Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Trình bày các luận chứng về vai trò của trị thức khoa học công nghệ đối với phát triển của nền kinh tế việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.66 KB, 12 trang )

BÀI TẬP MÔN NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ
NGHĨA MÁC-LÊNIN
(PHẦN 1)
Họ và tên: Phạm Thị Linh
MSSV: CQ501486
Lớp: Tài chính công K50
Khoa: Tài chính-Ngân hàng
“Trình bày các luận chứng về vai trò của trị thức khoa học
công nghệ đối với phát triển của nền kinh tế Việt Nam trong sự
nghiệp CNH.HĐH”
BÀI LÀM
Tri thức khoa học công nghệ có vai trò rất lớn trong sự phát triển
của thế giới nói chung và của đất nước Việt Nam nói riêng. Trong sự
nghiêp phát triển CNH-HĐH, thì khoa học công nghệ càng là lựa chọn
đúng đắn của của nhà nước Việt Nam ta, để có thể theo kịp nền kinh
tế tiên tiến cua các quốc gia đi trước.
Việt Nam là 1 nước đang trong quá trình phát triển kinh tế theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, mặc dù đã đạt được những thành tựu to
lớn trong những năm đổi mới vừa qua song nền kinh tế vẫn còn kém
phát triển so với các nước khu vực và thế giới. Sự khác biệt về trình
độ KH – CN của Việt Nam so với các nước phát triển là rất lớn. Vì
vậy, bên cạnh sử dụng những nguồn lùc tự có, Việt Nam bắt buộc phải


biết vận dụng những thành tựu của khoa học công nghệ và phải bắt
kịp tri thức mới để phát triển nhanh nền kinh tế. Do đó, KH – CN
đóng vai trò rất quan đối với sự phát triển của nền kinh tế nước Việt
Nam ta theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá (CNH - HĐH).
Nhiệm vụ phát triển tri thức KH – CN là một nhiệm vụ cấp thiết hiện
nay, và gắn chặt hơn nữa KH – CN với kinh tế xã hội.


Có rất nhiều các quan niệm khác nhau về khoa học. Xét về
phương diện triết học, khoa học là một hình thái ý thức xã hội đặc
biệt. Bởi vì, khoa hoc kh«ng nh÷ng lµ nh÷ng hiªu biªt, quy luËt thùc tÕ
kiểm nghiệm mà khoa học còn là kết quả của quá trình sáng tạo logic,
và khoa học (cùng với công nghệ) là những yếu tố ngày càng có vai
trò đặc biệt quan trọng của lực lượng sản xuất, quyết định trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất nói riêng, của phương thức sản xuất
và của xã hội nói chung.
Quan niệm về khoa học được phổ biến với những đặc trưng cơ
bản sau đây:
• Khoa học là một hệ thống tri thức về tự nhiên, về xã hội, về
con người và về tư duy con người. Nó nghiên cứu và vạch ra những
mối quan hệ nội tại, bản chất của các sự vật, hiện tượng, quá trình, từ
đó chỉ ra những quy luật khách quan của sự vận động và phát triển của
tự nhiên, xã hội và tư duy.


• Hệ thống tri thức khoa học được hình thành trong quá trình
nhận thức của con người từ trực quan sinh động đến tư duy trừu
tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn, dưới dạng khái niệm, phạm
trù, quy luật, lý thuyết,… Như vậy, tri thức khoa học không chỉ là sự
phản ánh thế giới hiện thực, mà còn được kiểm nghiệm qua thực tiễn.
• Hệ thống tri thức khoa học còn có thể được hình thành nhờ
trực giác hoặc tuân theo những quy luật của logic học. Loại tri thức
khoa học này, xét cho đến cùng cũng là sự phản ánh thế giới hiện thực
và được thực tiễn kiểm nghiệm. Do đó, một hệ thống tri thức được coi
là tri thức khoa học phải bảo đảm đúng tính đúng đắn, tính chân thực.
• Nhờ giáo dục đào tạo, hệ thống tri thức khoa học có sức sống
mãnh liệt, được phổ biến rộng rãi và lan truyền rất nhanh chóng. Tốc
độ lan truyền đó đã tăng lên rất nhiều lần nhờ vào quá trình toàn cầu

hoá và công nghệ thông tin. Nó không chỉ là sức mạnh, là sự biến đổi
mau lẹ, mà còn là biểu hiện sự giàu có, thịnh vượng của mọi quốc gia,
dân tộc.
• Hệ thống tri thức khoa học là sản phẩm của quá trình phát
triển lâu dài, liên tục của tư duy nhân loại từ thế hệ này sang thế hệ
khác. Ngày nay, nó đang trở thành tài sản chung của xã hội loài người.
Như vậy, cái cốt lõi của khoa học chính là hệ thống tri thức chân
thực về tự nhiên, xã hội và tư duy.
Công nghệ theo nghĩa chung nhất có thể coi đó là tập hợp tất cả
những sự hiểu biết của con người vào việc biến đổi, cải tạo thế giới
nhằm đáp ứng nhu cầu sống của con người, sự tồn tại và phát triển của
xã hội.


Có ba quan niệm chủ yếu về công nghệ được sử dụng phổ biến
nhất hiện nay:
• Một là, công nghệ được coi như một bộ môn khoa học ứng
dụng, triển khai trong việc vận dụng các quy luật tự nhiên và các
nguyên lý khoa học nhằm đáp ứng các nhu cầu vật chất và tinh thần
ngày càng cao của con người.
• Hai là, công nghệ được hiểu với tư cách như là các phương
tiện vật chất kỹ thuật, hay đó là sự thể hiện cụ thể của tri thức khoa
học đã được vật thể hoá thành công cụ, các phương tiện kỹ thuật cần
cho sản xuất và đời sống.
• Ba là, công nghệ bao gồm các cách thức, các phương pháp,
các thủ thuật và các kỹ năng có được nhờ dựa trên cơ sở tri thức khoa
học và được sử dụng vào sản xuất trong các ngành khác nhau để tạo ra
các sản phẩm.
Ngày nay, khi mà khoa học đang trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp, trí tuệ con người đang giữ vai trò động lực trực tiếp thì quan

niệm về công nghệ, các thành phần cấu trúc của nó lần nữa có sự mở
rộng và phát triển rất cơ bản.

Ngày nay, công nghiệp hoá phải gắn liền với hiện đại hoá. Sự gắn
kết chặt chẽ giữa công nghiệp hoá với hiện đại hoá hiện nay là sự đổi
mới về chất, là nhu cầu mới của sự phát triển xã hội và cũng là quy
định mới của thời đại. Điều nay, trước tiên, được quyết định bởi sự
phát triển mạnh mẽ, nhanh chóng của KH – CN và vai trò ngày càng
tăng của chúng đối với nền sản xuất xã hội nói riêng và toàn bộ đời


sống xã hội nói chung. Trong những giai đoạn phát triển trước đây của
xã hội loài người, sản xuất còn tách rời KH – CN và thường là vượt
trước sự phát triển của KH – CN. Nói cách khác, sản xuất chưa thật sự
gắn kết với KH – CN, chưa được hiện đại hoá. Ngày nay, trong điều
kiện của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, trong lĩnh
vực này đang hình thành một quy luật mới: những phát minh khoa học
trở thành nền tảng cho những sáng chế công nghiệp và đến lượt mình,
công nghệ này được trực tiếp đưa vào sản xuất.
Hiện đại hoá nền sản xuất trước hết là hiện đại hoá lực lượng sản
xuất, nhằm nâng cao năng suất lao động, từ đó làm chuyển biến mạnh
mẽ cơ cấu kinh tế, tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế đất nước.
KH – CN là yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất. Tuy nhiên, nếu như
trong những giai đoạn phát triển trước đây, KH – CN là những yếu tố
gián tiếp của lực lượng sản xuất, đứng ngoài quá trình sản xuất trực
tiếp theo nghĩa từ KH – CN đến sản xuất phải mất hàng chục năm,
thậm chí hàng trăm năm thì ngày nay, nhìn chung, KH – CN đã và
đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Trong một số nước công
nghiệp phát triển, tri thức của những phát minh mới nhất ở một số lĩnh
vực khoa học như tin học, điều khiển học, sinh vật học v..v.. đã nhanh

chóng được đưa vào công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công
nghệ vật liệu mới … và từ đó, trực tiếp đi vào sản xuất. Bằng cách
này, lực lượng sản xuất xã hội không ngừng được bổ sung và đổi mới
theo hướng gia tăng tính hiện đại, tiên tiến. KH – CN đã thúc đẩy sự
phát triển của lực lượng sản xuất theo hướng hiện đại và đó là tiền đề,
là cơ sở của hiện đại hoá nền sản xuất xã hội.


Với Việt Nam, từ một nước nông nghiệp còn nghèo nàn, lạc hậu,
để có thể phát triển kinh tế mạnh mẽ, chúng ta cần phải tiến hành một
quá trình chuyển đổi căn bản và toàn diện tất cả hoạt động xã hội,
trước tiên là hoạt động sản xuất - từ chủ yếu là lao động thủ công sang
chủ yếu là lao động có kỹ thuật - nhằm nâng cao năng suất lao động
xã hội. Vai trò nền tảng, động lực và then chốt của KH – CN đối với
sự phát triển kinh tế của nước ta được biểu hiện trên những mặt cụ thể
sau:
KH – CN có vai trò quyết định trong việc trang bị và trang bị lại
các máy móc, trang thiết bị kỹ thuật, công nghệ hiện đại, tiên tiến
cho nền sản xuất xã hội nói riêng, cho tất cả các ngành kinh tế
quốc dân nói chung, nhằm nâng cao năng suất lao động, chất lượng
sản phẩm, tăng cường sức cạnh tranh của các sản phẩm hàng hoá Việt
Nam trên thị trường thế giới, v..v… với mục tiêu không ngừng cải
thiện và nâng cao mức sống của người dân, sự phồn vinh và sức mạnh
xã hội của Việt Nam. Do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan,
đặc biệt là chưa gắn kết được công nghiệp hoá với hiện đại hoá, mà
cho đến nay, lực lượng sản xuất của nước ta chủ yếu ở trong tình trạng
lạc hậu, các trang thiết bị, máy móc phần lớn là thủ công, thủ công
bán cơ giới. Nhìn chung, trình độ phát triển công nghệ nước ta, về cơ
bản, chỉ mới đạt ở giai đoạn 1 và 2 trong 7 giai đoạn phát triển công
nghệ mà các nước công nghiệp đã trải quá – đó là nhập công nghệ để

thoả mãn nhu cầu tối thiểu (nhập toàn bộ hoặc thu nhập phụ tùng các
trang thiết bị và cả dây chuyền lắp ráp), và mới chỉ có tổ chức hạ tầng
kinh tế ở mức tối thiểu để tiếp thu công nghệ nhập. Do vậy, cả năng


sut lao ng v cht lng cỏc sn phm do nn sn xut xó hi to
ra vn cũn rt thp so vi mt bng chung ca th gii, khụng sc
cnh tranh trờn th trng khu vc v ton cu.
Vic trang b v trang b li cụng ngh t lc hu sang hin i,
tiờn tin cũn nhm mc ớch v nhim v quan trng na l làm thay
đổi cơ cấu chung của toan bộ nền kinh tế quốc dân từ nông nghiêpcông nghiệp-dịch v. Bc chuyn dch c cu ny s to tin v
nn tng thỳc y s nghip cụng nghip hoỏ, hin i hoỏ, n
nm 2020, a nc ta c bn tr thnh mt nc cụng nghip theo
hng hin i, phỏt trin kinh t mnh m. t c mc tiờu
chin lc ny, nht thit chỳng ta phi tip cn c nn KH CN
hin i, tiờn tin ca th gii, c bit l cỏc ngnh cụng ngh mi
nhn. Vn kin i hi IX ca ng ó ch rừ : phát huy nhng li
th ca t nc, tn dng mi kh nng t trỡnh cụng ngh
tiờn tin, c bit l cụng ngh thụng tin v cụng ngh sinh hc, tranh
th ng dng ngy cng nhiu hn, mc cao hn v ph bin hn
nhng thnh tu mi v khoa hc v cụng ngh, tng bc phỏt trin
kinh t tri thc.
KH CN úng vai trũ vụ cựng quan trng trong vic giỏo dc,
o to, bi dng, khai thỏc v phỏt huy ngun lc con ngi, c
bit l ngun lc trớ tu - mt ngun lc to ln, cú tớnh cht quyt nh
i vi s nghip phỏt trin t nc. Con ngi l ch th sỏng to ra
khoa hc v cụng ngh. n lt mỡnh, KH CN tr thnh cụng c,
phng tin v ng thi l c s con ngi vn lờn t hon thin
v mi mt, c bit v nng lc trớ tu. KH CN ó n vi con



người thông qua giáo dục, đào tạo và hoạt động thực tiễn, đã trang bị
cho con người những tri thức lý luận và kinh nghiệm cần thiết để họ
có thể nhanh chóng vận hành tốt và thích nghi với các trang thiết bị kỹ
thuật hiện đại, tiên tiến trong sản xuất, cũng như có đủ năng lực để
giải quyết những tình huống phức tạp, có vấn đề trong sản xuất và mặt
khác, có thể sáng tạo ra công nghệ mới. Ngoài ra, sự thường xuyên
đổi mới theo hướng hiện đại dần của các trang thiết bị kỹ thuật, công
nghệ trong sản xuất và đời sống đã buộc con người – với tư cách là
yếu tố của lực lượng sản xuất - phải luôn nỗ lực học tập, thường
xuyên trau dồi kiến thức, nghiệp vụ, chuyên môn để khỏi bị đào thải
ra khỏi quá trình sản xuất xã hội. Chính vì vậy mà trình độ và chất
lượng của đội ngũ những người lao động không ngừng nâng cao và
hiện đại hóa theo đà phát triển của KH – CN.
Trong điều kiện nước ta hiện nay, tuy đã qua hơn 40 năm công
nghiệp hoá, nhưng nhìn chung, nền sản xuất, đặt biệt là lực lượng sản
xuất vẫn còn rất lạc hậu. Với gần 80% dân số là nông dân, 70% lao
động là lao động nông nghiệp, với cơ cấu nền kinh tế quốc dân là
“nông nghiệp – công nghiệp - dịch vụ”, v..v… đã và đang là những
rào cản rất lớn đối với con người Việt Nam trong việc tiếp cận với KH
– CN tiên tiến của thời đại. Hơn nữa, tư duy kinh nghiệm - một lối tư
duy truyền thống phổ biết – đã ăn sâu vào xã hội Việt Nam từ bao đời
nay. Trên bình diện phát triển KH – CN hiện nay thì tư duy kinh
nghiệm là không đủ mà nhất thiết phải trang bị tư duy lý luận, tư duy
KH – CN. Ph. Ăngghen đã từng viết: “Một dân tộc muốn đứng vững
trên đỉnh cao của khoa học thì không thể không có tư duy lý luận”. Sự
hạn chế về mặt tư duy lý luận là một điểm yếu trong truyền thống dân


tộc, mà ngày nay, chúng ta phải phấn đấu vượt qua mới có thể tiếp thu

và sáng tạo ra những tri thức KH – CN hiện đại, phù hợp với xu thế
phát triển của thời đại.
Kho trí thức KH – CN là vô tận và luôn đổi mới. Do đó, để có thể
nắm bắt kịp thời những thành tựu của KH – CN hiện đại, đòi hỏi đội
ngũ những người nghiên cứu, triển khai và ứng dụng KH – CN không
những phải được đào tạo một cách cơ bản và hệ thống, mà còn phải
thường xuyên được đào tạo bổ sung và đào tạo chuyên sâu.

KH – CN giữ vai trò động lực trong việc tạo ra môi trường
thông tin và thị trường thông tin - huyết mạch của nền kinh tế. Ngày
nay, thông tin có một vị trí cực kỳ quan trọng, mang tính quyết định
đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh dịch vụ và cả những hoạt động
tinh thần. Có trang thiết bị, máy móc hiện đại, có những con người đã
được đào tạo tay nghề và có kỹ năng, kỹ xảo cao, nhưng nếu thiếu
thông tin thì sẽ dẫn đến chỗ không biết đầu tư chúng vào đâu cho
đúng để kịp thời sinh lợi nhanh, và vì vậy, rất dễ sa vào chỗ mất
phương hướng phát triển. Bởi vì, thông tin trong lĩnh vực KH – CN có
liên quan rất chặt chẽ đến việc nắm bắt các bí quyết, bí mật công nghệ
nằm trong các phương pháp, thiết bị, dữ liệu khoa học và công nghệ
mới nhất. Thông tin như một người hướng dẫn nắm trong tay chiếc
chìa khoá vàng kỳ diệu, giúp người ta có thể mở ra những cánh cửa
làm ăn đúng lúc và đúng cách, tìm kiếm những cơ hội, những lĩnh vực
làm ăn còn tiềm năng và triển vọng, đồng thời biết khép cửa lại, rút lui
đúng lúc khi tiềm năng trong lĩnh vực đó đã cạn kiệt.


KH – CN có vai trò quan trọng trong việc hoàn thiện cơ chế tổ
chức, quản lý sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và xã hội. Nhiệm vụ
quan trọng của công tác tổ chức, quản lý là liên kết các yếu tố trang
thiết bị, máy móc kỹ thuật, con người và thông tin lại với nhau thành

một tổ hợp vận hành hợp lý, đồng đều nhằm đạt đến mục tiêu nhất
định. Sự phối hợp điều hành các hoạt động xã hội với những chức
năng rất khác nhau, như sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, giáo dục, đào
tạo, v..v…, sự xếp đặt các mối quan hệ giữa chúng, cũng như sự phân
bổ hợp lý các chức năng của chúng sao cho đều hướng về các mục
tiêu phát triển kinh tế đã đề ra, chính là nhiệm vụ của công tác tổ
chức, quản lý. Bởi việc, công tác tổ chức, quản lý có một vai trò cực
kỳ quan trọng trong nền kinh tế nước nhà.
Những công việc vừa rộng lớn, phức tạp, vừa tỉ mỉ, chi tiết của
công tác tổ chức quản lý ngày nay đang được thực hiện một cách
nhanh chóng hơn, chính xác hơn và hiệu quả hơn nhờ có sự phát triển
của KH – CN, đặc biệt là công nghệ thông tin. Nhờ có sự trợ giúp của
công nghệ thông tin, thông qua hệ thống máy vi tính, mạng Internet,
người ta có thể tiến hành công tác tổ chức, quản lý một cách sâu sắc,
toàn diện ở tầm vi mô, cũng như vĩ mô.
KH – CN đóng góp phần quan trọng vào chiến lược phát triển
kinh tế bền vững. Ngày nay, phát triển bền vững đang là mối quan
tâm sâu sắc của toàn nhân loại. Có thể có nhiều cách hiểu khác nhau
về phát triển bền vững, nhưng cách hiểu chung nhất là, làm sao cho sự
phát triển, trước hết là sự phát triển về kinh tế, của các thế hệ hôm nay
không cản trở cơ hội phát triển của các thế hệ mai sau. Để có thể phát


triển bền vững, phải kết hợp một cách hài hoà, đầy đủ 4 yếu tố cơ bản:
yếu tố kinh tế, yếu tố con người, yếu tố môi trường, sinh thái và yếu tố
công nghệ. Nhiệm vụ trọng tâm của KH – CN là cung cấp những
trang thiết bị hiện đại thông qua các công nghệ cao để con người khắc
phục được những hậu quả tiêu cực do chính những phương tiện kỹ
thuật chưa hoàn thiện trước đây gây ra (xử lý các chất thải độc hải,
phục hồi các hệ sinh thái tự nhiên …); xây dựng những quy trình công

nghệ mới không có chất thải, những khu sản xuất liên hợp mà những
chất thải cuối cùng của chúng có thể được các sinh vật khác sử dụng
để đưa vào chu trình sản học, v..v…

VËy KH – CN có một vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp phát
triển của nhân loại nói chung và Việt Nam nói riêng. Trong sự nghiệp
CNH - HĐH hiện nay, KH – CN càng thể hiện rõ vai trò của nó đối
với Việt Nam, đặc biệt đối với sự phát triển của nền kinh tế nước ta,
như: cấu trúc lại nền kinh tế, thay đổi và chuyển hướng các cơ sở hạ
tầng của sản xuất, nâng cao năng suất lao động, nâng cao năng lực
cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường thế giới, v..v… Việt


Nam chỳng ta l mt nc ang phỏt trin cú trỡnh KHKT nghốo
nn, lc hu, thụ s, nờn cn ỏp dng cỏc thnh tu KHCN m nhõn
loi to ra. Ngoi ra, chỳng ta cũn phi khụng ngng nghiờn cu, sỏng
to, tỡm tũi cho ra nhng phỏt minh khoa hc ca riờng mỡnh. Nh
nc ta cn cú nhng bin phỏp, nhng chớnh sỏch u tiờn, khuyn
khớch phỏt trin KH CN, nh: o to nhng cỏn b cú chuyờn mụn
cao v KH CN, u ói nhng nh khoa hc cú ti. to iu kin cho
h cú kh nng phỏt trin ht nng lc ca mỡnh, nõng cao c s vt
cht cho nghiờn cu khoa hc, tng cng hp tỏc vi cỏc Vin
nghiờn cu trờn th gii, to lp mụi trng hp tỏc quc t thun li
v..v
Thế hệ trẻ ngày nay, cụ thể nh sinh viên Viêt Nam phảI không
ngừng trau dồi kiến thức trong trờng, cũng nh bên ngoài xã hội, thực tế
xã hội. PhảI chủ động học tập, không ngừng nghiên cứu, tận dụng các
thông tin về mọi mặt để làm phong phú thêm vốn kiến thức của mình,
trau dồi kiến thức cho mình chính la làm giàu cho nền tri thức công
nghệ tiên tiến của đất nớc, để phát triển theo chủ nghĩa CNH-HĐH.




×