rõ các nội dung sau:
Thứ nhất, hiệp tác là một hiện tượng khách quan của xã hội loài người
và đã xuất hiện rất sớm kể từ khởi đầu nền văn minh của loài người và không
ngừng phát triển theo sự phát triển của LLSX, tuy nhiên mỗi chế độ xã hội
khác nhau có nội dung và hình thức hiệp tác khác nhau. Hiệp tác tư bản chủ
nghĩa là sự hiệp tác của những người lao động làm thuê tự do, bán sức lao
động của mình cho nhà tư bản, còn hiệp tác XHCN theo C.Mác là sự hiệp tác
của những người sản xuất tự do và bình đẳng liên hiệp lại để tiến hành lao
động xã hội theo một kế hoạch chung và hợp lý.
Thứ hai, hiệp tác diễn ra đồng thời với quá trình phân công lao động,
do đó có các phạm vi hiệp tác khác nhau: cá biệt, đặc thù và trên toàn xã hội
và còn diễn ra trên phạm vi thế giới với các hình thức hết sức đa dạng và
phong phú.
Thứ ba, hiệp tác mang lại nhiều lợi ích có thể sánh như khoa học là lực
lượng tự nhiên mà nhà tư bản khai thác nó không tốn một đồng xu, do đó nó
cũng có lợi nhất định cho người lao động và cho toàn bộ nền kinh tế quốc
dân. Tuy nhiên việc khai thác lợi thế của sự hiệp tác không tốt cũng sẽ gây ra
những tác hại to lớn không thể lường trước được.

7


Phát triển lý luận về hợp tác của C. Mác, Lênin đã luận giải sự cần

thiết, các tiền đề của kinh tế hợp tác và các nguyên tắc hợp tác dưới CNXH.
Theo Lênin, đi lên CNXH có nghĩa là tiến tới chế độ xã hội văn minh cần cả
một thời kỳ cải biến cách mạng có tính lịch sử nhằm tạo nên tiền đề cho một
chế độ kinh tế mới - chế độ hợp tác kinh tế XHCN. Và khi tất cả những người
lao động đã được giải phóng khỏi ách áp bức, bóc lột và tự nguyện hợp tác
lao động với nhau thì sẽ có CNXH. Theo V.I. Lênin, HTX có ý nghĩa đặc
biệt, nó là bước quá độ sang một chế độ mới bằng con đường đơn giản nhất
dễ tiếp thu nhất đối với nông dân “Họ khinh miệt chế độ hợp tác xã, họ không
thấy được rằng chế độ ấy có một ý nghĩa đặc biệt trước hết là về phương diện
nguyên tắc (nhà nước nắm quyền sở hữu tư liệu sản xuất), sau nữa là về
phương diện bước quá độ sang một chế độ mới bằng con đường giản đơn
nhất, dễ dàng nhất, dễ tiếp thu nhất đối với nông dân2.”
Lênin viết: "Khi nhân dân lao động đã vào hợp tác xã với mức độ nhất
định, thì chủ nghĩa xã hội tự nó sẽ được thực hiện". Lênin cũng nêu lên các
tiền đề của chế độ hợp tác dưới CNXH bao gồm:
- Tiền đề chính trị, có tính tiên quyết, đó là chính quyền thuộc về nhân
dân và do chính Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo;
- Tiền đề kinh tế mà cốt lõi là quan hệ kinh tế giữa các HTX với kinh tế
nhà nước để thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
- Tiền đề văn hóa, xã hội tạo cho chế độ hợp tác tính nhân bản, trình độ
văn minh trong lao động hợp tác và quản lý kinh tế hợp tác.
Lênin rất quan tâm đến việc Nhà nước giúp đỡ tài chính cho HTX.
“Một chế độ xã hội chỉ nảy sinh nếu được một giai cấp nhất định nào đó giúp
đỡ về tài chính... Trong lúc này, chế độ xã hội mà chúng ta ủng hộ hơn hết là
chế độ HTX....

2 V.I.LêNin, Bàn về chế độ hợp tác xã, NXB Sự thật,1977

8



Phải cho chế độ HTX hưởng một số đặc quyền kinh tế, tài chính, ngân
hàng; sự ủng hộ mà nhà nước XHCN của chúng ta mang lại cho nguyên tắc tổ
chức mới của dân cư phải là như vậy3”
Cũng chính Lê nin đã phát triển quan điểm mác - xít về kinh tế hợp tác
và nêu lên các nguyên tắc và hình thức tổ chức kinh tế hợp tác. Nguyên tắc đầu
tiên của hợp tác là tự nguyện, không cưỡng ép nông dân vào HTX bằng bất cứ
hình thức nào, ngoài ra phải tôn trọng nguyên tắc cùng có lợi, quản lý dân chủ
và có sự giúp đỡ của nhà nước. Bước đi của hợp tác là phải tiến hành từng
bước, phù hợp với quá trình phát triển KT-XH, tức là theo qui luật QHSX phải
phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX. Trong chính sách kinh tế mới
(NEP) Lênin nêu ra bước đi của hợp tác là từ thương mại rồi dần đi vào sản
xuất. Lênin nhấn mạnh tính thiết thực, cụ thể, phù hợp với từng ngành, từng
lĩnh vực SXKD, phù hợp với phong tục, tập quán và dân trí của từng vùng.
Cuối cùng Lênin đã khẳng định vai trò của HTX đối với sự nghiệp xây
dựng CNXH ở nước Nga lúc bấy giờ, coi đây là một trong 2 yếu tố làm lên
thành công của CHXH “Nhiệm vụ thứ hai của chúng ta là tiến hành công tác
văn hoá trong nông dân. Mà công tác văn hoá trong nông dân lại nhằm mục
tiêu kinh tế - đó chính là thực hiện chế độ hợp tác xã. Nếu chúng ta tổ chức
được toàn thể nông dân vào hợp tác xã thì chúng ta đứng vững được hai chân
trên miếng đất xã hội chủ nghĩa”.
1.1.2 Tư tưởng Hồ Chí Minh về hợp tác xã nông nghiệp
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rất sớm, có thể là người Việt Nam đầu tiên,
nghiên cứu lý luận và kinh nghiệm quốc tế về hợp tác xã và truyền bá vào
nước ta, trong tác phẩm “Đường kách mệnh” viết vào năm 1927.
“Hợp tác xã” trong “Đường kách mệnh” là tác phẩm lý luận điển hình,
mẫu mực về hợp tác xã (HTX), là biểu hiện sinh động của sự gặp gỡ giữa văn
3 V.I.LêNin, Bàn về chế độ hợp tác xã, NXB Sự thật,1977

9



minh phương Đông nói chung và văn hoá Việt Nam nói riêng và phương Tây,
từ đó tạo ra Tư tưởng Hồ Chí Minh về hợp tác xã.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đúc rút lý luận và kinh nghiệm hợp tác xã của
thế giới, điển hình là Anh, Pháp, Đức, Nga, Nhật. Quan niệm của Hồ Chí
Minh về HTX lúc đó rất đúng với nhận thức của quốc tế, trước hết là Liên
minh HTX quốc tế, Tổ chức Lao động thế giới và các nước hiện nay về HTX,
về bản chất, giá trị và nguyên tắc, cách thức tổ chức HTX.
Chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày các quan niệm về HTX một cách hệ
thống, với ngôn ngữ dung dị, dễ hiểu, và đặc biệt rất ngắn gọn, ai đọc cũng có
thể hiểu được. Giải thích về bản chất hợp tác xã, Người viết:
Hạt nhân, trung tâm của HTX là xã viên; xã viên hợp tác với nhau để
có lợi ích thiết thực và vẫn duy trì tính độc lập của mình; xã viên là chủ đích
thực của hợp tác xã, là mục tiêu mà HTX phải phục vụ; HTX là phương tiện
để phục vụ xã viên, phải đảm bảo đem lại lợi ích cho xã viên - thực là “hợp
tác xã là nhà, xã viên là chủ”.
Nói về vai trò của HTX, Bác Hồ đã đưa ra một ví dụ cụ thể chứng
minh, theo đó: sản xuất, nhất là nông dân được chia sẻ lợi ích phát sinh cả
trong quá trình trao đổi, tiêu thụ sản phẩm, tạo tiết kiệm cho xã hội thông qua
giảm chi phí trung gian, tạo lợi ích cho người tiêu dùng cuối cùng thông qua
giá rẻ. Bác viết: Nhà buôn kiếm được lời là vì người làm ra đồ và người dùng
đồ, người mua và người bán cách xa nhau, phải nhờ nhà buôn đứng giữa, nó
đã ǎn lời khi mua, lại ǎn lời khi bán. Thí dụ: Ngoài Bắc là xứ trồng chè, trong
Nam là hay uống chè. Nhưng dân Bắc không đem vào Nam bán, dân Nam
không ra tới Bắc mua. Mà nhà có chè đem bán cho A. hàng chè trong tổng; A
đem bán lại cho B, buôn chè trong phủ, ǎn lời một lần. B lại đem bán cho phố
C ở tỉnh, ǎn lời hai lần. C bán cho công ty Đ Hà Nội, ǎn lời ba lần. Công ty Đ
bán cho công ty E Sài Gòn, ǎn lời bốn lần.Công ty E lại bán cho nhà buôn F


10


các tỉnh, ǎn lời nǎm lần, Nhà buôn F bán sỉ cho phố G các phủ, ǎn lời sáu lần,
G bán lẻ cho H, ǎn lời bảy lần. H bán lẻ cho người uống, ǎn lời tám lần. Thế
là người làm ra chè thua thiệt, người uống chè cũng thua thiệt. Nếu có HTX
thì tránh khỏi những điều ấy.
Bác đã nhấn mạnh lợi ích mà các xã viên nhận được khi tham gia vào
các HTX. Bác giải thích: Hợp tác xã là thể chế HTX viên đơn lẻ thành số
đông, từ đó tạo thành sức mạnh mà nhu cầu và lợi ích chung, trước hết là lợi
ích kinh tế là sợi dây gắn kết xã viên; xã viên tham gia HTX càng đông lợi ích
đem lại cho xã viên càng lớn, tạo mục đích kép: từng xã viên khá hơn và cộng
đồng đoàn kết hơn.
“... Nếu chúng ta đứng riêng ra, thì sức nhỏ, mà làm không nên việc.
Thí dụ mỗi người mang một cái cột, một tấm tranh ở riêng mỗi người một
nơi, thì lều chẳng ra lều, nhà chẳng ra nhà. Nhóm những cột ấy, tranh ấy, sức
ấy, làm ra một cái nhà rộng rãi bề thế rồi anh em ở chung với nhau, ấy là hợp
tác. Lại thí dụ 10 người muốn ǎn cơm, mỗi người riêng một nồi, nấu riêng
một bếp, nấu rồi ǎn riêng; ǎn rồi ai nấy dọn dẹp riêng của người nấy, thế thì
mất biết bao nhiêu củi, nước, công phu và thì giờ. Hợp tác xã là "góp gạo thổi
cơm chung" cho khỏi hao của, tốn công, lại có nhiều phần vui vẻ..4."
Bác nhấn mạnh, HTX phải mang lại lợi ích thiết thực cho xã viên,
người không tham gia HTX không được hưởng lợi, có như vậy mới tạo sự
hấp dẫn của HTX đối với nhân dân.
Mặt khác, Bác đề cao tính bình đẳng của xã viên HTX khi đã là xã viên
hợp tác xã: “Hợp tác xã chỉ có hội viên mới được hưởng lợi, chỉ có hội viên
mới có quyền, nhưng những việc kỹ thuật như tính toán, xem hàng hoá, cầm
máy, vv., thì có phép mướn người ngoài”. Đã vào hội thì bất kỳ góp nhiều
góp ít, vào trước vào sau, ai cũng bình đẳng như nhau. Hợp tác xã phải tôn
4 Hồ Chí Minh (2000), toàn tập, NXB Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tập 9


11


trọng nguyên tắc tự giác, tự nguyện và tính hiệu quả; tránh việc cạnh tranh
không cần thiết giữa các HTX trên cùng địa bàn và chú trọng sự liên kết giữa
các hợp tác xã. Là nhà tổ chức thiên tài cách mạng Việt nam, Bác Hồ đã rất
chú ý cách thức tổ chức hợp tác xã, đặc biệt là sự hợp tác - liên kết của các
hợp tác xã. Bác chỉ rõ: “Không phải làng nào cũng phải lập mỗi làng mỗi hợp
tác xã. Cũng không phải mỗi làng phải lập cả mấy hợp tác xã. Cũng không
phải có HTX này thì không lập được HTX kia. Chẳng qua theo hoàn cảnh nơi
nào lập được HTX nào, và có khi hai HTX - mua và bán - lập chung cũng
được. Nếu nhiều nơi đã lập thành hợp tác như nhau, thì các HTX ấy nên liên
lạc với nhau, thế lực càng mạnh hơn. Hoặc khi hai HTX tính chất khác nhau,
thì cũng nên liên kết, như một HTX mua và một HTX bán.”
Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về hợp tác xã phù hợp với lý luận
chung và kinh nghiệm quốc tế về hợp tác xã, cần phải được quán triệt sâu sắc
trong Đảng và trong xã hội ta. Từ tư tưởng ấy chúng ta đúc rút được triết lý
sâu sắc: hợp tác - hiệu quả - tăng cường sức mạnh và sức cạnh tranh; góp
phần xây dựng xã hội hợp tác, đoàn kết, cùng thịnh vượng và quản lý một
cách dân chủ.
1.1.3 Quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước về phát triển
hợp tác xã và HTX nông nghiệp kiểu mới
1.1.3.1 Quan điểm của Đảng qua các kỳ Đại hội (kể từ Đại hội VI đến nay
Nhìn lại suốt chặng đường Đổi mới kinh tế tập thể/kinh tế hợp tác trong
bối canh chung của Đổi mới kinh tế do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, chủ
trương, đường lối của Đảng ta về phát triển kinh tế tập thể hoàn toàn phù hợp
với tư tưởng Hồ Chí Minh về hợp tác xã. Đặc biệt, Đảng ta đã kế thừa và phát
huy tư tưởng Hồ Chí Minh rõ nét trong việc xác định ngày càng rõ hơn mô
hình pháp lý hợp tác xã và ý nghĩa chính trị, cũng như tầm vóc quan trọng của


12


kinh tế tập thể đối với sự nghiệp phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Có thể khái quát các quan điểm của Đảng ta về HTX và phát triển HTX
qua các kì đại hội được thể hiện ở những nội dung sau:
Thứ nhất, kinh tế tập thể mà nòng cốt là HTX thời gian tới phải phát
triển đa dạng về hình thức, không giới hạn quy mô, lĩnh vực và địa bàn, bao
gồm nhiều hình thức sở hữu, với nhiều trình độ khác nhau, từ tổ hợp tác đến
HTX và lên đến trình độ cao là liên hiệp HTX. Sở hữu trong kinh tế tập thể
dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập thể, liên kết rộng rãi với các
thành phần kinh tế khác, không giới hạn về quy mô, lĩnh vực và địa bàn; Phân
phối vừa theo lao động, vừa theo vốn góp và mức độ tham gia của dịch vụ;
Nguyên tắc hoạt động: tự chủ; tự chịu trách nhiệm; Thành viên tập thể bao
gồm cả thể nhân và pháp nhân... cùng góp vốn, cùng góp sức trên cơ sở tôn
trọng các nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi và quản lý dân chủ.
Thứ hai, kinh tế tập thể mà nòng cốt là HTX phải là một tổ chức kinh
tế kết hợp hài hoà giữa lợi ích kinh tế và lợi ích xã hội của các thành viên và
lợi ích tập thể: Kinh tế tập thể lấy lợi ích kinh tế làm chính, bao gồm lợi ích
của các thành viên và lợi ích tập thể, đồng thời coi trọng lợi ích xã hội của
thành viên, góp phần xoá đói giảm nghèo, tiến lên làm giàu cho các thành
viên và phát triển cộng đồng. Do vậy, khi đánh giá hiệu quả kinh tế tập thể
phải trên cơ sở quan điểm toàn diện, cả kinh tế - chính trị - xã hội, cả hiệu quả
của tập thể và hiệu quả của các thành viên.
Thứ ba, khẳng định sự cần thiết phải tiếp tục phát triển rộng rãi các
hình thức kinh tế tập thể trong tất cả các ngành, lĩnh vực và địa bàn, trong đó
trọng tâm là khu vực nông nghiệp, nông thôn; phát triển kinh tế tập thể trong
nông nghiệp, nông thôn phải đảm bảo quyền tự chủ của kinh tế hộ, trang trại;

khẳng định kinh tế tập thể tuyệt nhiên không thay thế hoặc thủ tiêu kinh tế hộ,

13


trang trại; gắn phát triển kinh tế tập thể với quá trình CNH-HĐH nông nghiệp
và xây dựng nông thôn mới; thúc đẩy kinh tế tập thể không ngừng phát triển
sức sản xuất, vươn lên cạnh tranh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ tư, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và
phát huy vai trò của các đoàn thể nhân dân trong phát triển kinh tế tập thể:
Nhà nước ban hành các chính sách trợ giúp kinh tế tập thể trong quá trình xây
dựng và phát triển, thông qua việc giúp đỡ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, ứng
dụng KHCN, nắm bắt thông tin, mở rộng thị trường, xây dựng các quỹ hỗ trợ
phát triển, giải quyết nợ tồn đọng trước đây, khuyến khích việc tích luỹ và sử
dụng có hiệu quả vốn tập thể trong HTX; phát huy vai trò Liên minh HTX
Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong việc tuyên
truyền, vận động quần chúng tham gia kinh tế tập thể, thực hiện tốt quy chế
dân chủ cơ sở, đảm bảo công tác kiểm tra, kiểm soát của các thành viên, ngăn
ngừa tham nhũng, lãng phí.
Thứ năm, phát triển HTX phải theo phương châm tích cực, chủ động,
nhưng phải vững chắc, xuất phát từ nhu cầu thực tiễn, đi từ thấp đến cao, đa
dạng về mô hình, vì hiệu quả thiết thực, trước hết là vì sự phát triển của sức
sản xuất, triệt để tôn trọng nguyên tắc tự nguyện, nhất quyết không nóng vội,
chủ quan duy ý chí, áp đặt; nhưng cũng yêu cầu cấp uỷ Đảng và chính quyền
các cấp cần khắc phục sự buông lỏng lãnh đạo, bị động ngồi chờ, để mặc sự
phát triển tự phát của nền kinh tế, mà chậm trể trong việc nắm bắt và đáp ứng
những đòi hỏi của nhân dân về phát triển kinh tế tập thể. Nghị quyết Trung
ương yêu cầu phải xác lập môi trường thể chế và tâm lý xã hội thuận lợi cho
kinh tế hợp tác, HTX phát triển như: Sửa đổi bổ sung một số quy định pháp
luật hiện hành về những vấn đề liên quan đến kinh tế tập thể, bảo đảm tính

nhất quán giữa các luật, Luật Đất đai, Luật Ngân hàng, Luật các tổ chức Tín
dụng, các Luật về Thuế, Bộ Luật Dân sự, Luật về Bảo hiểm xã hội, Pháp lệnh

14


Cán bộ công chức... tạo điều kiện cho Luật HTX đi nhanh vào cuộc sống theo
hướng giảm tối đa thủ tục thành lập và đăng ký kinh doanh, thành viên HTX
bao gồm cả thể nhân và pháp nhân; cán bộ công chức được tham gia HTX với
tư cách là xã viên; phân định rõ chức năng quản lý của Ban quản trị và chức
năng điều hành của Chủ nhiệm; Chủ nhiệm có thể là xã viên hoặc ngoài HTX
do ban quản trị thuê; HTX tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong lựa chọn ngành,
nghề kinh doanh, chuyển dịch cơ cấu, đa dạng lĩnh vực hoạt động phù hợp với
nhu cầu thị trường; ban hành đồng bộ, kịp thời các văn bản dưới luật, sửa đổi
bổ sung Điều lệ mẫu phù hợp với đặc thù của các loại hình HTX để dễ vận
dụng; hướng dẫn về tổ chức, hoạt động đối với tổ hợp tác theo Bộ luật Dân
sự.
Tạo lập môi trường tâm lý xã hội thuận lợi cho kinh tế hợp tác, HTX
phát triển bằng việc: Tăng cường tuyên truyền chủ trương, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước về phát triển kinh tế hợp tác, HTX và các mô
hình làm ăn có hiệu quả; biểu dương, khen thưởng những cá nhân và tập thể
có thành tích và đóng góp cho kinh tế hợp tác, HTX; đưa nội dung phát triển
kinh tế hợp tác, HTX vào giảng dạy trong các trường đại học, cao đẳng, trung
học chuyên nghiệp và dạy nghề.
1.1.3.2

Chính sách của nhà nước về phát triển kinh tế hợp tác, hợp tác xã trong nền
kinh tế thị trường
Trước thời kỳ đổi mới, các chính sách phát triển kinh tế hợp tác, HTX
của Đảng và Nhà nước được thiết kế theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung, bao

cấp; quan hệ giữa Nhà nước - HTX - xã viên không đựơc phân chia hợp lý,
đặc biệt lợi ích xã viên và người lao động trong HTX ít được chú trọng.
Giai đoạn từ thời điểm khởi đầu công cuộc đổi mới đến trước khi có
Luật HTX 1996, xu hướng chính sách lại coi trọng khuyến khích và tạo điều
kiện tối đa cho lợi ích cá nhân, mở rộng quyền tự chủ cho xã viên, có phần coi

15


nhẹ sự phát triển của HTX, thậm chí “lãng quên” việc xây dựng chính sách
cho các HTX trong cơ chế kinh tế thị trường.
Giai đoạn từ thời điểm Luật HTX 1996 có hiệu lực đến trước Nghị
quyết 13-NQ/TW của Hội nghị Trung ương (khoá IX), các chính sách được
ban hành để khuyến khích phát triển kinh tế hợp tác và HTX chưa thực sự đi
vào cuộc sống, chưa được triển khai thực hiện.
Nghị định 02/CP và 15/CP cho đến khi ban hành Luật HTX năm 2003
vẫn chưa có Thông tư hướng dẫn thực hiện. Do vậy, sự quan tâm về chính
sách thời kỳ này hầu như không mấy tác dụng đối với sự phát triển của HTX.
Các HTX hầu như không được thụ hưởng chính sách gì đáng kể. Kinh tế hợp
tác, HTX vẫn bị “thả lỏng, buông trôi” cả về chính sách và quản lý nhà nước.
Từ khi Hội nghị Trung ương 5 (khoá IX) ra Nghị quyết chuyên đề về
phát triển kinh tế tập thể mà nòng cốt là HTX, các chính sách phát triển kinh
tế tập thể được quan tâm một cách toàn diện và đầy đủ hơn cùng với sự ra đời
của Luật HTX mới, cùng với quá trình chuẩn bị các chính sách cụ thể hoá và
đồng bộ theo theo thần Nghị quyết và Luật HTX mới. Hướng chính của các
chính sách phát triển kinh tế hợp tác, HTX như sau:
* Chính sách cán bộ đào tạo nguồn nhân lực:
Điểm mới trong chính sách cán bộ cho HTX đã xác định rõ hơn trách
nhiệm đào tạo cán bộ cho HTX của các ngành, địa phương với sự hỗ trợ kinh
phí của Nhà nước, chế độ thuê Chủ nhiệm, chế độ bảo hiểm xã hội cho cán bộ

xã viên HTX. Cụ thể như sau:
- Các ngành, các địa phương chủ động xây dựng quy hoạch đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý và nghiệp vụ cho khu vực kinh tế tập thể.
- Nhà nước hỗ trợ toàn bộ kinh phí đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho
HTX.
- Có chính sách thu hút cán bộ quản lý và cán bộ khoa học kỹ thuật về
công tác tại HTX.

16


- Thực hiện bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với xã viên HTX và người lao
động làm việc theo hợp đồng, hưởng tiền lương, tiền công theo Bộ luật lao
động; các thành viên khác không tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc thì tạo
điều kiện tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện theo nhu cầu.
* Chính sách đất đai:
Khuyến khích và tạo điều kiện cho hộ nông dân “dồn điền, dồn thửa”,
tập trung ruộng đất theo chính sách của Nhà nước để phát triển sản xuất hàng
hoá, mở mang ngành nghề.
- Nhà nước giao đất không thu tiền và cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho HTXNN xây dựng trụ sở, làm cơ sở SX-KD...
- HTX phi nông nghiệp được thuê đất dài hạn, giảm mức nộp thuế sử
dụng đất cho HTXNN trong một thời gian nhất định và được nộp tiền thuê đất
nhiều lần.
- Đất do HTX đầu tư để khai phá, tôn tạo, khi Nhà nước chuyển sang
chế độ cho thuê, cần trả lại chi phí cho HTX.
* Chính sách tài chính, tín dụng
- Chính sách thu: Miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong một thời gian
nhất định đối với HTX nông, lâm, ngư nghiệp mới chuyển đổi hoặc thành lập.
- Thực hiện chính sách hỗ trợ đầu vào, đầu ra cho sản xuất nông

nghiệp.
- Khuyến khích nhiều hình thức góp vốn bằng tiền, tài sản, giá trị
quyền sử dụng đất...của thành viên để tăng thêm vốn kinh doanh cho HTX,
nhưng phải công khai hoá những đóng góp của thành viên.
- Xử lý dứt điểm nợ tồn đọng của HTXNN từ năm 1996 về trước; tiếp
tục xem xét để xử lý nợ tồn đọng cho HTX phi nông nghiệp.

17


- Những tài sản của HTX cũ và tài sản của Nhà nước giao cho HTX sử
dụng trước đây cho phép HTX chuyển đổi để làm vốn không chia thuộc sở
hữu chung.
- HTX là một loại hình doanh nghiệp, được vay vốn bình đẳng như
doanh nghiệp của các thành phần kinh tế khác.
* Chính sách hỗ trợ về khoa học-công nghệ:
Nhà nước hỗ trợ cho kinh tế tập thể ứng dụng các thành tựu KH-CN,
nhất là giống, công nghệ sinh học, công nghệ bảo quản, chế biến, công nghệ
thông tin... qua hoạt động của hệ thống khuyến nông, khuyên lâm, khuyến
ngư, khuyến công.
Đầu tư tập trung để nâng cao của một số Viện, trung tâm nghiên cứu và
chuyển giao KH-CN theo vùng nhằm hỗ trợ HTX và hộ nông dân. Khuyến
khích cơ quan chuyển giao các thành tựu KH-CN mới cho HTX, nghiên cứu
sản xuất sản phẩm mới, khai thác và sử dụng các nguồn nguyên liệu sẵn có
trong nước.
Khuyến khích xây dựng các cơ sở chế biến nông, lâm, thuỷ sản, công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, phát triển làng nghề...ở nông thôn, hướng dẫn
và giúp các HTX tiểu thủ công nghiệp đổi mới công nghệ, đa dạng hoá sản
phẩm, hạ giá thành, tạo sức cạnh tranh.
* Chính sách hỗ trợ tiếp thị và mở rộng thị trường:

Các ngành, các địa phương, các hiệp hội ngành nghề và Liên minh
HTX hỗ trợ xúc tiến thương mại, cung cấp thông tin, tìm kiếm thị trường giúp
đỡ các hộ, tổ hợp tác và HTX; tổ chức các hình thức giới thiệu sản phẩm ở
trong và ngoài nước phù hợp với trình độ hiện tại và xu hướng phát triển của
kinh tế tập thể.

18


Thực hiện rộng rãi việc ký kết hợp đồng trực tiếp giữa doanh nghiệp
chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông, lâm, ngư nghiệp với nông dân qua các
HTX.
Các doanh nghiệp cung ứng vật tư, phân bón, thức ăn chăn nuôi, hướng
dẫn quy trình kỹ thuật và thu mua sản phẩm cho HTX theo các hợp đồng dài
hạn đối với những sản phẩm có khối lượng lớn, có chế độ ưu đãi các doanh
nghiệp này.
Khuyến khích nông dân và HTX sản xuất nguyên liệu mua cổ phần, trở
thành cổ đông của các doanh nghiệp chế biến nông lâm, thuỷ sản.
* Chính sách đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng:
Những đổi mới về chính sách đầu tư phát triển hạ tầng cũng được quan
tâm từ phía Nhà nước. Theo định hướng chính sách đã được nêu trong Nghị
quyết Hội nghị Trung ương 5 (khoá IX). Nhà nước sẽ thực hiện chính sách hỗ
trợ đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông, điện, nước, công trình thuỷ
lợi... trước hết cho phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng CNH-HĐH;
tạo điều kiện hình thành và phát triển các vùng sản xuất hàng hoá lớn, thúc
đẩy sự hình thành và phát triển của kinh tế hợp tác, HTX.
1.2 Hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới ở nước ta
1.2.1 Khái niệm về HTX, HTX NN và HTX DVNN
• Khái niệm HTX ở một số nước
HTX là một loại hình kinh tế hợp tác có ý nghĩa lớn đối với các chủ sản

xuất nhỏ, thợ thủ công, nông dân...vì thế mà phong trào hợp tác xã phát triển
mạnh mẽ ở các nước. Liên minh HTX thế giới đã được thành lập tại Luân
Đôn (Anh) vào tháng 8/1895. Liên minh HTX đưa ra định nghĩa về HTX như
sau: “HTX là tổ chức tự trị của những người tự nguyện liên hợp lại để đáp
ứng nhu cầu và nguyện vọng chung của họ về kinh tế xã hội và văn hóa thông
qua một xí nghiệp cùng sở hữu và quản lý dân chủ”.

19


Bên cạnh định nghĩa của liên minh HTX thế giới, các nước có phong
trào HTX cũng đưa ra định nghĩa về HTX trong Luật HTX của mình.
Luật Hợp tác xã của CHLB Đức định nghĩa: “ Hợp tác xã đăng ký là
những tập thể với đa số thành viên không hạn chế nhằm khuyến khích việc
sản xuất, kinh doanh của các thành viên, thông qua các cơ sở sản xuất, kinh
doanh chung”.
Luật Hợp tác xã của Inđônêxia định nghĩa: “Hợp tác xã Inđônêxia là tổ
chức kinh tế của nhân dân mang tính xã hội, gồm những người hoặc những tổ
chức ở địa phương và thành viên lập nên một hệ thống kinh tế như là nỗ lực
chung đặt trên cơ sở nguyên tắc của tình anh em”.
Từ những định nghĩa hợp tác xã nêu trên, có thể hiểu hợp tác xã là một tổ
chức kinh tế của những cá nhân, tập thể tự nguyện liên kết với nhau nhằm mục
đích chung, thoả mãn nhu cầu chung, nhằm hổ trợ, giúp đỡ lẫn nhau tiến hành
công việc kinh doanh có hiệu quả nhất theo nguyên tắc liên kết tự nguyện.
• Khái niệm HTX ở Việt Nam
Ở nước ta trước yêu cầu phát triển HTX vào cuối những năm của thế kỉ
XX, luật HTX đã thông qua và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/1997. Trong
chương I, điều 1 của Luật đã nêu định nghĩa “Hợp tác xã là một tổ chức kinh
tế tự chủ do những người lao động có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện cùng
góp vốn, góp sức lập ra theo qui định của pháp luật để phát huy sức mạnh

của tập thể và của từng xã viên nhằm giúp nhau thực hiện có hiệu quả hơn
các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và cải thiện đời sống, góp phần
phát triển kinh tế xã hội của đất nước”.
Điều 1 của HTX sửa đổi bổ sung năm 2003 được nêu như sau: “HTX là
tổ chức kinh tế tập thể do các cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân (sau đây gọi
chung là xã viên) có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện góp vốn, góp sức lập
ra theo qui định của Luật này để phát huy sức mạnh tập thể của từng xã viên

20


tham gia HTX, cùng giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất
kinh doanh và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, góp phần phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước. HTX hoạt động như một loại hình doanh nghiệp, có
tư cách pháp nhân, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài chính
trong phạm vị vốn điều lệ, vốn tích lũy và các nguồn vốn khác của HTX theo
qui định của pháp luật.”
Theo khái niệm này, ngoài những tính chất và đặc thù do Luật HTX
(năm 1996) qui định, HTX kiểu mới do các thành viên bao gồm cả thể nhân
và pháp nhân, cả người có ít vốn và người có nhiều vốn, có thể góp sức hoặc
góp vốn xây dựng nên, trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc: tự nguyện, bình
đẳng cùng có lợi và quản lý dân chủ. HTX được thừa nhận hoạt động theo
điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp trong cơ chế thị trường như các thành phần
kinh tế khác; được khẳng định quyền “tự chủ” trong sản xuất kinh doanh;
được huy động “các nguồn vốn khác theo qui định của pháp luật” như các loại
hình doanh nghiệp khác. Trước đây, luật không qui định điều này.
Theo định nghĩa này, HTX được vay vốn bình đẳng như đối với doanh
nghiệp của các thành phần kinh tế khác, các HTX được thế chấp bằng tài sản
hình thành từ vốn vay để vay vốn ngân hàng, được vay vốn bằng tín chấp và
vay theo dự án sản xuất, kinh doanh có hiệu quả, các HTX được tham gia các

chương trình dự án quốc gia của Chính phủ và các tổ chức phi chính phủ.
Ngân hàng Nhà nước phải có hướng dẫn chỉ đạo chặt chẽ đối với các hoạt
động tín dụng trong nội bộ HTX; khuyến kích phát triển quỹ tín dụng nhân
dân một cách vững chắc.
Đây là tư tưởng đối mới của Đảng và Nhà nước ta, tạo điều kiện và
giúp đỡ kinh tế hợp tác và HTX phát triển.


Khái niệm hợp tác xã nông nghiệp
Hợp tác xã nông nghiệp là tổ chức kinh tế tự chủ do nông dân và những
người lao động có nhu cầu, lợi ích chung tự nguyện cùng góp vốn, góp sức

21


lập ra theo quy định của pháp luật để phát huy sức mạnh tập thể và của từng
xã viên nhằm giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động dịch vụ hỗ trợ
cho kinh tế hộ gia đình các xã viên và kinh doanh trong lĩnh vực sản xuất, chế
biến, tiêu thụ sản phẩm nông, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản và các ngành nghề khác; cải thiện đời sống xã viên; góp phần phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước.
• Khái niệm về HTX DV nông nghiệp
Có nhiều tiêu chí để phân loại HTX như chức năng, tính chất xã hội
hóa, quy mô và đặc điểm hình thành HTX. Nhìn chung về đặc điểm loại hình
HTX NN kiểu mới ở nước ta, có thể khái quát thành các loại hình sau:
Loại thứ nhất, HTX vừa làm dịch vụ, vừa tổ chức sản xuất tập trung ở
các mức độ và quy mô khác nhau (HTX sản xuất kinh doanh dịch vụ tổng
hợp)
Loại thứ hai, HTX nông nghiệp làm dịch vụ (HTX DVNN)
HTX DV nông nghiệp là một tổ chức kinh tế của những người có nhu
cầu, lợi ích chung, tự nguyện góp vốn, góp sức lập ra theo Luật HTX và điều

lệ mẫu HTX để kinh doanh các dịch vụ phục vụ đầu vào, đầu ra của quá trình
sản xuất nông nghiệp cũng như nâng cao đời sống xã viên và cộng đồng dân
cư ở khu vực nông thôn.
Đây là loại hình HTX được tách hẳn ra để làm chức năng dịch vụ nông
nghiệp bao gồm dịch vụ các yếu tố đầu vào như dịch vụ cung ứng vật tư
(giống, phân bón, thuốc trừ sâu...); dịch vụ các khâu cho sản xuất nông nghiệp
như dịch vụ làm đất, tưới tiêu, bảo vệ thực vật...; dịch vụ các yếu tố đầu ra sản
xuất nông nghiệp như dịch vụ chế biến, bảo quản, thu mua, tiêu thụ sản
phẩm...những khâu dịch vụ này, nếu từng xã viên làm thì sẽ không hiệu quả.
Mô hình này đã triển khai đa dạng các loại hình dịch vụ như chế biến nông sản,
phát triển ngành nghề, kinh doanh thương mại, xây dựng, tín dụng...

22


1.2.2 Sự cần thiết phải phát triển HTX DVNN và những đặc trưng chủ yếu của
1.2.2.1

HTX DVNN trong nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta hiện nay
Sự cần thiết phải phát triển HTX DVNN trong nền KTTT định hướng XHCN ở
nước ta hiện nay
KTTT định hướng XHCN là mô hình kinh tế tổng quát có ý nghĩa
chiến lược lâu dài và có tính quy luật trong thời kì quá độ lên xây dựng
CNXH ở nước ta. KTTT định hướng XHCN ở VN là một kiểu tổ chức kinh tế
vừa dựa trên nguyên tắc, quy luật của thị trường, vừa dựa trên cơ sở dẫn dắt,
chi phối của CNXH thể hiện trên 3 mặt sở hữu, quản lý và phân phối. Do vậy,
nền kinh tế ấy chịu sự tác động của quy luật cung cầu, cạnh tranh, giá trị...của
nền KTTT. Phát triển HTX DVNN là cần thiết trong nền KTTT định hướng
XHCN. Điều này được thể hiện ở những khía cạnh sau:
Thứ nhất, phát triển HTX DVNN là tất yếu trong quá trình phát triển

nông nghiệp trong nền KTTT định hướng XHCN. Lực lượng sản xuất đang
phát triển mạnh mẽ tác động tới quá trình phân công lao động. Nông nghiệp
không nằm ngoài tác động của quy luật đó. Kinh tế hộ đã tỏ rõ tính ưu việt
trong sản xuất nông nghiệp. HTX DVNN không phải là xóa bỏ vai trò của
kinh tế hộ đối với sản xuất nông nghiệp mà làm cho kinh tế hộ phát triển
mạnh mẽ hơn với việc liên kết hộ xã viên trên cơ sở tự nguyện, cùng có lợi,
hình thành các HTX đảm nhiệm các khâu dịch vụ mà các hộ đơn lẻ không
thực hiện được. Sự liên kết đó giúp các hộ xã viên tập trung sản xuất, giảm
chi phí, nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo ra sức cạnh tranh cho các sản
phẩm nông sản trên thị trường trong nước và quốc tế, tạo ra sức mạnh mới để
tồn tại và phát triển.
Thứ hai, phát triển HTX DVNN là do yêu cầu cần thúc đẩy phân công
lao động, chuyên môn hóa, cung cấp yếu tố đầu vào có chất lượng cho công
nghiệp chế biến nông sản, phục vụ xuất khẩu, thúc đẩy sản xuất và lưu thông

23


hàng hóa, khắc phục tình trạng sản xuất manh mún, nhỏ lẻ, tự cung, tự cấp
trong nông nghiệp hiện nay. Trên địa bàn nông thôn nước ta nhìn chung lực
lượng sản xuất còn chưa phát triển. Khi phát triển HTX DVNN, hình thành
một nhóm lao động chuyên cung cấp các dịch vụ phục vụ sản xuất và đời
sống của nhân dân. Người lao động tập trung cho sản xuất, nâng cao chất
lượng sản phẩm. Các yếu tố đầu vào cho công nghiệp chế biến nông sản được
đảm bảo chất lượng và phục vụ tốt hơn nhu cầu của thị trường trong và ngoài
nước. HTX DVNN sẽ đứng ra tìm đầu ra uy tín, đảm bảo cho xã viên, tránh
tình trạng “mất mùa được giá”.
Thứ ba, phát triển HTX DVNN là do yêu cầu đẩy nhanh quá trình
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Khi các HTX DVNN đã chuyên môn
hóa các yếu tố của quá trình sản xuất, đã áp dụng tiến bộ khoa học, kĩ thuật

vào sản xuất đồng thời đảm bảo đầu ra cho các sản phẩm, thì hiệu quả của sản
xuất sẽ rất cao. Phát triển HTX DVNN đã góp phần tăng nhanh tỉ trọng sản
phẩm và lao động trong các ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỉ trọng
sản phẩm và lao động, xây dựng kết cấu hạ tầng như thủy lợi, giao thông, bảo
vệ môi trường sinh thái, thúc đẩy cơ giới hóa nông nghiệp, áp dụng công nghệ
hiện đại tiên tiến vào sản xuất nông nghiệp.
Thứ tư, phát triển HTX DVNN là do yêu cầu huy động và sử dụng tốt
các nguồn lực kinh tế ở khu vực nông thôn. Khi xây dựng các HTX DVNN,
đảm nhận nhiều loại hình dịch vụ hỗ trợ sản xuất nông nghiệp, tạo điều kiện
cho xã viên tập trung sản xuất kinh doanh, mọi nguồn lực trong sản xuất được
huy động một cách triệt để. Cũng chính nhờ quá trình này việc tổ chức, quản
lý dịch vụ của HTX được hiệu quả hơn, ngày càng mở rộng và nâng cao về
chất lượng phục vụ. Sự phát triển của HTX đã tận dụng một cách có hiệu quả
các nguồn lực ở khu vực nông thôn như tín dụng nội bộ tức là chính xã viên
giúp xã viên, “tương trợ cộng đồng”, giúp nhau cùng phát triển, dịch vụ tiêu

24


thụ sản phẩm...sự ra đời và phát triển của HTX DVNN không chỉ có ý nghĩa
về kinh tế mà nó còn mang tính xã hội sâu sắc.
Như vậy, trong nền KTTT định hướng XHCN, HTX nói chung đặc biệt
là HTX DVNN đã thể hiện khá rõ vai trò của mình. Loại hình này là phương
thức làm ăn có hiệu quả góp phần thúc đẩy quá trình CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn, phấn đấu mục tiêu đến năm 2020 “nước ta cơ bản trở
thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”.
1.2.2.2

Những đặc trưng chủ yếu của HTX DVNN
Thứ nhất, HTX DV nông nghiệp đầu tư kinh doanh đa lĩnh vực, đa

ngành nghề, từ dịch vụ đầu vào đến đầu ra của quá trình sản xuất nông
nghiệp và phục vụ đời sống xã viên, cộng đồng dân cư. HTX loại này kinh
doanh nhiều loại hình dịch vụ khác nhau, từ dịch vụ đầu vào (thủy lợi, con
giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, vốn,...), đến các dịch vụ đầu ra (chế
biến, bảo quản, tiêu thụ sản phẩm,...) nhằm mục tiêu thực hiện tốt hơn những
dịch vụ hỗ trợ xã viên phát triển sản xuất kinh doanh một cách hiệu quả nhất.
Bên cạnh đó, các HTX cũng đầu tư vào dịch vụ phục vụ đời sống (dịch vụ
cung cấp hàng hóa tiêu dùng, điện, nước sạch, vệ sinh môi trường...). Có thể
nói đây là đặc trưng cơ bản của HTX DVNN.
Thứ hai, địa bàn hoạt động và đối tượng phục vụ chủ yếu ở nông thôn.
Các HTX dịch vụ nông nghiệp được hình thành một cách tự nguyện giữa các
hộ xã viên. Nông thôn chính là địa bàn hoạt động hiệu quả, có lợi thế lớn đối
với các HTX. Nông dân chính là đối tượng phục vụ quan trọng nhất, cơ bản
nhất chi phối các hoạt động của các HTX.
Thứ ba, sự phát triển đã đạt đến một trình độ nhất định, có phương
pháp tổ chức và quản lý đa dạng, phù hợp. Các HTX DVNN có nguồn gốc
chuyển đổi liên kết của nhiều HTX nhỏ hoặc được thành lập mới, đều thực
hiện nhiều khâu dịch vụ, thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Đó là kết quả của

25


×