ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
--------------------------------------------
HOÀNG THỊ HỒNG
Tên đề tài:
THEO DÕI TÌNH HÌNH NHIỄM MỘT SỐ BỆNH SINH SẢN CỦA ĐÀN
LỢN NÁI TẠI TRẠI HÀ DUY VĂN - PHƢỜNG LƢƠNG CHÂU
THỊ XÃ SÔNG CÔNG - TỈNH THÁI NGUYÊN VÀ
PHÁC ĐỒ ĐIỀU TRỊ
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy
Chuyên ngành: Sƣ phạm kỹ thuật nông nghiệp
Khoa: Chăn nuôi Thú y
Khóa học: 2011 - 2015
Thái Nguyên, năm 2015
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
----------------------------------------
HOÀNG THỊ HỒNG
Tên đề tài:
THEO DÕI TÌNH HÌNH NHIỄM MỘT SỐ BỆNH SINH SẢN CỦA ĐÀN
LỢN NÁI TẠI TRẠI HÀ DUY VĂN - PHƢỜNG LƢƠNG CHÂU
THỊ XÃ SÔNG CÔNG - TỈNH THÁI NGUYÊN VÀ
PHÁC ĐỒ ĐIỀU TRỊ
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Hệ đào tạo
: Chính quy
Chuyên ngành : Sƣ phạm kỹ thuật nông nghiệp
Khoa
: Chăn nuôi Thú y
Lớp
: 43 - SPKT
Khóa học
: 2011 - 2015
Giảng viên hƣớng dẫn: TS. Hồ Thị Bích Ngọc
Thái Nguyên, năm 2015
i
LỜI CẢM ƠN
Được sự nhất trí của Ban Giám hiệu nhà trường và Ban Chủ nhiệm khoa
Chăn nuôi - Thú y Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, sự đồng ý của cô
giáo hướng dẫn và tiếp nhận của cơ sở - em được về thực tập tại trại lợn Hà Duy
Văn - phường Lương Châu- thị xã Sông Công - tỉnh Thái Nguyên. Để hoàn thành
được khóa luận tốt nghiệp này, ngoài sự cố gắng nỗ lực của bản thân em luôn
nhận được sự quan tâm, giúp đỡ của nhà trường, các cán bộ công nhân viên trong
trại, bạn bè cùng gia đình.
Nhân dịp hoàn thành đề tài tốt nghiệp, em xin gửi lời cảm ơn đến Ban Giám
hiệu nhà trường, khoa Chăn nuôi - Thú y Trường Đại học Nông Lâm Thái
Nguyên, Ban lãnh đạo trại lợn Hà Duy Văn đã tạo điều kiện thuận lợi giúp đỡ em
hoàn thành đề tài tốt nghiệp này. Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới
cô giáo TS. Hồ Thị Bích Ngọc đã tận tình giúp đỡ và trực tiếp hướng dẫn em trong
suốt quá trình thực tập tốt nghiệp.
Em xin gửi lời cảm ơn đến gia đình và bạn bè đã giúp đỡ, động viên em
trong suốt thời gian học tập và rèn luyện. Em xin kính chúc toàn thể các thầy cô
giáo sức khỏe, hạnh phúc và thành đạt, chúc Ban lãnh đạo trại lợn Hà Duy Văn
cùng các anh chị em công nhân mạnh khỏe, hạnh phúc và thành công. Chúc các bạn
sinh viên luôn mạnh khỏe, học tập đạt kết quả cao.
Em xin chân thành và trân trọng cảm ơn.
Thái Nguyên, ngày 24 tháng 5 năm 2015
Sinh viên
Hoàng Thị Hồng
ii
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 4.1. Cơ cấu đàn lợn nái tại trại trong 3 năm trở lại đây ...................................31
Bảng 4.2. Lịch tiêm phòng của trại ...........................................................................32
Bảng 4.3. Kết quả tiêm phòng, điều trị bệnh và các công tác khác ..........................33
Bảng 4.4. Kết quả theo dõi một số bệnh thường gặp trên đàn lợn nái sinh sản nuôi
tại trại ..............................................................................................................34
Bảng 4.5. Tỷ lệ mắc một số bệnh sinh sản theo lứa đẻ .............................................35
Bảng 4.6. Tỷ lệ mắc một số bệnh sinh sản theo tháng ..............................................37
Bảng 4.7. Triệu chứng của một số bệnh sinh sản ở lợn nái ......................................39
Bảng 4.8. Kết quả điều trị một số bệnh thường gặp trên đàn lợn nái nuôi tại trại .........41
Bảng 4.9. Tỷ lệ lợn nái tái phát các bệnh sinh sản sau khi đã điều trị khỏi ..............42
Bảng 4.10. Chi phí sử dụng thuốc trong điều trị .......................................................43
iii
DANH MỤC CÁC HÌNH
Trang
Hình 4.1. Biểu đồ thể hiện tỷ lệ mắc bệnh sinh sản ở lợn theo lứa đẻ ......................... 35
Hình 4.2. Biểu đồ thể hiện tỷ lệ mắc bệnh sinh sản ở lợn theo tháng........................... 38
iv
DANH MỤC CÁC TỪ, KÝ HIỆU VIẾT TẮT
cs
: Cộng sự
E.coli
: Escherichia coli
h
: Giờ
ml
: Mililit
kg
: Kilogam
Nxb
: Nhà xuất bản
TT
: Thể trọng
VNĐ:
: Việt Nam đồng
v
MỤC LỤC
Trang
LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................. i
DANH MỤC CÁC BẢNG......................................................................................... ii
DANH MỤC CÁC HÌNH ......................................................................................... iii
DANH MỤC CÁC HÌNH ......................................................................................... iii
DANH MỤC CÁC TỪ, KÝ HIỆU VIẾT TẮT ........................................................ iv
MỤC LỤC ...................................................................................................................v
Phần 1: MỞ ĐẦU ......................................................................................................1
1.1. Đặt vấn đề ............................................................................................................1
1.2. Mục tiêu của đề tài ...............................................................................................1
1.3. Ý nghĩa của đề tài .................................................................................................2
1.3.1. Ý nghĩa khoa học ..............................................................................................2
1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn ...............................................................................................2
Phần 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU ...........................................................................3
2.1. Cơ sở khoa học .....................................................................................................3
2.1.1. Đặc điểm cấu tạo cơ quan sinh dục của lợn nái ................................................3
2.1.2. Sinh lý sinh sản của lợn nái ...............................................................................6
2.1.3. Căn bệnh ..........................................................................................................11
2.2. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước ........................................................23
2.2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới ..................................................................23
2.2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước ....................................................................25
Phần 3: ĐỐI TƢỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ......28
3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ......................................................................28
3.2. Địa điểm và thời gian tiến hành .........................................................................28
3.3. Nội dung nghiên cứu ..........................................................................................28
3.4. Phương pháp nghiên cứu và các chỉ tiêu theo dõi..............................................28
3.4.1. Phương pháp theo dõi .....................................................................................28
vi
3.4.2. Phương pháp xử lý số liệu ...............................................................................30
Phần 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU .......................................................................31
4.1. Tình hình chăn nuôi và thú y của trại Hà Duy Văn - Phường Lương Châu- thị
xã Sông Công - tỉnh Thái Nguyên.............................................................................31
4.1.1. Tình hình chăn nuôi ........................................................................................31
4.1.2. Tình hình thú y tại trại .....................................................................................31
4.2. Tình hình dịch bệnh và kết quả điều trị một số bệnh trên đàn lợn nái sinh sản ......33
4.2.1. Kết quả theo dõi một số bệnh thường gặp trên đàn lợn nái sinh sản nuôi
tại trại.........................................................................................................................33
4.2.2. Tỷ lệ mắc một số bệnh sinh sản của đàn nái nuôi tại trại theo lứa đẻ .............35
4.2.3. Tỷ lệ mắc một số bệnh sinh sản của đàn nái nuôi tại trại theo tháng..............37
4.2.4. Triệu chứng của một số bệnh sinh sản ở lợn nái .............................................38
4.2.5. Kết quả điều trị một số bệnh thường gặp trên đàn lợn nái nuôi tại trại ..........41
4.2.6. Tỷ lệ lợn nái tái phát các bệnh sinh sản sau khi đã điều trị khỏi ....................42
4.2.7. Chi phí sử dụng thuốc trong điều trị ...............................................................42
Phần 5: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ .......................................................................45
5.1. Kết luận ..............................................................................................................45
5.2. Đề nghị ...............................................................................................................45
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tiếng Việt
II. Tiếng Anh
III. Các tài liệu tham khảo từ internet
1
Phần 1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế đất nước theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và đa dạng hóa các ngành nghề theo cơ chế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, trong quá trình từng bước hội nhập sâu rộng vào nền
kinh tế thế giới, ngành nông nghiệp nước ta cũng phải chuyển mình để phù hợp
với xu thế phát triển mới. Để có thể đạt được những thành tựu vượt bậc, ngành
nông nghiệp cần chú trọng hơn nữa việc phát triển chăn nuôi, đặc biệt là chăn nuôi
lợn cần được ưu tiên.
Chăn nuôi lợn đã có từ lâu đời, nhiều kinh nghiệm quý báu được tích lũy, lưu
truyền qua nhiều thế hệ. Chăn nuôi lợn đã góp phần nâng cao chất lượng bữa ăn
hàng ngày, tăng dinh dưỡng cho con người. Ngoài ra, ngành chăn nuôi lợn còn cung
cấp một lượng lớn phân bón cho ngành trồng trọt hay tận dụng xây hầm biogas để
làm khí đốt, điện thắp sáng và cung cấp các sản phẩm phụ khác cho ngành công
nghiệp chế biến như: da, lông, mỡ, xương…
Vì vậy, để phát triển đàn lợn trong mỗi trại, mỗi gia đình một cách nhanh
chóng và có chất lượng tốt thì bên cạnh việc cải tạo, chọn lọc giống, việc nâng cao
năng suất sinh sản của đàn lợn là rất quan trọng. Khả năng sinh sản của đàn lợn ảnh
hưởng bởi nhiều nguyên nhân nhưng nguyên nhân chính gây ra đó là các bệnh sinh
sản ở lợn nái như: Viêm tử cung, viêm âm đạo, đẻ khó.... Các bệnh này có thể làm
giảm hoặc mất khả năng sinh sản ở lợn nái.
Xuất phát từ thực tế trên, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài “Theo dõi tình
hình nhiễm một số bệnh sinh sản của đàn lợn nái tại trại Hà Duy Văn - phường
Lương Châu - thị xã Sông Công - tỉnh Thái Nguyên và phác đồ điều trị”.
1.2. Mục tiêu của đề tài
Xác định được một số bệnh sinh sản của đàn lợn nái nuôi tại trại và đưa ra
được phác đồ điều trị có hiệu quả cao.
2
1.3. Ý nghĩa của đề tài
1.3.1. Ý nghĩa khoa học
Kết quả nghiên cứu của đề tài đóng góp vào nguồn tư liệu về một số bệnh
sinh sản trong chăn nuôi lợn nái sinh sản.
1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu sẽ xác định được bệnh sinh sản thường mắc ở lợn nái, từ
đó đề xuất các biện pháp phòng trị bệnh hiệu quả.
3
Phần 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Cơ sở khoa học
2.1.1. Đặc điểm cấu tạo cơ quan sinh dục của lợn nái
Trong cơ quan sinh sản, bộ phận sinh dục của lợn cái được chia thành bộ
phận sinh dục bên ngoài (âm môn, âm vật, tiền đình) và bộ phận sinh dục bên trong
(buồng trứng, ống dẫn trứng, tử cung, âm đạo) .
Bộ phận sinh dục ngoài.
Bộ phận sinh dục ngoài: là phần có thể nhìn thấy, sờ thấy và quan sát được,
bao gồm: âm hộ, âm vật, tiền đình.
Âm hộ (vulva):
Âm hộ hay còn gọi là âm môn, nằm dưới hậu môn. Bên ngoài có 2 môi đính
với nhau ở mép trên và mép dưới. Trên hai môi của mỗi âm hộ có sắc tố đen, tuyến
mồ hôi, tuyến bã tiết ra chất nhờn trong và hơi dính.
Âm vật (Clitoris):
- Nằm ở phía dưới hai mép của âm hộ. Âm vật có cấu tạo như dương vật
nhưng thu nhỏ lại và là tạng cương của đường sinh dục cái, được dính vào phần trên
khớp bán động ngồi, bị bao xung quanh bởi cơ ngồi hổng.
- Âm vật được phủ bởi lớp niêm mạc có chứa các đầu mút thần kinh cảm
giác, lớp thể hổng và tổ chức liên kết bao bọc gọi là mạc âm vật.
Tiền đình (Vestibulum vaginae sinusinogenitalis):
- Tiền đình là giới hạn giữa âm đạo và âm môn. Trong tiền đình có màng
trinh, phía trước màng trinh là âm môn, phía sau màng trinh là âm đạo.
- Màng trinh là một nếp gấp gồm 2 lá, phía trước thông với âm đạo, phía sau
thông với âm hộ. Màng trinh gồm các sợi cơ đàn hồi ở giữa và do 2 lá niêm mạc
gấp lại thành một nếp.
- Lỗ niệu đạo ở sau và dưới màng trinh.
4
- Hành tiền đình là 2 tạng cương ở 2 bên lỗ niệu đạo. Cấu tạo giống thể hổng
ở bao dương vật của con đực. Tiền đình có một số tuyến, các tuyến này xếp theo
hàng chéo, hướng quay về âm vật.
Bộ phận sinh dục bên trong
Buồng trứng (Ovarium):
Buồng trứng ở động vật có vú lưu lại trong xoang bụng, phát triển thành một
cặp. Buồng trứng được hình thành trong giai đoạn phôi thai hoặc vào lúc con vật
mới sinh ra. Hình dáng và kích thước của buồng trứng biến đổi theo giai đoạn của
chu kì sinh dục và chịu ảnh hưởng của tuổi, đặc điểm cá thể, chế độ dinh dưỡng...
- Cấu tạo: Phía ngoài buồng trứng được bao bọc bởi một lớp màng liên kết
sợi, chắc như màng dịch hoàn. Phía trong buồng trứng được chia làm hai miền là
miền vỏ và miền tủy.
Miền tủy có nhiều mạch máu, tổ chức liên kết dày đặc đảm bảo nhiệm vụ
nuôi dưỡng và bảo vệ. Miền tủy đảm bảo quá trình phát triển của trứng đến khi
trứng chín và rụng.
Miền vỏ bao gồm ba phần: Tế bào trứng nguyên thủy, thể vàng và tế bào
hình hạt. Tế bào trứng nguyên thủy hay còn gọi là trứng non nằm dưới lớp màng
của buồng trứng. Khi noãn nang chín, các tế bào nang bao quanh tế bào trứng phân
chia thành nhiều tế bào có hình hạt (strarum glannulosum). Noãn bào ngày càng
phát triển thì các tế bào nang tiêu tan tạo thành xoang chứa dịch. Các tầng tế bào
còn lại phát triển lồi lên trên tạo thành một lớp màng bao bọc, ở ngoài có chỗ dày
lên để chứa trứng (ovum). Hình dáng của buồng trứng rất đa dạng nhưng phần lớn
có hình bầu dục hoặc hình ovan dẹt, không có lõm rụng trứng.
- Buồng trứng của gia súc có chức năng sinh ra trứng và tiết dịch nội tiết.
- Buồng trứng có hai chức năng cơ bản là tạo giao tử cái và tiết các hocmon:
Estrogen, Progesterone, Oxytocin, Relaxin và Inhibin. Các hocmon này tham gia
vào việc điều khiển chu kỳ sinh sản của lợn cái. Estrogen cần thiết cho sự phát triển
của tử cung và hệ thống ống dẫn của tuyến vú. Progesterone do thể vàng tiết ra giúp
duy trì sự mang thai do nó kích thích sự phân tiết của tử cung để nuôi dưỡng thai,
5
ức chế sự co thắt của tử cung và phát triển nang tạo sữa của tuyến vú. Oxytoxin
được tiết chủ yếu bởi phần sau của tuyến yên nhưng cũng dược tiết bởi thể vàng ở
buồng trứng khi thú gần sinh, nó làm co thắt cơ tử cung trong lúc sinh đẻ và cũng
làm co thắt cơ trơn tuyến vú để thải sữa. Ở lợn, Relaxin do thể vàng tiết ra để gây
dãn nở xương chậu, làm dãn và mềm cổ tử cung, do đó mở rộng đường sinh dục khi
gần sinh. Inhibin có tác dụng ức chế sự phân tiết kích tố noãn (FSH) từ tuyến yên,
do đó ức chế sự phát triển nang noãn theo chu kỳ.
- Trên buồng trứng có từ 70.000 - 100.000 noãn bào ở các giai đoạn khác
nhau, tầng ngoài cùng là những noãn bào sơ cấp phân bố tương đối đều, tầng trong
là những noãn bào thứ cấp đang sinh trưởng, khi noãn bào chín sẽ nổi lên bề mặt
buồng trứng.
- Có 4 loại noãn nang trong buồng trứng: noãn nang nguyên thuỷ, noãn nang
bậc một, noãn nang bậc hai, noãn nang bậc ba.
- Buồng trứng của lợn hình chùm dâu, có màu hồng vân, kích thước noãn bào
thành thục 0,8 -1,2 cm.
Ống dẫn trứng (Oviductus):
- Ống dẫn trứng còn gọi là vòi Fallop, nằm ở màng treo buồng trứng. Đường
kính ống dẫn trứng 0,2 - 0,4 mm, được chia làm hai đoạn là ống dẫn trứng phía
buồng trứng, ống dẫn trứng phía sừng tử cung.
- Cấu tạo Ống dẫn trứng (vòi Fallop) gồm có phễu, phần rộng và phần eo.
Phễu mở ra để tiếp nhận noãn và có những sợi lông nhung để gia tăng diện tích tiếp
xúc với buồng trứng khi xuất noãn. Phễu tiếp nối với phần rộng. Phần rộng chiếm
khoảng 1/2 chiều dài của ống dẫn trứng, đường kính tương đối lớn và mặt trong có
nhiều nếp gấp với tế bào biểu mô có lông nhỏ. Phần eo nối tiếp sừng tử cung, nó có
thành dày hơn phần rộng và ít nếp gấp hơn.
Tử cung (dạ con):
Tử cung gồm có hai sừng tử cung, một thân và một cổ tử cung.
Ở lợn, tử cung thuộc loại hai sừng, các sừng gấp nếp hoặc quăn lại và có độ
dài đến hơn 1m trong khi thân tử cung lại ngắn. Độ dài này phù hợp cho việc mang
6
nhiều thai. Cả hai mặt của tử cung được đính vào khung chậu và thành bụng bằng
dây chằng rộng. Các tuyến nội mạc tử cung có cấu trúc hình nhánh, cuộn hoặc hình
ống chúng tiết ra dịch và đổ vào bề mặt nội mạc tử cung.
Cổ tử cung:
Cổ tử cung là tổ chức sợi mà mô liên kết chiếm ưu thế kết hợp với sự có mặt
của một ít cơ trơn. Cổ tử cung có đặc trưng là một thành dày và một xoang chậu
hẹp, cổ tử cung lợn có các vòng sắp xếp giống như các xoắn mở nút chai để tiếp thu
phần xoắn của quy đầu lợn đực.
Âm đạo:
Âm đạo có cấu tạo như một ống cơ. Âm đạo lợn dài 10-12cm.
Ở lợn, biểu mô âm đạo tăng lên về độ cao tối đa vào lúc động dục và thấp
nhất ở các ngày 12-16, các lớp biểu mặt của biểu mô âm đạo bong ra ở các ngày 4
và 14.
Khả năng co rút ở âm đạo đóng vai trò chính trong việc đáp ứng tính dục và
cho sự vận chuyển của tinh trùng. Sự co rút của âm đạo, dạ con và ống dẫn trứng
được kích thích bởi dịch thể bài tiết vào trong âm đạo trong quá trình kích thích
trước lúc giao phối.
Dịch âm đạo chủ yếu là chất thấm qua thành âm đạo, hỗn hợp với các chất
tiết của âm hộ từ các tuyến ba nhờn và các tuyến mồ hôi, lẫn với dịch nhầy của cổ
tử cung, các dịch nội mạc tử cung, ống dẫn trứng và và các tế bào bong ra từ biểu
mô âm đạo.
2.1.2. Sinh lý sinh sản của lợn nái
Sinh lý sinh dục của lợn nái
Sinh lý sinh dục của lợn nái được biểu hiện ở các chỉ tiêu: Tuổi động dục lần
đầu, thời gian động dục, tuổi phối giống lần đầu, chu kì động dục, tuổi đẻ lứa đầu,
thời gian động dục trở lại...
* Tuổi động dục lần đầu: tính từ lúc sơ sinh cho đến lợn nái hậu bị lần đầu
tiên động dục, mỗi giống có tuổi động dục đầu tiên khác nhau. Tuổi động dục đầu
tiên ở lợn nội (Ỉ, Móng Cái) rất sớm từ 4 - 5 tháng khi khối lượng đạt từ 20 - 25kg.
7
Ở lợn nái lai tuổi động dục lần đầu muộn hơn so với lợn nội thuần, ở lợn lai F1 (có
1/2 máu nội) động dục lần đầu lúc 6 tháng tuổi khi khối lượng cơ thể đạt 50 - 55kg.
Lợn ngoại động dục muộn hơn so với lợn lai, tuổi động dục là từ 6 đến 7 tháng khi
lợn có khối lượng 65 - 80kg (Phạm Hữu Doanh và Lưu Kỷ, 2003) [6].
Theo Trần Văn Phùng và Hà Thị Hảo, (2004) [14] cho biết: Tùy theo giống,
điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng và quản lý mà có tuổi động dục lần đầu khác nhau.
Lợn Ỉ, Móng Cái có tuổi động dục lần đầu vào 4 - 5 tháng tuổi (121 - 158 ngày
tuổi), các giống lợn ngoại Yorkshire, Landrace) có tuổi động dục lần đầu muộn hơn
từ 7 - 8 tháng tuổi.
Ở lợn Ỉ, lợn Móng Cái lúc 3 tháng tuổi đã có con có biểu hiện động dục, lúc
bấy giờ thể trọng của chúng chỉ bằng 1/4 so với lợn trưởng thành. Tuổi động dục
lần đầu phụ thuộc vào mùa vụ. Lợn nái hậu bị được sinh vào mùa thu sẽ động dục
sớm hơn so với lợn nái hậu bị sinh vào mùa xuân (Nguyễn Tấn Anh và Nguyễn
Duy Hoan, 1998) [1].
Theo Lê Xuân Thọ và Lê Xuân Cương (1979) [21], đối với lợn nái hậu bị
và lợn nái sau cai sữa chậm động dục, tiêm huyết thanh ngựa chửa có thể gây
động dục.
Tuổi phối giống lần đầu: Phạm Hữu Doanh và Lưu Kỷ (2003) [6] cho rằng:
Không nên phối giống ở lần động dục đầu tiên vì ở thời kì này cơ thể lợn chưa phát
triển đầy đủ, chưa tích tụ được chất dinh dưỡng nuôi thai, trứng chưa chín một cách
hoàn chỉnh. Để đạt được hiệu quả sinh sản tốt và duy trì con nái lâu bền cần bỏ qua
1 - 2 chu kỳ động dục rồi mới cho phối giống.
Đối với lợn nội thường phối giống lần đầu lúc 6 - 7 tháng tuổi, khi khối
lượng đạt 40 - 50kg. Lợn lai phối giống vào lúc 8 tháng tuổi với khối lượng không
dưới 65 - 70kg, nái ngoại cho phối vào lúc 9 tháng tuổi.
Tuổi phối giống lần đầu của lợn nái hậu bị là một vấn đề cần được quan tâm.
Phải phối giống cho lợn nái hậu bị đúng thời điểm lợn đã thành thục về tính, có tầm
vóc và sức khỏe đạt yêu cầu sẽ nâng cao được khả năng sinh sản của lợn nái và
nâng cao được phẩm chất của đời sau. Nếu phối giống quá sớm sẽ ảnh hưởng đến
8
tầm vóc và sức khỏe của lợn mẹ. Nhưng thực tế đã chứng minh rằng nếu phối giống
quá muộn sẽ lãng phí về kinh tế, ảnh hưởng đến sinh sản phát dục của lợn cũng như
hoạt động về tính của nó (Nguyễn Khánh Quắc và cs, 1995) [15].
Tuổi đẻ lứa đầu: Theo Lê Hồng Mận và Bùi Đức Lũng, (2004) [12], sau khi
phối giống lợn cái chửa cộng với tuổi phối giống lần đầu là có được tuổi đẻ lứa đầu.
Lợn Ỉ, Móng Cái cho đẻ lứa đầu vào 11 - 12 tháng tuổi, lợn nái lai, ngoại cho đẻ lứa
đầu vào lúc 12 tháng tuổi, không nên để quá 14 tháng tuổi.
Chu kì động dục của lợn nái và động dục trở lại sau khi đẻ:
Thường diễn biến trong phạm vi 19 - 21 ngày. Thời gian động dục thường
kéo dài quãng 3 - 4 ngày (lợn nội) hoặc 4 - 5 ngày (lợn lai, lợn ngoại) (Nguyễn Văn
Thiện và cs, 1996) [19].
Chu kỳ động dục kéo dài 18 - 21 ngày, nếu chưa được phối giống hoặc phối
giống chưa có chửa thì chu kỳ sau sẽ được nhắc lại. Lợn nái nuôi con sau khi đẻ 3 4 ngày hoặc sau 30 ngày nuôi con thường có hiện tượng động dục trở lại, nhưng
không cho phối giống vì bộ máy sinh dục chưa phục hồi và trứng rụng chưa đều.
Sau cai sữa 3 - 5 ngày (lúc lợn con 45 - 50 ngày tuổi) lợn nái động dục trở lại. Cho
phối giống lúc này dễ thụ thai, trứng rụng nhiều đạt số lượng con cao (Hội chăn
nuôi Việt Nam, 2002) [8].
Theo Lê Hồng Mận và Bùi Đức Lũng, (2004) [12] cũng cho biết: Lợn nái sau
khi đẻ có hiện tượng động dục trở lại sau 3 - 4 ngày thấy nhiều ở giống lợn nội.
Nhưng lúc này bộ máy sinh dục của lợn mẹ chưa phục hồi, trứng chín chưa đều, vì
thế không nên cho lấy đực. Thường sau khi cai sữa lợn con, sớm từ 28 - 35 ngày
tuổi hoặc muộn hơn (50 - 55 ngày tuổi) khoảng 3 - 5 ngày thì lợn mẹ động dục trở
lại, cho thấy lấy đực dễ đậu thai và trứng chín nhiều sẽ có nhiều con.
- Đặc điểm động dục của lợn nái: Hội Chăn nuôi Việt Nam, (2002) [8] cho
rằng ở lợn nái khi động dục có thể chia làm ba giai đoạn:
Giai đoạn trước khi chịu đực (bắt đầu)
Giai đoạn chịu đực (phối giống)
Giai đoạn sau chịu đực (kết thúc)
9
+ Ở giai đoạn trước khi chịu đực: Lợn nái kêu rít, âm hộ xung huyết, không
cho con khác nhảy lên lưng. Sự rụng trứng thể hiện sau khi có hiện tượng trên đối
với lợn ngoại và lợn lai là 35 - 45h, với lợn nội là 25 - 30h.
+ Ở giai đoạn chịu đực: Lợn kém ăn, mê ì, lợn đứng yên khi ấn tay lên lưng
gần mông, âm hộ giảm độ sưng, nước nhờn chảy ra, dính, đục, đứng yên khi có đực
đến gần và cho đực nhảy. Giai đoạn này kéo dài 2 ngày, nếu được phối giống lợn sẽ
thụ thai, lợn nội có thời thời gian ngắn hơn 28 - 30h.
+ Ở giai đoạn sau chịu đực: Lợn nái trở lại bình thường, âm hộ giảm độ nở,
đuôi cụp, không cho con đực đến gần và nhảy lên lưng.
- Thời điểm phối giống thích hợp: Trứng rụng tồn tại trong tử cung 2 - 3h,
còn có giá trị thụ thai. Tinh trùng sống trong âm đạo lợn nái 30 - 48h. Thời điểm
phối giống thích hợp nhất đối với lợn nái ngoại và lợn nái lai cho phối vào chiều
ngày thứ 3 và sáng ngày thứ 4 tính từ lúc động dục. Đối với lợn nái nội sớm hơn
một ngày vào cuối ngày thứ 2 và sáng ngày thứ 3 do thời gian động dục ở lợn nái
nội ngắn hơn. Nguyễn Hữu Ninh và Bạch Đằng Phong, (2000) [13]: Thời điểm phối
giống có ảnh hưởng đến tỷ lệ đậu thai và sai con. Phối sớm hoặc phối chậm đều đạt
kết quả kém nên cho nhảy kép hoặc thụ tinh nhân tạo kép vào thời điểm tối ưu.
Theo Hội Chăn nuôi Việt Nam, (2002) [8] cho biết: Thời kỳ phối giống thích
hợp nhất là giữa giai đoạn chịu đực đối với nái ngoại, nái lai cho phối vào chiều
ngày thứ 3 và sáng ngày thứ 4, tính từ lúc bắt đầu giai đoạn 1 hoặc sau khi có hiện
tượng chịu đực 6 - 8h thì cho phối.
- Quá trình đẻ và mang thai: Sau thời gian lưu lại ở ống dẫn trứng khoảng 3
ngày để tự dưỡng (noãn hoàn và dịch thể do ống dẫn trứng tiết) hợp tử bắt đầu di
chuyển xuống tử cung, tìm vị trí thích hợp để làm tổ, hình thành bào thai.
- Nguyễn Xuân Tịnh và cs, (1996) [20] cho biết: Thụ thai là sự kết hợp giữa
tinh trùng và trứng tạo thành hợp tử, hay nói cụ thể hơn là quá tình đồng hóa giữa
trứng và tinh trùng. Đó là kết quả của sự tái tổ hợp các gen từ hai nguồn khác nhau.
Thời gian mang thai của lợn trung bình là 114 ngày (113 - 118 ngày), khi mang thai
thì thể vàng tồn tại và tiết ra kích tố progesterol ức chế sự phát triển của bao noãn.
10
Do đó con vật có chửa sẽ không động dục và không thải trứng. Thời gian chửa của
lợn nái được chia làm hai thời kỳ:
Chửa kỳ I: Là thời gian lợn có chửa 84 ngày đầu tiên.
Chửa kỳ II: Là thời gian lợn chửa từ ngày chửa thứ 85 đến lúc đẻ.
Theo Trương Lăng, (2003) [11], trong thời kỳ lợn chửa có thể xuất hiện hai
tai biến: toàn bộ các thai chết gây sảy thai; một phần thai bị chết các thai khác tiếp
tục phát triển xen kẽ không bị đẩy ra ngoài.
- Giai đoạn tiết sữa và nuôi con: Quá trình tiết sữa của lợn là một quá trình
phản xạ, do những kích thích vào bầu vú gây nên. Phản xạ tiết sữa của lợn nái tương
đối ngắn và chuyển dần từ trước ra sau. Thần kinh giữ vai trò chủ đạo trong quá
trình tiết sữa, khi lợn con thúc vú mẹ những kích thích này truyền lên vỏ não, vào
vùng Hypothalamus, từ kích thích tuyến yên sản sinh ra kích tố Oxytocin tiết vào
máu, kích tố này đi vào tuyến bào kích thích lợn nái thải sữa. Do tác động của
Oxytocin trong máu khác nhau cho nên các tuyến vú khác nhau có sản lượng sữa
khác nhau. Nhưng vú ở phần ngực tiết sữa nhiều hơn những vú ở phần sau. Lượng
sữa của lợn nái tăng co dần từ lúc mới đẻ, cao nhất lúc 21 ngày sau khi đẻ, sau đó
giảm dần (Trần Văn Phùng và Hà Thị Hảo, 2004) [14].
Vì vậy để đảm bảo tính đồng đều của ổ lợn ta nên cố định những con nhỏ
hơn bú vú trước, cần tách riêng lợn con đẻ trước chờ đến khi đẻ xong mới cho cả
đàn vào bú, nhưng nhất thiết phải cho lợn con bú sữa đầu, chậm nhất là 2h sau đẻ,
để lợn con có đủ kháng thể trong năm tuần đầu sau khi sinh vì trong sữa đầu của lợn
mẹ có chứa globulin giúp cho cơ thể lợn con có sức đề kháng.
- Khả năng tiết sữa của lợn mẹ phụ thuộc vào mức độ dinh dưỡng thức ăn,
giống lợn và số lượng lợn con. Lượng sữa mẹ tiết ra nhiều nhất vào tuần thứ 2 - 3.
Giống khác nhau thì khả năng tiết sữa của lợn mẹ khác nhau.
Năng suất sinh sản của lợn
Một lợn nái một năm trung bình có thể đẻ từ 1,8 - 2,2 lứa/năm. Tuy nhiên,
điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc và quản lý ảnh hưởng đến năng suất sinh sản
của lợn.
11
Đánh giá năng suất sinh sản của lợn nái thông qua các chỉ tiêu: Số con sơ
sinh, số con cai sữa, khối lượng lợn con sơ sinh và cai sữa, tỷ lệ nuôi sống, số lứa
đẻ/năm...
2.1.3. Căn bệnh
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự nhiễm bệnh của lợn nái.
Thiếu sót về dinh dƣỡng và quản lý
- Khẩu phần thiếu hay thừa protein trước, trong thời kỳ mang thai có ảnh
hưởng đến viêm tử cung.
- Lợn nái sử dụng quá nhiều tinh bột, gây đẻ khó, gây viêm tử cung - Ngược
lại thiếu dinh dưỡng lợn nái sẽ ốm yếu, sức đề kháng giảm không chống lại vi trùng
xâm nhập cũng gây viêm tử cung.
- Khoáng chất, vitamin ảnh hưởng đến viêm tử cung. Thiếu vitamin A sẽ gây
sừng niêm mạc, sót nhau.
Chăm sóc quản lý vệ sinh
Chăm sóc quản lý vệ sinh là khâu quan trọng. Vệ sinh chuồng trại, tắm rửa
giữ sạch sẽ thân thể lợn nái, thụt rửa tử cung khi sinh, sử dụng nước sạch làm giảm
tỷ lệ viêm tử cung.
- Viêm vú: Trong điều kiện chuồng trại, vệ sinh môi trường khu vực chăn
nuôi kém, vi khuẩn có thể xâm nhập trực tiếp qua ống dẫn sữa ở bầu vú, hoặc theo
đường máu từ các vết trầy, vết thương bị nhiễm trùng khác trên cơ thể gia súc để
gây viêm.
- Viêm tử cung: Vi khuẩn từ môi trường xâm nhập vào cơ quan sinh dục của
nái trong quá trình sinh đẻ (nhất là khi thời gian đẻ của nái kéo dài trên 4 giờ), hoặc
do người dùng tay can thiệp trong quá trình đỡ đẻ gây trầy xước bên trong đường
sinh dục của nái. Hiện tượng sót nhau hay sót con nếu không can thiệp kịp thời
cũng sẽ gây bệnh viêm tử cung gia súc.
Tiểu khí hậu chuồng nuôi
Nhiệt độ và độ ẩm môi trường nuôi có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng sinh
sản của gia súc, liên quan trực tiếp đến sức khỏe, khả năng rụng trứng của lợn nái.
Do đó, việc tạo bầu tiểu khí hậu thích hợp trong chuồng nuôi là yêu cầu cần thiết.
12
Thời tiết khí hậu quá nóng hay quá lạnh trong thời gian đẻ dễ đưa đến viêm
tử cung.
Tuổi, lứa đẻ, tình trạng sức khỏe
- Lợn đẻ lứa đầu cơ quan sinh dục, đặc biệt là tử cung có sự co giãn lớn nhất
lần đầu tiên, nên dễ gây xây xát cơ quan sinh dục gây viêm tử cung. Trong những
lứa đẻ đầu, lợn nái thường bị rách âm đạo nên bị viêm nhẹ, lợn nái mới đẻ lứa đầu
xoang chậu còn hẹp và ở những con nái đẻ khó, phải can thiệp bằng tay thì gần như
100% số con bị viêm tử cung gây sốt nóng, làm giảm sữa nuôi con. Đối với nái đẻ
nhiều lứa tỷ lệ mắc các bệnh sinh sản cao, do niêm mạc tử cung đã trở lên thô ráp
hơn, khả năng đàn hồi kém hơn, sức đề kháng của nái giảm, phải can thiệp nhiều
trong quá trình sinh sản.
- Lợn nái già sức khỏe kém, kế phát một số bệnh nên sức rặn đẻ yếu, thời
gian đẻ kéo dài, đẻ khó dễ đưa đến viêm tử cung.
Kích dục tố
Oxytocin có tác dụng kích thích co bóp tử cung tống sản dịch, nhau ra khỏi
đường sinh dục làm giảm tỷ lệ viêm tử cung. Nếu dùng Oxytocin để kích dục đẻ
không đúng liều lượng hoặc không đúng thời điểm cũng gây nên hiện tượng rối
loạn sinh sản trên lợn nái sau khi sinh.
Nhiễm trùng sau khi sinh
- Khi gia súc đẻ nhất là trong trường hợp đẻ khó phải can thiệp bằng tay hoặc
dụng cụ, niêm mạc tử cung bị xây xát, bị tổn thương, vi khuẩn xâm nhập và phát
triển gây viêm.
- Thời gian đẻ lâu là điều kiện thuận lợi cho vi khuẩn xâm nhập vào cơ quan
sinh dục của lợn nái gây viêm nhiễm.
- Vệ sinh chuồng trại cho lợn nái sau khi sinh không đảm bảo là môi trường
tốt cho vi khuẩn xâm nhập và phát triển dẫn đến mắc các bệnh sinh sản ở lợn nái.
- Hiện tượng sót nhau, sảy thai hoặc thai chết do các bệnh truyền nhiễm, nếu
không can thiệp kịp thời, đúng kỹ thuật cũng sẽ gây ra bệnh viêm tử cung.
13
Đƣờng xâm nhiễm
- Mầm bệnh có mặt trong ruột, truyền qua niêm mạc đi vào máu, xâm nhập
vào tử cung, nguyên nhân chính của sự xâm nhập này là sự kém nhu động của ruột
và nhất là táo bón.
- Xâm nhập có thể hướng từ ngoài vào do vi khuẩn hiện diện trong phân và
nước tiểu.
- Bệnh nhiễm trùng mãn tính của thận, bàng quang và đường niệu cũng là
nguyên nhân gây nhiễm.
Hầu hết các trường hợp viêm tử cung đều có sự hiện diện của vi sinh vật cơ
hội thường xuyên có mặt trong chuồng nuôi. Lợi dụng lúc sinh sản tử cung, âm đạo
tổn thương chứa nhiều sản dịch, vi trùng xâm nhập đường sinh dục gây viêm tử cung.
Phân lập hệ vi trùng chủ yếu từ dịch viêm tử cung tại phòng xét nghiệm
gồm có :
- Staphylococus
- E.Coli
- Klebsiella
- Staphylococus + E.Coli
Sự lan tràn của bệnh trong đàn lợn thường do nhiễm trùng tại cơ quan sinh
dục trong khi lợn sinh và có thể do lợn đực truyền sang trong lúc phối, khi lợn đực
bị nhiễm Streptococcus, E.Coli…(Đặng Thanh Tùng, 2006) [23].
Một số bệnh thường gặp trên đàn lợn nái.
Viêm tử cung
Bệnh xảy ra trên các giống lợn nội, ngoại khác nhau. Lợn nái đẻ ít lứa, nhiều
lứa hay đang nuôi con đều có thể mắc bệnh, song tỷ lệ mắc bệnh phụ thuộc vào yếu
tố vệ sinh môi trường và các khu động thực vật ở mỗi vùng khác nhau, đặc biệt là
công tác vệ sinh thú y.
Nguyên nhân gây bệnh:
- Khi gia súc đẻ nhất là trong trường hợp đẻ khó phải can thiệp bằng tay hoặc
dụng cụ, niêm mạc tử cung bị xây xát, bị tổn thương, vi khuẩn xâm nhập và phát
14
triển gây viêm. Mặt khác, một số bệnh truyền nhiễm như sảy thai truyền nhiễm, phó
thương hàn, bệnh lao... thường gây viêm tử cung (Đỗ Quốc Tuấn, 1999) [22].
- Lê Hồng Mận và Bùi Đức Lũng, (2004) [12] còn cho biết khi lợn đẻ, cổ tử
cung, mép âm hộ bị rách, bị nhiễm trùng kế phát gây viêm. Chuồng đẻ nền bẩn, dây
rốn lợn con và nhau thai nhiễm trùng rồi co thụt vào gây viêm.
- Do dụng cụ thụ tinh nhân tạo cứng gây xây xát và tạo ra các ổ viêm nhiễm
trong âm đạo tử cung. Do tinh dịch bị nhiễm khuẩn và dụng cụ thụ tinh không được
vô trùng đã đưa các vi khuẩn gây viêm nhiễm vào đường sinh dục của lợn nái. Do
lợn đực bị viêm niệu quản và dương vật, khi nhảy trực tiếp sẽ truyền bệnh sang lợn
nái (Phạm Sỹ Lăng và Phan Địch Lân, 1995) [9].
- Đoàn Thị Kim Dung và Lê Thị Tài, (2002) [5] cho biết: Nguyên nhân gây
ra bệnh viêm tử cung chủ yếu do vi khuẩn tụ cầu vàng (Staphylococcus aureus) liên
cầu dung huyết (Streptococcus hemolitica) và các loại Proteus vulgais, Klebriella,
dung huyết E.coli, còn có thể do trùng roi (Trichomonas fortus) và do nấm Candda
albicans.
- Theo nghiên cứu của Nguyễn Văn Thanh (2007) [16], có thể khẳng định
rằng việc dùng tay móc thai khi lợn đang đẻ nhằm rút ngắn thời gian sổ thai của mẹ
là nguyên nhân chính gây ra bệnh viêm tử cung ở đàn lợn nái nuôi theo mô hình
trang trại hiện nay.
Triệu chứng:
Bệnh xảy ra ở tất cả các giống lợn và ở các giai đoạn khác nhau nhưng
thường xảy ra ở giai đoạn sau khi sinh từ 1 - 10 ngày.
Theo Nguyễn Văn Thanh (2007) [16], khi lợn nái bị viêm các chỉ tiêu lâm
sàng như thân nhiệt, tần số hô hấp đều tăng so với lợn nái bình thường. Lợn bị sốt
theo quy luật lên xuống. Sáng sốt nhẹ 39 - 39,50C, chiều 40 - 410C. Con vật ăn kém,
sản lượng sữa giảm, có khi con vật cong lưng rặn như rặn đái, từ cơ quan sinh dục
chảy ra niêm dịch lẫn nhiều lợn cợn, mùi hôi tanh, có máu trắng đục, hồng hay nâu
đỏ. Khi nằm lượng niêm dịch chảy ra nhiều hơn. Trong trường hợp thai chết lưu,
âm đạo sưng tấy, đỏ, có chứa dịch tiết màu vàng sẫm, nâu và có mùi hôi thối. Xung
15
quanh âm hộ và mép đuôi dính bết niêm dịch, có khi niêm dịch khô đóng thành vẩy
trắng, lợn nái mệt mỏi, đi lại khó khăn.
Viêm tử cung ở lợn có các thể sau:
+ Viêm tử cung thể nhẹ (+) gọi là viêm tử cung nhờn, thể hiện thân nhiệt
bình thường, có khi hơi cao 39 - 39,50C, kém ăn có dịch tiết ra từ âm hộ, 12 - 72h
sau đẻ dịch lỏng có màu trắng đục hoặc xanh dạng sợi mùi hôi tanh. Thể viêm này ít
ảnh hưởng đến sản lượng sữa của lợn mẹ.
+ Viêm tử cung thể vừa (++) thuộc dạng viêm tử cung mủ, thân nhiệt lợn nái
cao 39,5 - 400C, lợn ăn ít hoặc bỏ ăn, hay nằm lỳ. Khi nằm có dịch từ âm hộ chảy ra
màu vàng xanh lân mủ trắng, hơi sệt, mùi tanh thối.
Khi soi đường sinh dục, vùng âm đạo có dính dáng mủ, niêm mạc có vùng
nhạt đỏ không đều, niêm dịch chảy từ cổ tử cung ra có mùi thối.
+ Viêm tử cung thể nặng (+++) thuộc dạng viêm tử cung mủ, thân nhiệt tăng
cao 39,5 - 400C, lợn nái ủ rũ, hay nằm, bỏ ăn, dịch tiết từ âm hộ ra dạng mủ xanh
vàng sệt, có khi lẫn máu, mùi tanh thối.
Niêm mạc âm đạo nhợt nhạt , nhiều mủ đặc dính lại, cổ tử cung hơi mở, có
mủ trắng đục chảy ra, mùi thối khắm. Trạng thái này xuất hiện chậm 7 - 8 ngày sau
khi lợn đẻ. Bệnh ảnh hưởng đến sản lượng sữa.
Nguyễn Xuân Bình (1996) [2] cho biết: Sau khi đẻ 1 - 10 ngày nái ăn ít sốt
cao 40 - 410C thường sốt vào buổi chiều lúc 3 - 5h, ở âm hộ chảy nước đục trắng
mùi hôi tanh (sốt theo quy luật lên xuống) sang sốt nhẹ 39 - 39,50C, chiều sốt cao
40 - 410C
Hậu quả của bệnh viêm tử cung:
Bệnh viêm tử cung ở lợn nái là một trong những tổn thương đường sinh dục
của lợn nái sau khi sinh, ảnh hưởng rất lớn đến khả năng sinh sản, làm mất sữa, lợn
con không có sữa sẽ còi cọc, suy dinh dưỡng, lợn con chậm phát triển. Lợn nái
chậm động dục trở lại, không thụ thai, có thể dẫn đến vô sinh, mất khả năng sinh
sản ở lợn nái (http:www.pkh-vcn.org, 2007) [29].
16
Viêm tử cung là một trong những yếu tố gây vô sinh, rối loạn chức năng của
cơ quan sinh dục vì các quá trình viêm ở trong dạ con cản trở sự di chuyển của tinh
trùng, tạo độc tố có hại cho tinh trùng như: Spermiolysin (độc tố làm tiêu tinh
trùng). Các loại độc tố của vi khuẩn, vi trùng và các dạng đại thực bào tích tụ gây
bất lợi với tinh trùng, ngoài ra nếu có thụ thai được thì phôi ở trong môi trường dạ
con bất lợi như thế cũng dễ bị chết non.
Quá trình viêm xảy ra trong giai đoạn có chửa là do biến đổi bệnh lý trong
cấu trúc của niêm mạc (teo niêm mạc, sẹo trên niêm mạc, thoái hóa niêm mạc...)
dẫn đến phá vỡ hàng rào bảo vệ giữa bào thai và dạ con nên qua các chỗ tổn thương
vi khuẩn cũng như các độc tố do chúng tiết ra làm cho bào thai phát triển không
bình thường.
Chẩn đoán:
Dựa vào các triệu chứng lâm sàng như: Lợn nái luôn ở tư thế như rặn đái.
Kiểm tra trực tiếp đường sinh dục lợn nái bằng mỏ vịt, thấy cổ tử cung mở, niêm
dịch từ tử cung âm đạo chảy ra nhiều dịch nhầy lẫn mủ trắng đục mùi hôi khắm...
Theo Nguyễn Hữu Ninh và Bạch Đằng Phong (2000) [13] cho biết: Khi kiểm
tra qua trực tràng có thể cảm thấy một hoặc hai sừng tử cung sưng to, thành tử cung
dày, khi sờ vào phản ứng co lại của sừng tử cung yếu.
Nếu trong tử cung có tích nước thẩm xuất thì sờ vào thấy có vỗ sóng.
Trong trường hợp lợn nái mắc bệnh ở thể ẩn khó phát hiện có thể chẩn đoán
lúc động hớn qua số lượng niêm dịch chảy ra nhiều đôi khi có những đám mủ từ
khe sinh dục ngoài chảy ra. Ngoài ra lợn nái mắc bệnh thường thụ tinh nhiều lần mà
không có kết quả.
Có thể tìm muxin trong dịch nhày từ âm hộ chảy ra rồi cho vào 1ml dung
dịch axit axetic 1% (hay dấm). Nếu có phản ứng dương tính (+), muxin kết tủa, khi
đó lợn mắc bệnh, nếu ngược lại thì muxin không kết tủa (-) thì lợn không mắc bệnh.
Điều trị:
Việc điều trị cần đạt được hai mục đích: phục hồi nguyên vẹn niêm mạc tử
cung và phục hồi chức năng co bóp của cơ tử cung.
17
Tử cung có liên quan mật thiết với các cơ quan khác, trong đó có các bộ
máy nội tiết và thần kinh, bởi vậy điều trị bệnh viêm tử cung bao gồm gây tác
động cục bộ và tác động lên toàn thân, thường dùng phương pháp thụt rửa sau đó
can thiệp bằng các loại kháng sinh và thuốc bổ bằng cách tiêm, cho uống hay bơm
vào tử cung.
+ Điều trị cục bộ: Thụt rửa tử cung bằng các loại dung dịch nước muối 0,9%,
KMnO4 0,1% hoặc rivanol 0,1%. Sau đó thụt rửa vào tử cung 1 trong các loại kháng
sinh sau: penicillin, streptomycin, tetramycin...
+ Điều trị toàn thân: Có thể dùng một số loại kháng sinh tổng hợp như:
ampisep, genorfcoli, gentamycin, lincomycin, hanoxylin 10%, ampicilli... kết hợp
với thuốc trợ lực: Vitamin C, B.complex.
+ Hộ lý: Giữ sạch sẽ chuồng trại trong quá trình điều trị.
Bệnh viêm vú
Nguyên nhân:
- Trần Minh Châu (1996) [3] cho biết: Khi lợn nái đẻ nếu nuôi không đúng
cách, chuồng bẩn thì các vi khuẩn mycoplasma, các cầu khuẩn, vi khuẩn đường ruột
xâm nhập gây ra viêm vú.
Lợn con mới đẻ có răng nanh mà không bấm khi bú làm xây xát vú mẹ tạo
điều kiện cho vi trùng xâm nhập tạo ra các ổ viêm nhiễm trên bầu vú. Lợn nái ăn
thức ăn nhiều đạm quá sinh nhiều sữa, lợn con bú không hết, sữa ứ đọng tạo thành
môi trường cho vi trùng sinh sản nhiều (Trương Lăng, 2000) [10].
+ Lợn chỉ cho con bú một hàng vú, hàng còn lại căng sữa quá nên viêm.
+ Do thời tiết thay đổi đột ngột, lạnh quá hoặc nóng quá hay thức ăn khó tiêu
cũng ảnh hưởng đến cảm nhiễm vi trùng.
Các bệnh viêm vú ở lợn nái thường phát sinh nhiều nhất khi không tuân thủ
các nguyên tắc vệ sinh thú y trong việc nuôi lợn chửa và lợn con cho bú. Đặc biệt là
mùa hè thường có nhưng điều kiện thuận lợi để tích luy các hệ vi khuẩn gây bệnh
trong cơ sở chăn nuôi.