Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Các biện pháp pháp lý hạn chế trục lợi bảo hiểm nhân thọ ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (925.04 KB, 96 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ÂU THỊ DIỆU LINH

CÁC BIỆN PHÁP PHÁP LÝ HẠN CHẾ
TRỤC LỢI BẢO HIỂM NHÂN THỌ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI -2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ÂU THỊ DIỆU LINH

CÁC BIỆN PHÁP PHÁP LÝ HẠN CHẾ
TRỤC LỢI BẢO HIỂM NHÂN THỌ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số

: 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THỊ LAN HƢƠNG


HÀ NỘI -2015


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

ÂU THỊ DIỆU LINH


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU ...............................................................................................................1
CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ BIỆN PHÁP PHÁP LÝ HẠN CHẾ
TRỤC LỢI BẢO HIỂM NHÂN THỌ VÀ KHÁI QUÁT PHÁP LUẬT
ĐIỀU CHỈNH VỀ TRỤC LỢI BẢO HIỂM NHÂN THỌ .............................6
1.1. Lý luận chung về biện pháp pháp lý hạn chế trục lợi bảo hiểm nhân thọ 6
1.1.1. Khái quát về bảo hiểm nhân thọ ...........................................................6

1.1.2. Một số vấn đề về trục lợi bảo hiểm nhân thọ .....................................12
1.1.3. Biện pháp pháp lý hạn chế trục lợi bảo hiểm nhân thọ .....................18
1.2. Khái quát pháp luật điều chỉnh về trục lợi bảo hiểm nhân thọ ở Việt
Nam hiện nay ..............................................................................................................22
1.2.1. Sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật về trục lợi bảo hiểm nhân thọ . 22
1.2.2. Nguyên tắc của pháp luật điều chỉnh về trục lợi bảo hiểm nhân thọ 26
1.2.3. Một số nội dung cơ bản của pháp luật điều chỉnh về bảo hiểm nhân
thọ nhằm hạn chế trục lợi bảo hiểm nhân thọ ..............................................28
1.3. Kinh nghiệm điều chỉnh pháp luật về trục lợi bảo hiểm nhân thọ ở một
số nƣớc và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam ..............................................34
Kết luận chƣơng 1 ......................................................................................................38


CHƢƠNG 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP PHÁP LÝ HẠN
CHẾ TRỤC LỢI BẢO HIỂM NHÂN THỌ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ..39
2.1. Thực trạng trục lợi bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam hiện nay ...................39
2.1.1. Trục lợi bảo hiểm của người tham gia bảo hiểm ...............................39
2.1.2. Trục lợi bảo hiểm của đại lý bảo hiểm ...............................................43
2.2. Những tồn tại, hạn chế trong quá trình áp dụng các biện pháp pháp lý
hạn chế trục lợi bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam hiện nay .................................47
2.3. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong quá trình áp dụng các
biện pháp pháp lý hạn chế trục lợi bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam hiện nay53
2.3.1. Nguyên nhân từ phía pháp luật điều chỉnh về trục lợi bảo hiểm nhân thọ .54
2.3.2. Nguyên nhân từ khả năng nhận thức và áp dụng pháp luật của doanh
nghiệp bảo hiểm và cơ quan xét xử ..............................................................62
2.3.3. Nguyên nhân từ phía ý thức xã hội và nhận thức của người dân ......65
2.3.4. Nguyên nhân từ phía các cơ quan hữu quan ......................................66
Kết luận chƣơng 2 ......................................................................................................67
CHƢƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
CÁC BIỆN PHÁP PHÁP LÝ HẠN CHẾ TRỤC LỢI BẢO HIỂM NHÂN

THỌ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .....................................................................68
3.1. Hoàn thiện các quy định pháp luật nhằm hạn chế hành vi trục lợi bảo
hiểm nhân thọ .............................................................................................................68
3.1.1. Hoàn thiện quy định pháp luật về nghĩa vụ cung cấp thông tin ........68
3.1.2. Hoàn thiện quy định về thời hạn trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường 71
3.1.3. Hoàn thiện các chế tài xử lý hành vi trục lợi bảo hiểm .....................71
3.1.4. Hoàn thiện quy định về giám sát hoạt động bảo hiểm nhân thọ nhằm
hạn chế trục lợi bảo hiểm ..............................................................................75


3.2. Tăng cƣờng tuyên truyền phổ biến pháp luật kinh doanh bảo hiểm nhân
thọ nhằm hạn chế trục lợi bảo hiểm nhân thọ .....................................................78
3.3. Tăng cƣờng năng lực và trình độ đội ngũ cán bộ tham gia xử lý, giải
quyết các hành vi trục lợi bảo hiểm nhân thọ ......................................................79
3.3.1. Đối với doanh nghiệp bảo hiểm và đại lý bảo hiểm ..........................79
3.3.2. Đối với Cục quản lý, giám sát bảo hiểm ............................................81
3.3.1. Đối với ngành Toà án .........................................................................82
Kết luận chƣơng 3 ......................................................................................................83
KẾT LUẬN CHUNG ........................................................................................84
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................86


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BHNT

Bảo hiểm nhân thọ

DNBH


Doanh nghiệp bảo hiểm

ĐLBH

Đại lý bảo hiểm

HHBH

Hiệp hội bảo hiểm

HĐBH

Hợp đồng bảo hiểm

KDBH

Kinh doanh bảo hiểm

STBH

Số tiền bảo hiểm

TLBH

Trục lợi bảo hiểm


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cuộc sống luôn tồn tại những rủi ro, biến cố mà không ai có thể lường

trước được như tai nạn, bệnh tật... Và khi những biến cố kể trên xảy ra đối với
một người thì nó thường kéo theo những mất mát, thiệt hại về tính mạng, sức
khỏe đối với bản thân họ. Điều này dẫn đến hệ quả là người đó hoặc gia đình
của họ sẽ phải đối mặt với những khó khăn nhất định về tài chính. Đây là lý
do mà vì sao loại hình BHNT được đặt ra. Trong loại hình bảo hiểm này,
DNBH cam kết một sự bảo vệ về mặt tài chính đối với những người tham gia
bảo hiểm và gia đình họ trước những rủi ro, mất mát xảy ra trong cuộc sống.
Ở Việt Nam, BHNT xuất hiện muộn cùng với sự ra đời của Tổng công
ty Bảo Việt nhân thọ năm 1996, Việt Nam đang ở giai đoạn đầu của sự phát
triển, là một thị trường năng động mới nổi ở Đông Nam Á, có cơ cấu dân số
lý tưởng ngày một gia tăng với khoảng 90 triệu người trong năm 2015, và
quan trọng hơn, ngày càng có nhiều người thoát ra khỏi nghèo đói, tầng lớp
trung lưu gia tăng cùng với sự phát triển của nền kinh tế những điều này cho
thấy tiềm năng phát triển của ngành bảo hiểm Việt Nam nói chung và phân
khúc BHNT nói riêng còn rất lớn, được các chuyên gia kinh tế thế giới đánh
giá là mảnh đất màu mỡ cho bảo hiểm phát triển trong tương lai.
Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi, trong quá trình phát triển thị
trường bảo hiểm Việt Nam nói chung và BHNT nói riêng đang phải đối mặt
với nhiều thách thức, trong đó có những thách thức từ các hành vi TLBH với
những thủ đoạn ngày càng tinh vi, phức tạp hơn, gây thất thoát lớn về tài
chính cho cả Nhà nước và các DNBH, gián tiếp ảnh hưởng đến quyền lợi bảo
hiểm của người tham gia bảo hiểm chân chính. Các hành vi TLBH diễn ra ở
1


mọi đối tượng tham gia bảo hiểm, không chỉ có ở bên được bảo hiểm mà còn
có ở bên bảo hiểm hay cao hơn nữa là sự câu kết giữa các bên để trục lợi, theo
thống kê cho thấy có 90% các vụ trục lợi có “chân trong”[20], hay nói cách
khác là sự tiếp tay của các cán bộ, công nhân viên trong ngành và ĐLBH.
Những hành vi này đã gây hậu quả nghiêm trọng không chỉ đến sự phát triển

của thị trường bảo hiểm mà còn ảnh hưởng đến sự phát triển của cả nền kinh tế.
Theo Cục quản lý, giám sát hảo hiểm, trong giai đoạn 2007 - 2013, thị trường
BHNT có khoảng 52.860 vụ trục lợi với số tiền bị trục lợi ước tính 530 tỷ
đồng. Trung bình mỗi năm có khoảng 9.000 vụ TLBH được phát hiện[20].
Như vậy, có thể thấy rằng tình trạng TLBH đặc biệt là BHNT ở Việt Nam đã
bắt đầu có dấu hiệu gia tăng rất cần thiết phải được kiểm soát và ngăn chặn.
Chính vì lẽ đó, tác giả đã quyết định chọn đề tài luận văn thạc sĩ: “Các
biện pháp pháp lý hạn chế trục lợi bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam hiện nay”.
2. Tình hình nghiên cứu
Nghiên cứu về Pháp luật kinh doanh BHNT nói chung, các biện pháp
pháp lý hạn chế trục lợi BHNT nói riêng là một vấn đề còn khá mới mẻ về
mặt lý luận cũng như thực tiễn. Vì vậy, các công trình nghiên cứu chuyên sâu
về lĩnh vực này gần như chưa có nhiều.
Về vấn đề Pháp luật kinh doanh BHNT, có thể thấy việc giảng dạy về
BHNT ở các trường đại học chuyên ngành kinh tế, tài chính và luật ở Việt
Nam mới chỉ ở bước đầu bằng việc cung cấp những kiến thức cơ bản. Năm
2001, Nhà xuất bản Thống kê cho tái bản lần thứ nhất cuốn “Một số điều cần
biết về pháp lý trong KDBH” của GS.TSKH. Trương Mộc Lâm và Lưu
Nguyên Khánh. Trong lần tái bản này, cuốn sách đã bước đầu đề cập những
nguyên tắc pháp lý trong kinh doanh BHNT và đây có thể coi là cuốn sách
đầu tiên của Việt Nam về vấn đề này. Ngoài ra, còn có một số công trình
2


nghiên cứu liên quan như: Nguyễn Anh Tố “Một số vấn đề pháp lý về
HĐBH”, Luận văn Thạc sĩ Luật học, 2001; Thái Văn Cách “Thực trạng pháp
luật về KDBH, phương hướng hoàn thiện”, Luận văn Thạc sĩ Luật học, 2001;
Vương Việt Đức “HĐBH tài sản”, Luận văn Thạc sĩ Luật học, 2003; Phí Thị
Quỳnh Nga “Pháp luật về giao dịch BHNT ở Việt Nam”, 2006; Trịnh Thị
Bích Thủy “BHNT theo pháp luật Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ Luật kinh tế,

2014… Bên cạnh đó, một loạt bài viết của tác giả Trần Vũ Hải và đặc biệt là
Luận án tiến sĩ của NCS Trần Vũ Hải “Pháp luật về kinh doanh BHNT ở Việt
Nam những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Luận án Tiến sỹ kinh tế, Trường
ĐH Luật Hà Nội, 2013. Đây là công trình chuyên khảo xây dựng hệ thống lý
luận về pháp luật kinh doanh BHNT cũng như đánh giá tương đối toàn diện
thực trạng pháp luật hiện hành điều chỉnh lĩnh vực này, đóng góp những căn
cứ khoa học cho việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật về kinh doanh BHNT ở
Việt Nam. Đồng thời đóng góp vào hệ thống kiến thức pháp lý để các cơ
quan quản lý nhà nước, DNBH và người tham gia bảo hiểm áp dụng các quy
định của pháp luật một cách hiệu quả.
Như vậy, nhìn một cách tổng quát, khoa học pháp lý nước ta hiện nay,
việc nghiên cứu chuyên sâu về bảo hiểm nói chung và BHNT nói riêng đã bắt
đầu được chú trọng. Tuy nhiên, đề cập tới vấn đề TLBH và hạn chế TLBH,
có thể kể đến tài liệu kỷ yếu hội thảo của Cục quản lý, giám sát bảo hiểm và
HHBH Việt Nam trong những năm gần đây và bài viết của PGS,TS Doãn
Hồng Nhung “Một số ý kiến hoàn thiện pháp luật về phòng ngừa, ngăn chặn
TLBH trong KDBH ở Việt Nam”... Điều đó cho thấy, những công trình
nghiên cứu về vấn đề này vẫn còn hạn chế.
Chính vì vậy, với mong muốn tìm hiểu cụ thể về các biện pháp pháp lý
hạn chế trục lợi BHNT và thực tiễn áp dụng các biện pháp pháp lý hạn chế trục
3


lợi BHNT ở Việt Nam hiện nay từ đó đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao
hiệu quả biện pháp pháp lý hạn chế trục lợi BHNT, tác giả đã lựa chọn đề tài:
“Các biện pháp pháp lý hạn chế trục lợi BHNT ở Việt Nam hiện nay”.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của Luận văn
3.1.Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu các biện pháp pháp lý hạn chế trục lợi BHNT ở
Việt Nam hiện nay, luận văn đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu

quả các biện pháp lý hạn chế trục lợi BHNT.
3.2. Nhiệm vụ của Luận văn
Để thực hiện được mục đích trên, luận văn đặt ra các nhiệm vụ:
- Phân tích để làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về biện pháp
pháp lý hạn chế trục lợi BHNT, pháp luật điều chỉnh về trục lợi BHNT và
kinh nghiệm điều chỉnh pháp luật về TLBH ở một số nước và bài học kinh
nghiệm đối với Việt Nam.
- Tìm hiểu những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân về thực tiễn áp dụng
các biện pháp hạn chế trục lợi BHNT ở Việt Nam hiện nay.
- Từ những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân về thực tiễn áp dụng các
biện pháp pháp lý hạn chế trục lợi BHNT luận văn đề xuất một số kiến nghị
nhằm nâng cao hiệu quả các biện pháp pháp lý hạn chế trục lợi BHNT ở Việt
Nam hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của Luận văn
Đối tượng nghiên cứu: Các biện pháp pháp lý hạn chế trục lợi BHNT ở
Việt Nam
Phạm vi nghiên cứu: lĩnh vực BHNT ở Việt Nam.
4


5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận văn này, người viết sử dụng các phương pháp nghiên
cứu phù hợp với tính chất và yêu cầu của đề tài như phương pháp tổng hợp,
phương pháp phân tích, phương pháp liệt kê, phương pháp so sánh, phương
pháp chứng minh và phương pháp duy vật biện chứng....
6. Điểm mới của Luận văn
Thứ nhất, luận văn đã khái quát một cách hệ thống những vấn đề lý luận
chung về trục lợi BHNT, biện pháp pháp lý hạn chế trục lợi BHNT, khái quát pháp
luật điều chỉnh trục lợi BHNT ở Việt Nam hiện nay, kinh nghiệm điều chỉnh pháp
luật về trục lợi BHNT ở một số nước và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam.

Thứ hai, luận văn chỉ ra được thực trạng trục lợi BHNT. Những tồn tại,
hạn chế và nguyên nhân của thực tiễn áp dụng các biện pháp pháp lý hạn chế
trục lợi BHNT ở Việt Nam hiện nay.
Thứ ba, trên cơ sở thực tiễn áp dụng các biện pháp hạn chế trục lợi
BHNT, luận văn đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả các biện
pháp pháp lý hạn chế trục lợi BHNT ở Việt Nam hiện nay.
7. Kết cấu Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm ba chương:
Chương 1: Lý luận chung về biện pháp pháp lý hạn chế trục lợi BHNT và
khái quát pháp luật điều chỉnh về trục lợi BHNT
Chương 2: Thực tiễn áp dụng các biện pháp pháp lý hạn chế trục lợi BHNT ở
Việt Nam hiện nay
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả các biện pháp pháp lý
hạn chế trục lợi BHNT ở Việt Nam hiện nay.
5


CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ BIỆN PHÁP PHÁP LÝ HẠN CHẾ
TRỤC LỢI BẢO HIỂM NHÂN THỌ VÀ KHÁI QUÁT PHÁP LUẬT
ĐIỀU CHỈNH VỀ TRỤC LỢI BẢO HIỂM NHÂN THỌ
1.1. Lý luận chung về biện pháp pháp lý hạn chế trục lợi bảo hiểm nhân thọ
1.1.1. Khái quát về bảo hiểm nhân thọ
Năm 1762, Công ty BHNT đầu tiên trên thế giới được thành lập ở nước
Anh, tên là Equitable. Sau đó đến Pháp, là nước thứ hai cho phép BHNT được
hoạt động. Vào năm 1787 công ty BHNT đầu tiên tại Pháp được thành lập
mang tên là Công ty BHNT Hoàng gia, sau đó một thời gian ở các nước Châu
Âu khác cũng dần dần xuất hiện BHNT. Ở Châu Á, công ty BHNT lần đầu
tiên được ra đời ở Nhật Bản, đó là công ty BHNT Meiji đã ra đời và đi vào
hoạt động năm 1868[12].

Theo thời gian, BHNT phát triển và trở thành một ngành dịch vụ tài
chính, với nhiều loại hình bảo hiểm khác nhau mà tiện ích cơ bản của nó là
mang tính tiết kiệm và trợ giúp khi sự kiện bảo hiểm xảy ra đối với người
mua bảo hiểm.
Theo tài liệu của Viện Quản lý BHNT Hoa Kỳ (LOMA) nêu định
nghĩa BHNT như một loại hình bảo hiểm trả tiền khi phát sinh cái chết của
người được bảo hiểm. Trên phương diện pháp lý, BHNT là một thể loại bảo
hiểm, trong đó để nhận được phí bảo hiểm của người tham gia bảo hiểm
thông qua một hợp đồng, nhà bảo hiểm cam kết sẽ trả cho một hoặc nhiều
người thụ hưởng bảo hiểm một số tiền nhất định hoặc những khoản trợ cấp
nhất định trong trường hợp người được bảo hiểm bị tử vong hoặc người được
bảo hiểm sống đến một thời điểm đã được chỉ rõ trong hợp đồng. Trên

6


phương diện kỹ thuật, BHNT là một nghiệp vụ bao hàm những cam kết mà
việc thực hiện những cam kết này phụ thuộc vào tuổi thọ của con người[38].
Có hai loại cam kết chủ yếu trong BHNT, đó là cam kết đóng phí bảo
hiểm của người tham gia bảo hiểm và cam kết trả tiền bảo hiểm hoặc trả trợ
cấp định kỳ của DNBH. Do thời hạn HĐBH trong BHNT kéo dài nhiều năm
nên người tham gia bảo hiểm thường cam kết đóng phí làm nhiều lần. Thông
thường, nếu người tham gia bảo hiểm bị chết trước khi hoàn thành nghĩa vụ
đóng phí cho cả hợp đồng thì cam kết đóng phí những lần còn lại sẽ chấm
dứt, nghĩa là không có ai trong phía bên mua bảo hiểm phải đóng thay họ. Khi
người được bảo hiểm bị chết hoặc còn sống đến một thời điểm nhất định đã
chỉ rõ trong HĐBH, DNBH phải thực hiện cam kết của mình, trả cho một
hoặc nhiều người thụ hưởng một khoản tiền nhất định hoặc những khoản trợ
cấp. Như vậy, có thể nhận thấy BHNT được nhìn nhận dưới nhiều góc độ
khác nhau:

Dưới góc độ kinh tế, theo Ngô Trung Dũng định nghĩa: “BHNT là sự
bảo vệ trường hợp tử vong của một người bằng hình thức trả tiền cho người
thụ hưởng - thường là thành viên của gia đình, doanh nghiệp hoặc tổ chức.
Bằng cách đổi một loạt các khoản phí bảo hiểm hoặc thanh toán phí bảo hiểm
một lần khi người được bảo hiểm chết, STBH (và bất kỳ STBH bổ sung nào
được kèm theo đơn bảo hiểm) trừ đi khoản vay chưa trả theo HĐBH và khoản
lãi cho vay, sẽ được trả cho người thụ hưởng. Những khoản trợ cấp trả khi
còn sống cho người được bảo hiểm dưới hình thức giá trị giải ước hoặc các
khoản trợ cấp thu nhập”[11].
Theo Nguyễn Tiến Hùng định nghĩa: “BHNT là một nghiệp vụ qua đó
để nhận được phí bảo hiểm của người tham gia bảo hiểm (kí kết hợp đồng),
người bảo hiểm cam kết sẽ trả cho một hoặc nhiều người thụ hưởng bảo hiểm
7


một số tiền nhất định (trong trường hợp người được bảo hiểm tử vong) hoặc
trả người được bảo hiểm khi họ sống đến một thời điểm đã được ghi rõ trên
hợp đồng”[18].
Theo Nguyễn Thị Hải Đường định nghĩa: “BHNT là những hình thức
bảo hiểm rủi ro liên quan đến sinh mạng, cuộc sống và tuổi thọ của người
được bảo hiểm”[15]. Định nghĩa này tuy rộng và khái quát, nhưng lại gắn
chặt nghiệp vụ BHNT với rủi ro, mà chưa đề cập đến tính tiết kiệm trong các
sản phẩm BHNT.
Dưới góc độ luật học, Luật KDBH định nghĩa: "BHNT là loại nghiệp
vụ bảo hiểm cho trường hợp người được bảo hiểm sống hoặc chết"[27]. Định
nghĩa này mặc dù đã khái quát được về sự kiện bảo hiểm là sống hoặc chết
nhưng có nhiều hạn chế như chưa làm rõ được đối tượng bảo hiểm cũng như
sự kiện bảo hiểm thực sự là gì, cũng như định nghĩa BHNT của Nguyễn Thị
Hải Đường chưa nêu được đặc trưng phổ biến của hầu hết các sản phẩm
BHNT là tính tiết kiệm đối với người tham gia bảo hiểm.

Những định nghĩa trên đây tuy được trình bày khác nhau, nhưng đều
thể hiện những đặc trưng nổi bật của BHNT, đó là:
- BHNT là một nghiệp vụ bảo hiểm thương mại, hay nói cách khác là
loại hình kinh doanh thu lợi nhuận (phân biệt với các chế độ bảo hiểm xã hội,
bảo trợ xã hội của Nhà nước).
- BHNT có tính đa mục đích, có thể được sử dụng để áp ứng nhiều
mục đích khác nhau tùy theo nhu cầu của khách hàng. Do vậy, sản phẩm
BHNT thường rất đa dạng (mỗi sản phẩm chỉ đáp ứng được một hoặc một vài
nhu cầu) và hoạt động tiếp thị sản phẩm này phải mang tính năng động và
linh hoạt cao.
8


- BHNT là loại hình bảo hiểm duy nhất cho phép bảo hiểm cho hai sự
kiện trái ngược nhau là sống và chết. Điều này cũng có nghĩa là, trong hầu hết
trường hợp, việc DNBH phải trả tiền với một hợp đồng BHNT là chắc chắn
xảy ra (phân biệt với bảo hiểm phi nhân thọ - là loại hình bảo hiểm chỉ trả tiền
khi có rủi ro xảy ra).
- BHNT là loại hình bảo hiểm dài hạn, do đó điều khoản hợp đồng
phải được trình bày đầy đủ, khoa học dưới dạng văn bản, làm cơ sở cho sự
duy trì quan hệ hợp đồng lâu dài, thậm chí là cả đời người. Mặt khác, các
thông số kỹ thuật của từng sản phẩm, từng hợp đồng phải được tính toán cẩn
thận và công bố rõ ràng tới khách hàng.
- BHNT là loại hình sản phẩm bảo hiểm vô hình. Vì vậy, DNBH phải
đặc biệt quan tâm đến việc giải thích cho khách hàng hiểu rõ về sản phẩm.
Hơn nữa, việc thực hiện đúng và đầy đủ cam kết là đòi hỏi nghiêm ngặt đối
với các DNBH.
Như vậy, hiểu một cách đơn giản nhất, BHNT là loại hình nghiệp vụ
bảo hiểm thương mại, thể hiện ở sự cam kết giữa DNBH và người tham gia
bảo hiểm mà theo đó, DNBH cam kết trả một khoản tiền xác định theo thỏa

thuận khi xảy ra sự kiện bảo hiểm (người được bảo hiểm sống hoặc chết)
trong một thời gian nhất định cho người tham gia bảo hiểm (hoặc người thụ
hưởng quyền lợi bảo hiểm), với điều kiện người tham gia bảo hiểm đóng phí
bảo hiểm theo thỏa thuận.
 Đặc điểm của bảo hiểm nhân thọ
Thứ nhất, đối tượng của BHNT là con người: không như bảo hiểm sinh
mạng hay bảo hiểm tai nạn con người trong bảo hiểm phi nhân thọ, chỉ rủi ro
chết hay thương tật toàn bộ vĩnh viễn của đối tượng được bảo hiểm mới thuộc
9


phạm vi bảo hiểm của hợp đồng BHNT. Bên cạnh đó, mặc dù đối tượng của
BHNT là con người nhưng BHNT không đảm bảo những chi phí y tế như
trong các loại hình bảo hiểm tai nạn và sinh mạng cá nhân trong bảo hiểm phi
nhân thọ.
Cụ thể hơn đối tượng của BHNT là tuổi thọ của con người: Trong
BHNT, nghĩa vụ khai báo đúng tuổi của người được bảo hiểm là rất quan
trọng. Căn cứ vào độ tuổi của người được bảo hiểm, bên bán bảo hiểm sẽ xác
định người đó có thuộc nhóm tuổi tham gia bảo hiểm hay không cũng như
tính toán mức phí bảo hiểm. Về lý thuyết, mức độ rủi ro sẽ khác nhau nếu
người được bảo hiểm có độ tuổi khác nhau. Ngoài ra, tuổi thọ của con người
còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác như sức khoẻ, bệnh tật, nếp sinh
hoạt, gen di truyền…
Thứ hai, BHNT mang tính tiết kiệm: Tính tiết kiệm của BHNT thể hiện
ở việc tham gia BHNT cũng giống như việc gửi tiết kiệm, bên mua bảo hiểm
dùng từng khoản tiền nhỏ để đóng phí bảo hiểm, khi sự kiện bảo hiểm xảy ra,
người thụ hưởng có thể có được khoản tiền lớn hơn. Việc nộp phí bảo hiểm là
nghĩa vụ theo thoả thuận, đồng thời bên mua bảo hiểm không thể tuỳ tiện lấy
lại các khoản phí đã nộp (khác với việc gửi tiền tại ngân hàng), chính vì vậy
tiết kiệm cho bên mua bảo hiểm những khoản chi tiêu không thật sự cần thiết.

Đây là một trong những hình thức huy động vốn nhàn rỗi trong dân cư có
hiệu quả; hình thức huy động dần dần, phù hợp với khả năng tích lũy của mọi
đối tượng, từ những người có thu nhập thấp đến những người có thu nhập
cao. Chính hình thức tổ chức đóng phí bảo hiểm tại nhà, có thể theo tháng,
quý, 6 tháng hay một năm, có nhiều mức phí tùy theo sự lựa chọn và khả
năng tài chính của người tham gia bảo hiểm đã tạo nên sự khác biệt, hình
thành ý thức tiết kiệm trong dân cư đã đem lại thành công cho BHNT.
10


Thứ ba, BHNT là loại hình bảo hiểm duy nhất có thể chi trả cho dù có
rủi ro hay không có rủi ro xảy ra: Đây là một trong những điểm khác nhau
cơ bản giữa BHNT và bảo hiểm phi nhân thọ. Mỗi người mua BHNT sẽ định
kì nộp một khoản tiền nhỏ có thể theo từng tháng, từng quý hay từng năm
cho công ty BHNT. Ngược lại, công ty BHNT có trách nhiệm trả một số tiền
lớn, tức STBH cho người được hưởng quyền lợi bảo hiểm theo thoả thuận từ
trước khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra. STBH được trả khi người được bảo
hiểm đạt đến độ tuổi nhất định trong hợp đồng. Nhưng nếu không may người
được bảo hiểm bị chết sớm thì công ty BHNT cũng sẽ trả toàn bộ STBH cho
thân nhân và gia đình người đó cho dù họ mới chỉ tiết kiệm được một khoản
tiền rất nhỏ qua việc đóng phí.
Thứ tư, hợp đồng BHNT thường dài hạn và rất đa dạng và phức tạp:
Trên thực tế hiện nay, thời hạn ngắn nhất của hợp đồng BHNT mà các nhà
bảo hiểm cung cấp là 5 năm. Tính dài hạn của hợp đồng BHNT nhằm đảm
bảo quyền lợi cho nhà bảo hiểm trong hoạt động đầu tư đồng thời đáp ứng
được mục đích tiết kiệm của bên mua bảo hiểm. Mặt khác, thời hạn hợp đồng
dài sẽ giúp bên mua bảo hiểm có khả năng nộp phí bảo hiểm. Bên cạnh đó,
nguồn phí bảo hiểm được sử dụng để đầu tư và người tham gia bảo hiểm
được hưởng một phần lãi từ hoạt động đầu tư đó vì BHNT mang tính tiết
kiệm. Trong khi đó, bảo hiểm phi nhân thọ mang tính ngắn hạn, chỉ bồi

thường khi có tai nạn, rủi ro xảy ra nên các DNBH không được phép kinh
doanh đồng thời BHNT và bảo hiểm phi nhân thọ.
Tính đa dạng và phức tạp trong BHNT được thể hiện ở ngay các sản
phẩm của nó. Mỗi sản phẩm BHNT có nhiều loại khác nhau. Mỗi hợp đồng
lại có thời hạn khác nhau, STBH khác nhau, độ tuổi người tham gia cũng
khác nhau. Ngay cả các mối quan hệ trong một bản hợp đồng cũng khá phức
11


tạp. Mỗi một hợp đồng BHNT có thể có 4 bên tham gia: người bảo hiểm,
người được bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm và người thụ hưởng quyền lợi
bảo hiểm. Có thể nói HĐBH phong phú hơn nhưng cũng phức tạp hơn HĐBH
phi nhân thọ rất nhiều.
1.1.2. Một số vấn đề về trục lợi bảo hiểm nhân thọ
Xét về khái niệm, có thể thấy, cụm từ “trục lợi bảo hiểm” trong pháp luật
Việt Nam lần đầu tiên được đề cập đến tại Điều 15 Nghị định 118/2003/NĐCP hướng dẫn về mức xử phạt đối với hành vi “trục lợi trong việc tham gia
bảo hiểm, bồi thường bảo hiểm, trả tiền bảo hiểm, giải quyết khiếu nại bảo
hiểm”[5]. Bên cạnh đó, Điều 4 Mục V Thông tư 31/2004/TT-BTC cũng định
nghĩa rõ hơn về vấn đề “trục lợi bảo hiểm” như sau: Hành vi trục lợi trong
việc tham gia bảo hiểm, bồi thường bảo hiểm, trả tiền bảo hiểm và giải quyết
khiếu nại bảo hiểm được hiểu là “hành vi cố ý lừa dối của tổ chức, cá nhân
nhằm thu lợi bất chính khi tham gia bảo hiểm, yêu cầu, giải quyết bồi thường
bảo hiểm, trả tiền bảo hiểm, giải quyết khiếu nại bảo hiểm”[2].
Tuy nhiên, Nghị định 118/2003/NĐ-CP nêu trên đã hết hiệu lực do đã bị
thay thế hoàn toàn bởi Nghị định số 41/2009/NĐ-CP và sau đó Nghị định
41/2009/NĐ-CP lại tiếp tục bị thay thế bởi Nghị định 98/2013/NĐ-CP. Hệ
quả là, Thông tư 31/2004/TT-BTC hướng dẫn thực hiện Nghị định
118/2003/NĐ-CP, cũng như khái niệm về “trục lợi bảo hiểm” được đưa ra
trong Thông tư đã bị mất giá trị pháp lý. Hiện nay, vấn đề xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực KDBH được điều chỉnh bởi Nghị định số

98/2013/NĐ-CP và Nghị định này hoàn toàn không có một quy định nào đưa
ra định nghĩa rõ ràng về “trục lợi bảo hiểm” hay thậm chí là đề cập đến khái
niệm này. Như vậy, có thể thấy, pháp luật KDBH hiện hành của Việt Nam đã
hoàn toàn bỏ ngỏ trong việc định nghĩa về khái niệm “trục lợi bảo hiểm”.
12


Do thiếu sự nhất quán trong quy định của hệ thống pháp luật hiện hành
nên hiện nay việc hiểu và sử dụng khái niệm “trục lợi bảo hiểm”, đặc biệt là
trong lĩnh vực BHNT còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau. Trên thế giới,
có hai quan điể m lớn về vấ n đề trục lợi bảo hiể m. Có thể tóm lược như sau:
- Quan điể m thứ nhấ t cho r ằng: trục lợi bảo hiể m là hành vi gian dối
nhằm kiếm lợi bấ t hợp pháp của các chủ thể t ham gia vào quan hê ̣ KDBH . Vì
HĐBH là sự thỏa thuâ ̣n giữa DNBH và bên mua bảo hiể m , như vâ ̣y, chủ thể
thực hiê ̣n hành vi này có thể là bên mua bảo hiể m và DNBH (bao gồm: ĐLBH
- người được ủy quyề n của DNBH , nhân viên của DNBH , người điề u hành
DNBH). Có thể thấ y với quan điể m này thì hành vi

TLBH được hiể u giống

như định nghĩa đã được đưa ra tại Thông tư 31/2004/TT-BTC.
Quan điể m này cũng tương thích với k hái niê ̣m “gian lâ ̣n bảo hiể m”
(Insurance Fraud) của các hiê ̣p hội nghề nghiê ̣p bảo hiể m trên thế giới . Theo
LOMA (Life Office Management Association, Inc. – Mỹ), từ “Fraud” trong
giao dịch bảo hiể m thương mại được hiể u là “cố ý không nói sự th ật hoặc che
giấ u thông tin của bên mua bảo hiể m để được bồi thường bảo hiể m hoă ̣c

trả

khoản tiề n bảo hiể m mà lẽ ra không được nhâ ̣n” hoă ̣c “không nói sự thâ ̣t

hoă ̣c cung cấ p sai thông tin của người quản trị DNBH , nhân viên bảo hiể m ,
ĐLBH, môi giới bảo hiể m nhằm thu lợi tài chính”[38].
- Quan điể m thứ hai lại cho rằng: “Trục lợi bảo hiể m” chỉ được hiể u là
hành vi trục lợi tiề n b ồi thường bảo hiể m hoă ̣c tiề n bảo hiể m trả từ phía bên
mua bảo hiể m tức là hành vi gian lâ ̣n bảo hiể m từ phía khách hàng bảo hiể m.
Những người ủng hộ quan điểm này xem “trục lợi bảo hiểm” như là một
trong những biểu hiện của hoạt động “gian lận bảo hiểm”. Theo đó, “gian lận
bảo hiểm” bao gồm hành vi “trục lợi bảo hiểm” từ phía khách hàng, gian lận
từ phía đại lý, nhân viên bảo hiểm và gian lận từ phía DNBH[42]. Đây là cách
13


hiểu không được sử dụng phổ biến bởi các chuyên gia pháp luật. Tuy nhiên,
các DNBH Việt Nam mà tổ chức đại diê ̣n là HHBH Việt Nam ủng hộ quan
điể m này, bởi quan tâm hàng đầu của DNBH là chống đỡ hành vi trục lợi của
khách hàng nhằm đảm bảo hoạt động KDBH có hiê ̣u quả.
Như vâ ̣y, sự khác biê ̣t của hai quan điể m trên ở chỗ chủ thể của hành vi
TLBH, nếu quan điể m thứ hai chỉ coi đó là hành vi của khách hàng – bên mua
bảo hiể m thì quan điể m thứ nhấ t cho rằng hành vi TLBH có thể gây ra của cả
hai bên chủ thể của HĐBH.
Từ những phân tích trên về các quan điể m khác nhau v

ề khái niệm

TLBH, theo quan điểm của tác giả, khái niê ̣m trục lợi BHNT có thể định nghĩa
như sau: Trục lợi BHNT là hành vi gian dối được tiến hành bởi các chủ thể
tham gia vào quan hệ BHNT : những cá nhân bên mua bảo hiể m , những cá
nhân thuộc DNBH hoă ̣c đại diê ̣n DNBH trong quá triǹ h giao kết

, thực hiê ̣n


hợp đồng BHNT có mục đích thu được những khoản lợi bấ t chính.
Viê ̣c đưa ra định nghĩa và thống nhấ t quan điể m về TLBH nói chung
và trục lợi BHNT nói riêng có ý nghĩa rấ t quan trọng cho viê ̣c thực hiện mục
đích nghiên cứu của đề tài.
 Dấu hiệu trục lợi BHNT
Từ những tìm hiểu về khái niệm, có thể thấy TLBH là một vi phạm
pháp luật, do đó trục lợi BHNT nói riêng và TLBH nói chung có một số dấu
hiệu sau:
Thứ nhất, TLBH là hành vi trái pháp luật , quan hê ̣ giữa DNBH và bên
mua bảo hiể m được xem là một quan hê ̣ hợp đồng , cho nên, trước hết, nó phải
được thực hiê ̣n dựa trên những nguyên tắc của một quan hê ̣ pháp luâ ̣t dân sự
thông thường, cụ thể đó là nguyên tắc “thiê ̣n chí , trung thực” trong quá trình
14


giao kết , thực hiê ̣n hợp đồng . Mă ̣t khá c, bảo hiể m là hoạt động được thực
hiê ̣n dựa trên niề m tin lẫn nhau của các chủ thể , ở đó, bên mua nhâ ̣n lời cam
kết bồi thường, trả tiề n bảo hiể m khi xảy ra sự kiê ̣n bảo hiể m

, còn DNBH

chấ p nhâ ̣n đảm bảo rủi ro chủ yếu thông qua viê ̣c khai báo rủi ro của khách
hàng. Vì vậy, bấ t kỳ một hành vi cố ý gian dối , không trung thực nào nhằm
gây bấ t lợi cho bên còn lại trong quan hê ̣ đề u được xem là phi pháp.
TLBH ở những mức độ khác nhau đều nguy hiểm và gây hại cho xã hội.
TLBH đã hoặc có nguy cơ gây ra những thiệt hại về vật chất cho DNBH, ảnh
hưởng đến lòng tin của những người tham gia bảo hiểm chân chính và gây ra
những thiệt hại lớn cho nền kinh tế. Mức độ nguy hiểm của hành vi TLBH
được xác định phụ thuộc vào tính chất và mức độ thiệt hại thực tế hoặc nguy

cơ gây thiệt hại cho DNBH, cho xã hội mà hành vi TLBH đó gây ra. Trong
trường hợp đã gây ra những thiệt hại, thì sự thiệt hại đó là hậu quả tất yếu của
hành vi TLBH.
Thứ hai, có hành vi cố ý lừa dối : chủ thể cố ý che giấ u thông tin hoă ̣c
cung cấ p thông tin không trung thực nhằm làm cho đối tác hiể u sai thực

chấ t

của vấ n đề . Hành vi được thực hiện vì động cơ vụ lợi, nhằm mục đích thu lợi
bất chính.
TLBH có mục đích thu lợi bấ t chính: người có hành vi gian lâ ̣n là nhằm
mục đích trục lợi cá nhân như: khách hàng TLBH để hưởng quyề n lợi tài chính
mà lẽ ra không được hưởng, hưởng quyề n lợi tài chính cao hơn mức lẽ ra được
hưởng. Khoản lợi bấ t chính đó chính là khoản bồi thường hay tiề n bảo hiể m trả
– số tiề n mà lẽ ra họ không được hưởng hoă ̣c ở mức cao mức mà lẽ ra họ được
hưởng. Ngược lại, một hành vi gian lâ ̣n của đại lý hay nhân viên kinh doanh ,
giám định viên, người quản trị DNBH có thể làm tăng thu nhâ ̣p từ hoa hồng ,
lương thưởng do giao dịch gian lâ ̣n mang lại hoă ̣c chiếm đoạt tiề n của DNBH
.
15


Thứ ba, về chủ thể thực hiện TLBH: phía DNBH, người có hành vi gian
dối có thể là : Đại lý , nhân viên , người quản trị điề u hành DNBH . Về phía
khách hàng bảo hiể m : Bên mua bảo hiể m có thể có nhiề u tư cách gắn với
nhiề u cá nhân khác nhau : Tư cách người mua bảo hiể m (người giao kết hợp
đồng); tư cách người được bảo hiể m (người có tuổi thọ , tính mạng, thân thể ,
sức khỏe được đảm bảo bởi hợp đồng bảo hiể m

); tư cách người thụ hưởng


(người được nhâ ̣n hưởng tiề n bồi thường , tiề n bảo hiể m trả ). Hành vi trục lợi
có thể xuấ t phát từ chủ thể là cá n hân có 1 trong 3 tư cách nói trên. Thông tin
bị gian dối còn có thể là mối quan hê ̣ giữa các cá nhân đó như

: Mối quan hê ̣

đảm bảo “có quyề n lợi có thể bảo hiể m” của “người mua bảo hiể m”

(Điề u 3,

khoản 9, Luâ ̣t KDBH) hay mối quan hê ̣ nhân thân để gi ao kết hợp đồng bảo
hiể m (Điề u 31, Luâ ̣t KDBH).
Thứ tư, TLBH xâm hại đến quan hệ hợp đồng giữa DNBH và bên mua
bảo hiể m , cụ thể TLBH xâm phạm quyề n lợi chính đáng của DNBH : Cho dù
chủ thể của hành vi TLBH không phải là khách hàng bảo hiể m mà là ngườ i
của phía DNBH như người quản trị, nhân viên hay người được ủy quyề n đại
diê ̣n thì DNBH cũng là người phải gánh chịu chi phí tăng lên hoă ̣c tổn hại uy
tín, hình ảnh, thương hiê ̣u. Xa hơn nữa, tình trạng trục lợi nếu phổ biến sẽ làm
xấ u đi môi trường của ngành bảo hiể m thương mại, làm ngăn cản sự phát triể n
lành mạnh của thị trường bảo hiể m.
Ngoài ra, hành vi trục lợi BHNT nói riêng cũng mang một số đặc trưng
riêng biệt so với các hành vi TLBH thông thường.
Một là hành vi TLBH có thể được tiến hành bởi sự giúp sức của các
chủ thể khác không liên quan đến quan hệ bảo hiểm. Đó có thể là những
người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước (trong trường hợp người trục
lợi móc nối với cơ quan hộ tịch tại địa phương để yêu cầu họ ban hành những
16



tài liệu chứng minh rằng người được bảo hiểm đã quan đời), nhân viên y tế
của các trung tâm y tế (trong trường hợp trục lợi cố tình tạo ra những hồ sơ
bệnh án cho thấy người được bảo hiểm bị bệnh và phải điều trị tại trung tâm y
tế mặc dù trên thực tế họ không hề gặp bất cứ vấn đề gì về sức khoẻ) và kể cả
công an, cán bộ xã phường có liên quan…
Hai là do đối tượng của BHNT là tính mạng, tuổi thọ của con người
cho nên hoạt động TLBH luôn tác động đến những yếu tố gắn liền với tính
mạng, sức khoẻ của người được bảo hiểm. Có thể thấy, trong BHNT, việc giải
quyết quyền lợi bảo hiểm được đặt ra nếu như người được bảo hiểm gặp phải
những rủi ro trong cuộc sống mà những rủi ro đó gây thiệt hại, tổn thất đến
sức khoẻ, tính mạng của họ. Do đó, để trục lợi BHNT thì người trục lợi phải
tác động đến những yếu tố liên quan đến tính mạng, sức khoẻ của người được
bảo hiểm như làm giả, làm sai lệch những tài liệu thể hiện tình trạng sức khoẻ
của người được bảo hiểm hoặc che giấu những thông tin về bệnh tật, tai nạn
của người được bảo hiểm.
Ba là thông thường hành vi trục lợi BHNT chỉ nhắm vào tính bảo vệ
của hoạt động BHNT. Có thể thấy, BHNT không những là một phương thức
để bảo vệ người được bảo hiểm khỏi mọi rủi ro về tính mạng sức khoẻ xảy ra
trong cuộc sống mà còn là một cách thức để người được bảo hiểm tiết kiệm
cho các khoản chi tiêu của mình thông qua việc đóng phí bảo hiểm định kỳ và
rút ra tại một thời điểm được dự liệu trong hợp đồng. Tuy nhiên, khi hoạt
động trục lợi BHNT diễn ra, người trục lợi chủ yếu nhắm vào tính bảo vệ của
BHNT. Thông thường, họ chỉ tập trung vào yếu tố, chi tiết có ảnh hưởng đến
sự kiện bảo hiểm như bệnh tật, thương tật, tử vong để từ đó yêu cầu DNBH
giải quyết các quyền lợi bảo hiểm theo thoả thuận của hợp đồng.

17


1.1.3. Biện pháp pháp lý hạn chế trục lợi bảo hiểm nhân thọ

Về biện pháp pháp lý, ở Việt Nam hiện nay chưa có một khái niệm nào
mang tính học thuật về biện pháp pháp lý. Do đó, theo quan điểm của tác giả
có thể hiểu biện pháp pháp lý trên cơ sở tìm hiểu khái niệm “biện pháp” và
khái niệm “pháp lý” như sau:
Biện pháp là cách làm, cách giải quyết một vấn đề cụ thể.
Pháp lý (juridique) xuất phát từ tiếng La-tin “Jus” nghĩa là các quy định
của pháp luật. Theo giải thích của Đại từ điển Tiếng Việt thì: "pháp lý là căn
cứ , cơ sở lí luận của luật pháp"[35]. Từ điển Pháp – Việt, pháp luật – hành
chính định nghĩa: "pháp lý mang tính chất cưỡng bức của pháp luật, đặt dưới
quyền lực của pháp luật bắt buộc phải thi hành"[33].
Như vậy, khái niệm pháp lý không đồng nghĩa với khái niệm pháp luật,
bởi xét về khái niệm pháp luật (droit) xuất xứ La-tin “directum” nói lên khái
niệm ngay thẳng, sự chính trực. Theo Đại từ điển Tiếng Việt giải thích: "pháp
luật là quy tắc, hành vi của công dân do nhà nước quy định, ban hành, buộc
phải tuân theo không được trái phạm"[35]. Theo định nghĩa này chúng ta có
thể thấy sự chưa đầy đủ và chuẩn xác như định nghĩa trong giáo trình Lý luận
chung về nhà nước và pháp luật: "pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do
nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị
trong xã hội, là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội"[34].
Trên cơ sở các định nghĩa trên, tựu trung lại có thể thấy rõ pháp lý có
các thuộc tính khác biệt so với pháp luật sau đây: Tính liên quan đến hệ thống
các quy phạm pháp luật, mọi lí lẽ, cơ sở hay căn cứ đều dựa trên các quy tắc
hay đúng hơn là dựa vào pháp luật; Tính lệ thuộc vào pháp luật, không có các
quy phạm pháp luật thì không thể chứng minh thế nào là đúng, sai, phù hợp
18


×