Tải bản đầy đủ (.doc) (96 trang)

Nghiên cứu tình hình tiêu thụ lúa giống của công ty cổ phần giống cây trồng nghệ an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (450.61 KB, 96 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các nội
dung nghiên cứu và kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng
được công bố cho việc bảo vệ một học vị nào. Tôi xin cam đoan những mục
trích dẫn trong luận văn đều được chỉ rõ nguồn gốc, mọi sự giúp đỡ đều được
cảm ơn.
Hà Nội, ngày 20 tháng 5 năm 2010
Sinh viên
Nguyễn Thị Ly Na

1


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này, tôi xin chân thành cảm ơn các
thầy cô giáo trong khoa Kinh tế và Phát triển nông thôn trường Đại học Nông
nghiệp Hà Nội đã dìu dắt, dạy dỗ, tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong suốt quá
trình học tập tại trường.
Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới cô giáo Th.s Đỗ Thanh Huyền, người
đã trực tiếp hướng dẫn, tận tình chỉ bảo và giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn
này.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo Công ty và toàn thể cán bộ,
nhân viên của phòng tài vụ_kế toán, kinh doanh của Công ty cổ phần giống
cây trồng Nghệ An đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt thời gian
thực tập tốt nghiệp.
Qua đây, tôi cũng xin chân thành cảm ơn đến gia đình, bạn bè đã động
viên, khích lệ và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập nghiên cứu cũng như thực
hiện đề tài này.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
Hà Nội, ngày 20 tháng 5 năm 2010
Sinh viên


Nguyễn Thị Ly Na

2


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Từ viết tắt Diễn giải nội dung
BQ

Bình quân

CC

Cơ cấu

GCT

Giống cây trồng

HTXDV

Hợp tác xã dịch vụ

NC

Nguyên chủng

SL

Số lượng


KD

Khang dân

SNC

Siêu nguyên chủng

TBKT

Tiến bộ kỹ thuật

TNHH

Trách nhiệm hữu hạn

DNNN

Doanh nghiệp nhà nước

TSCĐ

Tài sản cố định

TSLĐ

Tài sản lưu động

UBND


Uỷ ban nhân dân

KHKT

Khoa học kỹ thuật

SXKD

Sản xuất kinh doanh

NSNN

Ngân sách nhà nước

3


PHẦN TÓM TẮT
Khi nền kinh tế nước ta chuyển sang kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, các DN được coi là những
đơn vị kinh tế tự chủ từ khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ sản phẩm. Ba vấn đề chính
là: sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào? Sản xuất cho ai? Hiện được các DN quan
tâm để đạt được hiệu quả cao nhất trên cơ sở nguồn lực sẵn có của mình. Đó chính
là cả một quá trình mà các DN cần nghiên cứu để đưa ra những sản phẩm, hàng hóa
phù hợp với nhu cầu của thị trường, để thúc đẩy quá trình sản xuất của xã hội nói
chung và của DN nói riêng. Trong ngành trồng trọt, lúa là cây lương thực chủ yếu
trong cơ cấu sản xuất của ngành, riêng sản xuất lúa thì yếu tố giống không những
đóng vai trò tiền đề mà còn làm tăng phẩm chất và giá trị sản phẩm. Với sự phát
triển của khoa học kỹ thuật ngày nay, các giống lúa mới có năng suất và phẩm chất

tốt đã dần thay thế các giống cũ có hiệu quả sản xuất kém nên vấn đề mở rộng thị
trường và tiêu thụ lúa giống đang là mục tiêu trước mắt và lâu dài của các Công ty
giống. Xuất phát từ những vấn đề đó, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu
tình hình tiêu thụ lúa giống của Công ty cổ phần giống cây trồng Nghệ An”.
Mục tiêu nghiên cứu nhằm đề xuất những giải pháp đẩy mạnh tiêu thụ lúa
giống của Công ty cổ phần giống cây trồng Nghệ An. Đối tượng nghiên cứu là các
tác nhân liên quan đến tình hình tiêu thụ và thị trường tiêu thụ lúa giống… Nội
dung nghiên cứu công tác tiêu thụ và thị trường tiêu thụ lúa giống của Công ty, các
yếu tố ảnh hưởng, và đề xuất giải pháp phù hợp nhằm đẩy mạnh tiêu thụ lúa giống
của Công ty.
Để đáp ứng mục tiêu nghiên cứu, đề tài đã áp dụng phương pháp nghiên cứu
thu thập thông tin: thông tin số liệu được thu thập qua các tài liệu của phòng ban
của Công ty, thu thập trực tiếp từ điều tra phỏng vấn, số liệu thu thập sẽ được xử lý
bằng máy tính cá nhân và phần mềm excel. Số liệu được phân tích qua các phương
pháp như: thống kê mô tả, phương pháp so sánh, phương pháp dự báo nhu cầu với
hệ thống chỉ tiêu phù hợp như chỉ tiêu về mức độ tiêu thụ (lượng lúa giống tiêu thụ,
thị phần sản phẩm, hệ số tiêu thụ, cơ cấu giống lúa tiêu thụ, doanh thu, chi phí cho
cung ứng), chỉ tiêu về hiệu quả tiêu thụ (tỷ suất lợi nhuận)…

4


Quá trình nghiên cứu chúng tôi thu được một số kết quả sau đây: Các hình
thức tạo nguồn của Công ty cổ phần giống cây trồng Nghệ An là thu mua lúa từ các
trạm sản xuất của các huyện, từ các HTX, từ các Công ty cổ phần giống cây trồng
của các tỉnh khác trong cả nước, từ các Công ty TNHH…ngoài ra do nhu cầu của
sản xuất hàng năm nên Công ty còn nhập khẩu các loại lúa giống lai có chất lượng
giống tốt, mẫu mã đẹp từ Trung Quốc về nhằm đáp ứng đầy đủ và kịp thời nhu cầu
khách hàng tại các thời điểm sản xuất trong năm. Nguồn lúa giống thuần của Công
ty chủ yếu được tạo từ các trạm giống đặt ở các huyện của Công ty nhưng sau khi

cổ phần hóa Công ty đi sâu vào lĩnh vực kinh doanh, tất cả nguồn lúa giống của
Công ty được tạo từ mua ngoài. Lúa giống được tạo nguồn từ mua ngoài của Công
ty gồm có: tạo nguồn từ trong nước và tạo nguồn từ nhập khẩu. Nguồn lúa giống
được tạo từ trong nước của Công ty chủ yếu là lúa thuần. Lúa thuần được tạo nguồn
là lúa: Kháng dân, lúa nếp, Q 5, Xi, tám thơm, bắc thơm…nhưng trong đó thì kháng
dân, lúa nếp, Q5 là chủ yếu. Kết quả tạo nguồn lúa giống từ trong nước tăng lên qua
các năm, tốc độ tăng bình quân của Công ty hàng năm là 20,42%, tổng lượng lúa
giống tạo nguồn từ trong nước năm 2008 tăng lên 19,13% so với năm 2007, năm
2009 tăng lên 21,74% so với năm 2008 do lượng lúa thuần và lúa lai đều tăng qua
các năm, và đăc biệt là lượng lúa giống được thu mua từ các trạm sản xuất và hợp
tác xã là lớn nhất, tiếp đó là từ các Công ty giống cây trồng của các tỉnh khác.
Nguồn lúa giống được tạo nguồn từ nhập khẩu đa số nhập khẩu từ Trung Quốc và
lượng lúa lai nhập từ Trung Quốc chiếm một lượng rất lớn so với lúa thuần và nó
quyết định đến lãi lỗ của Công ty. Giống lúa lai nhập về hàng năm từ Trung Quốc
chủ yếu là lúa lai nhị ưu 838, lúa lai nhị ưu 63, nhị ưu 986, khai phong… Nhìn
chung tổng lượng lúa giống nhập về từ Trung Quốc giảm dần, bình quân giảm
11,02% trong 3 năm.
Công ty tiêu thụ trên một số thị trường ngoài tỉnh: Hà Tĩnh, Huế, Quảng
Bình, Thanh Hóa…Tỷ lệ tiêu thụ của Công ty ở thị trường ngoài tỉnh là không cao,
và biến động liên tục, cụ thể: Lượng lúa giống tiêu thụ ngoài tỉnh chiếm 4,74% năm
2007, năm 2008 chiếm 3,76% và 3,42% năm 2009, số còn lại được tiêu thụ ở thị
trường trong tỉnh. Trên địa bàn tỉnh tổng lượng lúa giống tiêu thụ được đều tăng qua

5


3 năm, cụ thể là: Năm 2008 tăng lên 16,35% so với năm 2007, năm 2009 tăng lên
1,48% so với năm 2008, bình quân tăng lên là 8,66% qua 3 năm.
Tình hình tiêu thụ của Công ty theo mùa vụ có nhiều biến động, trong tổng
sản lượng lúa giống tiêu thụ thì vụ chiêm có sản lượng tiêu thụ cao hơn vụ mùa, đặc

biệt là lượng lúa lai chênh nhau khá lớn ở các vụ. Nguyên nhân là do ở vụ mùa
lượng tiêu thụ lúa thuần là chủ yếu, còn sang vụ chiêm do thời tiết lạnh không thuận
lợi cho sâu bệnh phát triển nên chuyển sang trồng lúa lai là giống lúa cho năng suất
cao.
Lượng lúa giống tiêu thụ không đồng đều giữa các loại lúa giống qua từng
năm, từng vụ:
Theo mùa vụ, sản lượng tiêu thụ của vụ chiêm cao hơn vụ mùa, cụ thể vụ
chiêm năm 2007 tiêu thụ khoảng 1122,072 tấn, vụ mùa chỉ có 387,722 tấn tăng lên
một lượng rất lớn là 734,35 tấn, các năm tiếp theo lượng tiêu thụ tiếp tục tăng.
Theo chủng loại, đối với lúa thuần thì lượng lúa giống tiêu thụ ở vụ mùa tăng
lên qua các năm, năm 2008 tăng lên 110,64% so với năm 2007, năm 2009 giảm
16,84% so với năm 2008, bình quân tăng lên 32,35% qua 3 năm. Trong tổng lượng
lúa thuần tiêu thụ ở vụ mùa thì KD là lượng tiêu thụ lớn nhất, nếp có lượng tiêu thụ
lớn thứ 2, bình quân tăng lên 36,56% qua 3 năm. Giống lúa lai tiêu thụ chủ yếu ở vụ
mùa là nhị ưu 838, khai phong, còn lúa lai nhị ưu 63 và lúa lai nhị ưu 986 chiếm
một tỷ lệ nhỏ. Đối với vụ chiêm thì lượng lúa thuần tiêu thụ bình quân tăng lên
19,13% qua 3 năm, trong tổng lượng lúa thuần tiêu thụ thì lúa KD là lượng tiêu thụ
lớn nhất, còn các giống lúa Nếp, lúa khác thì tình hình tiêu thụ ổn định ở các năm.
Lượng lúa lai tiêu thụ ở đây là khá lớn và chủ yếu vẫn là lúa lai nhị ưu 838 và khai
phong, còn các giống khác thì chiếm tỷ lệ nhỏ.
Trong những năm hoạt động vừa qua Công ty đã không ngừng nỗ lực trong
việc thiết kế hệ thống kênh phân phối của mình, ngoài các cửa hàng, các đại lý bán
buôn bán lẻ Công ty thông qua các cán bộ bán hàng của mình để liên kết kinh doanh
với các trạm trại sản xuất của các huyện trong tỉnh, phòng nông nghiệp của các
huyện, các Công ty cung ứng vật tư nông nghiệp của các tỉnh bạn để tăng lượng lúa
giống tiêu thụ hàng năm. Qua trạm trại của huyện: đây là kênh phân phối chủ đạo
và có hiệu quả nhất của Công ty, số lượng lúa giống được tiêu thụ qua kênh này là

6



lớn nhất chiếm khoảng 61,36%, tương đương với 926,464 tấn trong tổng lượng lúa
tiêu thụ toàn Công ty và tương đối ổn định qua các năm. Khúc thị trường của công
ty được chia làm: khúc thị trường gần trung tâm thành phố và trục đường chính
QL1A là những huyện thuận lợi cho việc giao thông buôn bán, kinh doanh, hoạt
động dịch vụ; khúc thị trường xa trung tâm thành phố và trục đường chính QL1A là
những huyện miền núi xa xôi khó khăn cho việc đi lại, vận chuyển tốn kém chi phí.
Nhìn chung theo đánh giá của khách hàng thì sản phẩm của công ty được đánh giá
là chất lượng tốt, giá bán lúa thuần của công ty được khách hàng đánh giá là rẻ, còn
lúa lai là đắt, mẫu mã đẹp, và chất lượng phục vụ tốt.
Từ những thực trạng trên, định hướng của Công ty là: Cung ứng các giống
mới có năng suất cao, chất lượng tốt, giá thành phù hợp với bà con nông dân trên
địa bàn, ngoài địa bàn Nghệ An; tăng cường sản xuất các loại giống trong nước, chủ
động được giống phục vụ cho sản xuất, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Đồng thời ứng dụng tốt các tiến bộ KHKT vào sản xuất giống; kết hợp chặt chẽ hơn
nữa với các đơn vị liên kết sản xuất, để sản xuất những giống mới, chủng loại cần
phong phú đa dạng hơn nữa; nghiên cứu tỉ mỉ nhu cầu, thị hiếu cũng như các biến
động của thị trường, để từ đó có biện pháp mở rộng và chiếm lĩnh thị trường.
Từ các kết quả trên chúng tôi rút ra kết luận: Thị trường cung cấp đầu vào
của Công ty khá đa dạng, Công ty lấy nguồn cung ứng từ các viện, từ trạm sản xuất,
từ các Công ty GCT các tỉnh…Còn thị trường đầu ra của Công ty chủ yếu là thị
trường trong tỉnh, thị phần Công ty tiêu thụ ngoài tỉnh còn hạn chế cần mở rộng
phát triển thêm. Chủng loại giống của Công ty phong phú: Các dòng lai, giống KD,
các giống nếp, Xi, tám thơm, bắc thơm… Công ty không ngừng quan tâm đến cải
tiến mẫu mã, bao bì, khuyến mãi, quảng cáo…để góp phần làm tăng doanh thu, lợi
nhuận cho Công ty. Ngoài ra trong hoạt động sản xuất kinh doanh công ty đã phân
thị trường thành những khúc, những đoạn riêng biệt nhằm có những biện pháp,
chính sách cụ thể đối với những khúc thị trường đó

7



PHẦN I
MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây khi nền kinh tế nước ta chuyển sang kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước, các DN được coi là những đơn vị kinh tế tự chủ từ khâu sản xuất
đến khâu tiêu thụ sản phẩm. Ba vấn đề chính là: sản xuất cái gì? Sản xuất như
thế nào? Sản xuất cho ai? Hiện được các DN quan tâm để đạt được hiệu quả
cao nhất trên cơ sở nguồn lực sẵn có của mình. Đó chính là cả một quá trình
mà các DN cần nghiên cứu để đưa ra những sản phẩm, hàng hóa phù hợp với
nhu cầu của thị trường, để thúc đẩy quá trình sản xuất của xã hội nói chung và
của DN nói riêng.
Nông nghiệp là lĩnh vực thế mạnh và cũng chịu nhiều áp lực nhất, đặc
biệt là sức cạnh tranh của nông sản Việt Nam nói chung còn kém, từ những
hạn chế trong năng lực sản xuất, tiêu thụ đến uy tín của những mặt hàng nông
sản trên thị trường quốc tế.
Cùng với ngành chăn nuôi, ngành trồng trọt của nước ta cũng không
ngừng phát triển và đạt được nhiều thành quả đáng kể. Trong ngành trồng
trọt, lúa là cây lương thực chủ yếu trong cơ cấu sản xuất của ngành, riêng sản
xuất lúa thì yếu tố giống không những đóng vai trò tiền đề mà còn làm tăng
phẩm chất và giá trị sản phẩm. Với sự phát triển của khoa học kỹ thuật ngày
nay, các giống lúa mới có năng suất và phẩm chất tốt đã dần thay thế các
giống cũ có hiệu quả sản xuất kém.
Trong cơ chế thị trường, việc giữ vững và mở rộng thị trường tiêu thụ
sản phẩm luôn là yếu tố then chốt trong hoạt động sản xuất kinh doanh của
các doanh nghiệp, vì việc mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm quyết định
hiệu quả sản xuất kinh doanh, quyết định hướng đầu tư kinh doanh thế nào
cho có hiệu quả và có ý nghĩa chiến lược sản phẩm thích hợp với thị trường.

8


Đối với người nông dân, sự mở rộng thị trường của doanh nghiệp kinh doanh
lúa giống sẽ có lợi cho họ được mở rộng sự lựa chọn, giúp họ tìm cho mình
cây giống hợp lý góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế. Còn về phía doanh
nghiệp, việc giữ vững và mở rộng thị trường tiêu thụ sẽ giúp doanh nghiệp
mở rộng sản xuất, nâng cao vị thế và tạo uy tín có chỗ đứng trên thị trường, vì
vậy nhiệm vụ quan trọng của các DN là nắm bắt được các nhu cầu về thị
trường từ đó có định hướng cho sản xuất của DN mình, sản xuất sản phẩm mà
thị trường cần phù hợp với nhu cầu thị trường trong từng khoảng thời gian,
không gian nhất định.
Công ty cổ phần giống cây trồng Nghệ An chủ yếu cung cấp giống cho
người dân trên địa bàn tỉnh, hiện nay mở rộng thị trường và tiêu thụ lúa giống
đang là mục tiêu trước mắt và lâu dài của Công ty.
Xuất phát từ những vấn đề đó, và tình hình thị trường tiêu thụ lúa giống
cạnh tranh gay gắt giữa các đối thủ cạnh tranh. Tôi tiến hành nghiên cứu đề
tài: “Nghiên cứu tình hình tiêu thụ lúa giống của Công ty cổ phần giống
cây trồng Nghệ An”.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
1.2.1 Mục tiêu chung
Trên cơ sở đánh giá đúng thực trạng tình hình tiêu thụ lúa giống của
Công ty, từ đó đưa ra định hướng và giải pháp nhằm đẩy mạnh tiêu thụ lúa
giống của Công ty.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận và thực tiễn về tiêu thụ và thị
trường lúa giống.
- Đánh giá đúng thực trạng tình hình tiêu thụ lúa giống của Công ty.
- Định hướng và giải pháp phù hợp nhằm đẩy mạnh tiêu thụ lúa giống
của Công ty.


9


1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu
- Về nội dung đề tài nghiên cứu: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về
tiêu thụ và thị trường tiêu thụ lúa giống.
- Về đối tượng khảo sát, đề tài hướng vào:
+ Công ty cổ phần giống cây trồng Nghệ An.
+ Những đối tượng tham gia vào quá trình tiêu thụ sản phẩm của
Công ty: Các đại lý, cửa hàng, người bán buôn, bán lẻ, hộ nông dân...
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về không gian: Tại các phòng ban, tập trung nghiên cứu
tình hình tiêu thụ lúa giống của Công ty cổ phần giống cây trồng Nghệ An.
- Phạm vi về nội dung: Nghiên cứu công tác tiêu thụ và thị trường tiêu
thụ lúa giống của Công ty.
- Phạm vi về thời gian: Nội dung của đề tài được nghiên cứu qua 3
năm 2007 - 2009, và định hướng, giải pháp cho năm 2010.
Thời gian thực tập từ ngày 24/1/2010 đến 23/5/2010.

10


PHẦN II
TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
2.1 Một số lý luận cơ bản về tiêu thụ sản phẩm
2.1.1 Một số khái niệm
- Sản phẩm lúa giống
Hiện nay, chưa có một định nghĩa cụ thể nào về lúa giống. Qua thực tế

cho thấy: Lúa giống là một loại sản phẩm nông nghiệp, do các doanh nghiệp,
các viện nghiên cứu giống lúa, hộ nông dân sản xuất ra nhưng đồng thời lại là
tư liệu sản xuất đối với nông hộ.
Sản phẩm lúa giống khác với sản phẩm lúa thịt (hay lúa thương phẩm
dùng để ăn, chăn nuôi) vì nó phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên của khu vực,
vùng, thậm chí là tiểu vùng. Ngoài ra, trong quá trình sản xuất thì kỹ thuật,
quy trình sản xuất, phải tuân thủ tuyệt đối.
- Khái niệm về tiêu thụ sản phẩm
Theo nghĩa rộng: Tiêu thụ sản phẩm là một quá trình kinh tế bao gồm
nhiều khâu có mối quan hệ chặt chẽ với nhau như: Nghiên cứu thị trường, xác
định nhu cầu khách hàng, đặt hàng và tổ chức sản xuất thực hiện các nghiệp
vụ tiêu thụ, xúc tiến bán hàng…nhằm mục đích đạt hiệu quả kinh tế cao nhất.
Theo nghĩa hẹp: Tiêu thụ (bán hàng) là việc chuyển dịch quyền sở hữu
sản phẩm, hàng hóa, lao vụ, dịch vụ đã thực hiện cho khách hàng, đồng thời
thu được tiền hàng hóa hoặc được quyền thu tiền.
Tiêu thụ sản phẩm là quá trình thực hiện giá trị sử dụng của hàng hóa,
thông qua tiêu thụ hàng hóa được chuyển từ hình thái hiện vật sang hình thái
giá trị (tiền tệ) và vòng chu chuyển vốn của doanh nghiệp được hoàn thành.
Tiêu thụ sản phẩm đơn giản được cấu thành từ người bán người mua
hàng hóa, tiền tệ, khả năng thanh toán, sự sẵn sàng mua và bán…nhằm tối đa
hóa lợi nhuận mỗi bên.
- Thị trường tiêu thụ sản phẩm
11


+ Thị trường
Thị trường là một phạm trù kinh tế của sản xuất hàng hoá. Thị trường
xuất hiện cùng với sự ra đời của sản xuất hàng hoá, khi sản xuất hàng hoá
càng phát triển thì thị trường ngày càng phong phú, đa dạng và mở rộng hơn.
Đây là một phạm trù kinh tế phức tạp, do vậy có nhiều cách diễn đạt:

* Theo thuy t giá tr kinh t h c: Th tr n g là n i ng i bán và ng i
mua g p nhau thoã mãn nhu c u c a mình b ng vi c trao i hàng hoá, dch
v.
* Theo góc độ địa lý: Thị trường là vị trí địa lý kinh tế mà qua đó cung
cầu được gặp nhau và thoã mãn.
* Theo quan điểm của Marketting: Thị trường là tập hợp khách hàng
hiện tại và tiềm năng của DN, những người có mong muốn và có khả năng
mua sản phẩm của DN.
Cho dù diễn đạt theo cách nào chăng nữa cũng không tách khỏi quan
điểm cốt lõi là: Thị trường bao gồm toàn bộ sự trao đổi hàng hoá, dịch vụ,
được diễn ra trong một thời điểm và một không gian nhất định. Lúc đầu thị
trường mang tính chất địa phương, khi sản xuất phát triển thì thị trường ngày
càng mở rộng trong phạm vi vùng, miền, quốc tế. Từ đó cho thấy thị trường là
nơi kết hợp chặt chẽ giữa sản xuất và tiêu thụ và nghiên cứu thị trường chủ
yếu là nghiên cứu khách hàng của DN.
+ Thị trường lúa giống
Thị trường sản phẩm nông sản nói chung và thị trường lúa giống nói
riêng rất đa dạng và phức tạp, song thị trường lúa giống có quá trình trao đổi
khác biệt. Sản phẩm sau khi trao đổi sẽ là yếu tố đầu vào của quá trình sản
xuất tiếp theo, kết quả và hiệu quả của vụ sản xuất tiếp theo thường là sẽ
quyết định sự tồn tại của sản phẩm lúa giống ấy trong thời gian, vụ sản xuất
tiếp theo.
+ Phân biệt tiêu thụ lúa giống với lúa thương phẩm

12


Sản phẩm lúa giống và lúa thương phẩm có sự khác nhau trong mục
đích sử dụng: Lúa giống, dùng cho sản xuất, đó là vật tư, đầu vào của sản xuất
nông nghiệp; lúa thương phẩm, dùng cho tiêu dùng (là nguồn lương thực cung

cấp cho con người và làm thức ăn cho vật nuôi).
Do bản chất khác nhau nên thị trường tiêu thụ của hai loại sản phẩm
(lúa giống và lúa thương phẩm) cũng có những đặc điểm riêng:
+ Thị trường tiêu thụ lúa thương phẩm thường có quãng thời gian tập
trung chủ yếu vào thời điểm thu hoạch lúa mùa và lúa chiêm.
+ Thị trường tiêu thụ lúa giống có quãng thời gian tập trung chủ yếu
vào thời điểm trước khi bắt đầu sản xuất vụ mùa và vụ chiêm xuân.
2.1.2 Vai trò của tiêu thụ sản phẩm
* Đối với doanh nghiệp
Đối với các doanh nghiệp tiêu thụ hàng hóa đóng vai trò quan trọng
quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Bởi vì nhờ tiêu thụ được
sản phẩm hàng hóa hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mới diễn
ra thường xuyên liên tục, tiêu thụ sản phẩm hàng hóa giúp doanh nghiệp bù
đắp được những chi phí, có lợi nhuận đảm bảo cho quá trình tái sản xuất và
tái sản xuất mở rộng.
Tiêu thụ sản phẩm hàng hóa là điều kiện để thực hiện các mục tiêu của
doanh nghiệp, đặc biệt tập trung vào mục tiêu giảm chi phí và tăng lợi nhuận.
Bởi khối lượng hàng hóa tiêu thụ tăng lên thì chi phí bình quân của một đơn
vị sản phẩm giảm từ đó làm tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Tiêu thụ hàng hóa làm tăng uy tín của doanh nghiệp cũng như làm tăng
thị phần của doanh nghiệp trên thị trường. Bởi vì khi sản phẩm của doanh
nghiệp được tiêu thụ, tức là nó đã được người tiêu dùng chấp nhận để thỏa
mãn một nhu cầu nào đó. Sức tiêu thụ hàng hóa của doanh nghiệp thể hiện
mức bán ra, sự thích ứng với nhu cầu người tiêu dùng và khối lượng hàng hóa
tiêu thụ càng tăng thì thị phần của doanh nghiệp càng cao.

13


Thông qua tiêu thụ hàng hóa, các doanh nghiệp sẽ xây dựng được các

kế hoạch kinh doanh phù hợp, đạt hiệu quả cao do họ dự đoán được nhu cầu
của xã hội trong thời gian tới.
* Đối với xã hội
Về phương diện xã hội thì tiêu thụ sản phẩm hàng hóa có vai trò trong
việc cân đối giữa cung và cầu, vì nền kinh tế là một thể thống nhất với những
cân bằng, những tương quan tỷ lệ nhất định. Sản phẩm hàng hóa được tiêu thụ
tạo điều kiện cho hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra bình thường trôi chảy
tránh được sự mất cân đối, giữ được bình ổn trong xã hội.
2.1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến tiêu thụ sản phẩm
2.1.3.1 Nhân tố thị trường
Thị trường là nơi trực tiếp diễn ra hoạt động mua bán, trao đổi hàng hóa
với người tiêu dùng. Dựa vào quan hệ cung cầu thu nhập cũng như thị hiếu
của người tiêu dùng mà doanh nghiệp có hoạt động tạo nguồn sản phẩm và
thực hiện hoạt động bán hàng đến tay người tiêu dùng nhằm thỏa mãn độ thỏa
dụng của họ.
- Nghiên cứu thị trường
Nghiên cứu mối quan hệ cung cầu, giá cả sản phẩm hàng hóa trong
một không gian, thời gian nhất định. Thị trường tiêu thụ là nhân tố tác động
mạnh đến sản xuất của các doanh nghiệp bởi các quy luật cạnh tranh, quy luật
cung cầu. Thị trường là đối tượng sản xuất đồng thời cũng là điều tiết sản
xuất.
*Cung cầu lúa giống:
Thị trường giống cây trồng nói chung và thị trường lúa giống nói riêng
có rất nhiều người bán và người mua. Cho nên sản xuất và tiêu thụ mang
nhiều tính chất về cạnh tranh, chất lượng, giá cả. Khả năng tiêu thụ phụ thuộc
chủ yếu vào chủng loại sản phẩm lúa giống, chất lượng giống và uy tín người
sản xuất, kinh doanh.

14



Lúa giống có thể sản xuất ở nhiều địa điểm khác nhau với quy mô chất
lượng khác nhau. Chất lượng cao thường thấy ở các vùng có truyền thống và
kỹ thuật sản xuất giống cao: Các trường, viện nghiên cứu, các vựa lúa lớn.
Thị trường lúa giống thường sôi động vào hai vụ: Vụ chiêm (vào cuối
tháng 2), Vụ mùa (cuối tháng 5 đến đầu tháng 6), đây là thời điểm theo lịch
thời vụ phải tiến hành sản xuất đúng, kịp thời gian. Do đó, khách hàng có nhu
cầu lớn và tập trung với thời gian này.
Nếu địa bàn tiêu thụ của Công ty rộng (trên phạm vi các miền của cả
nước) thì thời gian cung ứng sản phẩm sẽ kéo dài hơn do ở các miền có lịch
thời vụ sản xuất khác nhau. Còn nếu sản phẩm chỉ bó hẹp trên thị trường là
vùng miền nào đó thì thời gian tiêu thụ (cung sản phẩm) sẽ rất ngắn, thường
chỉ kéo dài không quá một tháng.
- Kênh tiêu thụ
Có nhiều khái niệm khác nhau đang tồn tại về kênh tiêu thụ sản phẩm.
Đôi khi kênh tiêu thụ sản phẩm được coi là con đường của sản phẩm từ người
sản xuất tới người tiêu dùng (người tiêu dùng cuối cùng). Một số người lại coi
nó như một dãy quyền sở hữu các hàng hoá khi chúng chuyển qua các tổ chức
khác nhau. Một số người miêu tả kênh tiêu thụ sản phẩm như là một hình thức
liên kết lỏng lẻo của Công ty để cùng thực hiện một mục đích thương mại.
Kênh tiêu thụ, thực chất là một tập hợp các tổ chức, cá nhân độc lập và
phụ thuộc lẫn nhau mà qua đó doanh nghiệp sản xuất thực hiện bán sản phẩm
cho người tiêu dùng cuối cùng. Nói cách khác kênh tiêu thụ là hệ thống các
mối quan hệ của một nhóm các tổ chức và cá nhân tham gia vào quá trình
phân phối hàng hoá từ người sản xuất đến người tiêu dùng cuối cùng. Kênh
tiêu thụ là hệ thống các mối quan hệ tồn tại giữa các tổ chức có liên quan
trong quá trình mua và bán. Kênh tiêu thụ là đối tượng tổ chức, quản lý như
một đối tượng nghiên cứu để hoạch định các chính sách quản lý kinh tế vĩ mô.
Các kênh tiêu thụ tạo nên hệ thống thương mại phức tạp trên thị trường.


15


Qua những định nghĩa trên ta có thể xác định bản chất kinh tế của kênh
tiêu thụ như sau: đối với sản phẩm lúa giống, kênh tiêu thụ lúa giống được
xem là đường đi của sản phẩm lúa giống từ khi được sản xuất ra và đem bán
từ người sản xuất, qua hoạt động của các tác nhân tham gia phân phối như
người bán buôn, người bán lẻ, các đại lý cửa hàng lúa giống,…để đến người
tiêu dùng cuối cùng là người nông dân có nhu cầu lúa giống để sản xuất.
Kênh tiêu thụ là hình thức vận động của hàng hóa từ các nhà sản xuất
đến người tiêu dùng. Các thành viên của kênh tiêu thụ thực hiện nhiệm vụ
quan trọng:
+ Nghiên cứu thu thập thông tin cần thiết để lập kế hoạch và tạo lợi
nhuận cho việc thúc đẩy tiêu thụ.
+ Kích thích tiêu thụ, cung cấp và chuyển đưa những thông tin về hàng
hóa.
+ Thiết lập các mối quan hệ, tạo dựng và duy trì mối quan hệ với những
người mua tiềm năng.
+ Hoàn thiện hàng hóa làm cho hàng hóa đáp ứng được mọi nhu cầu
của người mua.
+ Tiến hành thương lượng, thỏa thuận về giá cả và những điều kiện
khác để thực hiện việc chuyển giao quyền sở hữu hay quyền sử dụng hàng
hóa.
+ Đảm bảo kinh phí, tìm kiếm và sử dụng nguồn vốn để bù đắp các
hoạt động của kênh tiêu thụ.
+ Chấp nhận rủi ro, gánh chịu trách nhiệm của kênh.
Việc xác định kênh tiêu thụ nào là chủ yếu sẽ giúp cho doanh nghiệp
cung ứng sản phẩm của mình tới tận tay người tiêu dùng tốt hơn. Việc tổ chức
cho dòng hàng hóa dịch vụ chuyển tới tay người tiêu dùng có hai hình thức
chủ yếu là:


16


* Kênh tiêu thụ trực tiếp: Hàng hoá dịch từ tay người sản xuất được
đưa trực tiếp tới tận tay người tiêu dùng cuối cùng mà không phải thông qua
bất cứ một trung gian nào.
Ưu điểm của kênh: Đẩy nhanh tốc độ luân chuyển hàng hóa, đảm bảo
mối quan hệ chặt chẽ giữa DN với người tiêu dùng.
Nhược điểm của kênh: DN khó có thể chuyên môn hóa vào sản xuất, tổ
chức quản lý phức tạp, chưa phát huy được sự phân công lao động xã hội.
* Kênh tiêu thụ gián tiếp: Hàng hoá dịch vụ từ người sản xuất tới hộ
nông dân thông qua một số thành phần trung gian.
Ưu điểm: Phát triển một mạng lưới tiêu thụ rộng rãi đạt hiệu quả cao
trong việc tiêu thụ, đặc biệt có thể mở rộng thị trường tới các tỉnh thành khác,
tận dụng được nguồn lực của các trung gian, tiết kiệm được thời gian và chi
phí giao dịch do một phần công việc được tiến hành bởi các trung gian.
Nhược điểm: Do số lượng các thành viên nhiều nên khó kiểm soát nhất
là kiểm soát giá bán sản phẩm. Trên thực tế Công ty chỉ mới kiểm soát được
các đại lý và chi nhánh họ phải bán hàng theo giá quy định của Công ty còn
các trung gian khác Công ty không kiểm soát được, ngoài ra Công ty có thể
gặp phải rủi ro hàng hóa tồn kho ở chỗ của các đại lý, mối quan hệ giữa các
thành viên tham gia kênh lỏng lẻo, mức độ hợp tác giữa các thành viên với
nhau kém.
Tuỳ thuộc số lượng thành phần trung gian trong mạng lưới tiêu thụ mà
ta có kênh gián tiếp dài hay ngắn. Trên thực tế có thể có những kênh tiêu thụ
sau:

17



Doanh nghiệp, người sản xuất

(1
)

(3
)

(2
)

(4
)
Chi Nhánh

Đại lí

Cửa hàng bán lẻ

Cửa hàng bán lẻ

Đại lí

Cửa hàng bán lẻ

Người tiêu dùng cuối cùng, hộ nông dân

Sơ đồ 1: Các loại kênh phân phối
Kênh (1) là kênh tiêu thụ trực tiếp, các kênh (2), (3), (4) là các kênh

tiêu thụ gián tiếp với các thành phần trung gian khác nhau.
Th tr n g càng phát tri n thì h th ng các kênh tiêu th càng m r ng
mà nguyên t c là càng ít ng i tham gia vào hệ th ng tiêu th (ít khâu trung
gian) thì ng i tiêu dùng (h nông dân) càng có l i, doanh nghi p càng có i u
ki n th t ch t m i quan h v i b n hàng và ng c l i. Th c ch t khi ti n hành
xác nh h th ng kênh tiêu th thì doanh nghi p ã xác nh th tr n g tiêu th
và b n hàng c a mình.
Doanh nghiệp, người sản xuất: Là những người tham gia tạo ra sản
phẩm. Là nhân tố đầu tiên bắt đầu của kênh tiêu thụ sản phẩm. Từ đầu mối
này qua các kênh tiêu thụ sản phẩm được đưa đi đến các vùng, các khu vực có
nhu cầu. Đối với sản phẩm lúa giống thì doanh nghiệp, người sản xuất chính
là nơi tạo ra giống, từ đây qua hệ thống kênh tiêu thụ lúa giống được đưa đến
những hộ nông dân có nhu cầu.

18


Các chi nhánh: Đây là một nhân tố nằm trong kênh tiêu thụ gián tiếp,
chính là đầu mối đầu tiên để đưa sản phẩm tới người tiêu dùng của kênh tiêu
thụ. Đối với sản phẩm lúa giống thì chi nhánh là các Công ty, xí nghiệp giống
cây trồng của tỉnh, huyện.
Đại lý: Đây là các chỗ để doanh nghiệp, người sản xuất gửi hàng để
bán với số lượng lớn, từ các đại lý sản phẩm lúa giống được đưa đến các cửa
hàng bán lẻ và tới hộ nông dân.
Điểm bán lẻ: Tại đây sản phẩm lúa giống sẽ được bán trực tiếp cho các
hộ nông dân có nhu cầu lúa giống.
Người tiêu dùng cuối cùng, hộ nông dân: Là những người sản xuất có
nhu cầu giống để sản xuất.
2.1.3.2 Số lượng và chất lượng sản phẩm sản xuất của doanh nghiệp
Đối với lúa giống thì chất lượng giống phản ánh giá trị sản phẩm đó tốt

hay xấu chính vì vậy nó là yếu tố có ảnh hưởng rất lớn đến uy tín của cơ sở
sản xuất và cung ứng, nếu chất lượng tốt thì sẽ làm tăng uy tín trong khâu tiêu
thụ cây giống của cơ sở sản xuất và cung ứng, còn nếu chất lượng giống
không tốt, không đảm bảo chất lượng thì sẽ làm cho uy tín của cơ sở giảm sút
trong thị trường tiêu thụ, đây là một trong những yếu tố giúp DN dữ chân
khách hàng quen của DN, cũng thông qua khách hàng sẽ quảng cáo cho sản
phẩm của DN đó làm tăng lượng tiêu thụ sản phẩm của DN.
Lúa là loại nông sản mang tính mùa vụ rõ rệt chính vì vậy trong quá
trình sản xuất mang tính chất thời vụ, lượng lúa giống cung ứng kịp thời để
sản xuất đúng thời vụ đóng một vai trò quan trọng, nhất là khi thời tiết khó
khăn.
Do đó số lượng và chất lượng lúa giống là những nhân tố ảnh hưởng
đến thị phần, thị trường tiêu thụ của đơn vị sản xuất kinh doanh.
2.1.3.3 Giá cả sản phẩm lúa giống
Giá cả có tầm quan trọng đặc biệt trong sản xuất kinh doanh và tiêu thụ
sản phẩm của DN. Nó ảnh hưởng tới quá trình tái sản xuất nó là khâu cuối
19


cùng thể hiện kết quả của các khâu khác. Mặc dù trên thị trường hiện nay việc
cạnh tranh giá đã được chuyển sang cạnh tranh chất lượng. Nhưng nhiều lúc,
nhiều nơi việc cạnh tranh về giá vẫn diễn ra gay gắt. Giá cả là lĩnh vực thể
hiện sự tranh giành lợi thế kinh tế và vị trí độc quyền của DN.
Giá cả sản phẩm cao hay thấp không những ảnh hưởng trực tiếp tới số
lượng tiêu thụ sản phẩm và lợi nhuận của DN mà còn quan hệ tới việc định ra
chiến lược tiêu thụ sản phẩm của DN trong việc đứng vững trên thị trường
đầy cạnh tranh. Việc định giá như thế nào để có thể bảo đảm được lợi nhuận
đem lại, vừa có sức mạnh cạnh tranh với sản phẩm tương tự ở thị trường là rất
khó khăn và cần thiết. Khi mà giá lúa giống quá cao thì việc tiêu thụ lúa giống
gặp khó khăn do nhu cầu của thị trường giảm xuống, khi mà giá quá thấp

không đủ bù cho chi phí sản xuất, kinh doanh thì các cơ sở sẽ giảm số lượng
giống được tiêu thụ xuống. Do đó việc định giá bán cho sản phẩm lúa giống
cho các cơ sở sản xuất và kinh doanh là hết sức quan trọng trong việc nâng
cao thị phần, mở rộng địa bàn tiêu thụ lúa giống.
• Sự hình thành giá cả trên thị trường:
Sự hình thành giá cả của một mặt hàng trên thị trường là do sự tác động
tương hỗ qua lại giữa cung và cầu trên thị trường quyết định, đường cung
phản ánh ứng xử của người mua và đường cầu phản ánh ứng xử của người
bán. Giao điểm của đường cung và đường cầu phản ánh sự kết hợp thoả thuận
giữa người mua và người bán hình thành nên giá thị trường và tại đó hình
thành nên giá cân bằng thị trường (mức giá mà tại đó lượng cung bằng lượng
cầu), tại mức giá này người mua sẵn sàng mua và người bán sẵn sàng bán một
lượng, trong trường hợp cung hay cầu có sự thay đổi thì sự cân bằng giá trên
thị trường bị phá vỡ và sự vận động cung - cầu lại hình thành nên mức giá cân
bằng mới có thể cao hay thấp hơn mức giá ban đầu. Các đơn vị sản xuất kinh
doanh phải nắm vững điều này bởi hiện nay trên thị trường người mua vẫn là
người chấp nhận giá do nhà sản xuất đưa ra, do đó, cần có được một mức giá

20


hợp lý để bảo đảm lợi nhuận cho doanh nghiệp và để người mua chấp nhận
được khi mua sản phẩm.
2.1.3.4 Số lượng đối thủ cạnh tranh
Kinh doanh trên thị trường là sự cạnh tranh khốc liệt giữa các doanh
nghiệp với nhau. Tốc độ tiêu thụ hàng hóa một phần phụ thuộc vào quy mô,
số lượng đối thủ cạnh tranh. Nhân tố này có ảnh hưởng trực tiếp tới tốc độ
tiêu thụ sản phẩm hàng hóa của doanh nghiệp. Ngoài ra tốc độ tiêu thụ còn
phụ thuộc rất lớn vào tỷ lệ thị phần của doanh nghiệp trên thị trường.
2.1.3.5 Thị hiếu của người tiêu dùng

Sản phẩm sản xuất ra phải phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng, có
như vậy mới thỏa mãn được nhu cầu của khách hàng mới mong tăng tốc độ
tiêu thụ. Đây cũng là nhân tố ảnh hưởng không nhỏ tới lượng cầu trên thị
trường. Người tiêu dùng sẽ mua nhiều hơn nếu hàng hóa hợp với thị hiếu và
thiết yếu đối với họ.
2.1.3.6 Nhóm yếu tố quản lý vi mô và quản lý vĩ mô
Các yếu tố thuộc quản lý vĩ mô là các chủ trương chính sách, biện pháp
của nhà nước và các cấp lãnh đạo đối với thị trường, thể hiện sự điều tiết đối
với những biến động của thị trường. Tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng
nước, từng thị trường, từng thời kỳ mà các chủ trương, chính sách và biện
pháp của Nhà nước tác động vào thị trường sẽ khác nhau. Những chính sách
như: Thuế, trợ giá, quỹ bình ổn giá…và hiện nay riêng với ngành giống cây
trồng còn có luật bảo hộ giống cây trồng.
Những yếu tố thuộc quản lý vi mô là những chiến lược, chính sách và
biện pháp các cơ sở kinh doanh sử dụng trong kinh doanh. Những yếu tố này
rất phong phú và tuỳ thuộc vào từng doanh nghiệp, từng kỳ phát triển của
doanh nghiệp và mục tiêu của doanh nghiệp… Nó ảnh hưởng trực tiếp đến
hoạt động của các doanh nghiệp, do đó ảnh hưởng đến thị trường.

21


2.1.3.7 Hoạt động xúc tiến tiêu thụ
Là thông qua phương thức nhân viên hoặc các khách hàng không phải
là nhân viên, mà truyền đạt các loại thông tin tới thị trường nhằm mục đích
khai thác, đẩy mạnh hoặc sáng tạo đối với sản phẩm hoặc yêu cầu phục vụ
của doanh nghiệp. Xúc tiến tiêu thụ bao gồm: truyền đạt thông tin, quan hệ
công chúng xây dựng ấn tượng, kích thích nhu cầu xúc tiến mua bán, mở rộng
chức năng và tác dụng mua bán. Đối với thị trường tiêu thụ của doanh nghiệp,
nó có ý nghĩa rất quan trọng. Xúc tiến tiêu thụ bao gồm các loại hình là:

Tuyên truyền quảng cáo, quảng bá doanh nghiệp, sự mời hàng của nhân viên
và quan hệ cộng đồng, các hình thức khuyến mãi, trợ giá, trợ cước… Bất luận
vận dụng cách thức như thế nào phải lấy việc nắm vững thông tin thị trường
làm điều kiện. Và điều tra nghiên cứu có thể cung cấp các loại thông tin để
triển khai có hiệu quả hoạt động xúc tiến tiêu thụ của doanh nghiệp.
Sự cạnh tranh trên thị trường ngày càng diễn ra khốc liệt, mạnh mẽ,
việc tăng cường phương tiện xúc tiến tiêu thụ trở thành một trong những
phương pháp cạnh tranh. Nội dung xúc tiến và tiêu thụ chủ yếu là: Các loại
hình thức, chủng loại, cụ thể và xúc tiến bán trên thị trường, phân tích giá
thành, xu thế của xúc tiến tiêu thụ, phương thức mở rộng tiêu thụ, đặc điểm,
yêu cầu của thị trường khác nhau và phản ứng của cửa hàng bán buôn trung
gian, người tiêu dùng đối với nó, phương thức quảng cáo và hiệu quả quảng
cáo, các quy định về pháp luật có liên quan đến xúc tiến tiêu thụ.
2.2 Cơ sở thực tiễn
2.2.1 Tình hình tiêu thụ lúa giống của một số nước trên thế giới
Xu thế chung của các nước trồng lúa trên thế giới đều có một chiến
lược sử dụng giống mới vừa có năng suất cao, kháng sâu bệnh đồng thời giải
quyết vấn đề dinh dưỡng cho những người sử dụng lúa gạo là nguồn dinh
dưỡng chính thức hàng ngày. Để đạt được những thành tựu như vậy là có sự
đóng góp không nhỏ của hoạt động nghiên cứu và sự phát triển của thị trường
lúa giống.
22


- Đối với Trung Quốc
Thị trường lúa giống của Trung Quốc có tốc độ phát triển rất nhanh
trong một số năm gần đây do họ đã lai tạo thành công nhiều giống lúa mới có
năng suất cao, phẩm chất và khả năng kháng bệnh khá và được thì trường ưa
chuộng. Đây được coi là thành tựu đáng kể của Trung Quốc, trong những năm
qua thị trường lúa giống của nước này phát triển rất nhanh, mạnh. Đặc biệt là

các giống lúa lai cuả Trung Quốc xuất bán sang thị trường lúa giống Việt
Nam, các nước trong khu vực. Sắp tới, một số doanh nghiệp Trung Quốc còn
có phương hướng liên kết với các chi nhánh tại Việt Nam để sản xuất lúa
giống lai F1 tại Việt Nam để nhằm hạ giá thành sản phẩm lúa giống và
nhường quỹ đất trong nước cho sản xuất lương thực.
Nhà nước Trung Quốc đang có nhiều chính sách hướng về nông
nghiệp, nông thôn. Về lĩnh vực giống lúa, từ nay đến năm 2015 Trung Quốc
đầu tư 75 triệu nhân dân tệ cho một số Viện và cơ quan nghiên cứu tìm ra
được giống lúa kháng được mọi loại sâu bệnh để giảm nhẹ sức lực cho nông
dân, giảm chi phí sản xuất. “Còn gọi là giống lúa bảo vệ môi trường” vì
không phải dùng thuốc trừ sâu.
- Đối với Thái Lan
Thái Lan là một nước đứng đầu về xuất khẩu lúa gạo trên thế giới, từ
nhiều năm trước. Để có được thành công đó phải kể đến phần đóng góp
không nhỏ của hoạt động cung ứng vật tư, giống lúa…phục vụ cho sản xuất
nông nghiệp. Mạng lưới dịch vụ hỗ trợ sản xuất nông nghiệp của Thái Lan
được tổ chức thành các tập đoàn lớn và mang tính chất thương mại hoá cao.
Hoạt động này chủ yếu thông qua các dịch vụ tư nhân có khả năng cung ứng
nhanh. Song song với việc tìm kiếm và mở rộng thị trường xuất khẩu, Thái
Lan còn khuyến khích tiêu thụ trong nước bằng việc tổ chức các hội chợ triển
lãm hàng hoá - sản phẩm nông nghiệp, rồi các chính sách hỗ trợ như việc cho
vay vốn với lãi suất ưu đãi.

23


- Đối với Mỹ
Mỹ là nước có trình độ sinh học phát triển nhất thế giới, việc sản xuất
các loại giống cây trồng được thực hiện hết sức khoa học và chặt chẽ từ trung
ương đến địa phương. Việc sản xuất và cung ứng được thực hiện bởi các cơ

quan chức năng thuộc nghành nông nghiệp, vì vậy mà sản phẩm của họ đảm
bản chất lượng và mang tính kỹ thuật cao. Ở Mỹ, cây lúa chỉ chiếm 10% diện
tích gieo trồng nhưng lại có lượng gạo sản xuất thứ ba trên thế giới.
2.2.2 Tình hình tiêu thụ lúa giống ở Việt Nam
- Thực trạng tiêu thụ lúa giống ở Việt Nam
Trong thời kỳ bao cấp thì lúa giống ở Việt Nam chủ yếu là các giống
lúa thuần được lấy từ vụ sản xuất trước để lại cho vụ sản xuất kế tiếp, chưa có
sự xuất hiện của nhiều giống lúa lai. Khi đất nước chuyển đổi sang nền kinh
tế hàng hoá nhiều thành phần, được sự quan tâm giúp đỡ của Đảng và nhà
nước thì có rất nhiều các Công ty, xí nghiệp…của nhà nước, cá nhân tham gia
sản xuất, lai tạo, chọn lọc… nhập khẩu và đưa vào sản xuất thành công nhiều
giống mới có năng suất, chất lượng cao.
Tạo giống bằng công nghệ sinh học hiện đại gồm kĩ thuật di truyền,
nuôi cấy túi phấn đang bắt đầu được áp dụng ở Việt Nam phát triển giống cây
trồng chuyển gen (GM) đang hiện có ý nghĩa thương mại rộng rãi trong áp
dụng công nghệ sinh học nông nghiệp hiện đại ở nước ta.
Những năm gần đây thì việc chuộng giống lúa lai nhập khẩu từ Trung
Quốc về làm gây khó khăn cạnh tranh cho các giống lúa thuần và lúa lai nội,
nguyên nhân phải thừa nhận giống lúa lai do các Công ty, trung tâm giống của
ta sản xuất chất lượng không bằng giống lúa cùng loại của Trung Quốc.
Nông dân tỉnh Yên Bái đa phần sử dụng Nhị Ưu 838 nhãn hiệu Tân
Tân, Lào Cai lại ưa Nhị Ưu 838 của Nam Sung, Tuyên Quang dùng Tạp Giao
I và Bắc Ưu 903, Phú Thọ quen dùng Nhị Ưu số 7, Nghệ An cấy nhiều Q.ưu
số I Trùng Khánh, Bắc Ninh, Thái Bình, Đắc Lắc lại thích Nhị Ưu 838 nhãn
hiệu Quốc Hào…sự “chuộng giống ngoại” mỗi địa phương khác nhau. Biết
24


được “thóp” đó các Công ty xuất khẩu giống Trung Quốc đều ép giá, khiến
các doanh nghiệp nhập giống của Việt Nam phải chạy theo.

- Những vấn đề phát sinh trong tiêu thụ lúa giống hiện nay
Thị trường lúa giống của Việt Nam nhất là giống lúa lai gần hai chục
năm qua luôn trong tình trạng bấp bênh, lúc thiếu lúc thừa. Đặc biệt trong
những vụ sản xuất vừa qua thì thị trường lúa giống xảy ra hiện tượng “hỗn
loạn thị trường”, hiện tượng “trăm hoa đua nở” - các xí nghiệp, cửa hàng kinh
doanh lại nâng giá bán lúa giống, nhất là dân ta lại chuộng giống ngoại.
Một thực tế cho thấy hiện nay là, đa số các giống lúa lai đang được
trồng ở Việt Nam là những giống lúa được nhập khẩu từ Trung Quốc. Hàng
năm, chúng ta vẫn phải nhập trên 80% lúa giống F1 từ Trung Quốc về sản
xuất tại Việt Nam gọi là lúa lai thương phẩm, với các tên giống lúa lai hiện
đang cho năng suất cao như Khang Dân, khai Phong, Q1, Q5… Chính điều đó
đã cho thấy sự mất tự chủ của chúng ta trong khâu giống. Theo báo cáo của
Cục Trồng trọt, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, trong số 55 giống
lúa lai 3 dòng mà Trung tâm khảo nghiệm giống cây trồng Trung Ương tiến
hành khảo nghiệm chỉ có 2 giống của Việt Nam, còn là của Trung Quốc.
*Lúa giống chất lượng cao - cung không đủ cầu
Đồng bằng sông Cửu Long hiện có nhiều doanh nghiệp, HTX và hộ sản
xuất lúa giống cá thể tham gia vào việc sản xuất giống và cung ứng ra thị
trường, tuy nhiên nông dân vẫn khó mua được giống chất lượng cao trong vụ
đông xuân 2009 - 2010.
Giám đốc trung tâm giống nông nghiệp Hậu giang, ông Trương Ngọc
Trung cho rằng do người dân đã ý thức chuyển đổi sang các giống lúa có chất
lượng cao, những giống lúa dễ tiêu thụ, nên nhu cầu lúa giống cho nông dân
hiện nay rất lớn, nhưng trung tâm không thể đáp ứng hết. Trong vụ lúa đông
xuân này, Trung tâm cung ứng ra thị trường khoảng 100 tấn giống nguyên
chủng và xác nhận, phục vụ cho gieo sạ khoảng 1.200 ha. Do thiếu diện tích

25



×