Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

AEC và EU giải pháp cho thị trường lao động VN khi tham gia AEC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (278.05 KB, 18 trang )

CHƯƠNG I: SO SÁNH AEC VÀ EU
Lịch sử hình thành
 Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC)
- Tại Tuyên bố Tầm nhìn ASEAN 2020 thông qua tháng 12/1997, các nhà lãnh
1.1.

-

đạo ASEAN đã định hướng phát triển ASEAN thành một Cộng đồng ASEAN.
Ý tưởng đó được tái khẳng định tại Hội nghị cấp cao ASEAN 9 tháng 10/2003,
thể hiện trong Tuyên bố Hoà hợp ASEAN II (hay còn gọi là Tuyên bố Ba-li II).
Theo đó, ASEAN nhất trí hướng đến mục tiêu hình thành một cộng đồng
ASEAN vào năm 2020 với 3 trụ cột chính là hợp tác chính trị - an ninh (Cộng
đồng an ninh ASEAN – ASC), hợp tác kinh tế (Cộng đồng Kinh tế ASEAN –
AEC) và hợp tác văn hoá xã hội (Cộng đồng Văn hoá Xã hội ASEAN –
ASCC).
Tại Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 12 tháng 1/2007 các nước ASEAN đã

-

quyết định rút ngắn thời hạn hình thành Cộng đồng Kinh tế ASEAN từ 2020
xuống 2015.
31/12/2015, một khối kinh tế khu vực của 10 quốc gia thành

-

viên ASEAN chính thức được thành lập gọi là cộng đồng kinh tế ASEAN viết
tắt là AEC (ASEAN Economic Community).
 Liên minh Châu Âu (EU)
1950
1951



Tuyên bố Schuman đề xuất thành lập Cộng đồng than thép Châu Âu
Hiệp ước Paris thành lập Cộng đồng Than Thép Châu Âu(ECSC), tổ chức
tiền thân của EU, với 6 thành viên sáng lập là Pháp, Đức (Tây Đức), I-ta-li-

1957

a, Bỉ, Hà Lan và Lúc-xăm-bua.
Hiệp ước Rô-ma thành lập Cộng đồng Năng lượng nguyên tửChâu
Âu (Euratom) và Cộng đồng Kinh tế Châu Âu (EEC). EEC hướng tới thiết
lập thị trường chung, liên minh thuế quan (hoàn thành năm 1968) với sự di

1967

chuyển tự do của vốn và lao động.
Hiệp ước Hợp nhất 3 cộng đồng nói trên (ECSC, Euratom và EEC), gọi

1973
1981
1986
1987

chung là Cộng đồng Châu Âu (European Communities – EC)
Kết nạp Đan Mạch, Ai-len và Anh
Kết nạp Hy Lạp
Kết nạp Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha
Đạo luật Thị trường Thống nhất châu Âu (Single European Act) sửa đổi
Hiệp ước Rô-ma (1957) nhằm hòan thiện việc thiết lập thị trường chung
châu Âu.



1993

Hiệp ước Maastricht (còn gọi là Hiệp ước thành lập Liên minh Châu

1995
1995
1997

Âu), đánh dấu một bước ngoặt trong tiến trình nhất thể hóa Châu Âu.
Hiệp ước Schengen (về tự do di chuyển) có hiệu lực
Kết nạp Áo, Phần Lan và Thuỵ Điển.
Hiệp ước Amsterdam sửa đổi và bổ sung Hiệp ước Maastricht, chuẩn bị cho

2001

việc mở rộng EU về phía Đông.
Hiệp ước Nice tập trung vào vấn đề cải cách thể chế để tiếp nhận các thành

2002
2004

viên mới, đồng thời tăng cường vai trò của Nghị viện Châu Âu.
Đồng Euro chính thức được lưu hành tại 12 nước thành viên EU.
Kết nạp thêm 10 thành viên mới là Síp, Séc, Xlô-ve-ni-a, Hung-ga-ry, Lát-

2007
2009

via, Li-thu-nia, Man-ta, Ba Lan, Xlô-va-ki-a và Estonia.

Kết nạp Bungari và Rumani.
Hiệp ước Lisbon sửa đổi nội dung của 2 hiệp định chủ chốt quy định bản
chất, tổ chức và hoạt động của EU là Hiệp ước thành lập Cộng đồng châu
Âu – TEC (Hiệp ước Rô-ma 1957) và Hiệp ước Maastricht về Liên minh
châu Âu - TEU (1992).

Thành viên
 Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC)
1.2.

Cộng đồng kinh tế Asean là một khu vực kinh tế chung bao gồm 10 thành viên
sau: Brunei, Cam-pu-chia, Indonesia, Lào, Malaysia, Myanmar, Philippines,
Singapore, Thái Lan, Việt Nam.
 Liên minh Châu Âu (EU)

Ban đầu, Liên minh châu Âu bao gồm 6 quốc gia thành viên là : Bỉ, Đức, Italy,
Luxembourg, Pháp và Hà Lan. Đến ngày 1 tháng 5 năm 2004, EU đã chính thức kết
nạp thêm 10 thành viên mới là Cyprus, Czech, Estonia, Hungary, Latvia, Lithuania,
Malta, Ba Lan, Slovakia, Slovenia. Ngày 1/1/2007, Romania và Bulgaria, gia nhập
EU và ngày 1/7/2013 là Croatia, nâng tổng số thành viên của Liên Minh châu Âu lên
28 Quốc Gia thành viên.
Sau đây là danh sách 28 quốc gia thành viên của Liên minh châu Âu xếp theo
năm gia nhập.
-1951: Bỉ, Đức, Ý, Luxembourg, Pháp, Hà Lan
-1973: Đan Mạch, Ireland, Anh
-1981: Hy Lạp


-1986: Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha
-1995: Áo, Phần Lan, Thụy Điển

-Ngày 1/5/2004: Séc, Hungary, Ba Lan, Slovakia, Slovenia, Ltva, Latvia, Estonia,

Malta, Cộng hòa Síp
-Ngày 1/1/2007: Romania, Bulgaria
-Ngày 1/7/2013: Croatia
1.3.
Nguyên tắc hoạt động
 Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC)

AEC đề ra nguyên tắc hội nhập kiểu hợp bang, hình thành một cộng đồng kinh tế
ASEAN ổn định, thịnh vượng và có khả năng cạnh tranh cao.
 Liên minh Châu Âu (EU)

Hội nhập EU được xây dựng trên nguyên tắc liên bang, sự liên kết hội nhập được
bắt đầu từ kinh tế, dần dần chuyển sang chính trị, xây dựng các thể chế chung vững
chắc, đồng thời giữ vai trò hạt nhân, bản sắc dân tộc của các nước thành viên.
Cấu trúc nội dung
 Điểm giống nhau:
1.4.

Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) và Liên minh Châu Âu EU là các cộng đồng
kinh tế có quá trình hợp tác lâu dài và tương đối ổn định. Cùng với mục tiêu phát triển
kinh tế AEC và EU có những điểm chung:
- AEC và EU đều được thành lập trong xu thế toàn cầu hóa, vì vậy trong quá trình

phát triển cấp độ liên kết hai cộng đồng có nhiều nét tương đồng.
- Mục tiêu của AEC và EU đều hướng tới tạo một khu vực ổn định, phát triển.
- AEC và EU đều hướng tới xây dựng một khu vực thương mại tự do trong đó,

vốn, hàng hóa cũng như người lao động được tự do di chuyển. Trong cấu trúc

nội dung của AEC và EU đều đề cập tới việc xóa bỏ một phần hay toàn bộ các
rào cản thuế quan, phi thuế quan nhằm thực hiện tự do hóa thuế quan. Đồng thời,
việc xây dựng một thị trường giàu tính cạnh tranh cũng là một trong những nội
dung cơ bản.
 Điểm khác nhau:
 Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC)
Theo các văn bản pháp lý của ASEAN, cấu trúc nội dung của AEC bao gồm:
Một thị trường và cơ sở sản xuất thống nhất
Một khu vực kinh tế cạnh tranh cao
Một khu vực phát triển kinh tế đồng đều
Một khu vực hội nhập hoàn toàn vào nền kinh tế toàn cầu
 Liên minh Châu Âu (EU)
-


Cấu trúc nội dung của EU nhằm hướng tới: một nền kinh tế trí thức cạnh tranh
nhất và năng động nhất trên thế giới.
Cấu trúc liên kết
 Điểm giống nhau:
1.5.

Đây là hai liên kết kinh tế khu vực với cấp độ liên kết khá chặt chẽ dựa trên bốn
yếu tố đó là: tự do hàng hóa, tự do dịch vụ, tự do đầu tư và tự do lao động.
 Điểm khác nhau:

Trước hết, có 5 loại hình hội nhập kinh tế khu vực được phân thành các cấp độ
cơ bản như sau:
-

Khu vực mậu dịch tự do

Liên minh thuế quan/ Liên minh hải quan
Thị trường chung
Liên minh kinh tế
Liên minh tiền tệ
Trong đó, liên minh tiền tệ là cấp độ liên kết cao nhất mà ở đó các nước thành

viên phải phối hợp chính sách tiền tệ với nhau, cùng thực hiện một chính sách tiền tệ
thống nhất và cuối cùng là sử dụng chung đồng tiền đó.
Liên minh Châu Âu (EU) đã đạt được đến cấp độ liên kết cao nhất này kể từ khi
cho ra đời đồng EURO vào ngày 01/01/2002. Đạt tới hình thức liên kết này, không
còn rào cản nào đối với các yếu tố cơ bản của sản xuất: hàng hóa, dịch vụ, vốn và lao
động có thể di chuyển tự do giữa các quốc gia thành viên; đồng tiền của các nước EU
được thay bằng đồng tiền chung Châu Âu EURO và ngân hàng chung với quyết định
chính sách tiền tệ chung. Còn Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) mới đạt tới cấp độ
liên kết là một Thị trường chung “trừ” hay nói cách khác là một khu vực thương mại
tự do “cộng”. Cụ thể là:
-Tự do hàng hóa: Từ năm 1992 đến nay, ASEAN liên tục ban hành các văn bản

pháp luật nhằm thúc đẩy tiến trình tự do hóa thương mại trong AFTA: Hiệp định
khung về tăng cường hợp tác trong ASEAN năm 1002, CEPT năm 1992, ATIGA
năm 2009, APIS năm 2004… và các hoạt động cụ thể nhằm tự do hàng hóa.
-Tự do dịch vụ: Hiệp định khung ASEAN về dịch vụ (AFAS) 1995 và các hoạt động
cụ thể nhằm tự do hóa dịch vụ đã được triển khai thực hiện.
-Tự do đầu tư: Các nước ASEAN đã ký kết và thực hiện các hiệp định: Hiệp định

khuyến khích và bảo hộ đầu tư năm 1987, Hiệp định khung về Khu vực đầu tư


ASEAN (FAATA) năm 1998, Hiệp định đầu tư toàn diện ASEAN (ACIA) năm
2009 đã vững chắc thức đẩy tự do đầu tư trong AEC.

-Tự do lao động: Những sự tự do các yếu tố dịch vụ, vốn, lao động chỉ ở mức yếu:
“tự do một số lĩnh vực dịch vụ” chứ chưa phải là tất cả các lĩnh vực dịch vụ; “tự
do di chuyển vốn hơn” so với trước đây chứ chưa phải là hoàn toàn tự do di
chuyển vốn và “tự do di chuyển lao động lành nghề” chứ chưa phải tự do di
chuyển hình thức lao động. Và bổ sung thêm nội dung mới hơn là tự do di
chuyển lao động lành nghề.
Do vậy cấp độ liên kết của AEC mới chỉ được coi là một Thị trường chung “trừ”
(CM-) hoặc là một Khu vực thương mại tự do “cộng” (FTA+). Bởi lẽ, hình thức liên
kết khu vực Thị trường chung (CM) được thành lập khi hai hay nhiều nước thiết lập ra
một liên minh thuế quan và thêm vào đó là sự cho phép các yếu tố của sản xuất di
chuyển tự do giữa các nước này. Mà AEC mới chỉ có sự tự do di chuyển các yếu tố
của sản xuất mà chưa có thuế quan chung và hài hòa chính sách kinh tế nên mới chỉ ở
cấp độ liên kết CM-. Còn đối với Khu vực thương mại tự do (FTA) – được hình thành
khi hai hay nhiều nước thực hiện việc bãi bỏ cả thuế xuất nhập khẩu và tất cả các hạn
ngạch đối với thương mại hàng hóa giữa các nước này nhưng vẫn giữ nguyên thuế
quan đối với các nước khác – như vậy AEC cộng thêm hai yếu tố so với hình thức liên
kết FTA đó là sự tự do luân chuyển vón và lao động.
Như vậy, AEC là mô hình liên kết chưa có tiền tệ trên thế giới, hay nói theo cách
khác thì cấp độ liên kết của AEC mới chỉ ở mức CM- hoặc FTA+. AEC vẫn là các nền
kinh tế “cộng” chứ không phải là một thực tế kinh tế đơn nhất, sự hài hòa về chính
sách kinh tế vẫn chưa có giữa các quốc gia tham gia AEC. AEC vẫn là một cấp độ liên
kết thấp hơn so với EU.
 Nhận xét chung:

Về mặt bản chất, EU mang bản chất là một liên minh kinh tế, chính trị. Còn về phía
AEC, mặc dù được gọi với cái tên “Cộng đồng kinh tế”, AEC thực chất chưa thể được
coi là một cộng đồng kinh tế gắn kết như Cộng đồng Kinh tế châu Âu bởi AEC không
có cơ cấu tổ chức chặt chẽ và những cam kết ràng buộc với lộ trình thực hiện cụ thể.
AEC thực chất là đích hướng tới của các nước ASEAN thông qua việc hiện thực hóa
dần dần 04 mục tiêu kể trên (trong đó chỉ mục tiêu 01 là được thực hiện tương đối



toàn diện và đầy đủ thông qua các hiệp định và thỏa thuận ràng buộc, các mục tiêu
còn lại mới chỉ dừng lại ở việc xây dựng lộ trình và thực hiện một số sáng kiến khu
vực) - AEC là một tiến trình hội nhập kinh tế khu vực chứ không phải là một Thỏa
thuận hay Hiệp định với các cam kết ràng buộc thực chất.
CHƯƠNG II: CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC LAO ĐỘNG VIỆT NAM KHI
THAM GIA VÀO AEC
2.1. Cơ hội
 Tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động

Cộng đồng kinh tế ASEAN được thành lập giúp thị trường lao động trong khối
hoạt động sôi động hơn, thúc đẩy tạo việc làm cho từng quốc gia thành viên. Trong
khối này, ba quốc gia có số lao động chiếm tỷ trọng hơn 70% là Indonesia (40%),
Philippines (16%) và Việt Nam (15%).
Theo dự báo của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) thì khi tham gia vào AEC, số
việc làm của Việt Nam đến năm 2025 có thể tăng lên 14,5%. Điều này có nghĩa, Việt
Nam đang có hơn 53 triệu lao động và sẽ có thêm 14,5 triệu lao động khác tìm được
việc làm từ nay cho đến năm 2025. Sự gia tăng cơ hội việc làm mà chủ yếu lợi thế
cạnh tranh ở lao động giá rẻ như ngành dệt may, da giày, cũng như một số nông sản
như hồ tiêu, cà phê, thủy-hải sản và và một số ngành nghề được đánh giá có trình độ
chất lượng cao hiện tại ở trong nước như: công nghệ thông tin, điện tử bưu chính viễn
thông.
Trong giai đoạn 2015 - 2025, nhu cầu đối với việc làm cần tay nghề trung bình
nói chung sẽ tăng nhanh nhất, ở mức 28%, lao động có trình độ kỹ năng thấp là 23%
và lao động có kỹ năng cao sẽ tăng 13% và sẽ có thêm nhiều cơ hội cải thiện cuộc
sống của hàng triệu người.
 Chuyển dịch Cơ cấu lao động theo hướng tích cực

Theo như dự báo của ILO, AEC sẽ đẩy mạnh các xu hướng chuyển đổi cơ cấu

hiện tại. Tỷ trọng việc làm của ngành công nghiệp sẽ tăng lên tới 23,5% tổng việc làm
vào năm 2025, với tỷ trọng của ngành dệt may và xây dựng tương ứng là 5,7% và 8%.
Với sự mở rộng đáng kể của ngành mậu dịch và vận tải hàng hóa, dịch vụ sẽ trở thành
khu vực tạo việc làm chủ lực trong nền kinh tế, chiếm 41,3% tổng việc làm của cả
nước.


Trái lại, tỷ trọng việc làm của ngành nông nghiệp sẽ giảm xuống còn 35,2% vào
năm 2025. Tuy nhiên, ngành nông nghiệp vẫn tạo ra khoảng 22 triệu việc làm cho
người lao động, tăng 2 triệu lao động so với bối cảnh không hội nhập AEC. Trong bối
cảnh đó, nâng cao năng suất lao động trong ngành nông nghiệp sẽ là yếu tố then chốt,
bên cạnh đó là đẩy mạnh kinh doanh nông nghiệp trong thời kỳ nông nhàn, nhằm
giảm tỷ lệ đói nghèo ở khu vực nông thôn.
 Di chuyển tự do của lao động có kỹ năng - nâng cao chất lượng nguồn nhân lực

các nước ASEAN mới cho phép lao động thuộc 8 ngành (kiểm toán, kiến trúc,
kỹ sư, nha sỹ, bác sỹ, y tá, điều tra viên và du lịch) được quyền tự do di chuyển tìm
việc làm sau khi Cộng đồng kinh tế ASEAN hình thành, thông qua các thỏa thuận
công nhận tay nghề tương đương. Đây là những lao động thuộc nhóm lao động có
chất lượng, được đào tạo chuyên môn hoặc có trình độ từ đại học trở lên, thông thạo
ngoại ngữ, đặc biệt là tiếng Anh.
Đối với người lao động, nhờ sự thỏa thuận này, người lao động Việt Nam sẽ có
cơ hội học tập và làm việc trong các môi trường chuyên nghiệp phát triển của các
nước trong AEC, đồng thời cũng làm thúc đẩy nguồn nhân lực, đặc biệt với giới trẻ,
tạo dựng tinh thần tự học tập, nâng cao trình độ tay nghề, và quan trọng là rèn luyện
tiếng Anh.
Trong bối cảnh một thị trường chung, người lao động Việt nam không còn bị hạn
chế di chuyển bởi rào cản biên giới quốc gia, không những có nhiều cơ hội nghề
nghiệp trong nước mà còn mở rộng ra các thị trường khu vực. Người lao động có cơ
hội tương tác và nâng cao kinh nghiệm, kỹ năng chuyên ngành ở các nước tiên tiến

trong khu vực. Người lao động Việt Nam sẽ được “cọ sát” khi làm việc ở nhiều nơi,
làm tăng tính linh hoạt, khả năng thích ứng với môi trường làm việc đa văn hóa - vốn
dĩ là một điểm chưa mạnh của Việt Nam sẽ được nâng cao và cải thiện đáng kể.
Đối với người sử dụng lao động, đó chính là khả năng tìm kiếm, tuyển dụng lao
động có chất lượng cao từ các nước trong khối, đáp ứng yêu cầu của vị trí làm việc mà
họ muốn tuyển khi lao động trong nước không đáp ứng được.
2.2. Thách thức
 Nguy cơ lao động mất việc


Điều kiện đặt ra để nhận được quyền dịch chuyển tự do làm việc tại các nước
thuộc ASEAN là người lao động phải được công nhận tay nghề tương đương giữa các
nước. Theo thỏa thuận công nhận lẫn nhau, có 8 lĩnh vực mà lao động có thể dịch
chuyển tự do khi tham gia AEC như kiểm toán, kiến trúc, kỹ sư, nha sỹ, bác sỹ, y tá,
điều tra viên và du lịch, đây đều là những công việc đòi hỏi kỹ năng cao, hành nghề
chuyên nghiệp.
Phát biểu tại Hội thảo “Thị trường lao động Việt Nam sau khi thành lập Cộng
đồng Kinh tế ASEAN” mới đây, Thứ trưởng Bộ Lao động Thương binh và Xã hội
Doãn Mậu Diệp cho biết, bên cạnh cơ hội xuất khẩu nhân lực, việc lao động nước
ngoài thuộc 8 lĩnh vực trình độ cao tràn vào Việt Nam có thể gây nguy cơ “mất việc”
không nhỏ đối với lao động trong nước. Để ứng phó với vấn đề này, theo Thứ trưởng
Diệp, Chính phủ cần có những giải pháp tăng cường thông tin về việc làm cho người
lao động trong nước hoặc tạo ra các rào cản kỹ thuật (ngôn ngữ, trình độ) với lao động
di cư.
Đồng tình với quan điểm này, ông Simon Matthews, Giám đốc Manpower Group
(tập đoàn chuyên cung cấp các dịch vụ nhân sự) cho biết, việc sử dụng rào cản kỹ
thuật với lao động di cư đã được hình thành tại một số nước ASEAN.
“Thái Lan đã có quy định 39 nghề người lao động nước ngoài không được làm.
Hay Malaysia có quy định, nhà tuyển dụng phải chứng minh được sự thiếu hụt lao
động bản địa mới có thể thuê lao động nước ngoài…”, ông Simon dẫn chứng.

 Chất lượng nguồn nhân lực thấp và năng lực cạnh tranh chưa cao

Việc thực hiện tự do luân chuyển lao động lành nghề sẽ tạo ra cơ hội cho thị
trường lao động Việt Nam, đồng thời cũng là thách thức không nhỏ khi một lượng lớn
lao động từ các nước AEC vào Việt Nam sẽ tạo nên cuộc cạnh tranh với lao động
trong nước.
Lâu nay, chúng ta luôn giới thiệu về đội ngũ lao động trong nước với các đặc
điểm: cần cù, chịu khó học hỏi, giá rẻ,… trong khi đó, yêu cầu về tay nghề và kiến
thức chuyên môn chưa bao giờ là ưu điểm.
Hiện đang tồn taị 3 vấn đề thách thức đối với nguồn nhân lực Việt Nam có ý
nghĩa quyết định đến chất lượng nguồn lao động đó là: kỹ năng, ngoại ngữ và tác
phong công nghiệp (kỷ luật và trách nhiệm). Nếu không ý thức được điều này, lao


động Việt Nam sẽ thua ngay trên “sân nhà” bởi chúng ta khó cạnh tranh về trình độ
tay nghề với nhiều quốc gia trong khối.
Trên thực tế, chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam còn thấp và có khoảng
cách khá lớn so với các nước trong khu vực. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới
năm 2014, nếu lấy thang điểm là 10 thì chất lượng nhân lực của Việt Nam chỉ đạt 3,79
điểm, xếp thứ 11/12 nước châu Á tham gia xếp hạng của Ngân hàng Thế giới (trong
khi Hàn Quốc đạt 6,91 điểm; Ấn Độ đạt 5,76 điểm; Malaysia đạt 5,59 điểm... Do vậy
nên năng suất lao động của Việt Nam thuộc nhóm thấp ở châu Á - Thái Bình Dương
(thấp hơn Singapore gần 15 lần, thấp hơn Nhật Bản 11 lần và thấp hơn Hàn Quốc 10
lần). Năng suất lao động của Việt Nam bằng 1/5 Malaysia và 2/5 Thái Lan.
các chuyên gia của ILO và ADB cho rằng, lao động Việt Nam thiếu chuyên
môn, chưa được đào tạo, các kỹ năng được trang bị không phù hợp với đòi hỏi của
thị trường và nhiều lao động phải đào tạo lại. Lao động Việt Nam còn bị đánh giá
thấp về các kỹ năng mềm như: khả năng giao tiếp, sử dụng vi tính, kỹ năng làm việc
nhóm, kỹ năng báo cáo, kỹ năng tìm hiểu và xử lý thông tin. Cùng với đó, nhân sự
cao cấp của Việt Nam so với các nước trong khu vực vẫn còn khoảng cách khá lớn.

Trình độ lao động của Việt Nam còn hạn chế về kỹ năng nghề đang gây khó khăn
trong việc tiếp thu ứng dụng, trình độ khoa học công nghệ khi tham gia hội nhập.
Bên cạnh tay nghề yếu vấn đề lao động Việt Nam khó tham gia thị trường lao
động ASEAN còn đến từ trình độ ngoại ngữ. Rất ít lao động Việt Nam được học ngôn
ngữ của các nước ASEAN như Thái Lan, Lào, Campuchia... Về khả năng sử dụng
tiếng Anh, thí sinh Việt Nam có điểm trung bình 5,78 (theo thang điểm từ 0 - 9), thuộc
nhóm trung bình thấp; đứng sau Malaysia (6,64), Philippines (6,53) và Indonesia
(5,97).
Bên cạnh đó, hiểu biết của lao động Việt Nam về văn hóa doanh nghiệp và
pháp luật của nước bạn còn hạn chế. Ngoài ra, tinh thần làm việc theo nhóm và tác
phong công nghiệp chưa tốt cũng là điểm yếu khó cạnh tranh khi thị trường lao động
được mở cửa.
Nguyên nhân chủ yếu của hiện trạng chất lượng nguồn nhân lực thấp là do công
tác đào tạo hiện nay chưa phù hợp, chất lượng đào tạo còn hạn chế, chưa thực sự đáp
ứng yêu cầu sử dụng nhân lực và nhu cầu của người học, chưa theo kịp sự chuyển


biến của đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế,
chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa số lượng và chất lượng, giữa dạy chữ với dạy
người, dạy nghề,…

Ví dụ: Cụ thể trong ngành dệt may, ngành được xem là sẽ nằm trong top đầu các
ngành được hưởng lợi nhiều khi Việt Nam gia nhập AEC, vì thuế suất xuất khẩu hàng
may mặc được đưa về 0%. Tuy nhiên, hiện tại các doanh nghiệp dệt may Việt Nam
vẫn phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức và ít tận dụng được cơ hội.
Theo tính toán của ngành này, năng suất lao động trung bình trong ngành bằng
1/3 so với Hồng Kông, 1/4 so với Trung Quốc và bằng 1/8 so với Hàn Quốc. Tính
riêng với ngành dệt, năng suất chỉ bằng 90% Trung Quốc, 85% Thái Lan. So với năng
suất chung của toàn ngành may thì Việt Nam chỉ bằng 60% của các nước trong khu
vực. Theo thống kê toàn ngành, năng suất lao động của Việt Nam chỉ đạt 1,5-1,8

USD/giờ công.
Điều này ảnh hưởng rất nhiều đến giá thành, làm giảm tính cạnh tranh của sản
phẩm. Đồng thời gây khó khăn trực tiếp cho các doanh nghiệp khi sức ép về chi phí
nhân công ngày càng tăng, trong khi năng suất lao động lại không tương ứng.
Trong chuỗi giá trị toàn cầu hàng dệt may, khâu có lợi nhuận cao nhất là thiết kế
mẫu, cung cấp nguyên phụ liệu và thương mại, nhưng hiện nay gần như các doanh
nghiệp chỉ tham gia vào khâu sản xuất sản phẩm cuối cùng, tạo ra giá trị gia tăng thấp
nhất, với tỷ suất lợi nhuận chỉ chiếm khoảng 5%-10%, chứ không thực hiện quá trình
thiết kế và không có khả năng tự thiết kế và xây dựng thương hiệu. Nguyên nhân chủ
yếu là do hạn chế về trình độ nguồn nhân lực, thiếu thông tin thị trường.
Cũng theo tính toán của toàn ngành dệt may, nhu cầu nhân lực giai đoạn 2016 2020 cho các vị trí quản lý, chuyên môn nghiệp vụ, khối kinh tế, khối kỹ thuật, công
nhân kỹ thuật bình quân hàng năm lần lượt là: 3.240 người/năm; 13.200 người/năm;
5.650 người/năm; 7.550 người/năm và 50.600 người/năm.
Hiện cả nước có 12 trường đào tạo nhân lực trình độ đại học cho ngành dệt may,
trong đó có 9 trường mới tuyển sinh trong 5 năm gần đây. Số lượng tuyển sinh của 12
trường này chỉ xấp xỉ 300 - 500 sinh viên/năm. Có nhiều loại nhân lực rất cần cho
ngành dệt may như quản trị đơn hàng, nhưng chưa có cơ sở nào đào tạo. Một số công


đoạn đòi hỏi nguồn nhân lực lớn như sợi, dệt, nhuộm cần khoảng 300 - 400 kỹ
sư/năm, nhưng các trường đại học chỉ cung cấp được khoảng 30 sinh viên/năm, chưa
đáp ứng được 10% nhu cầu phát triển của toàn ngành.
Từ thực tế này, thấy rằng nhân lực chất lượng cao cho các doanh nghiệp đang
thiếu trầm trọng cả về số lượng và chất lượng, thì Việt Nam sẽ khó tận dụng được cơ
hội từ AEC cả trước mắt và lâu dài.
Không chỉ dệt may, mà các ngành khác cũng gặp khó khi cơ cấu nhân lực lao
động cũng có nhiều bất cập lớn và khó có thể khắc phục trong thời gian gần. Hiện ở
Việt Nam đang có tình trạng “thừa thầy thiếu thợ” khi tỷ lệ 1 Đại học/ 0,35 Cao đẳng/
0,65 Trung cấp/ 0,4 Sơ cấp. Trong khi đó, theo quy luật, những người lao động trực
tiếp (trình độ trung cấp, sơ cấp) phải hơn nhiều lần so với lao động gián tiếp (trình độ

đại học trở lên).
 Hệ thống thông tin của thị trường lao động Việt Nam hiện nay còn nhiều yếu kém

và hạn chế
Thị trường lao động hiện tại là thống nhất, không rào cản, nhưng thông tin thị
trường lao động dường như bị chia cắt, tổ chức theo từng tỉnh, thiếu chia sẻ trong
vùng, miền và cả nước; khả năng bao quát, thu thập và cung ứng thông tin chưa đáp
ứng được nhu cầu các đối tác trên thị trường lao động, đặc biệt là người chủ sử dụng
lao động và người lao động. Do vậy, chưa đánh giá được hiện trạng của cung - cầu lao
động, các “nút thắt” về nhu cầu nguồn nhân lực trong nước. Ngoài ra, còn thiếu mô
hình dự báo thị trường lao động tin cậy và nhất quán, thiếu đội ngũ cán bộ, chuyên gia
làm công tác thống kê, phân tích.
 Nguy cơ “chảy máu chất xám”

Việc các nước ASEAN ký thỏa thuận về dịch chuyển lao động tự do trong khu
vực, được nhiều chuyên gia đánh giá, cũng tạo ra tác động có tính hai mặt với khối
doanh nghiệp. Việt Nam hiện có lực lượng lao động dồi dào, nhưng vẫn chưa đáp ứng
được nhu cầu của thị trường. Cạnh tranh thu hút nhân tài thực tế đang diễn ra khốc liệt
giữa các doanh nghiệp trong nước. Vì vậy, thỏa thuận về dịch chuyển lao động tự do
trong khối AEC có thể làm tăng nguy cơ “chảy máu” nhân sự giỏi.


CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG LAO
ĐỘNG VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH THAM GIA AEC
Để tận dụng được những cơ hội cũng như là đáp ứng được những yêu cầu chặt
chẽ về nguồn lao động khi tham gia vào AEC, Việt Nam cần có nhiều nỗ lực hơn nữa
trong việc cải thiện và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực hiện tại. Và điều này cần
sự phối hợp hành động từ cả 3 phía Nhà nước, Doanh nghiệp và Người lao động, đặc
biệt là sinh viên hiện nay. Ngoài những biện pháp, chính sách cụ thể từ Nhà nước
nhằm thu hẹp khoảng cách phát triển và nâng cao năng lực cạnh tranh, thì Việt Nam

cần thực hiện những giải pháp như sau:
Thứ nhất, cần đẩy mạnh tuyên truyền để doanh nghiệp và người lao động tích
cực hơn trong việc đón đầu hội nhập AEC. Đối với doanh nghiệp cần cập nhật chính
sách hội nhập, đổi mới công nghệ nhằm nâng cao năng suất lao động cũng như tham
gia sâu hơn vào chuỗi giá trị sản phẩm. Người lao động cần nắm bắt được cơ hội việc
làm, cần trang bị cho mình vốn tiếng Anh và kỹ năng mềm cần thiết, luôn ý thức học
hỏi, cập nhật các kỹ năng mới để duy trì việc làm bền vững.
Bên cạnh đó, cần xây dựng một cổng thông tin điện tử quốc gia về thị trường lao
động trong AEC hoặc sàn giao dịch, chợ việc làm trong AEC với thông tin thiết thực
về chính sách, tiêu chuẩn, mức tiền lương, điều kiện sinh hoạt để người dân dễ dàng
tiếp cậ. Sắp xếp và phát triển các cơ sở đào tạo và trung tâm đào tạo nghề nghiệp
nhằm thích nghi với điều kiện thành lập AEC, trong đó cần chú ý đào tạo ngôn ngữ
các nước ASEAN. Công bố chứng chỉ của các cơ quan được ASEAN thừa nhận để
doanh nghiệp và người dân có thể tiếp cận cũng như yêu cầu các nước ASEAN khác
công bố thông tin này trên cổng thông tin điện tử của Việt Nam.
Thứ hai, cần đẩy mạnh những biện pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực. Đối với lao động thiếu kỹ năng Chính phủ cần căng cường phát triển hệ thống
giáo dục kỹ thuật và dạy nghề ở cấp trung học đồng thời cần có sự kết hợp giữa nhà
trường, doanh nghiệp, hiệp hội, để nắm bắt được nhu cầu, qua đó đào tạo chuẩn xác
lao động có kỹ năng cao với ngành nghề đáp ứng được nhu cầu của xã hội, đặc biệt
cần hướng tới đào tạo nhân lực theo chuẩn quốc tế.
Thứ ba, cần tăng năng suất lao động thông qua: Tăng hiệu quả của các ngành
công nghiệp chính bằng cách áp dụng công nghệ mới, nâng cấp máy móc và đầu tư


vào đào tạo kỹ năng và đào tạo nghề, đồng thời chuyển dịch sang các hoạt động có giá
trị gia tăng lớn hơn. Bởi vậy, Việt Nam cần chuyển dịch từ nông nghiệp và các ngành
dịch vụ cấp thấp sang các ngành chế tạo và các ngành dịch vụ cao cấp. Ưu tiên thực
hiện các biện pháp nâng cao năng suất lao động và chất lượng việc làm trong ngành
nông nghiệp bao gồm đầu tư vào hệ thống thủy lợi và cơ sở hạ tầng để hỗ trợ các cơ

sở sản xuất nông nghiệp nhỏ có thể tham gia vào chuỗi cung ứng đồng thời đa dạng
hóa công việc trong các ngành chế tạo mới.
Thứ tư, gia nhập AEC sẽ góp phần đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế tạo ra
nhu cầu mới cho một số ngành nghề trong khi giảm nhu cầu đối với một số ngành
nghề khác do vậy việc mở rộng độ bao phủ của chương trình bảo hiểm thất nghiệp
quốc gia sẽ giảm thiểu chi phí của quá trình chuyển dịch cơ cấu và tạo điều kiện cho
lao động di chuyển sang các ngành nghề có năng suất cao hơn.
Thứ năm, đối với Nhà nước cần cải thiện công tác bảo vệ nhóm lao động di cư
và các hệ thống công nhận kỹ năng của họ, đặc biệt là các ngành nghề có kỹ năng
thấp, trung bình chiếm tỷ lệ cao. Đồng thời, hệ thống thương lượng tập thể mới cũng
đang là một yêu cầu bức thiết để tạo ra môi trường kinh doanh bền vững hơn.
Thứ sáu, đối với sinh viên hiện nay, đặc biệt sinh viên ở 8 lĩnh vực ngành nghề
được tự do di chuyển, bao gồm: kiếm toán, kiến trúc sư, kỹ sư, bác sĩ, nha sĩ, y tá, vận
chuyển và du lịch thì cần phải nắm bắt được thông tin về thị trường lao động, phát
triển bản thân để có thể nắm bắt được những cơ hội mà AEC mang lại. Cần có những
buổi hội thảo nhằm nâng cao nhận thức sinh viên về những cơ hội và thách thức của
AEC, nhằm giúp sinh viên có thể định hướng cho bản thân những bước phát triển tốt
nhất, giảm thiểu con số hơn 200 nghìn sinh viên thất nghiệp khi ra trường hiện nay,
đồng thời nâng cao sức cạnh tranh về mặt chất lượng so với sinh viên các nước khác
trong khu vực.
Cụ thể, như các chuyên gia nhận định, có 3 yếu tố chính mà sinh viên Việt Nam
cần cải thiện và nâng cao, đó là ngoại ngữ, kiến thức chuyên môn và kỹ năng. Ngoài
việc tập trung trau dồi chuyên môn, sinh viên cần thành thạo ngoại ngữ, đặc biệt là
tiếng anh, đồng thời phát triển các kỹ năng mềm như là tư duy độc lập, làm việc
nhóm, tự tin trong giao tiếp, cọ xát thực tế để tích lũy kinh nghiệm….Và để chuẩn bị
những hành trang vững chắc nhất cho tương lai, sinh viên Việt Nam cần hành động


ngay bây giờ, phải có kế hoạch và đặc biệt phải biến kế hoạch đó thành hành động
thiết thực.


PHẦN TRẢ LỜI CÂU HỎI PHẢN BIỆN
Nhóm
Nhóm
10 –
Nhóm
phản
biện

Câu hỏi
Hạn chế và điểm yếu của
lao động Việt Nam đã trở
thành gánh nặng và thách
thức đối với ngành giáo
dục và đào tạo. Tuy nhiên,
hiện nay cải cách giáo dục
chưa có hiệu quả. Cơ hội
thì ít, mà thách thức thì
nhiều so với xuất phát
điểm thấp của Việt Nam.
Vậy theo bạn Việt Nam có
nên tham gia sân chơi AEC
này không?

Trả lời
Việt Nam có lý do chắc chắn tham gia vào Cộng đồng kinh
tế Asean (AEC)
Giải thích:
Cộng đồng kinh tế ASEAN là một lộ trình hội nhập chắc
chắn, Việt Nam đã sẵn sàng và chủ động hội nhập, khi

đứng trước bất cứ một sân chơi nào việc đối mặt với
những cơ hôi và thách thức là điều tất yếu. Và đối với AEC
cũng vậy, lộ trình con đường dẫn đến AEC kéo dài gần 20
năm, trong thời gian đó, Việt Nam đã chủ động lường
trước được những thách thức đặc biệt là về chất lượng
lao động, là vấn đề đang đặt ra cho ngành giáo dục và đào
tạo.
Nhưng không hẳn AEC chỉ mang lại thách thức cho lao
động Việt Nam, nó còn tạo ra rất nhiều cơ hội khác nhiều
hơn thế. Nếu không tham gia vào AEC, Việt Nam sẽ vẫn
phải đối mặt với những thách thức về lao động mà lại còn
không tận dụng được những cơ hội mà AEC mang lại ( đặc
biệt trong lĩnh vực thương mại và đầu tư)
Còn về chất lượng giáo dục, đào tạo Việt Nam hiện nay đó
là vấn đề chung và có tầm ảnh hưởng rất lớn đối với đất
nước từ nhiều năm nay, bởi chất lượng nguồn nhân lưc
không tốt thì Việt Nam sẽ khó có thể cạnh tranh được với
các nước trong khu vực. Nhưng không hẳn khi tham gia
vào AEC là chỉ mang lại những thách thức lớn cho ngành
giáo dục mà hơn thế nữa theo nhận định thì tham gia vào
AEC lại là một cơ hội lớn:
• Đó là khi hội nhập AEC người học có nhiều cơ hội
hơn trong học tập, tiếp cận với các chương trình
đào tạo tiên tiến của nước ngoài. Nếu các trường
Việt Nam không nâng cao chất lượng đào tạo sẽ rơi
vào tình trạng “ế” người học.
• Để bắt kịp với xu hướng và nâng cao chất lượng
đào tạo của các trường trong khu vực ASEAN và thế
giới, nhiều trường đại học Việt Nam đang thực hiện
kế hoạch liên kết đào tạo các trường nước ngoài.

Từ đó, các trường trong nước sẽ nâng cao sức cạnh
tranh với các trường trong khu vực.
• Ngoài ra, nhiều trường còn liên kết với các doanh
nghiệp để nâng cao chất lượng đào tạo
• Cộng đồng kinh tế ASEAN sẽ tạo ra nhiều cơ hội
trong việc hợp tác giữa các cơ sở giáo dục như học
tập, bồi dưỡng, trao đổi nâng cao trình độ đội ngũ
giáo viên và người học… Từ đó, sẽ có thêm nhiều


nguồn lực đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực giáo dục.
Vì vậy, các trường phải biết nắm bắt cơ hội để nâng
cao chất lượng đào tạo.
 Tuy nhiên, việc thực hiện những mục tiêu trên còn đang
gặp nhiều khó khăn trong quá trình liên kết đào tạo và sự
bất đồng ngôn ngữ đòi hỏi nhà nước cần có những định
hướng và giải pháp đúng đắn nhằm nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực của Việt Nam trong tương lai.

AEC có thể học hỏi được gì
từ EU?

Thực tiễn mô hình EU
Hội nhập EU được xây dựng trên nguyên tắc liên bang, sự
liên kết hội nhập được bắt đầu từ kinh tế dần dần chuyển
sang chính trị, xây dựng các thể chế chung vững chắc
đồng thời giữ vai trò hạt nhân, bản sắc dân tộc của các
nước thành viên trên cơ sở luật pháp vững vàng.
Các nước EU ngày càng liên kết chặt chẽ có hiệu quả và
sâu sắc bởi 28 nước thành viên của EU là 28 nền kinh tế

phát triển ràng buộc với nhau, với nền kinh tế thế giới
bằng những quan hệ thị trường. Các nước EU buôn bán
nội khối chủ yếu lên đến 50%, có những nước thành viên
con số này lên đến 80%.
Hệ thống tổ chức của EU là một thiết chế chặt chẽ được
hình thành và phát triển dần dần qua các hiệp ước, đạo
luật theo hướng tạo ra một châu Âu thống nhất theo kiểu
liên bang. Cụ thể, Ủy ban châu Âu đưa ra các kiến nghị về
các chính sách và luật lệ để Hội đồng Bộ trưởng phối hợp
với Nghị viện châu Âu có quyết định cuối cùng.
Ngược lại, ở ASEAN các thể chế được cấu trúc chủ yếu là
chất "liên kết hợp tác giữa các chính phủ" (chất hợp
bang), còn chất liên bang (nhà nước siêu quốc gia) có rất
ít. Chính vì vậy sự liên kết của EU chặt chẽ hơn, mang đậm
dấu ấn pháp lý, luật pháp nghiêm minh, quy chế rõ ràng.
Còn liên kết của ASEAN lỏng lẻo hơn, không được đảm
bảo bằng pháp lý rõ ràng, chỉ được đảm bảo trên nguyên
tắc đồng thuận, nên yếu tố tự quyết của các nước thành
viên rất lớn.
Bài học kinh nghiệm
Thứ nhất, một liên minh bền vững cần sự đoàn kết của
tất cả các thành viên.
Trong quá trình phát triển, EU luôn giữ vững nguyên tắc
đoàn kết, nhất trí nhưng vẫn tôn trọng sự đa dạng vì mỗi
quốc gia đều có bản sắc riêng, điều kiện riêng, lợi ích
riêng. Sự đoàn kết của EU đạt được thông qua cơ chế
đảm bảo sự đồng thuận: đồng thuận trong từng quốc gia,
đồng thuận giữa các quốc gia thành viên, đồng thuận với
cộng đồng quốc tế. Đạt được sự đồng thuận do đó là bài
học kinh nghiệm đầu tiên cho không chỉ AEC mà cho bất

cứ một liên kết kinh tế nào.


Thứ hai, để đi đến một thị trường chung như EU, ASEAN
chắc chắn sẽ phải khắc phục một số vấn đề, như: sự
khác biệt về trình độ phát triển.
Không thể có một thị trường chung vận hành một cách
thông thoáng nếu trình độ phát triển còn quá chênh lệch.
Sự hợp tác nội khối còn quá ít. Trao đổi nội khối về hàng
hóa mới dừng ở mức trên dưới 20% (trong khi EU 50%, có
nước đến 80%); 2 lĩnh vực đầu tư, dịch vụ còn khá lỏng
lẻo.
Sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa các nước EU là
một trong những thách thức đối với quá trình nhất thể
hóa EU, đồng thời dễ làm nảy sinh những bất đồng, chia
rẽ trong liên kết nội khối khi các nước phát triển hơn phải
gánh những khoản tài chính khổng lồ để thu hẹp khoảng
cách phát triển. Vì vậy, cân nhắc một chính sách thu hẹp
khoảng cách phát triển hợp lý và hài hòa là một bài học
kinh nghiệm từ EU cho ASEAN. Đồng thời, cần có chính
sách hỗ trợ hợp lý để đảm bảo vừa trợ giúp được cho các
nước kém phát triển hơn trong liên minh, vừa tránh gánh
nặng tài chính cho các nước khác và cho toàn khu vực.
Thứ ba, hội nhập kinh tế khu vực muốn thành công và
hiệu quả cần gắn với hội nhập về chính trị và thể chế.
Liên kết chặt chẽ về kinh tế phải gắn kết cùng chính trị;
các nội dung, lĩnh vực liên kết kinh tế phải được hỗ trợ
bởi việc xác lập những thể chế chung, luật chơi chung.
Chính quá trình phát triển hệ thống thể chế ở EU đảm bảo
cho sự gắn kết kinh tế – xã hội của EU ngày càng sâu hơn

và chặt chẽ hơn. Hệ thống thể chế là nền tảng cho sự hài
hòa về quyền và lợi ích quốc gia, đồng thời đảm bảo cho
sự đa dạng về văn hóa của các nước thành viên trong quá
trình hội nhập.

Nhóm 5

Nhóm 8

Thứ tư, kinh nghiệm khu vực châu Âu cho thấy liên minh
kinh tế và tiền tệ ra đời là một phát triển tất yếu của
quá trình hội nhập kinh tế khu vực, là kết quả của một
quá trình phát triển và hòa nhập về kinh tế lẫn chính
trị. Vì thế, AEC cần có những tính toán cho các bước đi hội
nhập cao hơn trong tương lai với một đồng tiền chung và
một ngân hàng chung. Muốn vậy, AEC cần có thêm những
hoạt động hội nhập về chính trị, cần thiết kế một cơ chế
phối hợp chính sách tài chính tiền tệ có tính đến những
bước đi cho cơ chế này trong những điều kiện bất ổn như
khủng hoảng, thất nghiệp và thâm hụt ngân sách.
Ý nghĩa của việc so sánh Trong quá trình tìm hiểu về Cộng đồng kinh tế Asean
AEC và EU?
(AEC), việc song song nghiên cứu về Liên minh Châu Âu
(EU), đặc biệt là nghiên cứu các bước đi trong liên kết
kinh tế giữa các nước thành viên EU đã để lại những kinh
nghiệm quý báu cho ASEAN trong việc xây dựng AEC.
 Rút ra bài học kinh nghiệm (Tương tự câu trên)
Tác động của AEC đến Việt
AEC là một trong ba trụ cột của Cộng đồng ASEAN



Nam?

(cộng đồng chính trị - an ninh, cộng đồng kinh tế và cộng
đồng văn hóa - xã hội). AEC là cơ chế hợp tác có hiệu lực
từ ngày 31/12/2015 với quy mô dân số trên 600 triệu
người và GDP khoảng 2.500 tỷ USD. Theo cơ chế này, bên
cạnh dòng hàng hóa, dịch vụ, vốn đầu tư, vốn, nguồn lao
động di chuyển tự do giữa các nước ASEAN là nguồn lao
động có kỹ năng. Một thị trường lao động nói chung và
một phân khúc thị trường lao động có trình độ cao, lao
động có kỹ năng sẽ nhanh chóng được hình thành trong
AEC. Việt Nam là một thành viên của ASEAN cho nên việc
lao động di chuyển giữa các nước thành viên trong đó có
Việt Nam là tất yếu và cũng là cơ hội để quá trình hội
nhập và cạnh tranh trên phân khúc thị trường lao động có
kỹ năng. Cạnh tranh trên thị trường lao động sẽ trở nên
gay gắt và sự tham gia của lao động nước ngoài trên thị
trường lao động Việt Nam cũng tất yếu.
 Về rào cản thuế quan
Theo thỏa thuận, trong năm 2016 sẽ có thêm một số
dòng thuế được đưa về 0%; và hơn 70 dòng thuế ô tô
nguyên chiếc nhập khẩu từ ASEAN vào Việt Nam sẽ tiếp
tục giảm thêm theo một lộ trình từ trườc. Theo thông tin
từ Bộ Tài chính, trong năm 2015 có 8.603 dòng thuế (hàng
hóa từ ASEAN vào Việt Nam - PV) đã được đưa về 0%
theo Hiệp định thương mại hàng hóa trong ASEAN. Đến
năm 2016 có tổng cộng 8.618 dòng thuế được đưa về 0%,
tức là trong năm 2016 có thêm 15 dòng thuế so với năm
2015. Cụ thể, 15 dòng này là các mặt hàng xăng dầu.

Ngoài ra, trong năm 2016 cũng có 77 dòng thuế ô tô
nguyên chiếc sẽ tiếp tục được cắt giảm xuống 40% từ mức
50% năm 2015. Thuế ô tô nguyên chiếc sau đó sẽ giảm
xuống còn 30% vào năm 2017 và xuống 0% đến năm
2018.
 Về thị trường lao động
Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên của cả nước đến
thời điểm 01/4/2016 ước tính là 54.4 triệu người, tăng
1.4% so với cùng thời điểm năm 2015. Đến thời điểm
trên, lực lượng lao động trong độ tuổi lao động ước tính
47.8 triệu người, tăng 0.2% so với cùng thời điểm năm
trước. Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi quý
1/2016 năm nay ước tính là 1.77% (quý 01/2015 tương
ứng là 2.43%)
Có thể thấy, sau khi gia nhập AEC, lao động Việt Nam
có nhiều cơ hội tham gia vào việc làm hơn. Tuy nhiên, do
xuất phát điểm thấp, cơ cấu kinh tế chủ yếu vẫn là nông
nghiệp, nên tỷ lệ lao động Việt Nam tham gia thị trường
lao động chính thức còn thấp, đạt khoảng 30%; trong khi
có tới 47% lực lượng lao động vẫn làm việc trong lĩnh vực
nông nghiệp, với năng suất, thu nhập thấp. Khoảng 3/5 số
lao động Việt Nam đang làm các công việc dễ bị tổn
thương. Nhìn chung, năng suất và mức tiền lương của
Việt Nam khá thấp so với các nền kinh tế trong ASEAN,


như: Malaysia, Singapore và Thái Lan.
 Đối với thương mại
Tính toán của Bộ Công Thương cho thấy, hiện thương
mại nội khối AEC chỉ chiếm khoảng 24% tổng kim ngạch

của khối nói chung, kém xa mức 60% của Liên minh châu
Âu (EU) và 40% của Cộng đồng Kinh tế Bắc Mỹ. Đối với
Việt Nam, xuất - nhập khẩu với ASEAN chỉ chiếm 10% đối
với tổng kim ngạch xuất khẩu và 20% nhập khẩu. Thêm
vào đó, nhiều nước trong khối cũng là thành viên của
WTO, nên việc mở rộng thương mại nhờ AEC cũng không
tạo ra nhiều khác biệt, hay đột phá lớn trong việc khuyến
khích thương mại nội khối so với bối cảnh có WTO. Vì thế,
trong ngắn hạn, tác động từ AEC đối với thương mại của
Việt Nam là không đáng kể.
 Đối với đầu tư
Lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) cũng cho
thấy, đầu tư nội khối chiếm tỷ trọng rất thấp trong dòng
đầu tư vốn FDI có nguồn gốc từ ASEAN. Tính đến hết năm
2014, dòng FDI từ ASEAN vào Việt Nam chiếm 21,4% tổng
FDI vào Việt Nam với mức tổng lên tới 52,34 tỷ USD. Đầu
tư của Singapore chủ yếu là vào lĩnh vực khách sạn, du
lịch, khu vui chơi sinh thái, Khu Công nghiệp Việt Nam Singapore, trong khi FDI từ Malaysia thì chủ yếu tập trung
các liên doanh với các công ty sở hữu nước ngoài hoạt
động trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng, bất động sản, giáo dục
và dầu khí. Thái Lan thì lại chú trọng lĩnh vực bán lẻ và
một phần đi vào sản xuất đồ nhựa. Như vậy, dòng vốn
đầu tư FDI từ ASEAN vào Việt Nam không nhằm vào các
lĩnh vực công nghiệp chế tạo, mà chủ yếu là lĩnh vực bất
động sản, dịch vụ.
Ngược lại, dòng vốn FDI của Việt Nam năm 2014 vào
khối chỉ ở mức 1,5 tỷ USD so với mức hơn 7,6 tỷ USD ra
ngoài khối. Nói cách khác, sự đột phá tạo ra sự mở rộng
dòng vốn FDI trong nội bộ ASEAN nhờ thành lập AEC sẽ là
không lớn. Đối với Việt Nam nói riêng, việc hưởng lợi từ

đầu tư FDI vào khối là không đáng kể, trong khi dòng FDI
từ trong nội khối vào Việt Nam có thể tăng lên đáng kể.



×