Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Thị trường nội tệ liên ngân hàng việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (747.7 KB, 23 trang )

Nhóm 2

THỊ TRƯỜNG NỘI TỆ LIÊN NGÂN HÀNG VIỆT NAM
1.

Khái quát chung về TTTT Việt Nam:

1.1.

Lịch sử hình thành:
Được hình thành từ năm 1993 dưới hình thức ban đầu là một thị trường tập trung, có tổ
chức qua NHNN. Tuy nhiên, từ năm 1997, hoạt động của thị trường diễn ra theo hình
thức các ngân hàng trực tiếp vay mượn lẫn nhau, không thực hiện thông qua NHNN.
Đến nay, phần lớn các giao dịch liên ngân hàng được thực hiện dưới các hình thức tín
chấp, bảo đảm bằng số dư tiền gửi đối ứng lại ngân hàng cho vay... Doanh số hoạt động
trên thị trường hiện nay đã tăng đáng kể, phương thức giao dịch của thị trường ngày
càng đổi mới, hầu hết các giao dịch đều thực hiện qua mạng.

1.2

Thành tựu:
Qua 17 năm thành lập thị trường liên ngân hàng đã đóng góp những thành tựu đáng
kể vào thị trường tiền tệ của nước ta:
Số lượng thành viên và doanh số hoạt động trên thị trường liên ngân hàng đã tăng đáng
kể, phương thức giao dịch của thị trường ngày càng đổi mới, hấu hết các giao dịch đều
thực hiện qua mạng, thời hạn giao dịch khá linh hoạt ( qua 1 đêm, 1 tuần, 2 tuần 1
tháng, 3 tháng, 6 tháng, 12 tháng).
Hiện nay, gần 30 NHTM đã thực hiện giao dịch vốn liên ngân hàng (gửi tiền / cho
vay và nhận tiền gửi/đi vay) thông qua hệ thống của Hãng Reuters. Hãng Reuters đã xây
dựng được trang lãi suất giao dịch bình quân trên thị trường liên ngân hàng Việt Nam
(VNIBOR) trên cơ sở chào giá hàng ngày của một số ngân hàng.


Doanh số giao dịch trên thị trường liên ngân hàng từ năm 2002 đến nay, theo đánh giá
của các chuyên gia ngân hàng thì doanh số giao dịch tăng khoảng 20% mỗi năm.Kết
quả trên đã chứng minh thị trường nội tệ liên ngân hàng thực hiện được vai trò điều tiết
vốn ngắn hạn bằng đồng Việt Nam giữa các ngân hàng, làm tăng hiệu quả sử dụng
nguồn vốn của các TCTD an toàn, hiệu quả.

1


Việc NHNN điều hành linh hoạt tỷ giá USD/VND (điều chỉnh tăng tỷ giá giao dịch
USD/VND bình quân thị trường liên ngân hàng, tăng biên độ tỷ giá giữa VND với USD
từ +3%(ngày 07/11/2008) lên +5%(ngày 24/03/2009)hoặc giảm +3%(ngày 25/11/2009)
đối với giao dịch mua bán của các NHTM); can thiệp mua bán ngoại tệ và thực hiện các
biện pháp chống đầu cơ ngoại tệ ; bán ngoại tệ hỗ trợ nhu cầu nhập khẩu các mặt hàng
thiết yếu đảm bảo ổn định sản xuất và đời sống đã góp phần điều hoà ngoại tệ trên thị
trường ngoại tệ liên ngân hàng.
1.2.

Các văn bản pháp quy:
- Chỉ thị 07/CT-NH1 ngày 7/10/1992 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cho phép
các tổ chức tín dụng được thực hiện việc cho vay và đi vay lẫn nhau
-Quyết định số 114/QĐ-NH14 ngày 21/6/1993 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về
việc ban hành "Quy chế tổ chức và hoạt động của thị trường liên ngân hàng và Nội quy
hoạt động của thị trường liên ngân hàng".
-Quyết định số 190/QĐ-NH14 ngày 6/10/1993 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về
việc bổ sung, sửa đổi một số điều của Quy chế và nội quy hoạt động của thị trường liên
ngân hàng
-Chỉ thị số 07/CT-NH ngày 7/10/1992 của Ngân hàng Nhà nước về quan hệ tín dụng
giữa các tổ chức tín dụng
-Quyết định số 130/QĐ-NH1 ngày 7/7/1993 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về lãi

suất cho vay trên thị trường liên ngân hàng
-Quyết định số 132/QĐ-NH14 ngày 10/7/1993 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về
việc thành lập thị trường liên ngân hàng
-Quyết định số 134/QĐ-NH14 ngày 14/7/1993 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về
việc công nhận thành viên thị trường liên ngân hàng
-Quyết định số 136/QĐ-NH2 ngày 20/7/1993 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về
mức đóng góp kinh phí tham gia thị trường liên ngân hàng
-Quyết định số 189/QĐ-NH14 ngày 6/10/1993 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về
việc ban hành Quy chế bảo lãnh vay vốn trên thị trường liên ngân hàng
Các quyết định trên được thay thế bởi Quyết định số 1310/ 2001/QĐ-NHNN ngày
15/10/2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về quy chế vay vốn giữa các tổ chức
tín dụng.
2


1.3.

Thành tựu:
Qua 17 năm thành lập thị trường liên ngân hàng đã đóng góp những thành tựu đáng
kể vào thị trường tiền tệ của nước ta:
Số lượng thành viên và doanh số hoạt động trên thị trường liên ngân hàng đã tăng đáng
kể, phương thức giao dịch của thị trường ngày càng đổi mới, hấu hết các giao dịch đều
thực hiện qua mạng, thời hạn giao dịch khá linh hoạt ( qua 1 đêm, 1 tuần, 2 tuần 1
tháng, 3 tháng, 6 tháng, 12 tháng).
Hiện nay, gần 30 NHTM đã thực hiện giao dịch vốn liên ngân hàng (gửi tiền / cho
vay và nhận tiền gửi/đi vay) thông qua hệ thống của Hãng Reuters. Hãng Reuters đã xây
dựng được trang lãi suất giao dịch bình quân trên thị trường liên ngân hàng Việt Nam
(VNIBOR) trên cơ sở chào giá hàng ngày của một số ngân hàng.
Doanh số giao dịch trên thị trường liên ngân hàng từ năm 2002 đến nay, theo đánh giá
của các chuyên gia ngân hàng thì doanh số giao dịch tăng khoảng 20% mỗi năm.Kết

quả trên đã chứng minh thị trường nội tệ liên ngân hàng thực hiện được vai trò điều tiết
vốn ngắn hạn bằng đồng Việt Nam giữa các ngân hàng, làm tăng hiệu quả sử dụng
nguồn vốn của các TCTD an toàn, hiệu quả.
Việc NHNN điều hành linh hoạt tỷ giá USD/VND (điều chỉnh tăng tỷ giá giao dịch
USD/VND bình quân thị trường liên ngân hàng, tăng biên độ tỷ giá giữa VND với USD
từ +3%(ngày 07/11/2008) lên +5%(ngày 24/03/2009)hoặc giảm +3%(ngày 25/11/2009)
đối với giao dịch mua bán của các NHTM); can thiệp mua bán ngoại tệ và thực hiện các
biện pháp chống đầu cơ ngoại tệ ; bán ngoại tệ hỗ trợ nhu cầu nhập khẩu các mặt hàng
thiết yếu đảm bảo ổn định sản xuất và đời sống đã góp phần điều hoà ngoại tệ trên thị
trường ngoại tệ liên ngân hàng.

2.

Cơ cấu tổ chức và chủ thể tham gia trên thị trường:

2.1

Cơ cấu tổ chức:
Ngân hàng Nhà nước là người tổ chức và điều hành thị trường liên ngân hàng, điều này
được lý giải bởi chính mục đích tồn tại của thị trường.
Thị trường được thành lập theo hình thức tập trung (Trung tâm giao dịch của thị
trường). Hình thức tổ chức tập trung đảm bảo hiệu quả quản lý của Ngân hàng Nhà
3


nước trung ương nhưng cũng tạo ra những khó khăn giả tạo cho các thành viên giao
dịch khi thực hiện các yêu cầu của mô hình tập trung. Trong điều kiện thực tế hiện nay,
để phù hợp với phương thức giao dịch gián tiếp, mô hình tổ chức thị trường tập trung
này có sự tham gia của nhiều bộ phận khác nhau như Sở giao dịch Ngân hàng Nhà
nước trung ương, chi nhánh Ngân hàng Nhà nước Thành phố Hồ Chí Minh.

Để đảm bảo nhu cầu tín dụng và thanh toán cho các thành viên, thị trường hoạt động
trong tất cả các ngày làm việc. Trong trường hợp cần thiết, thời gian làm việc của thị
trường sẽ kéo dài thêm để đảm bảo kết thúc dứt điểm nghiệp vụ giao dịch tại thị trường.
Chủ tịch thị trường do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước chỉ định, là người có nhiệm vụ
liên quan mật thiết đến việc hoạch định, thực hiện chính sách tín dụng. Chủ tịch thị
trường chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện các qui chế và nội qui hoạt động của thị
trường, chịu trách nhiệm về các hoạt động của thị trường.
Quá trình phát triển từ hệ thống ngân hàng một cấp thành hệ thống ngân hàng hai cấp
cùng với sự tách bạch và hoàn thiện chức năng quản lý Nhà nước và chức năng kinh
doanh từ hệ thống ngân hàng một cấp gắn liền với sự ra đời và hoàn chỉnh chức năng
của NHTW ở Việt Nam.
2.1.1. Hệ thống ngân hàng một cấp (1951- 1987)
Ngân hàng Quốc gia VN được thành lập vào năm 1951- giai đoạn cuối của cuộc chiến
tranh chống Pháp và trong điều kiện kinh tế tiểu nông, lạc hậu. Chức năng của NH
Quốc gia VN là: phát hành giấy bạc và quản lý Kho bạc, thực hiện chính sách tín dụng
và quản lý tiền tệ. Chức năng này được thực hiện thông qua mô hình tổ chức gọn, nhẹ
phù hợp với điều kiện thời chiến gồm ba cấp quản lý: trung ương, liên khu, tỉnh và
thành phố.
2.1.2. Hệ thống ngân hàng hai cấp (1988 đến nay)
Theo Nghị định 53 ngày 26/03/1988, hệ thống ngân hàng Việt Nam bao gồm: NHNN
và các ngân hàng chuyên doanh. NHNN hoạt động với tư cách là ngân hàng độc quyền
phát hành, là cơ quan quản lý nhà nước về tiền tệ, tín dụng va là cơ quan quản lý dự trữ
ngoại hối của Nhà nước. Với chức năng như vậy, NHNN Việt Nam thực sự trở thành
4


một NHTW. Quyền lực điều hành hoạt động NHNN tập trung vào ban lãnh đạo NHNN
gồm Thống đốc và Phó Thống đốc.Thống đốc NHNN là thành viên của Chính phủ,
chịu trách nhiệm trước Chính phủ về các vấn đề tiền tệ và hoạt động ngân hàng của
quốc gia. NHNN được tổ chức thành hệ thống tập trung thống nhất, có trụ sở chính đặt

tại Thủ đô và các chi nhánh NHNN tỉnh. Các chi nhánh này thực hiện chức năng
NHTW tại phạm vi tỉnh và chịu sự lãnh đạo của NHNN trung ương về tổ chức cũng
như hoạt động nghiệp vụ.
2.2.

Các chủ thể tham gia trên thị trường:

2.2.1. Các tổ chức TD, chủ yếu là các NHTM:
Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà họat động chủ yếu và thường
xuyên là nhận tiền kí gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó
để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán
2.2.1.1. Mục đích:
-Thứ nhất, kinh doanh tiền tệ từ nguốn vốn tạm thời nhàn rỗi.
Trong nền kinh tế có những chủ thể có dư tiền và khoản tiền đó chưa được sử dụng
một cách triệt để (ví dụ như vẫn còn cất giấu trong nhà chưa được mang ra lưu thông)
nhưng họ cũng muốn tiền này sinh lời cho mình và họ nghĩ là cho vay và có những
chủ thể cần tiền để hoạt động kinh doanh. Nhưng những chủ thể này không quen biết
nhau và cũng có thể không tin tưởng nhau nên tiền vẫn chưa được lưu thông. Ngân
hàng thương mại với vai trò trung gian của mình, nhận tiền từ người muốn cho vay, trả
lãi cho họ và đem số tiền ấy cho người muốn vay vay.
-Thứ hai, đảm bảo khả năng thanh khoản khi khách hàng rút tiền hoặc giải ngân. Tăng
tính thanh khoản trên thị trường.
-Thứ 3, huy động nguồn vốn với chi phí thấp để kinh doanh .NHTM huy động và tập
trung các nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế; mặt khác với số vốn này NHTM sẽ
đáp ứng được nhu cầu vốn của nền kinh tế để sản xuất kinh doanh. Qua đó nó thúc đẩy
nền kinh tế phát triển
-Thứ tư, giảm thiểu chi phí cơ hội do phải duy trì dự trữ bắt buộc. Vai trò trung gian
này trở nên phong phú hơn với việc phát hành thêm cổ phiếu, trái phiếu,… NHTM có
thể làm trung gian giữa công ty và các nhà đầu tư; chuyển giao mệnh lệnh trên thị
trường chứng khoán; đảm nhận việc mua trái phiếu công ty.

2.2.1.2 Vai trò:
5


- Thứ nhất, đóng vai trò quan trọng trong việc đẩy lùi và kiềm chế lạm phát, từng
bước duy trì sự ổn định giá trị đồng tiền và tỉ giá, góp phần cải thiện kinh tế vĩ mô,
môi trường đầu tư và sản xuất kinh doanh;
- Thứ hai, góp phần thúc đẩy hoạt động đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh và hoạt
động xuất nhập khẩu. Đây là kết quả tác động nhiều mặt của đổi mới hoạt động ngân
hàng, nhất là những cố gắng của ngành ngân hàng trong việc huy động các nguồn vốn
trong nước cho đầu tư phát triển, trong việc đổi mới chính sách cho vay và cơ cấu tín
dụng theo hướng căn cứ chủ yếu vào tính khả thi và hiệu quả của từng dự án, từng lĩnh
vực ngành nghề để quyết định cho vay. Dịch vụ ngân hàng cũng phát triển cả về chất
lượng và chủng loại, góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh;
- Thứ ba, tín dụng ngân hàng đã đóng góp tích cực cho việc duy trì sự tăng trưởng kinh
tế với nhịp độ cao trong nhiều năm liên tục. Với dư nợ cho vay nền kinh tế chiếm
khoảng 35-37% GDP, mỗi năm hệ thống ngân hàng đóng góp trên 10% tổng mức tăng
trưởng kinh tế của cả nước;
-Thứ tư, đã hỗ trợ có hiệu quả trong việc tạo việc làm mới và thu hút lao động, góp
phần cải thiện thu nhập và giảm nghèo bền vững. Thông qua nguồn vốn tín dụng cho
các chương trình và dự án phát triển sản xuất kinh doanh, hàng năm hệ thống ngân
hàng đã góp phần tạo thêm được nhiều việc làm mới, nhất là tại các vùng nông thôn.
Việc sử dụng nguồn vốn ngân hàng cho mục đích này ngày càng có tính chuyên
nghiệp, minh bạch và hiệu quả, nhất là từ khi tín dụng chính sách được tác bạch với tín
dụng thương mại và giao cho Ngân hàng Chính sách xã hội đảm nhiệm;
- Thứ năm, góp phần tích cực vào việc bảo vệ môi trường sinh thái, đảm bảo phát triển
bền vững. Đóng góp này được thể hiện qua công tác thẩm định dự án, quyết định cho
vay vốn ngân hàng cho các dự án và giám sát thực hiện một cách chặt chẽ sau khi cho
vay, các TCTD luôn chú trọng yêu cầu các khách hàng đảm bảo an toàn và hiệu quả
trong việc sử dụng vốn vay, tuân thủ các cam kết quốc tế và các qui định về bảo vệ

môi trường.
2.2.2. Ngân hàng Nhà nước:
Ngân hàng NN là một định chế công cộng, có thể độc lập hoặc trực thuộc Chính phủ,
thực hiện chức năng độc quyền phát hành tiền, là ngân hàng của các ngân hàng, ngân
hàng của Chính phủ và chịu trách nhiệm trong việc quản lý Nhà nước về các hoạt động
về tiền tệ, tín dụng cho mục tiêu phát triển và ổn định của cộng đồng.
6


2.2.2.1.Mục đích:
- NHTW là người duy nhất được phép phát hành tiền theo các quy định trong luật hoặc
được Chính phủ phê duyệt (mệnh giá tiền, loại tiền, mức phát hành...) nhằm đảm bảo
thống nhất và an toàn cho hệ thống lưu hành tiền tệ của quốc gia.
- Vai trò độc quyền không chỉ đề cập đến quyền lực mà còn ngụ ý trách nhiệm của
NHTW trong việc xác định số lượng tiền cần phát hành để đảm bảo sự ổn định tiền tệ
và phát triển kinh tế.
- NHTW là ngân hàng của Chính phủ, NHTW có nghĩa vụ cung cấp các dịch vụ ngân
hàng cho Chính phủ, bao gồm làm thủ quỹ cho Kho bạc Nhà nước thông qua quản lý
tài khoản của Kho bạc, đại lý và tư vấn cho Chính phủ, cho Chính phủ vay.
2.2.2.2.Vai trò:
NHNN vừa là người tổ chức, giám sát và thành viên tham gia thị trường với vai trò
người cho vay cuối cùng trên thị trường liên ngân hàng dưới các hình thức:
- Cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán.
- Cho vay bổ sung vốn ngắn hạn.
- Bảo lãnh cho tổ chức tín dụng thành viên vay vốn của thành viên khác trên thị
trường.
Từ 2001 đến nay, thị trường nội tệ liên ngân hàng được chính thức tự do, toàn bộ các
giao dịch trên thị trường được thực hiện trực tiếp giữa các thành viên, NHNN chỉ thực
hiện can thiệp vào cung cầu vốn và nhu cầu thanh khoản thông qua thị trường mở.
3.


Các loại hàng hóa trên thị trường:

3.1.

Hàng hóa:
- Quyền sử dụng các khoản ngân quỹ dư thừa tạm thời (vốn khả dụng của các TCTD)
- Các GTCG: tín phiếu Kho bạc, tín phiếu NHTW, …

3.2,

Giá cả (lãi suất):

7


-Trước đây thiết lập trên cơ sở bình quân hoá lãi suất chào của các Ngân hàng thương
mại( NHTM) do NHNN lựa chọn tức là chủ yếu do ngân hàng thoả thuận

3.2.1

-Từ ngày 16/5/2008 áp dụng cơ chế lãi suất theo lãi suất cơ bản của NHTW.
-Thay đổi theo từng thời kì, phù hợp với chính sách lãi suất của NHTW
-Lãi suất hình thành dựa trên quan hệ cung – cầu
-Tùy thuộc kì hạn: thông thường ngắn hạn thấp hơn dài hạn
-Giá buổi sáng khác buổi chiều
-Cùng 1 kì hạn có nhiều mức giá trên thị trường
Lãi suất trên thị trường liên ngân hàng trong thời gian qua:
Cùng với sự phát triển của thị trường liên ngân hàng, lãi suất trên TTTT liên ngân
hàng ngày càng có quan hệ chặt chẽ với lãi suất huy động, cho vay trên thị trường và

phản ánh sát thực hơn cung cầu thanh khoản trên thị trường cũng như chuyển tải phần
nào tín hiệu về chính sách của NHNN đến thị trường. Những số liệu thống kê về thị
trường cho thấy, kể từ sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á năm 19971998, lãi suất cho vay, tiền gửi VNĐ bình quân trên TTTT liên ngân hàng Việt Nam
tại hầu hết các kì hạn đều tương đối ổn định, đặc biệt là giai đoạn 2005 đến 2007.
Trong khoảng thời gian này, lãi suất bình quần VNĐ trên TTTT liên ngân hàng chỉ ở
mức 6-8 %/ năm và biên độ giao động hàng ngày chỉ ở mức thấp.
Từ đầu năm 2008, mức lãi suất này đã leo lên đến mức không tưởng ( bình quân 18%/
năm) do:
- Nguồn cho vay bị hạn chế
- Xảy ra tình trạng đầu cơ tích trữ trong giá vàng.
-Ngân hàng ồ ạt công bố tăng lãi suất huy động bằng VND.
-Nhu cầu tiền đồng của các ngân hàng là vô cùng lớn do ngân hàng cần tiền để đảm
bảo tính thanh khoản, để đảm bảo thực hiện nhiệm vụ tài chính với nhà nước( 17/3
phải mua 20300 tỷ tín phiếu bắt buộc).
Vào thời điểm căng thẳng thanh khoản lên đến đỉnh, các TCTD phải chấp nhận giao
dịch VNĐ tại kì hạn qua đêm với mức lãi suất lên đến 43%/năm. Để đối phó với tình
trạng này NHNN đã đẩy mạnh các giải pháp điều hành chính sách do đó từ tháng
9/2008 đến năm 2009 lãi suất các kì hạn trên TTTT liên ngân hàng đã giảm mạnh và
dần đi vào ổn định. Năm 2010: Lãi suất kỳ hạn qua đêm dao động từ 6,76%/năm đến
7,59%/năm, bình quân ở mức 7,24%/năm, tăng 0,29%/năm; lãi suất bình quân các kỳ
hạn từ 3 tháng và 6 tháng vẫn là các kỳ hạn có mức bình quân cao nhất, lần lượt là
11,76%/năm và 11,83%/năm. Lãi suất các kỳ hạn còn lại dao động từ 8,40%/năm đến
8


11,27%/năm (ngoại trừ lãi suất không kỳ hạn) các ngân hàng tham gia trên thị trường
vẫn ở mức thấp là lý do khiến lãi suất liên ngân hàng tiếp tục diễn biến theo chiều
hướng ổn định ở mức thấp.
Từ trần lãi suất đến lãi suất cơ bản rồi tự do hóa lãi suất, 1998-2002 :
Trong giai đoạn 2001-2007, chính sách lãi suất đã từng bước được đổi mới phù hợp

với cơ chế thị trường. Bước đầu lãi suất USD đã được tự do hoá (6/2001), sau đó đến
lãi suất đồng Việt Nam được tự do hoá (6/2002). Mặc dù chính sách lãi suất được coi
là tự do hoá nhưng vẫn tồn tại lãi suất cơ bản do NHNN công bố. Lãi suất cơ bản được
áp dụng từ tháng 8 năm 2000 và được xác định hàng tháng trên cơ sở tham khảo lãi
suất cho vay của 15 NHTM áp dụng với khách hàng tốt nhất. Tuy nhiên, nhiều khi lãi
suất này có thể được quyết định bởi 4 NHTM nhà nước vì thị phần tín dụng của 4
ngân hàng này chiếm trên 70% thị trường trong nước. Để dễ tính toán và so sánh
chúng tôi chọn mức lãi suất tương đối trung bình, tức là lấy mức lãi suất tiền gửi ba
tháng.
Trong những tháng đầu năm 2008, tình hình lãi suất có những biến động, đầu năm lãi
suất lên cao. Đặc biệt là từ đầu tháng 2/2008 lãi suất huy động trên thị trường đã biến
động mạnh do các NHTM liên tục tăng lãi suất huy động VNĐ lên mức 13-14%/năm
và đã đẩy lãi suất cho vay lên đến mức trên 1,5%/tháng vào tháng 3 năm 2008, có nơi
còn cho vay với lãi suất xấp xỉ 20%/năm. Đây là một sự chuyển động theo tín hiệu lãi
suất thực dương. Tuy nhiên, bên cạnh người gửi tiền phấn khởi vì lãi suất tiền gửi lên
là người đi vay phải lo lắng cho việc không thể nào chịu đựng nổi lãi suất đi vay 1517%/năm. Các NHTM thì vẫn sử dụng chính sách huy động lãi suất cao và cho vay lãi
suất cũng cao theo, tức là vẫn có lãi lớn trong trước mắt. Thực tế đã có một số NHTM
cổ phần với nhận thức như vậy đã cố tình đẩy lãi suất huy động lên làm cho TTTT có
nhiều biến động mạnh.
Sau khi NHNN có công điện số 02/CĐ-NHNN ngày 26/02/2008 về việc chốt trần lãi
suất huy động VNĐ ở mức 12%/năm thì ngày 24/3/2008, Hiệp hội các Ngân hàng có
họp và có sự đồng thuận về lãi suất, các NHTM mới có sự điều chỉnh lãi suất với mức
10,5%/năm (dưói 6 tháng) và 11%/năm (trên 6 tháng). Đến đầu tháng 4 năm 2008 lãi
suất huy động VNĐ kỳ hạn 1 năm ở mức 11,5-12%, lãi suất cho vay VNĐ ở mức1618%/năm, lãi suất huy động USD kỳ hạn 6 tháng đến 1 năm ở mức 6%-6,5%/năm.
Đến ngày 16/4/2008, Thủ tướng Chính phủ đã yêu cầu NHNN bỏ trần lãi suất huy
động, để thị trường tự điều tiết vì thấy các NHTM đều huy động với lãi suất thấp hơn
lãi suất trần. Tuy nhiên, thực tế cho thấy sau khi có ý kiến của Thủ tướng Chính phủ,
một vài NHTM cổ phần đã tranh thủ đẩy lãi suất huy động lên cao hơn mức trần 12%.
Việc đẩy lãi suất huy động lên trên 12% của một vài NHTM cổ phần là nhằm thu hút
được nhiều vốn vì họ vẫn có lãi khi cho vay với lãi suất cao 18-20%.

9


Lãi suất thực dương cao có tác dụng kiềm chế lạm phát nhưng cao quá mức thì có thể
là một tai hoạ cho nền kinh tế trong các năm tiếp theo. Việc cho vay với lãi suất quá
cao 18-20% của một số NHTM cổ phần là một sự bảo đảm có lợi nhuận lớn cho các
ngân hàng này vì chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động là quá lớn 67%, trước đây ta chỉ cho mức chênh lệch này ở mức không quá 0,35%. Lãi suất cho
vay lên cao đã tạo ra gánh nặng cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh vì không có
mấy hoạt động có thể có lãi trên 20%, tức là đủ trả lãi cho NHTM cổ phần và một
phần để cho doanh nghiệp.
Việc NHNN tái cấp vốn với lãi suất 0,9%/tháng cho các NHTM cổ phần thiếu vốn cho
vay thực tế là làm cho tiền trong lưu thông lại tăng lên và vòng tiếp theo là lạm phát
tăng cao. Hành động này cũng khuyến khích các NHTM cổ phần cứ cho vay ra với lãi
suất cao mà không có điểm dừng, hậu quả lạm phát cao và mất ổn định hệ thống ngân
hàng trong thời gian tới vì đến tháng 4/2008 dư nợ tín dụng cho nền kinh tế vẫn tăng ở
mức 60,2% so với cùng kỳ năm 2007.
LÃI SUẤT CƠ BẢN
Giá trị

Văn bản quyết định

Ngày áp dụng

9%

2868/QĐ-NHNN 29/11/2010

01/12/2010

9%


“2619/QĐNHNN 05/11/2010″

05/11/2010

8%

2561/QĐ-NHNN 27/10/2010

01/11/2010

8%

2281/QĐ-NHNN 27/9/2010

01/10/2010

8%

2024/QĐ-NHNN 25/8/2010

01/09/2010

8%

1819/QĐ-NHNN 27/7/2010

01/08/2010

8%


1565/QĐ-NHNN 24/6/2010

01/07/2010

8%

1311/QĐ-NHNN 31/5/2010

01/06/2010

8%

1011/QĐ-NHNN 27/4/2010

01/05/2010

8%

618/QĐ-NHNN 25/03/2010

01/04/2010

8%

353/QĐ-NHNN 25/2/2010

01/03/2010

8%


134/QĐ-NHNN 25/01/2010

01/02/2010

8%/năm

2665/QĐ-NHNN 25/11/2009

01/12/2009

7%

2459/QĐ-NHNN 28/10/2009

01/11/2009

7,0%/năm

2232/QĐ-NHNN

01/10/2009

7%

2024/QĐ-NHNN 26/8/2009

01/09/2009

10



7%

1811/QĐ-NHNN 30/7/2009

01/08/2009

7%

1539/QĐ-NHNN 30/6/2009

01/07/2009

7%

1250/QĐ-NHNN 22/5/2009

01/06/2009

7%

1015/QĐ-NHNN 29/4/2009

01/05/2009

7%

626/QĐ-NHNN 24/03/2009


01/04/2009

7%

378/QĐ-NHNN 24/02/2009

01/03/2009

7,0%

172/QĐ-NHNN 23/1/2009

01/02/2009

Hiện nay, đầu năm 2012, trên thị trường liên ngân hàng, mặt bằng lãi suất tiếp tục
duy trì ở mức thấp. Đáng chú ý trong ngày cuối tuần lãi suất liên ngân hàng giảm
mạnh ở tất cả các kỳ hạn. Cụ thể, lãi suất kỳ hạn qua đêm phổ biến ở mức 711%/năm; kỳ hạn 1 tuần khoảng 9-12%/năm, kỳ hạn 2 tuần khoảng 11-13% và kỳ
hạn 1 tháng ghi nhận ở mức 12,5-15%/năm. Như vậy so với tuần trước, mặt bằng lãi
suất liên ngân hàng đã hạ nhiệt khoảng 0,5-2% tương ứng với các kỳ hạn khác nhau.
Trên thị trường, các giao dịch vẫn diễn ra chủ yếu ở kỳ hạn ngắn như kỳ hạn qua đêm
và 1 tuần. Các kỳ hạn dài hơn hầu như không có chào vay/chào bán. Bên cạnh đó,
cung tiền trên thị trường liên ngân hàng khá dồi dào trong khi nhu cầu vay tiền của
11


các ngân hàng tham gia trên thị trường vẫn ở mức thấp là lý do khiến lãi suất liên
ngân hàng tiếp tục diễn biến theo chiều hướng ổn định ở mức thấp.

4.


Giao dịch trên thị trường:

4.1

Số lượng giao dịch:
Năm 2011, Về giao dịch trên thị trường liên ngân hàng, tổng doanh số giao dịch trên
thị trường liên ngân hàng bằng VND đạt xấp xỉ 182.747 tỷ đồng, bình quân khoảng
36.549 tỷ đồng/ngày. Con số này thấp hơn so với mức bình quân 40.487 tỷ đồng/ngày
của tuần đến ngày 29/3. Doanh số giao dịch bằng USD quy đổi ra VND đạt 175.322
tỷ đồng, bình quân khoảng 35.064 tỷ đồng/ngày, cao hơn nhiều mức bình quân
khoảng 22.979 tỷ đồng/ngày của tuần cuối tháng 3.
Các giao dịch liên ngân hàng tập trung chủ yếu vào các kỳ hạn ngắn như qua đêm và
1 tuần. Doanh số giao dịch các kỳ hạn ngắn bằng VND đạt khoảng 123.561 tỷ đồng,
tương đương 68% tổng doanh số giao dịch bằng VND; doanh số giao dịch các kỳ hạn
ngắn bằng USD quy đổi ra VND đạt xấp xỉ 149.768 tỷ đồng, tương đương 85% tổng
doanh số giao dịch bằng USD.
12


Lãi suất giao dịch bình quân VND liên ngân hàng trong khi đó tiếp tục giảm đối với
các kỳ hạn 1 tuần, 2 tuần, 2 tháng, 3 tháng và trên 12 tháng; các mức giảm từ 0,10%
(kỳ hạn 2 tháng) đến 1,50% (kỳ hạn trên 12 tháng). Các kỳ hạn còn lại lãi suất giao
dịch bình quân tăng; trong đó các kỳ hạn 3 tuần, 1 tháng và 6 tháng lãi suất tăng
mạnh, lần lượt tăng 0,69%, 0,79% và 1,71%; các kỳ hạn khác lãi suất tăng nhẹ. Kỳ
hạn 9 tháng lãi suất vẫn đứng ở mức 13,5%, không đổi so với tuần trước.

Từ năm 2002 đến nay doanh số giao dịch trên thị trường liên ngân hàng tăng khoảng
20%/năm đã phản ánh được phần nào vai trò của thị trường liên ngân hàng với tư
cách là “kênh” dẫn vốn quan trọng của tổ chức tín dụng:
-Tăng hiệu quả sử dụng vốn của tổ chức tín dụng.

- Đảm bảo an toàn hoạt động kinh doanh toàn hệ thống.
4.2

Hình thức giao dịch:
+ Cơ sở hình thành giao dịch
- Căn cứ vào xếp hạng nội bộ : cấp hạn mức giao dịch cho đối tác.
+ Hạn mức:
Tính cam kết: hầu hết là hạn mức Không cam kết)
- Tín chấp: không có tài sản đảm bảo
- Tổ chức giao dịch: Phi tập trung – OTC
-Giữa các tổ chức tín dụng có 2 hình thức giao dịch:
+ Mở khoản tiền gửi lẫn nhau va giao dịch qua điện thoại, fax, mạng vi tính về điều
khoản của món vay và thực hiện chuyển tiền.
+ Hoạt động mua bán lẫn nhau tại trung tâm thanh toán bù trừ của NHNN.
-Giữa các tổ chức tín dụng, NHNN và tổ chức tín dụng khác thực hiện mua bán vốn
cũng dựa trên 2 hình thức:
+Cho vay (tái cấp vốn).
+Cho vay theo bộ hồ sơ khách hàng.
13


4.3

Thời hạn giao dịch:
Trước đây thời hạn giao dịch thường dài từ 3-6 tháng, nay có thêm các giao dịch như
qua đêm, 1 tuần, 1 tháng

4.4

Phương thức thanh toán:

-Trong giai đoạn ban đầu, thị trường liên ngân hàng thực hiện theo phương pháp
giao dịch trực tiếp nhưng hiện nay để phù hợp với điều kiện thực tế, phương pháp
giao dịch thị trường là phương pháp gián tiếp thông qua các phương tiện thông tin.
-Khi có nhu cầu vay thanh toán bù trừ, các thành viên báo cáo về Trung tâm và có
thể được Ngân hàng Nhà nước quyết định cho vay trong phạm vi hạn mức tái cấp
vốn. Đối với trường hợp này, Chủ tịch thị trường có trách nhiệm ký khế ước cho
vay. Trường hợp thành viên không trả được nợ đến hạn, chủ tịch thị trường có quyền
chuyển nợ quá hạn số tiền chậm trả.
-Khi có nhu cầu, thành viên thị trường đề xuất xin vay hoặc cho vay với Trung tâm.
Do giao dịch gián tiếp thông qua Trung tâm nên các bên có thể thoả thuận nội dung
(bằng lời) về lượng tín dụng, lãi suất. Trung tâm có trách nhiệm xác nhận cam kết
của các thành viên (qua ghi âm giọng nói). Để đảm bảo tính pháp lý của cam kết, các
bên phải trực tiếp lập khế ước tại Trung tâm (hoặc tại Chi nhánh Ngân hàng Nhà
nước thành phố Hồ Chí Minh) nếu có chung tài khoản tiền gửi, tiền vay tại Sở giao
dịch hoặc tại Chi nhánh Ngân hàng Nhà nước thành phố Hồ Chí Minh. Trường hợp
các bên không cùng có tài khoản tại Sở giao dịch hoặc tại Chi nhánh Ngân hàng Nhà
nước thành phố Hồ Chí Minh, việc ký khế ước được lập bằng FAX theo qui định của
Sở giao dịch hoặc tại Chi nhánh Ngân hàng Nhà nước thành phố Hồ Chí Minh. Như
vậy, thị trường (Trung tâm) chỉ hoạt động khi có nhu cầu của các thành viên và thực
hiện các công việc giúp các bên xác lập hợp đồng. Việc chuyển giao, thanh toán, trả
nợ không thực hiện tại thị trường mà qua các bộ phận chức năng của Ngân hàng Nhà
nước.
-Theo qui định hiện hành, các khoản vay (đặc biệt là các khoản vay ngắn hạn), thành
viên vay vốn phải thực hiện các biện pháp bảo đảm như cầm cố giấy tờ có giá hoặc
đề nghị bảo lãnh từ Ngân hàng Nhà nước. Tuy nhiên qui định này cũng gây khó
14


khăn không nhỏ cho các bên khi tiến hành các giao dịch thực tế. Mặt khác, theo qui
định của các văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lý cao1, các tổ chức tín dụng được

quyền lựa chọn khách hàng và lựa chọn biện pháp cho vay (cho vay có bảo đảm
hoặc cho vay không bảo đảm). Nếu cho phép các ngân hàng thành viên lựa chọn
biện pháp cho vay sẽ đảm bảo cao hơn quyền tự do kinh doanh ngay trong bộ phận
thị trường đặc biệt này, giải quyết nhanh chóng như cầu tín dụng của các đối tượng
4.5

tham gia.
Nghiệp vụ trên TTTT liên ngân hàng:
Từ tháng 7/2000, với việc NHNN chính thức khai trương nghiệp vụ thị trường mở,
đã đánh dấu một bước đổi mới mạnh mẽ trong việc điều tiết tiền tệ gián tiếp theo các
nguyên tắc thị trường. Từ năm 2000 đến nay, nghiệp vụ thị trường mở đã được từng
bước hoàn thiện và chú trọng sử dụng để trở thành công cụ điều tiết tiền tệ chủ yếu
của NHNN. Tổng doanh số giao dịch nghiệp vụ thị trường mở theo cả 2 chiều mua
và bán tăng mạnh qua các năm; kỳ hạn giao dịch cũng được đa dạng hóa từ 7-182
ngày; khối lượng giao dịch qua từng phiên, định kỳ giao dịch cũng ngày càng tăng
thêm. Việc điều hành nghiệp vụ thị trường mở ngày càng mang tính thị trường hơn,
qua đó tăng cường khả năng điều tiết của công cụ này đến vốn khả dụng của các tổ
chức tín dụng và các điều kiện trên thị trường tiền tệ.
Bên cạnh nghiệp vụ thị trường mở, nghiệp vụ tái cấp vốn của NHNN cũng được
từng bước đổi mới, hoàn thiện theo hướng nâng cao hiệu quả điều tiết tiền tệ gián
tiếp của NHNN. Đến nay tái cấp vốn của NHNN cho các NHTM chủ yếu được thực
hiện dưới các hình thức chiết khấu, tái chiết khấu, cho vay có đảm bảo bằng cầm cố
giấy tờ có giá. Các hình thức cho vay theo chỉ định của Chính phủ trước đây (từng
chiếm tỷ trọng lớn trong cho vay tái cấp vốn) đã giảm mạnh qua các năm. Thủ tục,
quy trình xử lý đề nghị vay tái cấp vốn từng bước được tinh giản, tạo thuận lợi cho
các ngân hàng. Cơ chế tái cấp vốn được áp dụng bình đẳng cho tất cả các ngân hàng,
không phân biệt loại hình sở hữu. Đặc biệt từ năm 2003, thực hiện Luật sửa đổi một
số Điều Luật Ngân hàng Nhà nước, NHNN đã cho phép cả các giấy tờ có giá dài hạn
như các loại trái phiếu Chính phủ được sử dụng trong các giao dịch giữa NHNN và
các ngân hàng. Điều này làm tăng đáng kể khối lượng giấy tờ có giá được giao dịch


1

15


với NHNN, mở rộng khả năng tiếp cận của các ngân hàng đối với các kênh hỗ trợ
vốn của NHNN, tạo điều kiện nâng cao khả năng điều tiết của NHNN đối với thị
trường tiền tệ. Đến nay, bên cạnh các NHTM Nhà nước, khá nhiều NHTM cổ phần,
ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài đã tiếp cận các kênh hỗ trợ
vốn nêu trên của NHNN.
Lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu ngày càng được điều hành linh hoạt, phù hợp
với mục tiêu CSTT trong từng thời kỳ. Từ năm 2003, lãi suất tái cấp vốn và lãi suất
chiết khấu được điều chỉnh dần để hình thành khung lãi suất định hướng lãi suất thị
trường. Cùng với việc điều chỉnh lãi suất chiết khấu để trở thành lãi suất sàn, NHNN
đã thực hiện phân bổ hạn mức chiết khấu cho các ngân hàng. Qua đó, nghiệp vụ
chiết khấu được điều hành như một kênh hỗ trợ vốn thường xuyên với giá rẻ từ
NHNN. Trong khi đó, nghiệp vụ cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá áp
dụng lãi suất tái cấp vốn là mức lãi suất trần để NHNN từng bước thực hiện vai trò là
người cho vay cuối cùng trên thị trường.
Ngoài các kênh hỗ trợ vốn ngắn hạn của NHNN thông qua nghiệp vụ thị trường mở,
nghiệp vụ tái cấp vốn, NHNN còn thực hiện cho vay thấu chi và cho vay qua đêm
trong thanh toán điện tử liên ngân hàng. Thêm vào đó, từ 7/2001, NHNN bắt đầu
thực hiện nghiệp vụ hoán đổi ngoại tệ để hỗ trợ các tổ chức tín dụng gặp khó khăn
tạm thời về vốn khả dụng VND và nhằm đạt được mục tiêu chính sách tiền tệ. Thực
tế công cụ này đã phát huy tác dụng trong những thời điểm các NHTM thực sự khan
hiếm về vốn khả dụng VND, nhất là đối với các ngân hàng nước ngoài có ngoại tệ
dư thừa nhưng lại khó khăn về vốn VND và không sở hữu giấy tờ có gía ngắn hạn
nên không có điều kiện tiếp cận các kênh hỗ trợ vốn khác của Ngân hàng Nhà nước.
Có thể tóm tắt trong bảng sau:

NHNN tham gia các giao dịch với các TCTD thông qua các nghiệp vụ cơ bản sau:

16


Nhưng trên thị trường nội tệ liên ngân hàng thực hiện nghiệp vụ thị trường mở là
4.5.1

chủ yếu, nên chúng tôi chỉ nghiên cứu thực tế nghiệp vụ này ở Việt Nam:
Nghiệp vụ thị trường mở:

4.5.1.1. Thành viên tham gia OMO:
ONO bắt đầu hoạt động vào tháng 7/2000, ban đầu có 21 TCTD tham gia. Số lượng
thành viên tăng dần qua các năm, nhưng tốc độ tăng chậm, thường chỉ 1- 2 thành
viên mỗi năm. Đến ngày 31/12/2005, đã có 30 TCTD được công nhận là thành viên
tham gia OMO, năm 2006, 2007 con số này tăng lên duy trì ở mức 35 thành viên.
Năm 2008, số lượng thành viên là 56 thành viên, tăng thêm 21 thành viên, tăng
27,3% so với 2007. Đến năm 2009 đã có 58 thành viên. Tới hiện nay số thành viên
cũng tăng lên 1-2 thành viên / năm .
4.5.1.2

Số lượng các phiên giao dịch trên OMO:
Lượng tiền cung ứng ròng qua nghiệp vụ thị trường mở:

17


Đầu năm 2012:
NHNN bơm ròng 3.443 tỷ đồng qua OMO: Sau ba tuần liên tiếp hút ròng mạnh
(gần 133.500 tỷ đồng)

trên thị trường mở, tuần vừa qua NHNN đã thực hiện bơm ròng trở lại trên OMO.
Tổng lượng tiền bơm ra trong tuần đạt 10.465 tỷ đồng và tổng lượng tiền đáo hạn là
7.022 tỷ đồng. Như vậy, NHNN đã bơm ròng 3.443 tỷ đồng qua thị trường OMO
trong tuần.

18


4.5.1.3. Doanh số của giao dịch nghiệp vụ thị trưởng mở:

Qua bảng số liệu 3 cho thấy, trong 6 tháng đầu năm 2011, NHNN đã thực hiện 241
phiên giao dịch mua có kỳ hạn. Để đảm bảo khả năng thanh khoản cho các TCTD
nên NHNN chỉ chào các phiên giao dịch mua có kỳ hạn và chủ yếu là kỳ hạn ngắn,
chỉ có 7 ngày và tất cả các phiên đều đấu thầu khối lượng. Các chủ thể tham gia thị
trường trong 6 tháng đầu năm 2011cũng tăng mạnh, gần như các chủ thể đăng ký
tham gia thị trường, nếu có đủ điều kiện đều được giao dịch và đáp ứng nhu cầu vốn
kịp thời. Các chủ thể tham gia gồm: 05 NHTM Nhà nước, 32 NHTMCP, 01 ngân
hàng liên doanh, 07 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 04 công ty tài chính.
19


-Doanh số giao dịch trên nghiệp vụ thị trường mở liên tục tăng, năm sau cao hơn
năm trước theo cả hai chiều mua và bán. Năm 2008, tổng doanh số trúng thầu là
1.036.066 tỷ đồng, đến cuối năm 2010, tổng doanh số trúng thầu là 2.108.715 tỷ
đồng. Trong các hình thức giao dịch thị trường mở thì hình thức NHNN mua các
GTCG - “bơm” tiền ra là chủ yếu, có thời điểm là 100% trong tổng doanh số trúng
thầu như 6 tháng đầu năm 2009 và năm 2010. Tuy nhiên, 6 tháng đầu năm 2011,
NHNN lại “hút” là chủ yếu, (tháng 5 và 6); NHNN chỉ bơm ra khoảng 13.056 tỷ
đồng. Điều này cho thấy thị trường mở là một “kênh” cung ứng hoặc thu hút tiền về
quan trọng của NHNN nhằm thực hiện mục tiêu của CSTT. Khối lượng giao dịch

trong từng phiên cũng ngày càng tăng từ bình quân 2.577 tỷ đồng/phiên năm 2008
lên 3.240 tỷ đồng/phiên năm 2010 và 9.544 tỷ đồng/phiên năm 2011. Trong năm
2008, trước những biến động bất thường của thị trường, nhằm đáp ứng khả năng
thanh toán cho các TCTD doanh số giao dịch có phiên là 10.000 - 15.000 tỷ đồng,
sang năm 2010, gần đến thời điểm cuối năm, doanh số giao dịch, có phiên là 20.000
tỷ đồng, những tháng đầu năm 2011, có phiên giao dịch lên đến 25.000 tỷ đồng. Như
vậy, khi các TCTD thiếu hụt nghiêm trọng vốn khả dụng thì thị trường mở thực sự là
“phao” hỗ trợ cho các TCTD này, bảo đảm khả năng thanh toán cho các TCTD trong
trường hợp thị trường có những biến động đột xuất. Điều này đã góp phần ổn định
thị trường tiền tệ ngay tức thì, đáp ứng yêu cầu điều tiết vốn khả dụng của các
thành viên tham gia thị trường mở.
Trong gần 3 năm trở lại đây, NHNN chủ yếu thực hiện đấu thầu khối lượng với khối
lượng được công bố trước trong những phiên chào mua. Khối ượng giao dịch bình
quân trong từng phiên tăng dần trong các năm chứng tỏ
nghiệp vụ thị trường mở ngày càng đóng vai trò quan trọng tác động đến
tổng lượng tiền trong nền kinh tế (M2).
-Lãi suất thị trường mở:
Năm 2000 đến 2003, mức lãi suất này tương đối ổn định. Năm 2004, lãi suất trên
OMO tăng nhẹ, xoay quanh mức 3,20%/năm đến 3,50%/năm; các phiên sau ñó tăng
lên 3,5%- 4,0%/năm. đây là năm mà NHNN thực hiện mua vào là chủ yếu
Năm 2005, lãi suất trúng thu trên OMO dao động quanh mức 6,0%- 6,20%/năm tuỳ
theo thời hạn còn lại và tuỳ theo loại giấy tờ có giá. Trong năm 2006, lãi suất trong
các phiên chào mua dao động trong khoảng 6,0- 8,5%/năm. Lãi suất trong các phiên
chào bán có xu
20


hướng giảm, từ 4,5- 5%/năm từ đầu năm, đến đầu tháng 12/2006 có thời điểm còn
0,8- 0,95%/năm.
Sang năm 2007, đứng trước những dấu hiệu tăng của tỷ lệ lạm phát, NHNN đã thực

hiện phiên bán hẳn với khối lượng giao dịch lớn. Trên OMO, diễn biến lãi suất đã
có sự biến động tăng mạnh so với những năm trước của đó. Lãi suất trúng thu bình
quân trong các phiên chào bán là 4,35%/năm. Năm 2008, mua có kỳ hạn 7 ngày lãi
suất bình quân là 12,82%/năm, 14 ngày là 13,12%/năm, năm 2009, đã giảm xuống
tương ứng là 7,23%/năm và 7,51%/năm và năm 2010 tương ứng 8,35%/năm và
7,69%/năm. Trong tháng 1/2011, lãi suất mua có kỳ hạn 7 ngày đã tăng lên
10%/năm, từ ngày 22/2, tăng lên 12%, 1/4 là 13%, ngày 4/5, đã được đẩy lên mức
14%/năm, không dừng ở đó, ngày 17/5, NHNN đã nâng lãi suất trên thị trường mở
lên 15%. Đây là lần thứ 8, NHNN điều chỉnh mức lãi suất trên thị trường mở kể từ
tháng 1/2010. Từ ngày 4/7/2011, lãi suất trên nghiệp vụ thị trường mở đã giảm nhẹ
xuống 14%/năm.
5.
5.1.

Vai trò của NHTW:
Vai trò tạo lập:
TTTT được biết đến như là một thị trường phi tập trung, sôi động và mang tính toàn
cầu. Các giao dịch trên TTTT thường có thời hạn ngắn và rất ngắn, đặc biệt thị
trường cho vay qua đêm rất phát triển và chiếm một tỷ trọng đáng kể trong doanh số
hoạt động của TTTT. Khởi nguồn từ hoạt động cho vay, đi vay giữa các ngân hàng,
TTTT ngày càng phát triển đa dạng và linh hoạt. Với mục tiêu ban đầu là thị trường

5.2

để bảo đảm khả năng
thanh khoản của các trung gian tài chính, TTTT đã phát triển trở thành
thị trường đầu tư vốn ngắn hạn, thị trường kinh doanh chênh lệch giá, thị trường
của các công cụ phong ngừa rủi ro và các thị trường phái sinh.
Đối với thị trường liên ngân hàng:
Thị trường nội tệ liên ngân hàng ra đời theo Chỉ thị 07/CT-NH1 ngày 07/10/1992

của Thống đốc NHNN Việt Nam, cho phép các TCTD được thực hiện cho vay và đi
vay lẫn nhau và chính thức hoạt động từ tháng 7/1993. Theo Quyết định số 114/QĐNH14 ngày 21/6/1993 ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của thị trường LNH
và Quyết định số 190/QĐ-NH14 ngày 06/10/1993 về việc bổ sung, sửa đổi Quy chế
tổ chức và hoạt động của thị trường LNH, thị trường nội tệ liên ngân hàng được hình
thành dưới hình thức là một thị trường tập trung có tổ chức qua NHNN (NHNN) và
21


gắn liền với các trung tâm thanh toán bù trừ (Thành phố Hồ Chí Minh và thành phố
Hà Nội) số lượng thành viên tham gia và doanh số hoạt động rất hạn chế; trong đó,
những thành viên là NHTM Nhà nước có khả năng chi phối trên cả giác độ huy động
vốn và cho vay vốn do có lợi thế về tài chính và uy tín.
Từ năm 1997, hoạt động của thị trường diễn ra theo hình thức các ngân hàng trực
tiếp vay mượn lẫn nhau không thực hiện thông qua NHNN. Các Ngân hàng thỏa
thuận phương thức giao dịch, thời hạn, lãi suất cũng như điều kiện bảo đảm tiền vay
dựa trên mức độ tín nhiệm và có sự tham gia tích cực của NHTM cổ phần, Ngân
hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Đến nay, phần lớn các giao dịch liên ngân hàng được thực hiện dưới các hình thức
tín chấp, bảo đảm bằng số dư tiền gửi đối ứng tại ngân hàng cho vay; thậm chí một
số ngân hàng đã thực hiện quan hệ vay mượn dưới hình thức gửi tiền lẫn nhau.
5.4.

Vai trò quản lí giám sát:
Với tư cách là ngân hàng của các ngân hàng, NHTW không chỉ cung ứng các dịch
vụ ngân hàng thuần tuý cho các ngân hàng trung gian, mà thông qua các hoạt động
đó, NHTW còn thực hiện vai trò điều tiết, giám sát thường xuyên hoạt động của các
ngân hàng trung gian nhằm góp phần bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của
hệ thống các tổ chức tín dụng và hệ thống tài chính; bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của người gửi tiền và khách hàng của tổ chức tín dụng; duy trì và nâng cao
lòng tin của công chúng đối với hệ thống các tổ chức tín dụng; bảo đảm việc chấp

hành chính sách, pháp luật về tiền tệ và ngân hàng; góp phần nâng cao hiệu quả và
hiệu lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng.
NHTW ban hành các văn bản qui phạm pháp luật như luật NHNN, các nghị định,
thông tư… để tạo hành lang pháp lí và để giám sát việc thực hiện của các chủ thể
khác trong TTTT.

5.3

Kết quả đạt được
Số lượng thành viên và doanh số hoạt động trên thị trường LNH đã tăng đáng kể,
phương thức giao dịch của thị trường ngày càng đổi mới, hầu hết các giao dịch đều
thực hiện qua mạng, thời hạn của các giao dịch khá linh hoạt(qua đêm, 1 tuần, 2
tuần, 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 12 tháng).
22


Hiện nay, gần 30 NHTM đã thực hiện giao dịch vốn liên ngân hàng (gửi tiền/cho
vay và nhận tiền gửi/đi vay) thông qua hệ thống của Hãng Reuters. Hãng Reuters đã
xây dựng được trang lãi suất giao dịch bình quân trên thị trường LNH Việt Nam
(VNIBOR) trên cơ sở chào giá hàng ngày của một số ngân hàng.

23



×