Tải bản đầy đủ (.pdf) (121 trang)

Sử dụng tư liệu về chủ quyền biển đảo tổ quốc trong dạy học lịch sử ở trường trung học phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.87 MB, 121 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

ĐẶNG THỊ HUẾ

SỬ DỤNG TƢ LIỆU VỀ CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO TỔ QUỐC
TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM LỊCH SỬ

HÀ NỘI – 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

ĐẶNG THỊ HUẾ

SỬ DỤNG TƢ LIỆU VỀ CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO TỔ QUỐC
TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM LỊCH SỬ
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC
(BỘ MÔN LỊCH SỬ)
Mã số: 60 14 01 11

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN VĂN NINH

HÀ NỘI – 2015



LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tôi xin trân trọng cảm ơn TS. Nguyễn Văn Ninh
– người đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình làm luận văn,
cung cấp những tài liệu cần thiết để phục vụ cho việc nghiên cứu.
Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của Ban lãnh đạo trường Đại học Giáo
dục – Đại học Quốc gia Hà Nội, cảm ơn sự góp ý của các thầy cô đã trực tiếp giảng
dạy tôi trong quá trình tôi học tập, nghiên cứu tại trường.
Xin trân trọng cảm ơn Ban giám hiệu, các thầy cô giáo, các em học sinh các
trường THPT Cẩm Giàng I, THPT Cẩm Giàng II, THPT Tuệ Tĩnh – Cẩm Giàng –
Hải Dương đã giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè đã động viên và tạo
điều kiện cho tôi hoàn thành khóa học cũng như luận văn này.
Hà Nội, tháng 10 năm 2015
Tác giả

Đặng Thị Huế

i


MỤC LỤC
Lời cảm ơn ................................................................................................................... i
Mục lục ........................................................................................................................ii
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC SỬ DỤNG TƢ
TIỆU VỀ CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO TỔ QUỐC TRONG DẠY HỌC LỊCH
SỬ Ở TRƢỜNG THPT...........................................................................................13
1.1. Cơ sở lí luận .......................................................................................................13
1.1.1. Một số khái niệm, thuật ngữ. ..........................................................................13
1.1.2. Cơ sở xuất phát của việc sử dụng tư liệu về chủ quyền biển đảo tổ quốc trong

dạy học lịch sử ở trường THPT. ................................................................................15
1.1.3. Vai trò, ý nghĩa của việc sử dụng tư liệu về chủ quyền biển, đảo tổ quốc trong
dạy học lịch sử ở trường trung học phổ thông. ........................................................19
1.2. Cơ sở thực tiễn ...................................................................................................23
1.2.1. Thực trạng sử dụng tư liệu về chủ quyền biển, đảo tổ quốc trong dạy học lịch
sử ở trường trung học phổ thông. ..............................................................................23
1.2.2. Những vấn đề đặt ra cần giải quyết. ................................................................29
CHƢƠNG 2: CÁC HÌNH THỨC VÀ BIỆN PHÁP SỬ DỤNG TƢ LIỆU VỀ
CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO TỔ QUỐC TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở
TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG. .............................................................32
2.1. Các loại tư liệu chủ yếu về chủ quyền biển đảo tổ quốc có thể khai thác, sử
dụng trong dạy học lịch sử ở trường trung học phổ thông. .......................................32
2.2. Những yêu cầu cơ bản khi sử dụng tư liệu về chủ quyền biển đảo tổ trong dạy
học lịch sử ở trường trung học phổ thông. ................................................................33
2.2.1. Yêu cầu về tư liệu............................................................................................33
2.2.2. Yêu cầu khi xác định các biện pháp sử dụng tư liệu về chủ quyền biển đảo tổ
quốc trong dạy học lịch sử ở trường trung học phổ thông. .......................................34
2.3. Những nội dung lịch sử liên quan, có thể khai thác, sử dụng tư liệu về chủ
quyền biển đảo tổ quốc trong chương trình sách giáo khoa lịch sử trung học phổ
thông. .........................................................................................................................35

ii


2.4. Các biện pháp sử dụng tư liệu về chủ quyền biển đảo tổ quốc trong dạy học lịch
sử ở trường THPT. ....................................................................................................43
2.4.1 Các biện pháp sử dụng tư liệu về chủ quyền biển đảo tổ quốc trong giờ học
nội khóa. ....................................................................................................................43
2.4.2. Sử dụng tư liệu về chủ quyền biển đảo tổ quốc trong các hoạt động ngoại
khóa. ..........................................................................................................................59

2.5. Thực nghiệm sư phạm ........................................................................................71
2.5.1. Mục đích thực nghiệm ....................................................................................71
2.5.2. Đối tượng và địa bàn thực nghiệm ..................................................................71
2.5.3 Nội dung và phương pháp thực nghiệm: ..........................................................71
2.5.4. Kết quả thực nghiệm: ......................................................................................73
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ .........................................................................76
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................79
PHỤ LỤC:................................................................................................................82

iii


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Sinh thời, chủ tịch Hồ Chí Minh đã đánh giá rất cao vai trò của thanh niên đối
với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Người cho rằng: “Thanh niên là người
chủ tương lai của nước nhà”. Thật vậy, nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh, một
phần lớn là do các thanh niên” [9, tr. 185] Trước lúc đi xa người cũng không quên
căn dặn Đảng ta “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc làm rất quan
trọng và cần thiết” [10, tr. 510]
Lời di huấn của chủ tịch Hồ Chí Minh, trở thành tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước ta. Nghị quyết lần thứ tư,
Ban chấp hành trung ương khóa VII (1993) đã khẳng định: “Sự nghiệp đổi mới có
thành công hay không, cách mạng Việt Nam có vững bước theo con đường xã hội
chủ nghĩa hay không, phần lớn tùy thuộc vào lực lượng thanh niên” [ 8, tr. 82].
Hiện nay, giáo dục thanh niên trở thành những người vừa có tài, vừa có đức, để gìn
giữ thành quả cách mạng, xây dựng và phát triển tương lai của đất nước, vẫn luôn
được xác định là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của ngành giáo dục.
Bộ môn lịch sử có vai trò vô cùng to lớn trong việc giáo dục lòng yêu quê
hương đất nước, trân trọng những truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Đặc biệt trong

xu thế hội nhập hiện nay thì việc giáo dục cho thế hệ trẻ thấm nhuần những giá trị
truyền thống, những phẩm chất cao quý tốt đẹp của dân tộc càng trở nên có ý nghĩa
hơn bao giờ hết. Một trong những truyền thống quý báu của dân tộc Việt nam mà
thế hệ trẻ cần trân trọng, kế thừa và phát huy đó là truyền thống yêu nước, đánh
giặc, bảo vệ toàn vẹn vùng đất, vùng trời, vùng biển của tổ quốc.
Trong lịch sử chiều dài hàng ngàn năm lịch sử, Việt Nam luôn khẳng định là
một quốc gia biển với quá trình khai phá lãnh thổ, mở mang bờ cõi hướng biển. Việt
Nam có quyền lợi “sống còn” đối với việc khẳng định chủ quyền ở biển Đông. Biển
Đông đóng một vai trò tối quan trọng, là một trong những yếu tố hàng đầu tạo nên
vị thế của Việt Nam ở khu vực và trên thế giới. Biển Đông không chỉ là lãnh thổ,
chủ quyền quốc gia thiêng liêng của Việt Nam mà còn là nơi có tiềm năng kinh tế
khổng lồ, nhất là dầu khí và nguồn thủy sản, giúp cho Việt Nam có thể khẳng định
được sức mạnh kinh tế của mình ở khu vực. Hơn thế nữa, biển Đông có một vị trí

1


đặc biệt quan trọng đối với việc mở rộng giao lưu hợp tác quốc tế và an ninh quốc
gia của Việt Nam. Tuy nhiên, hiện nay vấn đề bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển
đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức, gần đây nhất là việc Trung Quốc hạ
đặt dàn khoan trái phép, xâm phạm chủ quyền biển đảo của nước ta. Trước những
diễn biến phức tạp của tình hình Biển Đông thì việc tuyên truyền, giáo dục ý thức
về chủ quyền biển đảo tổ quốc cho thế hệ trẻ là một nhiệm vụ cần thiết và mang tính
chiến lược.
Biển đảo Việt Nam là một phần lãnh thổ thiêng liêng không thể tách rời của
Tổ quốc. Trách nhiệm của mỗi người dân Việt Nam là ra sức gìn giữ sự toàn vẹn
phần lãnh thổ này như lời Bác Hồ năm xưa đã dặn “Các Vua Hùng đã có công dựng
nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ nước”. Để học sinh - những chủ nhân tương
lai của đất nước, ý thức sâu sắc trách nhiệm công dân trong việc bảo vệ chủ quyền
thiêng liêng của tổ quốc nói chung và chủ quyền biển đảo tổ quốc nói riêng, thì đòi

hỏi người giáo viên lịch sử phải cố gắng, nỗ lực nhiều hơn trong công tác giáo dục
của mình.
Hiện nay có nhiều cách thức, nhiều phương pháp để giáo dục ý thức chủ
quyền biển đảo tổ quốc cho học sinh, nhưng làm thế nào để khắc sâu ý thức bảo vệ
chủ quyền biển đảo? làm thế nào để thế hệ trẻ Việt Nam tự tin khẳng định với thế
giới chủ quyền biển đảo của tổ quốc? thì đòi hỏi người giáo viên lịch sử phải biết
lựa chọn và vận dụng linh hoạt các phương pháp sư phạm phù hợp, giúp học sinh
nắm bắt và hiểu sâu sắc kiến thức về chủ quyền biển đảo, từ đó hình thành ở các em
ý thức công dân với việc bảo vệ chủ quyền biển đảo tổ quốc. Ở các trường trung
học phổ thông, đa số giáo viên lịch sử đã nhận thức được tầm quan trọng của việc
đưa nội dung giáo dục ý thức chủ quyền biển đảo tổ quốc vào giảng dạy. Tuy nội
dung giáo dục chủ quyền biển đảo tổ quốc không có trong chương trình sách giáo
khoa, nhưng các nguồn tư liệu về chủ quyền biển đảo thì rất phong phú, giáo viên
có thể dễ dàng sưu tầm và sử dụng trong công tác giảng dạy. Gần đây Bộ giáo dục
cũng đã kịp thời có kế hoạch bồi dưỡng, tập huấn về nội dung giáo dục chủ quyền
biển đảo tổ quốc trong nhà trường, đây cũng là một thuận lợi đối với giáo viên lịch
sử trong việc thực hiện nhiệm vụ giáo dục chủ quyền biển đảo. Nhưng nhìn chung
là vẫn chưa có một tài liệu nào về giáo dục chủ quyền biển đảo được biên soạn chi

2


tiết về cả nội dung và phương pháp dành cho giáo viên. Chính vì vậy để đạt hiệu
quả cao trong giáo dục ý thức chủ quyền biển đảo tổ quốc cho học sinh, vẫn rất cần
ở người giáo viên lịch sử sự tận tâm với nghề. Giáo viên cần không ngừng tìm tòi,
nghiên cứu các phương pháp dạy học, vận dụng linh hoạt và sáng tạo các phương
pháp dạy học khi sử dụng nguồn tư liệu về chủ quyền biển đảo tổ quốc trong dạy
học lịch sử, nhất là dạy học lịch sử ở nhà trường trung học phổ thông.
Xuất phát từ yêu cầu nâng cao hiệu quả giáo dục lịch sử nói chung và giáo
dục ý thức chủ quyền biển đảo nói riêng trong các nhà trường trung học phổ thông,

chúng tôi chọn vấn đề : Sử dụng tư liệu về chủ quyền biển đảo tổ quốc trong dạy
học lịch sử ở trường trung học phổ thông, làm đề tài luận văn thạc sỹ chuyên
ngành lí luận và phương pháp dạy học bộ môn lịch sử
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Dạy học Lịch sử nói chung và dạy học về vấn đề chủ quyền biển, đảo tổ quốc
nói riêng ở trường trung học phổ thông đã và đang được các nhà lý luận dạy học,
các chuyên gia, các nhà sử học, cùng nhiều giáo viên trong và ngoài nước quan tâm
nghiên cứu. Dưới đây là một số tài liệu có liên quan đến đề tài mà chúng tôi tiếp cận
và sử dụng làm tài liệu tham khảo trong quá trình nghiên cứu, hoàn thành luận văn:
2.1. Các công trình nghiên cứu, bài viết về chủ quyền biển, đảo Tổ quốc.
- Sau khi Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư của Ban Chấp hành trung ương Đảng
(khóa X) về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 ra đời, Trung tâm thông tin
công tác tư tưởng phối hợp với Cục chính trị Quân chủng Hải quân biên soạn cuốn
“Biển và hải đảo Việt Nam” xuất bản tại Hà Nội, năm 2007. Những nội dung cơ
bản của tài liệu đã làm rõ về quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước trong việc phấn đấu để nước ta trở thành một quốc gia mạnh về biển, giàu lên
từ biển, bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia trên biển. Cuốn sách cũng đề cập
nhiều tư liệu quan trọng của Việt Nam và quốc tế là những chứng cứ khẳng định
chủ quyền biển đảo tổ quốc.
- Các tác giả Nguyễn Nhã- Nguyễn Đình Đầu- Lê Minh Nghĩa- Từ Đặng Minh Thu
- Vũ Quang Việt trong cuốn “ Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam” do Nhà xuất
bản trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh phát hành năm 2008 đã khẳng định đanh thép

3


Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam bằng việc đưa ra rất nhiều những dẫn chứng
lịch sử cụ thể về chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa.
- Trong “Những điều cần biết về Đất - Biển - Trời Việt Nam” của tác giả Lưu Văn
Lợi (2010) đã khẳng định rằng: Trên chặng đường bốn mươi thế kỉ , dân tộc ta đã

kiên trì và từng bước mở rộng ra Biển Đông, từ ven bờ tiến ra biển gần, rồi biển xa,
từ đất liền tiến vào các đảo ven bờ rồi các đảo xa hơn.
- Nhìn ra biển khơi”là cuốn sách do tác giả Hà Minh Hồng (Chủ biên) và nhóm tác
giả của Trung tâm nghiên cứu biển và đảo trường Đại học Khoa học xã hội và nhân
văn – Đại học Quốc Gia thành phố Hồ Chí Minh – Nhóm khảo sử Nam Bộ biên
soạn và phát hành năm 2012. Đây là cuốn sách có nội dung phong phú về biển đảo,
được tiếp cận qua lăng kính lịch sử với nhiều tư liệu chính thống, được phổ biến
trên những phương tiện thông tin đại chúng, nhằm cung cấp cho người muốn tìm
hiểu và nghiên cứu một góc nhìn hệ thống về biển đảo Việt Nam ngày nay.
- Tác giả Trần Công Trục (2011) trong cuốn “Dấu Ấn Việt Nam trên Biển Đông” đã
nhấn mạnh vị trí vai trò của Biển Đông trong lịch sử dân tộc, đồng thờicung cấp
thông tin chính xác về tình hình biển, đảo đến với người dân. Cuốn sách còn chuyển
tải những quan điểm, quy định đúng đắn, khách quan của nhà nước Việt Nam, phù
hợp với Công ước Luật Biển của Liên Hợp Quốc 1982 về các vấn đề tranh chấp trên
Biển Đông cũng như việc thực hiện nghĩa vụ của Nhà nước Việt Nam trước cộng
đồng quốc tế.
- Tiếp tục khẳng định về chủ quyền biển, đảo Việt Nam, “Người Việt với biển” của
tác giả Nguyễn Văn Kim (2011) đã tập trung khai thác và lý giải mối quan hệ giữa
đất nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam với thế giới bên ngoài qua con đường biển.
Tác giả nhấn mạnh: Chủ quyền và an ninh biển là chủ đề được quan tâm xuyên suốt
theo dòng chảy của lịch sử đất nước… Việc bảo vệ chủ quyền, giữ gìn an ninh, phát
triển kinh tế biển là nhiệm vụ mang tính chiến lược lâu dài.
- Bộ giáo dục và Đào tạo đã ban hành cuốn “Tài liệu hướng dẫn dạy học nội dung
giáo dục tài nguyên và môi trường biển, đảo cho học sinh Trung học phổ
thông”(2011) nhằm bổ sung thêm thông tin và giáo dục cho học sinh những hiểu
biết cần thiết về tiềm năng của biển, về việc khai thác hợp lí tài nguyên thiên
nhiên và bảo vệ môi trường biển, đảo, đặc biệt là vấn đề bảo vệ chủ quyền biển,

4



đảo Tổ quốc. Tài liệu cũng đưa ra những cách thức tổ chức hoạt động ngoại khóa
để giáo dục cho học sinh ý thức về chủ quyền biển, đảo Tổ quốc trong nhà trường
phổ thông.
- Vụ giáo dục quốc phòng và chương trình phát triển Giáo dục phổ đã ban hành
cuốn “Tài liệu tập huấn giáo viên cốt cán giáo dục quốc phòng- an ninh” (2012).
Các tác giả đã khẳng định về chủ quyền biển, đảo của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam trên cơ sở những văn bản của Đảng, Nhà nước về biển, đảo và các
các chứng cứ lịch sử chứng minh chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa.
- Tháng 7/2013, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam đã giới thiệu tác phẩm “Những
bằng chứng về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường
Sa” của tác giả Hãn Nguyên (Nguyễn Nhã). Cuốn sách này gồm có 6 chương. Năm
chương đầu, tác giả tập hợp và nghiên cứu có hệ thống các tư liệu liên quan đến
việc khẳng định chủ quyền của Việt tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Chương cuối đề cập tới vị trí, tầm quan trọng chiến lược của hai quần đảo này đối
với việc phát triển kinh tế, an ninh quốc phòng của đất nước. Nguồn tư liệu mà tác
giả khảo cứu rất đa dạng, phong phú, không chỉ của người Việt Nam mà còn của
người phương Tây, và của chính người Trung Quốc. Cuốn sách này giúp người đọc
hiểu thấu đáo hơn về chủ quyền biển, đảo của Việt Nam tại hai quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa.
- Tháng 5/2014 Bộ Thông tin và Truyền thông tổ chức Lễ tiếp nhận và công
bố Bộ Atlas bản đồ thế giới của Philipe Vandemaelen xuất bản năm 1827, có giá trị
quan trọng, khẳng định chủ quyền Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa. Thứ trưởng Bộ Thông tin Truyền thông Trương Minh Tuấn nhấn mạnh:
“Bộ Atlas được nhiều nhà khoa học Pháp và Mỹ khẳng định là bằng chứng không
thể chối cãi về chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam”.
- Ở Khánh Hòa, Uỷ Ban Nhân Dân tỉnh đã cho xuất bản cuốn “Văn hóa biển đảo
Khánh Hòa”(2012). Sách đã tập hợp những bài viết đề cập tới việc bảo tồn, giữ gìn
và phát huy tác dụng những di sản văn hóa liên quan đến quá trình xác lập, thực thi

chủ quyền và xây dựng quần đảo Trường Sa. Tài liệu này góp phần vào việc giáo
dục truyền thống yêu nước, uống nước nhớ nguồn, ghi nhớ công lao của các bậc

5


tiền nhân đối với đất nước. Đồng thời nâng cao nhận thức và trách nhiệm của cán
bộ, nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ trong việc tiếp nối cha anh giữ vững chủ quyền
biển, đảo Tổ quốc.
- Cuối năm 2013, Tài liệu giảng dạy và học tập Lịch sử Khánh Hòa ở trường THCS,
THPT ở Khánh Hòa do TS. Nguyễn Thị Kim Hoa chủ biên đã được Sở GD&ĐT
xuất bản, trong đó, nhiều bài học phản ánh tiềm năng thế mạnh của biển, đảo Khánh
Hòa. Tài liệu có bài ngoại khóa về lịch sử chủ quyền biển, đảo - Trường Sa, Hoàng
Sa tạo điều kiện thuận lợi cho GV phổ thông trong tỉnh khi dạy học những nội dung
về chủ quyền biển, đảo. Những công trình nghiên cứu nêu trên chính là nguồn tài
liệu tham khảo quan trọng cho chúng tôi khi thực hiện đề tài Luận văn này.
- Trong bài viết “ Chủ trương của Đảng và Nhà nước Việt Nam về kết hợp phát
triển kinh tế biển và bảo vệ chủ quyền biển, đảo (1986- 2007)”.Tác giả Vũ Quang
Hiển đã nhấn mạnh đến những giá trị chiến lược của biển đảo Việt Nam. Tác giả
đưa ra những chủ trương lớn của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong việc tổ chức tốt
việc bảo vệ chủ quyền, và giữ vững an ninh các tuyến biên giới, vùng trời, vùng
biển, hải đảo.
- Trong cuốn “Hoàng Sa, Trường Sa hỏi và đáp” của tác giả Trần Nam Tiến, do
Nhà xuất bản trẻ phát hành năm 2012, đã giải đáp rất nhiều những vấn đề về chủ
quyền biển đảo tổ quốc thông qua những câu hỏi cụ thể.
- Đầu tháng 6/ 2014, nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu đã công bố cuốn sách “Chủ
quyền Việt Nam trên Biển Đông và Hoàng Sa, Trường Sa”, gồm 8 chương, dày 367
trang khổ lớn, tập hợp những chứng liệu lịch sử và hơn 200 bản đồ cổ khẳng định
Việt Nam đã làm chủ phần lớn Biển Đông từ hàng trăm năm trước. Nói về cuốn
sách này, PGS. TS Phan Thanh Bình, Giám đốc Đại học quốc gia TP Hồ Chí Minh

nhấn mạnh: Với sự công phu, phân tích chính xác những văn bản cổ, bút ký, họa đồ,
hải đồ, cuốn sách của nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu cho công chúng có cái nhìn
chân thực hơn, toàn diện hơn về chủ quyền Tổ quốc. Đây là những bằng chứng mà
các nước phương Tây cũng như chính Trung Hoa ghi nhận về chủ quyền của Việt
Nam đối với Biển Đông và Hoàng Sa, Trường Sa.
- Cuốn “Hoàng Sa, Trường Sa trong thư tịch cổ” do Đinh Kim Phúc chủ biên, do
Nhà bản hội nhà văn phát hành năm 2014 đã công bố nhiều dẫn chứng về chủ quyền

6


Hoàng Sa, Trường Sa trong thư tịch cổ Việt Nam, Trung Quốc, các ghi chép hoặc
bản đồ docá giáo sĩ phương Tây vẽ trên đường truyền giáo ở Trung Quốc. Cuốn
sách cũng gồmnhững bài phản biện lại tài liệu và chứng cứ lịch sử vô căn cứ mà
Trung Quốc đưa ra để tranh chấp Hoàng Sa và Trường Sa của ta.
- Các tác giả Trần Viết Lưu – Đặng Công Minh – Đinh Văn Bắc trong cuốn Giáo
dục chủ quyền biển đảo cho thế hệ trẻ Việt Nam (2014), đã khẳng định sự cần thiết
phải giáo dục chủ quyền biển đảo tổ quốc cho thế hệ trẻ. Các tác giả cũng đã khảo
cứu đưa ra biện pháp giáo dục ý thức chủ quyền biển đảo tổ quốc cho học sinh trong
một số bài nội khóa liên quan và đề xuất một vài biện pháp tổ chức các hoạt động
ngoại khóa về chủ quyền biển đảo.
Các công cuốn sách, bài nghiên cứu…đề cập đến những khía cạnh khác nhau
về biển đảo tổ quốc, nhưng tất cả đều có chung một mục đích là khẳng định chủ
quyền biển đảo thiêng liêng của tổ quốc, khẳng định vấn đề cần thiết phải bảo vệ
chủ quyền biển đảo tổ quốc.
2.2. Các công trình nghiên cứu về giáo dục học và giáo dục lịch sử.
* Tài liệu dịch
- Tiến sĩ N.G. Đai ri với công trình “Chuẩn bị giờ học lịch sử như thế nào” ( 1973),
Nxb Giáo dục, Hà Nội, đã nêu lên những vấn đề quan trọng của việc dạy học bộ
môn.Tác giả chỉ rõ tiến hành một giờ học được tổ chức một cách khoa học và có

hiệu quả. Muốn tiến hành giờ học Lịch sử đạt hiệu quả cao thì cần phải chuẩn bị
giáo án, vận dụng linh hoạt các khâu, các phương pháp dạy học. Đồng thời tác giả
nhấn mạnh tính cụ thể, tính hình ảnh của sự kiện có một giá trị lớn lao, bởi vì chúng
cho phép hình dung lại quá khứ, và quan niệm về tổ chức công tác nghiên cứu thực
tế, nghiên cứu tại những nơi xảy ra các sự kiện lịch sử là một trong những điều kiện
hiện có của hoạt động dạy và học để hình thành tư duy tự lập và tính tự lập của học
sinh. Ông cũng đưa ra một sơ đồ, có thể được coi như kim chỉ nam cho người GV
Lịch sử về cách sử dụng linh hoạt các tư liệu để làm rõ kiến thức cơ bản trong SGK.
- I.Ia.Lecne, nhà giáo dục Liên Xô trước đây, trong cuốn “Phát triển tư học sinh
trong dạy học Lịch sử” (tài liệu dịch thư viện trường ĐHSP Hà Nội, 1981), tác giả
đặc biệt nhấn mạnh đến con đường, biện pháp trong dạy học Lịch sử nhằm phát
triển tư duy cho học sinh như: Dạy học nêu vấn đề, dạy học trực quan. Ông chỉ rõ

7


các biện pháp kích thích năng lực sáng tạo, tính tích cực nhận thức của HS để nâng
cao chất lượng của giờ học Lịch sử.
- A.A.Vaghin, nhà nghiên cứu phương pháp dạy học Liên Xô trước đây, trong cuốn
“Phương pháp dạy học Lịch sử ở trường phổ thông” đã đề cập đến các biện pháp
nâng cao chất lượng dạy học lịch sử như vai trò của đồ trực quan, ý nghĩa của việc
sử dụng SGK và tài liệu kiến thức lịch sử.
* Tài liệu giáo dục học và giáo dục lịch sử trong nước
- Tài liệu giáo dục học:
+ Giáo trình “Giáo dục học” của Hà Thế Ngữ và Đặng Vũ Hoạt (Tập 1, Nxb GD,
1987) có đề cập đến các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học phát huy tính tích
cực của học sinh.
+ Bài viết “Phương pháp dạy học tích cực” của GS Trần Bá Hoành (Tạp chí nghiên
cứu Giáo dục số 4/ 2000) đã vẽ bức tranh tổng quát về phương pháp dạy học tích
cực

+ TS Đặng Thành Hưng trong cuốn “Dạy học hiện đại: lí luận - biện pháp – kĩ
thuật” (Nxb ĐHQG, 2002) đề cập đến nhiều lí luận dạy học hiện đại, đặc biệt là
những lí luận, biện pháp, kĩ thuật phát huy tính tích cực của học sinh. Đây là những
vấn đề lí luận rất quan trọng.
Ngoài ra còn rất nhiều các tài liệu giáo dục của các tác giả trong và ngoài
nước khác. Nguồn tài liệu giáo dục tuy không đề cập trực tiếp đến vấn đề sử dụng
tư liệu biển đảo trong dạy học lịch sử nhưng có vai trò định hướng trong nghiên
cứu, tìm tòi và vận dụng các biện pháp giáo dục tích cực trong dạy học lịch sử nói
chung và dạyhọc về chủ quyền biển đảo tổ quốc nói riêng.
- Tài liệu về phương pháp giáo dục lịch sử:
Trước hết phải đề cập đến các cuốn giáo trình như: “Phương pháp dạy học
Lịch sử”, GS. Phan Ngọc Liên, Trần Văn Trị (Chủ biên), tập 1, Nhà xuất bản Giáo
dục, năm 1976, tập 2 năm 1980; cuốn “Phương pháp dạy học Lịch sử”, tập 1, 2 do
Phan Ngọc Liên (Chủ biên), Trịnh Đình Tùng, Nguyễn Thị Côi, Nhà xuất bản Đại
học sư phạm, (2002), tái bản có sửa chữa bổ sung năm 2009, 2010. Trong các cuốn
giáo trình trên, các tác giả đã đề cập một cách toàn diện các vấn đề về Phương pháp
dạy học Lịch sử ở trường phổ thông. Các cuốn giáo trình đã chỉ rõ ưu thế của bộ

8


môn Lịch sử trong việc giáo dục tư tưởng, tình cảm cho thế hệ trẻ, nội dung, nguyên
tắc, biện pháp giáo dục. Bên cạnh đó, các tác giả đã có những nhìn nhận và đánh giá
đúng về vai trò, vị trí của các hoạt động nội khóa, ngoại khóa trong dạy học Lịch sử.
Ngoài ra còn phải kể đến các công trình nghiên cứu khác của các tác giả như: “Hệ
thống các phương pháp dạy học lịch sử ở trường trung học cơ sở” do tác giả Trịnh
Đình Tùng (Chủ biên), (2005); “Một số chuyên đề phương pháp dạy học Lịch sử”,
do GS. Phan Ngọc Liên và một số tác giả khác (Chủ biên), 2002, Nhà xuất bản Đại
học Quốc gia, Hà Nội; “Con đường, biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học Lịch sử ở
trường phổ thông”, của GS. Nguyễn Thị Côi, 2008, Nhà xuất bản Đại học sư phạm,

Hà Nội; “Đổi mới dạy học lịch sử lấy học sinh làm trung tâm”, Hội giáo dục Lịch
sử, 1996, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia, Hà Nội. Đây là những bộ sách quý, cung
cấp phần đáng kể những kiến thức về Phương pháp dạy học bộ môn Lịch sử, các
hình thức tổ chức dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh. Các tác
giả đã đưa ra những nguyên tắc và biện pháp giáo dục thái độ, tình cảm, tư tưởng
cho học sinh trong dạy học Lịch sử. Theo các tác giả, giáo dục thái độ, tình cảm, tư
tưởng chính trị, truyền thống dân tộc, phẩm chất đạo đức cho học sinh qua dạy học
lịch sử ở trường phổ thông là điều rất cần thiết và quan trọng. Song, việc giáo dục
phải chú trọng ở tính hiệu quả, phải xuất phát từ nhiệm vụ giáo dục thế hệ trẻ nói
chung, từ mục tiêu đào tạo của nhà trường, nội dung, chức năng, nhiệm vụ bộ môn
để lựa chọn các biện pháp sư phạm có hiệu quả giáo dục cao.
Bên cạnh đó cũng có rất nhiều các công trình khoa học nghiên cứu,
bài viết tổng hợp về các vấn đề liên quan đến giáo dục lịch sử nói chung và liên
quan đến đề tài nói riêng được đăng trên các Tạp chí nghiên cứu giáo dục, Tạp chí
nghiên cứu Lịch sử ; một số Luận án, Luận văn của nghiên cứu sinh, học viên cao
học các trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Vinh
đã đề cập đến nội dung của đề tài như: Luận văn Thạc sĩ của Vũ Thị Hiền với đề tài:
"Tổ chức hoạt động ngoại khóa về chủ quyền biển, đảo Việt Nam trong dạy học
Lịch sử ở trường phổ thông" (năm 2014; luận văn thạc sĩ của Đậu Thị Hải Vân với
đề tài “Giáo dục ý thức chủ quyền biển đảo tổ quốc cho học sinh trong dạy học lịch
sử Việt Nam lớp 10, trung học phổ thông chương trình chuẩn (2012)… tạo điều
kiện thuận lợi trong quá trình thực hiện đề tài. Tóm lại, tất cả những tài liệu nêu trên

9


có ý nghĩa hết sức quan trọng và đáng tin cậy. Cùng với sự giúp đỡ của thầy TS
Nguyễn Văn Ninh, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu, sưu tầm, khai thác tài liệu để
thực hiện đề tài khoa học sư phạm “ Sử dụng tư liệu về chủ quyền biển đảo tổ quốc
trong dạy học lịch sử ở trường trung học phổ thông”

3. Đối tƣợng nghiên cứu: Quá trình sử dụng tư liệu về chủ quyền biển đảo tổ quốc
trong dạy học lịch sử ở trường trung học phổ thông.
4. Mục đích và nhiệm vụ đề tài
4.1. Mục đích
Đề tài không chỉ nâng cao hiệu quả giáo dục ý thức về chủ quyền biển đảo tổ
quốc cho học sinh trung học phổ thông nói riêng mà còn góp phần nâng cao chất
lượng bộ môn lịch sử ở trường phổ thông nói chung.
4.2. Nhiệm vụ:
- Nghiên cứu cơ sở lí luận và thực tiễn của việc sử dụng tư liệu về chủ quyền biển
đảo tổ quốc trong dạy học lịch sử ở trường trung học phổ thông.
- Nghiên cứu các biện pháp sư phạm khi sử dụng tư liệu về chủ quyền biển đảo tổ
quốc trong dạy học lịch sử ở trường trung học phổ thông.
- Tiến hành khảo sát thực nghiệm sư phạm để khẳng định tính khả thi của đề tài
nghiên cứu.
5. Phạm vi nghiên cứu
5.1. Phạm vi nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu vào các biện pháp sử dụng
tư liệu về chủ quyền biển đảo trong dạy học lịch sử ở trường trung học phổ thông.
5.2. Phạm vi thực nghiệm: Một số trường trung học phổ thông trên địa bàn Hải
Dương.
6. Cơ sở phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
6.1. Cơ sở phương pháp luận
Dựa trên các quan điểm, đường lối của Đảng và nhà nước về giáo dục và đào
tạo. Dựa trên những thành tựu nghiên cứu mới về lí luận giáo dục, tâm lí học,
phương pháp dạy học lịch sử của các nhà nghiên cứu khoa học, giáo dục lịch sử,
nghiên cứu lịch sử.
6.2. Phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp nghiên cứu lí thuyết

10



- Nghiên cứu các nghị quyết của Đảng, Nhà nước, các văn bản của Bộ GD&ĐT, của
các cấp ngành có liên quan đến đề tài. Các công trình, các nguồn tài liệu: Sách, báo,
tạp chí, internet...
- Nghiên cứu những nội dung cơ bản của lịch sử Việt Nam trong chương trình
THPT và việc sử dụng tư liệu về chủ quyền biển, đảo trong dạy học lịch sử ở trường
phổ thông.
* Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Quan sát, điều tra thực trạng giáo dục ý thức chủ quyền biển đảo tổ quốc cho học
sinh nói chung và thực trạng sử dụng tư liệu về chủ quyền biển đảo trong dạy học
lịch sử ở trường trung học phổ thông nói riêng.
- Sưu tầm các tài liệu có liên quan đến đề tài.
- Thực nghiệm sư phạm
7. Giả thuyết khoa học
Trong quá trình dạy học lịch sử ở trường trung học phổ thông, việc sử dụng tư
liệu về chủ quyền biển đảo tổ quốc trong dạy học, vận dụng sáng tạo, linh hoạt các
phương pháp dạy học lịch sử, phù hợp với điều kiện thực tế tại các trường trung học
phổ thông thì sẽ nâng cao hiệu quả giáo dục ý thức chủ quyền biển đảo tổ quốc cho
học sinh nói riêng và nâng cao chất lượng dạy học bộ môn nói chung.
8. Ý nghĩa của luận văn
- Ý nghĩa khoa học: Kết quả nghiên cứu đề tài góp phần làm phong phú về mặt lí
luận, khẳng định vai trò, ý nghĩa của việc sử dụng tư liệu về chủ quyền biển, đảo tổ
quốc trong dạy học lịch sử ở trường trung học phổ thông.
- Ý nghĩa thực tiễn:
+ Giúp bản thân nâng cao hiệu quả sử dụng tư liệu về chủ quyền biển đảo tổ quốc
trong dạy học lịch sử ở trường trung học phổ thông.
+ Là nguồn tài liệu tham khảo đối với các đồng nghiệp, đối với sinh viên ngành sư
phạm lịch sử.
9. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung

luận văn được trình bày trong 2 chương:

11


Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc sử dụng tư liệu về chủ quyền biển
đảo tổ quốc trong dạy học lịch sử ở trường trung học phổ thông.
Chương 2: Các biện pháp sử dụng tư liệu về chủ quyền biển đảo tổ quốc trong dạy
học lịch sử ở trường trung học phổ thông.

12


CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC SỬ DỤNG TƢ TIỆU VỀ CHỦ
QUYỀN BIỂN, ĐẢO TỔ QUỐC TRONG DẠY HỌCLỊCH SỬ
Ở TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG.
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Một số khái niệm, thuật ngữ.
- “Tư liệu”: Là những thứ vật chất con người sử dụng trong một lĩnh vực hoạt động
nhất định nào đó, cụ thể như tư liệu sinh hoạt hay tư liệu sản xuất; tư liệu cũng là
những tài liệu sử dụng cho việc học tập, nghiên cứu ( Tư liệu tham khảo, phim tư
liệu…)
- “ Tư liệu về chủ quyền biển đảo”: Là những tài liệu phục vụ cho việc học tập,
nghiên cứu về chủ quyền biển đảo tổ quốc. Những tư liệu về chủ quyền biển đảo tổ
quốc không chỉ là tư liệu lịch sử mà nó còn là tư liệu của nhiều lĩnh vực, nhiều
ngành liên quan đến biển đảo như tư liệu địa lí, văn học, quốc phòng, tôn giáo, âm
nhạc…..Những tư liệu góp phần khẳng định chủ quyền biển đảo, khẳng định tầm
quan trọng của biển đảo trong việc phát triển kinh tế- chính trị- xã hội đất nước.
- “ Chủ quyền biển, đảo”: Khái niệm “ chủ quyền biển đảo” nằm trong khái niệm

“chủ quyền quốc gia”.
Theo Từ điển thuật ngữ Lịch sử phổ thông: “chủ quyền quốc gia” là quyền
cao nhất của một dân tộc, một quốc gia độc lập, tự mình làm chủ đất đai, tài sản, tự
mình quyết định vận mệnh của mình. Những nội dung này được khẳng định trong
pháp luật mỗi nước, trong văn bản pháp lí quốc tế, là nguyên tắc cơ bản cần tuân
theo”.
Vì vậy, “ Chủ quyền lãnh thổ quốc gia” là quyền tối cao tuyệt đối, hoàn toàn và
riêng biệt của quốc gia đối với lãnh thổ và trên lãnh thổ của mình. Quyền tối cao
của quốc gia đối với lãnh thổ là quyền quyết định mọi vấn đề của quốc gia đối với
lãnh thổ, đó là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Mỗi quốc gia có quyền đặt ra
quy chế pháp lí đối với lãnh thổ. Với tư cách là chủ sở hữu, Nhà nước có quyền
chiếm hữu, sử dụng và định đoạt đối với lãnh thổ thông qua hoạt động của các cơ
quan nhà nước như hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp.

13


Theo hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: “ Nước cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước độc lập có chủ quyền thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, các hải đảo, vùng biển và vùng trời”.
- Một số khái nằm trong khái niệm chủ quyền biển đảo tổ quốc.
+ Lãnh hải của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam rộng 12 hải lý, ở phía
ngoài đường cơ sở nối liền các điểm nhô ra nhất của bờ biển và các điểm ngoài
cùng của các đảo ven bờ của Việt Nam. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
thực hiện chủ quyền đầy đủ và toàn vẹn đối với lãnh hải của mình cũng như đối với
vùng trời, đáy biển và lòng đất dưới đáy biển của lãnh hãi.
+ Vùng tiếp giáp lãnh hải của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là vùng
biển tiếp liền phía ngoài lãnh hải Việt Nam có chiều rộng là 12 hải lý hợp với lãnh
hải Việt Nam thành một vùng biển rộng 24 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính
chiều rộng lãnh hải Việt Nam. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt

Nam thực hiện sự kiểm soát cần thiết trong vùng tiếp giáp lãnh hải của mình, nhằm
bảo vệ an ninh, bảo vệ các quyền lợi về hải quan, thuế khóa, đảm bảo sự tôn trọng
các quy định về y tế, về di cư, nhập cư trên lãnh thổ hoặc trong lãnh hải Việt Nam.
+ Vùng đặc quyền kinh tế của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tiếp liền
lãnh hải Việt Nam và hợp với lãnh hải Việt Nam thành một vùng biển rộng 200 hải
lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam. Nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam có chủ quyền hoàn toàn về việc thăm dò, khai thác, bảo vệ
và quản lý tất cả các tài nguyên thiên nhiên, sinh vật và không sinh vật ở vùng
nước, ở đáy biển và trong lòng đất dưới đáy biển của vùng đặc quyền kinh tế Việt
Nam; có quyền và thẩm quyền riêng biệt về các hoạt động khác phục vụ cho việc
thăm dò và khai thác vùng đặc quyền kinh tế; có thẩm quyền riêng biệt về nghiên
cứu khoa học trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam có thẩm quyền bảo vệ môi trường, chống ô nhiễm trong vùng
đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
+ Thềm lục địa của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bao gồm đáy biển và
lòng đất dưới đáy biển thuộc phần kéo dài tự nhiên của lục địa Việt Nam mở rộng ra
ngoài lãnh hải Việt Nam cho đến bờ ngoài của rìa lục địa. Nếu nơi nào bờ ngoài của
rìa lục địa cách đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam không đến

14


200 hải lý thì thềm lục địa nơi ấy mở rộng ra 200 hải lý kể từ đường cơ sở đó. Nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có chủ quyền hoàn toàn về thăm dò, khai thác,
bảo vệ và quản lý tất cả các tài nguyên thiên nhiên ở thềm lục địa Việt Nam bao
gồm tài nguyên khoáng sản, tài nguyên không sinh vật và tài nguyên sinh vật thuộc
loại định cư ở thềm lục địa Việt Nam.
+ “Phạm vi nội thủy”: Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 quy
định: “Các vùng nước ở phía bên trong đường cơ sở của lãnh hải
Như vậy, bảo vệ “chủ quyền biển đảo tổ quốc” chính là bảo vệ sự toàn vẹn

lãnh thổ, bảo vệ những quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tổ quốc.
1.1.2. Cơ sở xuất phát của việc sử dụng tư liệu về chủ quyền biển đảo tổ quốc
trong dạy học lịch sử ở trường trung học phổ thông.
1.1.2.1. Mục tiêu và nhiệm vụ của bộ môn Lịch sử.
Hiện nay nước ta đang đẩy mạnh phát triển kinh tế trong bối cảnh toàn cầu
hóa và hội nhập quốc tế với sự phát triển như vũ bão của khoa học kĩ thuật, của
những mối quan hệ, những ảnh hưởng và tác động lẫn nhau giữa các quốc gia, dân
tộc trên thế giới. Quá trình hội nhập đã và đang tạo ra những thời cơ và thách thức
với Việt Nam, đặt ra những yêu cầu mới trong việc giáo dục truyền thống văn hóa
dân tộc và tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại.
Trước những yêu cầu của thời đại, Đảng ta đã đề ra mục tiêu phát triển văn
hóa dân tộc đến năm 2020: “ …tiếp tục đẩy mạnh công tác bảo tồn, kế thừa và phát
huy các giá trị tốt đẹp của văn hóa dân tộc, vừa phát huy mạnh mẽ tính đa dạng, bản
sắc độc đáo của văn hóa các dân tộc anh em, vừa kiên trì củng cố và nâng cao tính
thống nhất trong đa dạng của văn hóa Việt Nam, tập trung xây dựng những giá trị
văn hóa mới, đi đôi với việc mở rộng và chủ động trong giao lưu quốc tế, tiếp nhận
có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới, làm phong phú thêm nền văn hóa dân tộc, bắt
kịp sự phát triển của thời đại” [12, tr 15 – 16]
Trên cơ sở mục tiêu phát triển văn hóa chung của đất nước, chương trình lịch
sử ở trường phổ thông cũng đã xác định mục tiêu của bộ môn: “…góp phần hình
thành ở học sinh thế giới quan khoa học, giáo dục lòng yêu quê hương đất nước,
truyền thống dân tộc, cách mạng, bồi dưỡng các năng lực tư duy, hành động, thái độ
ứng xử đúng đắn trong đời sống xã hội” [23, tr 206]

15


Từ mục tiêu bộ môn lịch sử ở trường phổ thông, cho thấy việc sử dụng tư
liệu về chủ quyền biển đảo tổ quốc trong dạy học lịch sử ở trường trung học phổ
thông là thực sự cần thiết. Qua sử dụng tư liệu về chủ quyền biển đảo trong dạy học

lịch sử sẽ trang bị cho học sinh những kiến thức chính xác, cụ thể về chủ quyền biển
đảo tổ quốc, qua đó giúp các em nhận thức sâu sắc vai trò, giá trị của biển đảo đối
với nhiệm vụ phát triển đất nước trong lịch sử cũng như trong hiện tại và tương lai.
Nắm vững những kiến thức về chủ quyền biển đảo, là cơ sở để học sinh tự hào về
truyền thống yêu nước, bảo vệ chủ quyền đất nước của nhân dân ta, học sinh ý thức
được trách nhiệm công dân trong việc bảo vệ sự toàn vẹn các vùng lãnh thổ tổ quốc.
1.1.2.2. Yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học lịch sử ở trường trung học phổ
thông.
Sự phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh toàn cầu hoá đặt ra những yêu
cầu mới đối với người lao động, do đó cũng đặt ra những yêu cầu mới cho sự
nghiệp giáo dục thế hệ trẻ và đào tạo nguồn nhân lực. Một trong những định hướng
cơ bản của việc đổi mới giáo dục là chuyển từ nền giáo dục mang tính hàn lâm, kinh
viện, xa rời thực tiễn sang một nền giáo dục chú trọng việc hình thành năng lực
hành động, phát huy tính chủ động, sáng tạo của người học. Định hướng quan trọng
trong đổi mới phương pháp dạy học là phát huy tính tích cực, tự lực và sáng tạo,
phát triển năng lực hành động, năng lực cộng tác làm việc của người học. Đó cũng
là những xu hướng quốc tế trong cải cách PPDH ở nhà trường phổ thông. Việc đổi
mới phương pháp dạy học được Đảng và nhà nước ta rất quan tâm. Điều này được
cụ thể hóa trong điều 28, Luật giáo dục 2005: “Phương pháp giáo dục phổ thông
phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với
đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm
việc theo nhóm; rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến
tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh” [11, tr 37]
Lịch sử là môn học có vai trò quan trọng và trực tiếp trong việc giáo dục
truyền thống yêu quê hương đất nước; giáo dục ý thức kế thừa và phát huy truyền
thống tốt đẹp của dân tộc. Tuy nhiên, thực tế những năm qua đã cho thấy: chất
lượng học sinh học sử ngày càng kém, số lượng điểm không, điểm dưới trung bình
môn Lịch sử trong các kì thi ngày càng tăng; tình trạng học sinh nắm kiến thức Lịch

16



sử mơ hồ, sai lệch trở nên phố biến…Vì vậy, việc đổi mới phương pháp dạy học
Lịch sử trở nên cấp thiết và phù hợp với yêu cầu đổi mới giáo dục nói chung, đáp
ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực có đầy đủ những phẩm chất năng lực cần thiết
trong thời kì hội nhập quốc tế hiện nay. Sử dụng tư liệu về chủ quyền biển đảo tổ
quốc trong dạy học lịch sử ở trường trung học phổ thông, vận dụng những phương
pháp dạy học mới theo hướng phát huy năng lực người học sẽ góp phần không nhỏ
vào nhiệm vụ giáo dục, bồi dưỡng tình yêu quê hương đất nước, giáo dục ý thức về
sự toàn vẹn lãnh thổ tổ quốc cho thế hệ trẻ.
1.1.2.3. Đặc điểm nhân cách học sinh trung học phổ thông
- Sự phát triển của tự ý thức:
Sự tự ý thức là một đặc điểm nổi bật trong sự phát triển nhân cách của học sinh
THPT, nó có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển tâm lý của lứa tuổi này. Biểu hiện
của sự tự ý thức là nhu cầu tìm hiểu và tự đánh giá những đặc điểm tâm lý của mình
theo chuẩn mực đạo đức của xã hội, theo quan điểm về mục đích cuộc sống… Điều
đó khiến các em quan tâm sâu sắc tới đời sống tâm lý, những phẩm chất nhân cách
và năng lực riêng. Các em không chỉ nhận thức về cái tôi hiện tại của mình mà còn
nhận thức về vị trí của mình trong xã hội tương lai. Các em không chỉ chú ý đến vẻ
bên ngoài mà còn đặc biệt chú trọng tới phẩm chất bên trong. Các em có khuynh
hướng phân tích và đánh giá bản thân mình một cách độc lập dù có thể có sai lầm
khi đánh giá. Ý thức làm người lớn khiến các em có nhu cầu khẳng định mình,
muốn thể hiện cá tính của mình một cách độc đáo, muốn người khác quan tâm, chú
ý đến mình…
Nhìn chung, ở lứa tuổi học sinh trung học phổ thông (từ 15 đến 18 tuổi), các em
đã có thể tự đánh giá bản thân một cách sâu sắc, nhưng đôi khi vẫn chưa đúng đắn,
vẫn có những sai lầm, phiến diện, rất cần sự định hướng và giúp đỡ kịp thời từ
người lớn.
- Hình thành thế giới quan:
Sự hình thành thế giới quan là nét chủ yếu trong tâm lý thanh niên vì các em sắp

bước vào cuộc sống xã hội, các em có nhu cầu tìm hiểu khám phá để có quan điểm
về tự nhiên, xã hội, về các nguyên tắc và quy tắc ứng xử, những định hướng giá trị
về con người. Các em quan tâm đến nhiều vấn đề như: thói quen đạo đức, cái xấu

17


cái đẹp, cái thiện cái ác, quan hệ giữa cá nhân với tập thể, giữa cống hiến với hưởng
thụ, giữa quyền lợi và nghĩa vụ trách nhiệm… Tuy nhiên vẫn có em chưa được giáo
dục đầy đủ về thế giới quan, chịu ảnh hưởng của tư tưởng bảo thủ lạc hậu như: có
thái độ coi thường phụ nữ, coi khinh lao động chân tay, ý thức tổ chức kỉ luật kém,
thích có cuộc sống xa hoa, hưởng thụ, sống thụ động…
Nhìn chung, ở tuổi này các em đã có ý thức xây dựng lý tưởng sống cho mình,
biết xây dựng hình ảnh con người lý tưởng gần với thực tế sinh hoạt hàng ngày. Các
em có thể hiểu sâu sắc và tinh tế những khái niệm, biết xử sự một cách đúng đắn
trong những hoàn cảnh, điều kiện khác nhau nhưng có khi các em lại thiếu tin tưởng
vào những hành vi đó. Vì vậy, giáo viên phải khéo léo, tế nhị khi phê phán những
hình ảnh lý tưởng còn lệch lạc để giúp các em chọn cho mình một hình ảnh lý tưởng
đúng đắn để phấn đấu vươn lên.
- Xu hướng nghề nghiệp:
Thanh niên đã xuất hiện nhu cầu lựa chọn vị trí xã hội trong tương lai cho bản
thân và các phương thức đạt tới vị trí xã hội ấy. Xu hướng nghề nghiệp có tác dụng
thúc đẩy các mặt hoạt động và điều chỉnh hoạt động của các em . Càng cuối cấp học
thì xu hướng nghề nghiệp càng được thể hiện rõ rệt và mang tính ổn định hơn.
Nhiều em biết gắn những đặc điểm riêng về thể chất, về tâm lý và khả năng của
mình với yêu cầu của nghề nghiệp.
- Hoạt động giao tiếp:
Các em khao khát muốn có những quan hệ bình đẳng trong cuộc sống và có nhu
cầu sống cuộc sống tự lập. Tính tự lập của các em thể hiện ở ba mặt: tự lập về hành
vi, tự lập về tình cảm và tự lập về đạo đức, giá trị. Nhu cầu giao tiếp với bạn bè

cùng lứa tuổi trong tập thể phát triển mạnh, các em bắt đầu ý thức được vị trí, vai
trò của mình trong tập thể, đây là môi trường để các em khẳng định gia trị bản thân.
Tình bạn, tình yêu ở lứa tuổi này mang rất nhiều màu sắc, là một phần không thể
thiếu trong quá trình từng bước trải nghiệm và hoàn thiện nhân cách ở các em.
1.1.2.4. Tầm quan trọng của việc trang bị cho học sinh trung học phổ thông kiến
thức về chủ quyền biển đảo tổ quốc trong bối cảnh hiện nay.
Từ đặc điểm nhân cách chủ yếu ở học sinh trung học phổ thông, có thể thấy
đây là một giai đoạn vô cùng quan trọng trong việc hoàn thiện nhân cách ở mỗi

18


người trước khi bước vào cuộc sống tự lập thực sự. Ở lứa tuổi này, học sinh đã biết
tự ý thức, tự đánh giá bản thân và các sự vật, sự việc trong tự nhiên và xã hội. Các
em ưa khám phá, tìm tòi, sáng tạo, các em muốn khẳng định mình bằng những suy
nghĩ, hành động độc lập. Tuy chưa hoàn toàn là người lớn, nhưng học sinh trung
học phổ thông cũng không còn là trẻ con, các em đã có thể bày tỏ quan điểm riêng,
thể hiện hành động thiết thực trước những vấn đề thực tế đời sống xã hội. Chính
điều này đòi hỏi nhà trường phải nỗ lực trang bị cho các em nền tảng tri thức, đạo
đức, văn hóa chuẩn mực, hình thành ở các em thế giới quan đúng đắn, để các em trở
thành những công dân có trách nhiệm.
Việc trang bị cho học sinh trung học phổ thông những kiến thức về chủ
quyền biển đảo tổ quốc là một nhiệm vụ giáo dục quan trọng, nhất là trong bối cảnh
hiện nay khi tình hình Biển Đông có nhiều diễn biến phức tạp. Thế hệ trẻ Việt Nam
cần phải được trang bị kiến thức để tự tin khẳng định với thế giới chủ quyền tổ quốc
nói chung và chủ quyền biển đảo tổ quốc nói riêng. Hiểu sâu sắc tầm quan trọng của
biển trong sự phát triển kinh tế đất nước, hiểu sâu sắc những hy sinh của cha ông
trong việc gìn giữ biển trời tổ quốc…từ đó học sinh nhận thức sâu sắc vai trò của
thế hệ trẻ đối với bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ tổ quốc.
1.1.3. Vai trò, ý nghĩa của việc sử dụng tư liệu về chủ quyền biển, đảo tổ quốc

trong dạy học lịch sử ở trường trung học phổ thông.
Sử dụng tư liệu về chủ quyền biển đảo tổ quốc trong dạy học lịch sử ở trường
trung học phổ thông là hướng tới những nội dung giáo dục cụ thể:
- Giáo dục học sinh nhận thức vai trò của biển đảo trong lịch sử dựng nước, giữ
nước của dân tộc qua các nguồn tư liệu đa dạng.
Giáo viên cần làm cho học sinh nhận thức được trong quá trình dựng nước và
giữ nước hàng nghìn năm của dân tộc, biển đảo Việt Nam luôn có vai trò quan
trọng.
Từ khởi nguyên thì yếu tố Sông, Biển đã là một bộ phận hợp thành, góp phần tạo
dựng, định hình bản sắc văn hóa và tư duy người Việt. Ý thức về chủ quyền lãnh
thổ tổ quốc nói chung, chủ quyền biển đảo tổ quốc nói riêng đã được hình thành từ
rất sớm.Thực chất của quá trình dựng nước đầu tiên ở nước ta là một quá trình lấn
biển. Tư duy sơ khai về quá trình chinh phục biển của người Việt cổ được thể hiện

19


ở nhiều khía cạnh, từ địa bàn sinh sống, nghề nông, chăn nuôi, đánh cá, đặc điểm
văn hóa- nghệ thuật…Những hình thuyền trên trống đồng Đông Sơn, những ngôi
mộ thuyền được tìm thấy đã thể hiện yếu tố Sông, Biển trong văn hóa người Việt.
Thời kì phong kiến, các triều đình đều chăm lo, quản lí chặt chẽ chủ quyền biển
đảo của tổ quốc. Thời Lý thiết lập các Trang, thời Trần có các Trấn và thời Lê đã
đặt Tuần Kiểm ở các xứ cửa biển, các đồn, các đảo…để quản lí biển, thu thuế tàu
thuyền nước ngoài qua lại giao thương trong vùng biển nước ta. Đến thời các chúa
Nguyễn và triều Nguyễn việc thực thi chủ quyền biển đảo tổ quốc, cụ thể là đối với
các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa càng được thúc đẩy mạnh mẽ, và diễn ra một
cách hòa bình, liên tục. Việc thành lập và biến các đội Hoàng Sa thành một tổ chức
nhà nước từ thời các chúa Nguyễn, và sau này được triều Nguyễn tiếp tục củng cố
là minh chứng cho thấy quyền làm chủ lãnh hải của nước ta được xác định chính
thức.

Ý thức về chủ quyền lãnh thổ và vai trò của biển, đảo luôn gắn liền với các cuộc
kháng chiến chống ngoại xâm bảo vệ lãnh thổ tổ quốc. Kẻ thù thường xâm nhập,
xâm lược nước ta theo đường Sông, Biển do vậy xây dựng quân thủy và giỏi thủy
chiến đã trở thành nét nổi bật trong lịch sử tổ chức quân sự và nghệ thuật quân sự
của dân tộc Việt Nam. Cùng với những chiến công oanh liệt trên đất liền, dân tộc ta
đã làm nên biết bao trận thủy chiến lẫy lừng, khiến kẻ thù khiếp sợ và từ bỏ mộng
xâm lược.
Biển, đảo là chủ quyền thiêng liêng của tổ quốc, cùng với đất liền đã tạo ra môi
trường sinh tồn và phát triển đời đời của dân tộc Việt Nam. Lấn biển để dựng nước
và thông qua biển để giữ nước là một nét độc đáo trong lịch sử dựng nước và giữ
nước hàng ngàn năm của dân tộc. Đây cũng là nét độc đáo của bản sắc văn hóa Việt
cần giữ vững và tiếp tục phát huy trong thời đại mới, thời đại toàn cầu hóa và hội
nhập quốc tế.
- Giáo dục học sinh nhận thức được giá trị, tiềm năng kinh tế- xã hội của biển, đảo
trong công cuộc xây dựng phát triển đất nước.
Biển, đảo ngay từ xa xưa đã luôn gắn liền với đời sống con người Việt
Nam. Không phải ngẫu nhiên mà các triền sông, cửa biển từ rất sớm trong lịch sử đã
là địa bàn tập trung dân cư đông đúc, hình thành lên các trung tâm kinh tế, văn hóa,

20


×