Tải bản đầy đủ (.docx) (2 trang)

Bài tập cá nhân 1 Công pháp Quốc tế Điều ước quốc tế Thỏa thuận về biên giới lãnh thổ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (78.45 KB, 2 trang )

Bài tập cá nhân 1 Công pháp Quốc tế - Điều ước quốc tế - Thỏa thuận
về biên giới lãnh thổ
Chuyên mục Bài tập cá nhân, Công pháp quốc tế

TH4: Năm 1960, quốc gia A gửi cho quốc gia B thư đề nghị hoạch định biên giới giữa lãnh thổ
của quốc gia B với vùng lãnh thổ C mà quốc gia A đang khai thác và đại diện trong quan hệ quốc
tế. Trong thư đó, quốc gia A nêu rõ nguyên tắc, cách thức hoạch định và có bản đồ hoạch định
đính kèm. Trong thư trả lời, quốc gia B bày tỏ quan điểm đồng ý với đề nghị của quốc gia A. Hai
quốc gia cũng đã tổ chức họp báo để thông báo chính thức về nội dung thỏa thuận.

Tranh chấp lãnh thổ bắt đầu nảy sinh sau khi vùng lãnh thổ C trở thành một quốc gia độc lập, có
chủ quyền. Quốc gia C cho rằng thỏa thuận qua thư giữa quốc gia A và quốc gia B không phải là
điều ước quốc tế có giá trị ràng buộc giữa các bên. Hơn nữa, nếu thỏa thuận năm 1960 là điều
ước quốc tế thì với tư cách là quốc gia mới ra đời, quốc gia C không phải kế thừa tất cả các điều
ước quốc tế mà quốc gia A đã đại diện ký kết. Hãy cho biết:

- Theo quy định của Công ước Viên năm 1969 về luật điều ước quốc tế, thỏa thuận giữa hai
quốc gia A và B trong tình huống nêu trên có là điều ước quốc tế hay không? Giải thích tại sao?

- Sau khi độc lập, quốc gia C có phải thực hiện thỏa thuận về biên giới lãnh thổ mà quốc gia A
đã ký kết với quốc gia B hay không? Giải thích tại sao?

BÀI LÀM
1. Theo quy định của Công ước Viên năm 1969 về luật điều ước quốc tế, thỏa thuận giữa
hai quốc gia A và B trong tình huống nêu trên có là điều ước quốc tế hay không? Giải
thích tại sao?
Có thể khẳng định: thỏa thuận giữa hai quốc gia A và B trong tình huống nêu trên là điều ước
quốc tế.

Theo Công ước Viên về luật điều ước quốc tế (1969) thì “thuật ngữ “điều ước” dùng để chỉ một
hiệp định quốc tế được ký kết bằng văn bản giữa các quốc gia và được pháp luật quốc tế điều


chỉnh, dù được ghi nhận trong một văn kiện duy nhất hoặc trong hai hay nhiều văn kiện có quan
hệ với nhau và bất kể tên gọi riêng của nó là gì”.

Về bản chất, điều ước quốc tế là sự thỏa thuận dựa trên ý chí tự nguyện của các bên liên quan.
Chủ thể của điều ước quốc tế là các quốc gia. Điều ước quốc tế tồn tại dưới hình thức văn bản
đã được kí kết. Điều ước quốc tế gồm có 3 loại: điều ước quốc tế được kí kết với danh nghĩa


Nhà nước, điều ước quốc tế được kí kết với danh nghĩa Chính phủ và điều ước quốc tế được kí
kết với danh nghĩa Bộ, ngành. Các điều ước quốc tế được kí kết với danh nghĩa Nhà nước là
các điều ước về hoà bình, an ninh, biên giới, lãnh thổ, chủ quyền quốc gia; về quyền và nghĩa vụ
cơ bản của công dân, về tương trợ tư pháp và về các tổ chức quốc tế phổ cập và tổ chức khu
vực quan trọng.

Căn cứ theo đề bài, thỏa thuận giữa hai quốc gia A và B trong tình huống nêu trên hoàn toàn có
đủ căn cứ để trở thành một điều ước quốc tế. Đây là điều ước quốc tế nhằm hoạch định biên
giới lãnh thổ. Việc phân định biên giới lãnh thổ này đã được hai quốc gia thỏa thuận và đi đến kí
kết. Điều ước quốc tế này được ghi nhận dưới hình thức văn bản.
2. Sau khi độc lập, quốc gia C có phải thực hiện thỏa thuận về biên giới lãnh thổ mà quốc
gia A đã ký kết với quốc gia B hay không? Giải thích tại sao?
Căn cứ vào đề bài, ta có thể thấy đây là trường hợp hình thành quốc gia mới bằng đấu tranh giải
phóng dân tộc hoặc qua cách mạng xã hội. Về nguyên tắc, quốc gia C không phải kế thừa toàn
bộ các điều ước do quốc gia A kí kết với quốc gia B. Tuy nhiên, nhằm mục đích không làm xáo
trộn trật tự pháp lý quốc tế, và nếu điều ước đã kí không đi ngược lại quyền lợi của quốc gia C
thì quốc gia C vẫn có thể tuyên bố kế thừa trong lĩnh vực biên giới lãnh thổ.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật quốc tế, Nxb. CAND, Hà Nội 2007.
2. Công ước Viên về luật điều ước quốc tế 1969.




×