Tải bản đầy đủ (.doc) (186 trang)

Hoạt động điều tra tội phạm trốn khỏi nơi giam tại các trại giam thuộc bộ công an ở các tỉnh phía nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (582.59 KB, 186 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết nghiên cứu luận văn
Thi hành án phạt tù là buộc những người bị kết án tù có thời hạn, tù
chung thân chấp hành hình phạt tù tại trại giam nhằm giáo dục họ trở thành
người lương thiện.
Trại giam là nơi chấp hành hình phạt của những người bị kết án tù có
thời hạn và tù chung thân. Người đang chấp hành hình phạt tù được gọi là
phạm nhân.
Công tác quản lý trại giam là một công tác rất quan trọng trong phòng
ngừa và đấu tranh chống tội phạm. Nội dung cơ bản của công tác quản lý trại
giam là quản lý, giam giữ các đối tượng phạm tội, cách ly họ với xã hội, tước
bỏ điều kiện phạm tội của họ đồng thời giáo dục, cải tạo người phạm tội, giúp
họ nhận ra lỗi lầm và từ bỏ quá khứ tội lỗi của mình để trở thành người lương
thiện, có ích cho xã hội.
Hiện nay, Cục Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng (gọi
tắt là Cục V26) đang quản lý 42 trại giam với khoảng 10 vạn phạm nhân.
Phần lớn những phạm nhân khi vào chấp hành án ở trại giam họ đã nhận rõ
tội lỗi, thật sự ăn năn và quyết tâm học tập cải tạo tiến bộ để được hưởng sự
khoan hồng của Đảng và Nhà nước mà sớm trở về với gia đình, hòa nhập với
cộng đồng xã hội. Bên cạnh đó, cũng có những phạm nhân không thừa nhận
hành vi phạm tội của mình hoặc tuy thừa nhận hành vi phạm tội của mình
nhưng lại cho rằng mức án mà Tòa án tuyên đối với họ là quá cao. Do đó,
trong số họ có những người chống đối công khai lại chế độ quản lý, giam giữ
của ta, họ không chịu đi lao động hoặc không chịu tiếp thu các tác động giáo
dục của cán bộ trại giam, thường xuyên vi phạm nội quy, quy chế trại giam
thậm chí họ còn lôi kéo những phạm nhân khác để làm reo, đòi yêu sách,...;


2



những trường hợp này thường thấy ở những phạm nhân phạm các tội xâm
phạm An ninh quốc gia. Hoặc cũng có những phạm nhân tuy bên ngoài tỏ ra
ngoan ngoãn phục tùng mẹnh lệnh của cán bộ trại giam nhưng bên trong họ
lúc nào cũng có tư tưởng trốn trại, những phạm nhân này luôn lợi dụng mọi
sơ hở trong công tác quản lý, giam giữ của cán bộ trại giam để thực hiện âm
mưu trốn trại. Những trường hợp này thường gặp ở những phạm nhân phạm
các tội về trật tự an toàn xã hội, có nhiều tiền án tiền sự. Có những vụ trốn trại
do phạm nhân gây ra để lại hậu quả rất nặng nề, gây thiệt hại lớn về người và
tài sản; thực tế cho thấy có nhiều trường hợp phạm nhân cướp súng, giết án
bộ để trốn trại; sau khi trốn ra ngoài lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội,
gây hoang mang cho người dân và ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội.
Tất cả những vấn đề trên đặt ra nhiệm vụ phải nghiên cứu một cách thấu
đáo, sâu sắc cả về phương diện lý luận và thực tiễn để có những giải pháp
hoàn thiện và nâng cao chất lượng hoạt động điều tra tội phạm trốn khỏi nơi
giam trong thời gian tới.
Với những lý do trên, tôi chọn nghiên cứu đề tài: “Hoạt động điều tra
tội phạm trốn khỏi nơi giam tại các trại giam thuộc Bộ Công an ở các tỉnh
phía Nam” để nghiên cứu. Hi vọng kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp
phần tháo gỡ được những khó khăn, vướng mắc trên.
2. Tình hình nghiên cứu
Thực tiễn cho thấy hoạt động điều tra về tội phạm trốn khỏi nơi giam tuy
đã đạt được những kết quả nhất định nhưng hiệu quả chưa cao, đôi lúc còn
nhiều lúng túng. Về mặt lý luận cho thấy trước đây chưa có tác giả hoặc đề tài
nào nghiên cứu về vấn đề này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm rõ thực trạng hoạt động
điều tra tội phạm trốn khỏi nơi giam tại các trại giam thuộc Bộ Công an ở các



3

tỉnh phía Nam, trong đó chú ý làm rõ lực lượng, phương tiện, chiến thuật điều
tra đối với tội phạm này. Từ đó, tìm ra những giảI pháp nhằm nâng cao hiệu
quả hoạt động điều tra tội phạm trốn khỏi nơi giam tại các trại giam thuộc Bộ
Công an ở các tỉnh phía Nam.
3.2. Để đạt được mục đích đã nêu nêu trên, quá trình nghiên cứu luận
văn tác giả phải giải quyết các nhiệm vụ sau đây
- Đưa ra một số vấn đề thuộc về nhận thức- lý luận và cơ sở pháp lý của
hoạt động điều tra tội phạm trốn khỏi nơi giam; trên cơ sở đó nghiên cứu tình
hình, đặc điểm có liên quan đến hoạt động điều tra tội phạm trốn khỏi nơi
giam tại các trại giam thuộc Bộ Công an ở các tỉnh phía Nam.
- Khảo sát thực trạng về hoạt động điều tra tội phạm trốn khỏi nơi giam
ở các trại giam phía Nam từ năm 1999 đến năm 2004, tìm hiểu đánh giá ưu
điểm, nhược điểm và những tồn tại của công tác này; những yếu tố ảnh hưởng
trực tiếp đến chất lượng của hoạt động điều tra tội phạm trốn khỏi nơi giam
tại các trại giam thuộc Bộ Công an ở các tỉnh phía Nam.
- Nhận xét, đánh giá về hoạt động trên, trên cơ sở đó dự báo tình hình tội
phạm và đề xuất một số giải pháp cơ bản để góp phần nâng cao hiệu quả hoạt
động điều tra tội phạm trốn khỏi nơi giam tại các trại giam thuộc Bộ Công an
ở các tỉnh phía Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Về đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu các yếu tố tác
động trực tiếp đến hoạt động điều tra tội phạm trốn khỏi nơi giam tại các trại
giam thuộc Bộ Công an ở các tỉnh phía Nam, đó là: lực lượng, phương tiện,
quan hệ phối hợp và kết quả của hoạt động điều tra tội phạm trốn khỏi nơi
giam tại các trại giam thuộc Bộ Công an ở các tỉnh phía Nam.
- Về địa giới hành chính: Các trại giam trực thuộc Cục V26 quản lý từ
tỉnh Bình Thuận đến tỉnh Cà Mau. Trong đó tác giả tiến hành khảo sát thực tế,



4

tập trung nghiên cứu nhiều ở những trại giam điển hình đại diện cho 2 khu
vực: miền Đông Nam bộ và miền Tây Nam bộ.
- Phạm vi về thời gian: Luận văn nghiên cứu đối tượng trong phạm vi
thời gian từ năm 1999 đến năm 2004.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
-Phương pháp luận: luận văn được thực hiện trên cơ sở sử dụng phương
pháp luận biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác- Lênin, quan điểm của Đảng
và Nhà nước ta trong lĩnh vực phòng chống tội phạm.
-Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu luận văn, tác giả còn áp dụng các
phương pháp nghiên cứu cụ thể sau đây
+ Phương pháp phân tích tài liệu: Làm rõ một số nhận thức cơ bản về lý
luận và căn cứ pháp lý của hoạt động điều tra tội phạm trốn khỏi nơi giam tại
các trại giam thuộc Bộ Công an ở các tỉnh phía Nam.
+ Phương pháp thống kê, phân tích số liệu: Làm rõ tình hình có liên quan
và tình hình cụ thể của hoạt động điều tra tội phạm trốn khỏi nơi giam tại các
trại giam thuộc Bộ Công an ở các tỉnh phía Nam.
+ Phương pháp An két: Dùng để điều tra đánh giá thực trạng kết quả của
hoạt động điều tra tội phạm trốn khỏi nơi giam tại các trại giam thuộc Bộ
Công an ở các tỉnh phía Nam.
+ Phương pháp quan sát: Dùng để thu thập thông tin về những hoạt động
cụ thể của hoạt động điều tra tội phạm trốn khỏi nơi giam tại các trại giam
thuộc Bộ Công an ở các tỉnh phía Nam.
+ Phương pháp chuyên gia: Thống nhất quan điểm và khả năng thực thi
về hoạt động điều tra tội phạm trốn khỏi nơi giam tại các trại giam thuộc Bộ
Công an ở các tỉnh phía Nam.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn



5

- Ý nghĩa lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần vào việc
hoàn thiện lý luận Điều tra hình sự về phương pháp điều tra tội phạm trốn
khỏi nơi giam ở các trại giam thuộc Bộ Công an. Ngoài ra, những vấn đề đưa
ra nghiên cứu trong đề tài có thể được khai thác sử dụng trong quá trình
nghiên cứu, giảng dạy và học tập môn nghiệp vụ Giáo dục và cải tạo phạm
nhân tại các trường Cảnh sát nhân dân.
-Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn được vận dụng vào
thực tiễn công tác điều tra tội phạm trốn khỏi nơi giam tại các trại giam thuộc
Bộ Công an ở các tỉnh phía Nam, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động điều
tra loại tội phạm này.
7. Yếu tố mới của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có một số đóng góp mới sau đây
- Đánh giá toàn diện thực trạng hoạt động điều tra tội phạm trốn khỏi nơi
giam tại các trại giam thuộc Bộ Công an ở các tỉnh phía Nam từ năm 1999
đến năm 2004.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động
điều tra tội phạm trốn khỏi nơi giam ở các trại giam phía Nam nói riêng và
các trại giam thuộc Bộ Công an nói chung.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của
luận văn được kết cấu làm 3 chương:
Chương 1: Nhận thức chung về tội phạm trốn khỏi nơi giam và hoạt
động điều tra tội phạm trốn khỏi nơi giam ở các trại giam thuộc Bộ Công an.
Chương 2: Thực trạng hoạt động điều tra tội phạm trốn khỏi nơi giam tại
các trại giam thuộc Bộ Công an ở các tỉnh phía Nam từ năm 1999 đến năm
2004.



6

Chương 3: Dự báo và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động điều tra tội phạm trốn khỏi nơi giam tại các trại giam thuộc Bộ Công an
ở các tỉnh phía Nam.

Chương 1
NHẬN THỨC CHUNG VỀ TỘI TRỐN KHỎI NƠI GIAM VÀ
HOẠT ĐỘNG ĐIỀU TRA TỘI PHẠM TRỐN KHỎI NƠI GIAM Ở
CÁC TRẠI GIAM THUỘC BỘ CÔNG AN
1.1. Khái niệm và đặc điểm pháp lý của tội trốn khỏi nơi giam
1.1.1. Khái niệm
Tội trốn khỏi nơi giam được qui định tại Điều 311 Bộ luật Hình sự năm
1999 của nước CHXHCN Việt Nam, cụ thể như sau:
“1. Người nào đang bị giam mà bỏ trốn thì bị phạt tù từ sáu tháng đến
năm năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ ba
năm đến mười năm:
a) Có tổ chức.
b) Dùng vũ lực đối với người canh gác hoặc người dẫn giải”
Từ quy định của Bộ luật Hình sự và qua nghiên cứu các loại giáo trình,
tài liệu, chúng tôi đưa ra khái niệm tội trốn khỏi nơi giam như sau:
“Tội trốn khỏi nơi giam là tội phạm được qui định trong Bộ luật Hình sự,
do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện do cố ý dưới hình thức
lén lút bí mật hoặc công khai nhằm thoát khỏi nơi giam”.
1.1.2. Đặc điểm pháp lý của tội trốn khỏi nơi giam


7


Theo Điều 311 của Bộ luật Hình sự năm 1999, tội trốn khỏi nơi giam có
nhiều hành vi khác nhau như: bỏ trốn trong khi đang hỏi cung; trong khi đang
được đưa đi bệnh viện; đang lao động ở ngoài trại giam; đang bị dẫn giải do
thực hiện lệnh bắt để tạm giam; đang bị dẫn giải do chuyển trại giam, trại tạm
giam; đang bị dẫn giải đến phòng xử án hoặc dẫn giải về trại giam, trại tạm
giam sau khi Tòa án xét xử; đang bị dẫn giải đi thực hiện các công việc theo
yêu cầu của người có thẩm quyền (đi lao động sản xuất ngoài khu vực trại
giam; đi tham gia thực nghiệm điều tra hoặc chứng kiến một hoạt động tố
tụng...). Trong các hành vi đó có hành vi của những phạm nhân đang chấp
hành án phạt tù trốn khỏi trại giam.
Với quy định trên thì tội trốn khỏi nơi giam có nhiều hành vi cụ thể,
phạm vi tương đối rộng phụ thuộc và ràng buộc bởi nơi giam. Các trại giam,
trại tạm giam, nhà tạm giữ đó chính là “nơi giam” hiểu theo nghĩa rộng; hiểu
theo nghĩa hẹp và cụ thể là những trường hợp đối tượng trốn khỏi sự quản lý
của các cơ quan này. Vì vậy, nơi giam ở các trại giam được cụ thể như sau:
- Buồng giam, nhà giam nơi phạm nhân đang bị giam giữ; phạm nhân
thực hiện các hành vi đào tường, khoét ngạch, cưa, bẻ song sắt cửa, đục trần,
phá mái nhà, lõ thông hơi buồng kỷ luật, phá cùm, vượt tường rào bảo vệ để
trốn khỏi nơi giam. Tội phạm hoàn thành khi phạm nhân vượt ra ngoài buồng
giam, nhà giam, tường rào bảo vệ trại giam.
- Hiện trường nơi phạm nhân lao động sản xuất mà phạm nhân có thể
thực hiện những hành vi cướp súng, đe dọa hoặc tấn công cán bộ canh giữ,
công khai chạy trốn trước cán bộ quản lý hoặc lén lút lợi dụng địa hình, địa
vật phức tạp của địa bàn bỏ trốn. Tội phạm hoàn thành khi phạm nhân chạy
trốn ra khỏi khu vực qui định.
- Trốn khi đang di chuyển, di lý phạm nhân từ trại giam này sang trại
giam khác, khi cho phạm nhân đi chữa bệnh ở bệnh viện, dẫn giải đến tòa án



8

để xét xử tội phạm mới, phạm nhân có thể thực hiện những hành vi như: bỏ
chạy lúc đang bị dẫn giải; phá khóa, phá phương tiện dẫn giải chạy trốn; bỏ
trốn khi đang điều trị tại bệnh viện; đồng bọn hay thân nhân đến giải cứu,...
Tội phạm hoàn thành khi phạm nhân thực hiện được hành vi thoát khỏi sự
quản lý của cảnh sát trại giam đang thực hiện nhiệm vụ trực tiếp quản lý
phạm nhân đó.
Diện tích ở mỗi trại giam rộng hàng trăm ha, có trại giam rộng trên chục
nghìn ha (Trại giam thủ Đức 17000 ha); các trại giam có các buồng giam, khu
giam, khu sản xuất, vành đai bảo vệ... do phạm vi rộng như vậy nên ngành
quản lý trại giam có khái niệm trốn thoát và trốn chưa thoát.
Trốn chưa thoát là có thể ra khỏi buồng giam, hiện trường lao động sản
xuất nhưng vẫn còn lẩn trốn trong khu vực của trại giam trong thời gian ngắn
bị lực lượng Cảnh sát trại giam bắt lại được.
Trốn thoát là chạy trốn ra khỏi địa bàn trại giam về khu vực dân cư, việc
truy bắt đối tượng phải tiến hành ở ngoài xã hội không thuộc phạm vi quản lý
trại giam.
Theo quy định của pháp luật thì mặc dù chưa thoát thì đối tượng vẫn
phạm tội trốn khỏi nơi giam. Nơi giam là các trại giam thì tội phạm trốn khỏi
nơi giam là hành vi của phạm nhân đang chấp hành án phạt tù tại các trại
giam đã tìm cách bỏ trốn nhằm thoát khỏi sự quản lý giam giữ của Cơ quan
trại giam để trốn tránh sự trừng phạt của phát luật. Tội phạm này có các dấu
hiệu đặc trưng sau đây:
- Khách thể của tội phạm: hành vi trốn khỏi nơi giam trực tiếp xâm phạm
đến sự ổn định của cơ quan trại giam. Tội phạm thực hiện đã gây nên tình
hình mất ổn định của trại giam, không đảm bảo được sự nghiêm minh của
pháp luật.



9

Vì vậy, khách thể của tội phạm trốn khỏi nơi giam là sự an toàn của chế
độ quản lý giam giữ và sự ổn định của trại giam.
- Mặt khách quan của tội phạm: đây là tội phạm do những người đang bị
giam giữ, đang chấp hành bản án phạt tù (tù có thời hạn hoặc tù chung thân)
tại trại giam và có hành vi bỏ trốn nhằm thoát khỏi trại giam để trốn tránh sự
trừng phạt của pháp luật.
Bỏ trốn được biểu hiện bằng các hành vi, hành động đào thoát khỏi sự
quản lý của cơ quan trại giam, thủ đọan thực hiện có thể là bí mật lén lút, có
thể là công khai chống trả sự quản lý của cán bộ canh gác, dẫn giải.
Tội phạm hoàn thành khi người phạm tội đã thực hiện hành vi đào thoát
khỏi sự quản lý của người canh giữ, quản lý mà bị phát hiện.
- Mặt chủ quan của tội phạm: lỗi của người phạm tội trốn khỏi nơi giam
được thực hiện dưới hình thức lỗi cố ý trực tiếp. Khi thực hiện hành vi bỏ
trốn, người phạm tội biết rõ hành vi trốn của mình sẽ gây trở ngại cho cơ quan
quản lý trại giam, ảnh hưởng đến trật tự xã hội, chống lại án phạt tù. Mặc dù
mỗi phạm nhân trốn với động cơ khác nhau nhưng khi thực hiện trót lọt tội
phạm là đã trốn tránh sự trừng phạt của pháp luật.
- Chủ thể của tội phạm: là những người đang chấp hành hình phạt tù có
thời hạn hoặc tù chung thân ở trại giam (phạm nhân) đã thực hiện hành vi trốn
khỏi nơi quản lý, giam giữ (trại giam).
Tội phạm trốn khỏi nơi giam là một trong những tội phạm thuộc nhóm
tội xâm phạm về hoạt động tư pháp và tác động đến sự ổn định của trại giam,
tạo nên sự mất ổn định của trật tự xã hội. Những phạm nhân thuộc loại tội
phạm nguy hiểm thường bị giam giữ ở trại giam loại 1 nếu trốn thoát ra ngoài
sẽ gây hoang mang cho toàn xã hội, nhiều đối tượng rất manh động, thoát ra
là gây án ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh trật tự. Để tội phạm này xảy ra
nhiều thì pháp chế sẽ không nghiêm, vì vậy phải chủ động phòng ngừa ngăn



10

chặn các hành vi trốn khỏi nơi giam. Việc nghiên cứu các đặc điểm hình sự
của tội phạm là việc làm cần thiết không những phục vụ công tác truy xét,
truy nã nhanh chóng kịp thời mà còn đảm bảo cho hoạt động phòng ngừa tội
phạm có chiều sâu.
- Hình phạt đối với tội trốn khỏi nơi giam:
Nếu đối tượng thực hiện hành vi phạm tội vào Khoản 1 thì bị phạt tù từ
sáu tháng đến năm năm.
Nếu đối tượng thực hiện hành vi phạm tội vào Khoản 2 thì bị phạt tù từ
ba năm đến mười năm.
Như vậy, đối với tội trốn khỏi nơi giam ở các trại giam phía Nam thuộc
Bộ Công an đều áp dụng hình phạt tù có thời hạn; khung hình phạt thấp nhất
là sáu tháng và khung hình phạt cao nhất là mười năm.
1.2. Những vấn đề cần chứng minh trong điều tra vụ án trốn khỏi
nơi giam
Để đạt được mục đích của hoạt động điều tra vụ án hình sự, để đảm bảo
sự thống nhất và hiệu quả trong thực hiện pháp luật, luật tố tụng hình sự qui
định những vấn đề cần phải chứng minh trong giải quyết vụ án hình sự:
“Những vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án hình sự là hệ thống
các tình tiết của vụ án hình sự mà cơ quan tiến hành tố tụng hình sự cần phải
làm rõ để giải quyết vụ án hình sự đúng pháp luật” [22, TLTK, tr 74].
Trong hoạt động điều tra vụ án hình sự, việc xác định đúng đắn và đầy
đủ những vấn đề cần phải chứng minh có ý nghĩa rất quan trọng đến sự thành
công của hoạt động điều tra vụ án. Nó giúp cho điều tra viên xác định được
chính xác phương hướng và nội dung hoạt động điều tra, thu thập tài liệu
chứng cứ một cách đầy đủ, toàn diện những vấn đề theo yêu cầu của pháp luật
nhằm đạt được mục đích của hoạt động điều tra vụ án.



11

Khi tiến hành điều tra một vụ án hình sự cụ thể, việc xác định những vấn
đề cần phải chứng minh phải căn cứ vào Điều 63 của Bộ luật Tố tụng hình sự
và tội phạm cụ thể (của vụ án đang tiến hành điều tra) được quy định trong Bộ
luật Hình sự. Cụ thể khi tiến hành điều tra tội phạm trốn khỏi nơi giam, điều
tra viên phải căn cứ vào Điều 63 của BLTTHS và Điều 311 của BLHS để xác
định những vấn đề cần phải chứng minh.
Điều 63 của BLTTHS qui định những vấn đề cần phải chứng minh trong
vụ án hình sự như sau:
“1. Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những
tình tiết khác của hành vi phạm tội;
2. Ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố
ý hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ
phạm tội;
3. Những tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của
bị can, bị cáo và những đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo;
4. Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra.”
Những vấn đề cần phải chứng minh nói trên được qui định chung cho
các vụ án hình sự. Căn cứ vào Điều 63 của BLTTHS và Điều 311 của BLHS,
hoạt động điều tra tội phạm trốn khỏi nơi giam cần phải chứng minh làm rõ
những vấn đề sau đây:
+ Có hành vi phạm tội trốn khỏi nơi giam xảy ra hay không?
+ Thời gian, địa điểm xảy ra vụ trốn khỏi nơi giam.
+ Tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội.
+ Đối tượng gây án là ai, có 1 hay nhiều đối tượng tham gia gây án, năng
lực trách nhiệm hình sự, động cơ, mục đích phạm tội, đặc điểm nhân thân của
đối tượng gây án.
+ Đối tượng sử dụng những phương tiện nào để gây án.



12

+ Những thủ đoạn gây án của đối tượng.
+ Hậu quả tác hại do hành vi trốn khỏi nơi giam gây ra.
+ Những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của đối tượng
gây án.
+ Nguyên nhân và điều kiện phạm tội.
Trong thực tiễn hoạt động điều tra, không phải mọi trường hợp ngay từ
thời điểm bắt đầu tiến hành hoạt động điều tra, điều tra viên đã xác định đầy
đủ và chính xác những vấn đề cần phải chứng minh được xác định từng bước
dựa trên cơ sở những giả thuyết điều tra được xác định trong quá trình điều tra
đến khi điều tra viên đã chứng minh sự thật của vụ án.
1. Khái niệm, đối tượng nghiên cứu, nhiệm vụ, mối quan hệ giữa
tội phạm học và các môn khoa học khác.
1.1 Khái niệm.
Để đáp ứng nhu cầu nhận thức và cải tạo thế giới phục vụ lợi ích xã
hội, loài người đã không ngừng tìm tòi nghiên cứu các hiện tượng tự nhiên và
xã hội. Điều đó là cơ sở nảy sinh và phát triển nhiều ngành khoa học khác
nhau.
Đã từ lâu, vấn đề đấu tranh ngăn chặn tiến tới làm giảm và loại trừ tội
phạm đã trở thành một trong những mối quan tâm chú ý của các Nhà nước
dưới mọi chế độ chế độ xã hội khác nhau. Để đấu tranh có hiệu quả đối với
các loại tội phạm – hiện tượng xã hội tiêu cực và phức tạp, đòi hỏi con người
cần phải không ngừng nghiên cứu để nhận thức đầy đủ về hiện tượng này. Tội
phạm là gì? Nó được hình thành phát triểnvà tồn tại theo những quy luật nào?
Để đấu tranh với nó cần phải tiến hành bằng những phương pháp tác động ra
sao?...Công việc đó được tiến hành gắn liền với thực tế đấu tranh chống tội
phạm ở mỗi quốc gia, qua mỗi giai đoạn phát triển của xã hội. Kết quả của

quá trình đó đem laị cho loài người những tri thức phong phú cần thiết về hiện


13

tượng tội phạm và những kinh nghiệm quý báu trong đấu tranh chống tội
phạm.
Những tri thức và kinh nghiệm về tội phạm và phương pháp phòng
chống tội phạm ngày càng được tích luỹ đầy đủ. Bước đầu được phản ánh tản
mạn riêng lẻ, sau đó được đúc rút hệ thống lại và được nghiên cứu tỉ mỉ sâu
sắc hơn trong các tài liệu chuyên khảo của các ngành khoa học pháp lý, khoa
học xã hội. Trong điều kiện các lĩnh vực khoa học phát triển, mạnh mẽ theo
hướng chuyên sâu, vấn đề nghiên cứu về tội phạm và biện pháp đấu tranh
chống tội phạm được nâng lên và tách riêng thành bộ môn khoa học độc lập
chuyên nghiên cứu về những quy luật hình thành, phát sinh phát triển của tội
phạm cùng với các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn nhằm loại bỏ và hạn chế
sự tác động của hiện tượng này. Như vậy, ngành khoa học nghiên cứu về tội
phạm đã ra đời và phát triển.
Xem xét về thuật ngữ, các nhà nghiên cứu thấy rằng: “Tội phạm học”
là một cụm từ ghép bao gồm: Crimin: tội phạm (theo ngôn ngữ la tinh) và
Logos có nghĩa là: Học thuyết hoặc khoa học (theo tiếng Hy Lạp). Vậy tội
phạm học có nghĩa là “học thuyết về tội phạm” hay “khoa học nghiên cứu về
tội phạm”. Tuy nhiên, nếu nói là “nghiên cứu về tội phạm” thì nhiều ngành
khoa học nghiên cứu về vấn đề này, như: khoa học luật hình sự, khoa học luật
tố tụng hình sự, Điều tra hình sự, tâm lý học, xã hội học…Vì vậy, cá nhà
nghiên cứu tội phạm học xác định phạm vi nghiên cứu của tội phạm học được
giới hạn bởi đối tượng nghiên cứu chủ yếu của nó là:
-

Tình trạng tội phạm.


-

Nguyên nhân, điều kiện của tội phạm.

-

Nhân thân người phạm tội

-

Biện pháp phòng ngừa tội phạm.
Trên cơ sở đó, có thể nêu khái niệm về Tội phạm hộc như sau:


14

Tội phạm học là ngành khoa học, nghiên cứu về tội Tình trạng tội
phạm, nguyên nhân và điều kiện phát sinh phát triển của tình trạng tội phạm
và các loại tội phạm cụ thể, nghiên cứu nhân thân người phạm tội và các biện
pháp phòng ngừa ngăn chặn nhằm hạn chế, tiến tới loại trừ tội phạm ra khỏi
đời sống xã hội.
Trong điều kiện phát triển của sự nghiệp cách mạng hiện nay ở nước
ta, Đảng và Nhà nước đã xác định vị trí quan trọng đặc biệt của công cuộc
bảo vệ vững chắc nền an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội, đấu tranh
kiên quyết và triệt để chống các loại tội phạm hình sự. Điều đó đang đặt ra
những nhiệm vụ nặng nề cho các nhà nghiên cứu và cán bộ thực tế trong
nghiên cứu tội phạm, xây dựng phương pháp đấu tranh ngăn chặn một cách
có hiệu quả với chúng. Nghiên cứu và phát triển hoàn thiện khoa học tội
phạm là vấn đề có ý nghĩa to lớn trong sự nghiệp đấu tranh chống các loại tội

phạm hình sự, giữ vững an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội.
1.2 Đối tượng nghiên cứu của Tội phạm học.
Mỗi ngành khoa học có đối tượng nghiên cứu riêng của mình. Đó là
những quy luật tác động trong lĩnh vực mà ngành khoa học đó cần nghiên
cứu. Tội phạm học với tư cách là môn khoa học độc lập, vì vậy cũng có đối
tượng nghiên cứu riêng. Đó là những sự vật hiện tượng liên quan đến hoạt
động tội phạm và phòng ngừa tội phạm.
Trong các tài liệu Tội phạm học của nhiều nước trên thế giới đã được
xác định và phân loại thành những nhóm đối tương nghiên cứu như: nghiên
cứu tội phạm là hiện tượng của xã hội; nguyên nhân, điều kiện phạm tội, nhân
thân người phạm tội và phòng ngừa tội phạm. Có thể xác nhận rằng việc định
ra đối tượng nghiên cứu của tội phạm như vậy là đúng đắn, bởi vì điều đó
phản ánh được khái quát nội dung nghiên cứu của vấn đề về tội phạm theo
một trình tự hệ thống bao hàm được đầy đủ những vấn đề phản ánh quy luật


15

hoạt động nhận thức về hiện tượng tội phạm, từ việc xác định khái niệm tội
phạm, phạm vi tình trạng, cấu trúc tội phạm và diễn biến của nó, đến việc đi
sâu nghiên cứu nguyên nhân, điều kiên của tình trạng này, cúng như về nhân
thân người phạm tội, tất cả điều đó nhằm đến mục đích là nghiên cứu tìm tòi
biện pháp, phương tiện phòng ngừa tội phạm. Cách xác định như trên còn cho
thấy mối quan hệ chặt chẽ giữa nội dung của các nhóm đối tượng nghiên cứu.
Nghiên cứu vấn đề này có tác dụng ảnh hưởng với vấn đề khác trong hệ
thống các đối tượng đã nêu, vì vậy để thấy rằng các nhóm đối tượng nghiên
cứu trên có mối quan hệ chặt chẽ, ảnh hưởng tác động lẫn nhau và không cho
phép người nghiên cứu coi nhẹ đối tượng nghiên cứu nào trong việc nghiên
cứu soạn thảo các vấn đề về Tội phạm học. Trong lý luận Tội phạm học người
ta gọi bốn nhóm đối tượng nghiên cứu đó là bốn bộ phận cấu thành cơ bản

hoặc bốn nhóm hiện tượng xã hội cần phải nghiên nghiên cứu trong khoa học
tội phạm.
Các đối tượng nghiên cứu và nội dung cơ bản của Tội phạm học bao
gồm:
2.1.1 Tình trạng tội phạm.
Tình trạng tội phạm là hệ thống các sự kiện phạm tội cụ thể được diễn
ra trong hệ thống quốc gia hoặc khu vực trong một thời gian nhất định. Như
vậy có nghĩa là xem xét mhư một hiện tượng xã hội nhằm nắm vững bản chất
của nó cũng như các yếu tố cấu thành có tính đặc trưng của hiện tượng xã hội
này.
Đối với nhóm đối tượng này cần phải xoay quanh các nội dung cơ bản
sau:
- Nghiên cứu tình trạng hoạt động của tội phạm, cấu trúc và động thái
của Tình trạng tội phạm nói chung cũng như từng loại tội phạm cụ thể trong
phạm vi cả nước và ở mỗi vùng dân cư. Những nội dung này phản ánh số


16

lượng và tính chất hoạt động của tội phạm nói chung và các loại tội phạm cụ
thể trong mỗi thời kỳ, mỗi địa phương khác nhau.
- Nghiên cứu các mối quan hệ tác động qua lại giữa Tình trạng tội
phạm với các hiện tượng và các quá trình xã hội khác (CT,KT, VH, GD…)
hoặc với những hình thức khác nhau của hành vi tiêu cực (lười biếng, suy
thoái về đạo đức, tệ nạn xã hội ).
Nghiên cứu làm rõ những nội dung đã chỉ ra trong nhóm đối tượng
nghiên cứu trên cho phép chúng ta đánh giá một cách khái quát về Tình trạng
tội phạm nói chung trong phạm vi cả nước và ở mỗi địa phương cụ thể, đồng
thời có thể đề ra phương hướng chung, biện pháp tổng hợp trong việc phòng
ngừa ngăn chặn tội phạm.

1.2.2. Nguyên nhân nảy sinh tình trạng tội phạm và điều kiện tạo
thuận lợi cho việc thực hiện hành vi phạm tội là một trong những nội dung tất
yếu của sự phát triển và tồn tại trong mỗi thời kỳ phát triển của xã hội.
- Nguyên nhân và điều kiện của tội phạm là tổng hợp các sự vật hiện
tượng tiêu cực xã hội tác động đến con người và là hành vi phạm tội. Vì vậy
cần phải xem xét phân loại một cách khoa học các loại nguyên nhân, điều
kiện khách quan, chủ quan, trực tiếp, dán tiếp, chủ yếu thứ yếu, bên trong, bên
ngoài…điều đó có ý nghĩa quan trọng trong việc nhận thức tội phạm và sử
dụng biện pháp phòng ngừa chúng.
- Cần thiết phải có quan điểm rõ ràng trong phân biệt giữa nguyên
nhân và điều kiện, mối quan hệ tác động giữa nguyên nhân và điều kiện trong
quá trình tác động đến hành vi phạm tội.
- Nghiên cứu tìm ra cơ chế tác động của nguyên nhân và điều kiện tội
phạm đối với hành vi của con người phạm tội (các yếu tố tiêu cực về kinh tế,
tư tưởng, tâm lý, giáo dục…tác động đến con người như thế nào trong quá
trình đãn đến việc phạm tội).


17

Trong điều kiện trình độ lý luận về tội phạm ở nước ta hiện nay chưa
được phát triển hoàn hảo, trong việc nghiên cứu và xác định nguyên nhân,
điều kiện của Tình trạng tội phạm nói chung và tội phạm cụ thể còn nhiều vấn
đề cần phải xem xét để đi đến thống nhất quan điểm. Chẳng hạn còn có sự
nhầm lẫn giữa nguyên nhân và điều kiện phạm tội, giữa nguồn gốc tội phạm
và nguyên nhân, điều kiện tội phạm…điều đó dẫn đến việc xem xét đánh giá
vấn đề nguyên nhân và điều kiện tội phạm còn có sự khác nhau. Từ đó cho
thấy, tính cấp bách của việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện tội phạm
trong khoa học Tội phạm học ở nước ta.
1.2.3. Nhân thân người phạm tội.

Nhân thân người phạm tội là đối tượng nghiên cứu quan trọng của Tội
phạm học. Có thể hiểu khái niệm nhân thân người phạm tội là “những đặc
điểm dấu hiệu thể hiện bản chất xã hội của con người phạm tội”. Con người
có thể có nhiều loại phẩm chất tính cách khác nhau như tính cách sinh vật
(giới tính, lứa tuổi, chiều cao , cân nặng, màu tóc, màu da…) bản năng động
vất và những phẩm chất tính cách xã hội (quan điểm, trình độ học vấn, tình
trạng gia đình, quan hệ xã hội …)
Tội phạm học nghiên cứu nhân thân người phạm tội theo các nội dung
sau:
- Nghiên cứu các đặc điểm về xã hội – nhân khẩu học bao gồm giới
tính, lứa tuổi, trình độ học vấn, hoàn cảnh gia đình, nghề nghiệp….
- Nghiên cứu về phẩm chất đạo đức và tâm lý cá nhân kể phạm tội. Ơ
đây cần đề cập đến các đặc điểm về thái độ đối xử của kể phạm tội và các tổ
chức chính quyền, tổ chức xã hội và những con người xung quanh, đối với
các giá trị tinh thần, đạo đức xã hội …cũng như các yếu tố về trí tuệ, tình
cảm…đặc biệt, nghiên cứu các biểu hiện của nhân cách kẻ phạm tội trong
quá trình sống; hoạt động lao động, công tác xã hội , vai trò cá nhân trong xã


18

hội , trong đơn vị công tác,trong các nhóm người và với những con người cụ
thể khác, các cơ quan, đơn vị khác.
Nghiên cứu các đặc điẻm cá nhân kẻ phạm tội mang tính pháp luật
hình sự. Tính chất hành vi tội phạm, mục đích, động cơ phạm tội, hoạt động
cá nhân hay tổ chức, vai trò trong các tổ chức phạm tội, các tiền án, tiền sự…
- Phân loại nhân thân người phạm tội phục vụ cho công tác phòng
ngừa ngăn chặn hoặc giáo dục người phạm tội.
Tất cả những nội dung trên tạo thành hệ thống các đặc tính thể hiện
bản chất xã hội của con người phạm tội. Nghiên cứu những vấn đề trên có ý

nghĩa quan trọng trong việc xác định nguyên nhân và điều kiện tội phạm nói
chung và các loại tội phạm cụh thể, con người cụ thể. Mặt khác nghiên cứu
nhân thân người phạm tội giúp ta đề ra biện pháp phòng ngừa, giáo dục và
nâng cao hiệu quả biện pháp phòng ngừa tội phạm nói chung và các tội phạm
cụ thể.
1.2.4. Phòng ngừa tội phạm.
Phòng ngừa tội phạm là hệ thống các biện pháp của Nhà nước và xã
hội hướng đến việc xoá br, hạn chế nguyên nhân, diều kiện tội phạm, ngăn
ngừa kịp thời những hành vi sai lệch của những người có ý định phạm tội. Ơ
nhiều nước trên thế giới cũng như ở nước ta hiện nay phòng ngừa tội phạm đã
và đang trở thành một hoạt động thức tế, có sự tham gia đông đảo của cơ
quamn nhà nước, tổ chức xã hội và mọi công dân. Hoạt động này cần thiết
phải được xem xét nghiên cứu một cách khoa học nhằm mục đích ngày càng
hoàn thiện hơn về mật lý luận và các biện pháp tiến hành cụ thể, nâng cao
chất lượng của công tác phòng ngừa tội phạm.
Về mặt lý luận, theo quan điểm hệ thống, phòng ngừa tội phạm được
phân tích, xem xét trên các khía cạnh sau:
-

Khái niệm, phạm vi phòng ngừa tội phạm.


19

-

Mục đích, nhiệm vụ phòng ngừa tội phạm cụ thể.

-


Nôi dung phòng ngừa tội phạm.

-

Chủ thể tham gia phòng ngừa tội phạm.

-

Phương pháp, biện pháp, phương tiện tiến hành hoạt động phòng
ngừa tội phạm.

-

Những hoạt động khác nhằm nâng cao hiệu quả công tác phòng
ngừa tội phạm: Dự báo tội phạm, thông tin tội phạm, kế hoạch hoá, yếu tố nạn
nhn .
Những bộ phận cấu thành nêu trên tạo nên đối tượng nghiên cứu của
khoa học tội phạm có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động ảnh hưởng lẫn
nhau. Những loại đối tượng nghiên cứu này phản ánh nội dung nghiên cứu tội
phạm nói chung, cúng như khi nghiên cứu từng nhóm, từng loại tội phạm cụ
thể ở mỗi địa phương và trong mỗi thời gian nhất định.
Nếu xem xét các loại đối tượng nghiên cứu của tội phạm học trong
một tổng thể thì có thể nhận thấy rằng: các loại dối tượng nghiên cứu như
Tình trạng tội phạm, nguyên nhân và điều kiện tội phạm và nhân thân người
phạm tội cho phép xác định tính chất, mức độ tội phạm, nguyên nhân điều
kiện của nó, các quy luật phát sinh, phát triển và tồn tại của tội phạm. Còn đối
tượng nghiên cứu cuói cùng, phòng ngừa tội phạm, là cách thức tác động với
tội phạm, nguyên nhân, điều kiện của nó nhằm hạn chế, tiến tới loại bỏ hiện
tượng này kỏi đời sống xã hội, đó cũng là mục đích nghiên cứu của khoa học
Tội phạm học.

1.3. Hệ thống Tội phạm học.
Quan điểm hệ thống là một trong những quan điểm phổ biến được sử
dụng trong khoa học. Ý nghĩa tác dụng của nó đối với nghiên cứu là giúp cho
chúng ta nghiên cứu và nhận thức vấn đề nghiên cứu một cách có hệ thống,
lôgíc về nội dung và hình thức của vấn đề, qua đó phát hiện, bổ sung và làm


20

sáng tỏ những vấn đề trong nội dung nghiên cứu Tội phạm học, giúp chúng ta
nhận thức có hệ thống về môn học này.
Hệ thống khoa học tội phạm được xây dựng trên hai cơ sở chính:
Theo đối tượng nghiên cứu và heo mức độ tổng quát các thông tin tư liệu
khoa học và thực tiễn.
a. Xuất phát từ đối tượng nghiên cứu có thể sắp xếp hệ thống Tội
phạm học theo 4 vấn đề chính:
+ Tình trạng tội phạm.
+ Nguyên nhân và điều kiện tội phạm nói chung và các loại tội phạm
cụ thể
+ Nhân thân người phạm tội.
+ Phòng ngừa tội phạm nói chung và các loại tội phạm cụ thể.
Tổng hợp các kiến thức về các mặt nói trên tạo thành môn khoa học
hoàn chỉnh – Tội phạm học.
b. Theo mức độ tổng hợp các thông tin, tài liệu đã được nghiên cứu
thu thập, tích luỹ trong quá trình nghiên cứu, người ta chia toàn bộ môn khoa
học thành 2 phần: Phương pháp lý luận chung (phần chung) và phần lý luận
về các loại tội phạm cụ thể (phần cụ thể).
- Trong phần chung được trình bày các quan điểm, quan niệm, khái
niệm và các vấn đề có liên quan đến Tội phạm học. Ở phần này bao gồn có
các nội dung sau:

+ Khái niệm, đối tượng, hệ thống Tội phạm học.
+ Phương pháp luận trong nghiên cứu Tội phạm học và nhiệm vụ của
nó.
+ Mối quan hệ giữa Tội phạm học và các ngành khoa học khác.
+ Tình hình nghiên cứu và phát triển của Tội phạm học ở Việt nam và
trên thế giới.


21

+ sự khác nhau giữa Tội phạm học XHCN và Tội phạm học tư sản.
+ Lý luận chung về tình trạng, cấu trúc, động thái tội phạm.
+ Lý luận chung về nhân thân người phạm tội.
+ Lý luận chung về nguyên nhân và điều kiện của Tình trạng tội phạm
và tội phạm cụ thể.
+ Vấn đề phòng ngừa tội phạm.
+ Dự báo tội phạm.
+ Thông tin Tội phạm học.
Những vấn đề trên dược trình bày một cách khái quát đi sâu về mặt lý
luận cơ bản có tính hướng dẫn cho việc nghiên cứu cụ thể. Điều đó giúp
chúnh ta nhận thức một cách tổng quát về toàn bộ nội dung môn học trong đó
có các quan điểm, khái niệm cơ bản về các sự vật hiện tượng và quá trình xã
hội liên quan đến Tội phạm học.
Trong phần cụ thể đượch đi sâu nghiên cứu đặc điểm và các biện pháp
phòng ngừa từng loại tội phạm cụ thể. Việc phân chia ra các loại tội phạm cụ
thể để đi sâu nghiên cứu là cần thiết, tuy nhiên các loại tội phạm cụ thể rất đa
dạng. Nếu phân tích chúng để nghiên cứu trong các tài liệu Tội phạm học thì
rất rộng và phức tạp, mặt khác có thể dẫn đến trùng lặp các nội dung nghiên
cứu như đặc điểm tính chất và biện pháp phòng ngừa tội phạm. Vì vậy, cần
thiết phải tập hợp các loại tội phạm theo từng nhóm có tính chất, mức độ,

hành vi, chủ thể hoặc khách thể xâm hại tương tự giống nhau để nghiên cứu
và soạn thảo biện pháp phòng ngừa cụ thể.
Việc phân chia các nhóm tội phạm để nghiên cứu trong Tội phạm học
có nhiều cách khác nhau.
+ Theo mục tiêu cuộc đấu tranh chống tội phạm đã được đề cập trong
các văn bản tài liệu ở Việt nam, có thể phân chia các nhóm tội phạm: tội


22

phạm xâm phạm an ninh quốc gia, tội phạm xâm phạm trật tự an toàn xã hội,
tội phạm kinh tế, tội phạm về ma tuý…
+ Theo mức độ về lỗi của người thực hiện hành vi phạm tội có: tội
phạm cố ý và tội phạm vô ý.
+ Theo tính chất phạm tội có nhóm phạm tội lần đầu và tái phạm.
+ Căn cứ vào đặc điểm nhân thân người phạm tội chia ra: tội phạm
thanh niên, tội phạm phụ nữ, tội phạm vị thành niên, tội phạm chức vụ…
+ Căn cứ vào khách thể xâm hại, đối tượng bị tội phạm tấn côngcó thể
chia ra các nhóm sau:
Tội phạm xâm phạm sở hữu (tài sản XHCN, tài sản riêng công dân);
tội phạm xâm phạm tính mạng sớc khoả, nhân phẩm, danh dự con người; tội
phạm xâm phạm trật tự công cộng….
Như vậy, có nhiều cách chia nhóm các loại tội phạm để nghiên cứu
còn phụ thuộc các nhu cầu cụ thể của từng lĩnh vực, từng thời gian, từng địa
phương, quá trình đấu tranh chống tội phạm và phòng ngừa ngăn chặn chúng.
Đối với lực lượng cảnh sát nhân dân, với chức năng nhiệm vụ chủ yếu là đấu
tranh chống tội phạm hình sự, thì cần thiết phải đi sâu nghiên cứu theo các
nhóm tội phạm sau đây:
1. Các tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khoẻ và danh dự, nhân
phảm của con người.

2. Các tội phạm xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân.
3 Các tội phạm xâm phạm sở hữu.
4 Các tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế.
5 Các tội phạm về ma tuý.
6 Các tội phạm xâm phạm trật tự công cộng, an toàn công cộng.
7. Tội phạm xâm phạm trật tự quản lý hành chính.
8 Các tội phạm về chức vụ.


23

Ngoài ra, trong tình hình hiện nay đòi hỏi tập ttrung nghiên cứu vào
một số loạ tội phạm nổi lên như: Tội phạm do người chưa thành niên gây ra,
tội phạm bạo lực, tội phạm có tổ chức, tội phạm quốc tế…
Trong mỗi loại, nhóm tội phạm đặt ra nghiên cứu cần thiết phải đề cập
được các nội dung cơ bản là:
+ Tình trạng cấu trúc, diễn biến tội phạm trong phạm vi nhất định về
không gian và thời gian.
+ Đặc điểm nhân thân người phạm tội.
+ Nguyên nhân và điều kiện phạm tội.
+ Biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm.
Xem xét lý luận Tội phạm học một cách có hệ thống như trên là cần
thiết. Đối chiếu với trình độ phát triển lý luận Tội phạm học ở nước ta nói
chung, so với các khoa học xã hội khác có thể nhận thấy rằng: Việc nghiên
cứu của chúng ta còn chưa theo một hệ thống hoàn chỉnh, còn coi nhẹ việc
nghiên cứu hoàn thiện lý luận chung, chưa tổng kết đầy đủ các kinh nghiệm
về nghiên cứu và các kiến thức trong lĩnh vực này. Chúng ta thường chỉ chú ý
tập trung vào các đối tượng cụ thể trong từng lĩnh vực, từng địa phương vì
vậy dẫn đến tình trạng nghiên cứu phiến diện, tài liệu tản mạn, chưa tích luỹ
để khái quát những vấn đề về lý luận có tính bao quát. Trên cơ sở xem xét hệ

thống Tội phạm học cần phải suy nghĩ mở ra phương hướng nghiên cứu đúng
đắn, toàn diện trong lính vực khoa học này.
1.4. Nhiệm vụ của Tội phạm học.
Là một môn khoa học cụ thể, độc lập Tội phạm học phải có nhiệm vụ
riêng của mình. Xác định đúng đắn phạm vi nhiệm vụ của Tội phạm học là cơ
sở để nghiên cứu, phát hiện, tích luỹ và hệ thống những kiến thức khoa học có
liên quan đên tội phạm, xác định đúng vị trí phương hướng hoạt động của các


24

cơ quan Nhà nước và xã hội, đội ngũ cán bộ lý luận và nhân viên thực tế
trong việc tham gia vào lĩnh vực khoa học này.
Nhiệm vụ của Tội phạm học là những công việc cần phải tiến hành,
trong hoạt động nghiên cứu khoa học Tội phạm học để đạt mục đích phát
triển và hoàn thiện hệ thống lý luận khoa học về tội phạm, tác động 1 cách có
hiệu quả với thực tế cuộc đấu tranh chống các loại tội phạm, tích cực phòng
ngừa không để tội phạm xảy ra, xoá bỏ nguyên nhân, điều kiện phạm tội trong
xã hội của chúng ta.
Xuất phát từ nhiệm vụ của một ngành khoa học, từ thực tế đấu tranh
phòng ngừa tội phạm và tình hình phát triển Tội phạm học Việt nam hiện nay,
nhiệm vụ của Tội phạm học ở Việt nam được đặt ra như sau:
- Một là, nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống về Tình trạng tội
phạm xảy ra ở Việt nam, xác định rõ bản chất của nó, làm rõ nguyên nhân,
điều kiện tội phạm và các vụ việc phạm tội cụ thể, dự báo Tình trạng tội phạm
và đề xuất biện pháp phòng ngừa, không để tội phạm nảy sinh và phát triển.
- Hai là, trên cơ sở nghiên cứu nắm vững bản chất hiện tượng tội
phạm, nguyên nhân và điều kiện của nó, mối quan hệ của hiện tượng tội phạm
vứi các hiện tượng xã hội khác xây dựng các luận cứ khoa học vững chắc cho
các đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển KT – XH nói

chung và chính sách trong lĩnh vực đấu tranh chống tội phạm hình sự trong
mỗi giai đoạn phát triển xã hội.
- Ba là, hoàn thiện hệ thống lý luận Tội phạm học, xây dựng Tội phạm
học trở thành môn khoa học độc lập phong phú, phù hợp với điều kiện ở Việt
nam tiếp thu đầy đủ các thành tựu tiến tiến nhất của tội phạm học các nước
trên thế giới, tích cực đấu tranh chống lại các quan điểm sai trái, quan điểm
Tư sản trong lĩnh vực nghiên cứu tội phạm.


25

- Bốn là, đảm bảo sử dụng và ứng dụng các kiến thức thành tựu khoa
học vào thực tế công tác đấu trang phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, giáo dục
cảm hoá người phạm tội, nâng cao hiệu quả của các biện pháp, phương tiện
phòng ngừa tội phạm trong mỗi lĩnh vực hoạt động của xã hội.
Như vậy có thể thấy rằng: trong điều kiện nước ta hiện nay nhiệm vụ
Tội phạm học rất nặng nề để thực hiện được các nhiêm vụ đã đặt ra, trước hết
đòi hỏi chúng ta phải nhận thức đúng đắn vị trí quan trọng của môn khoa học
này, phải có phương hướng hoạt động rõ ràng, phù hợp, phải có sự tham gia
đông đảo của đội ngũ cán bộ khoa học và các nhân viên thực hành đang làn
nhiệm vụ phòng ngừa, điều tra, xử lý tội phạm, có sự quan tâm của các tổ
chức Đảng, các cơ quan Nhà nước và các tổ chức xã hội trong quá trình thực
hiện nhiệm vụ Tội phạm học hiện nay của nước ta.
1.5.

Mối qun hệ của Tội phạm học với các lĩnh vực khoa học
khác.
Mỗi khoa học được phát triển như một quá trình. Trong quá trình đó
có sự tiếp thu, sử dụng và phát triển thành tựu của các lĩnh vực khoa học
khác. Vì vậy cáclĩnh vực khoa học trong chừng mực nào đó đều có liên quan

với nhau. Tội phạm học cũng vậy, nó cdó liên quan đến những lĩnh vực khoa
học khác.
Tuy nhiên có thể thấy rằng: Tội phạm học nghiên cứu về hiện tượng
tội phạm có tính xã hội; các nguyên nhân điều kiện tội phạm được chứng
minh là những hiện tương xã hội tiêu cực tác động đến hành vi của con người
phạm tội. Những biện pháp được soạn thảo để sử dụng trong phòng ngừa tội
phạm phải phù hợp với điều kiện xã hội và suy đến cùng do chính con người
tổ chức thực hiện trong thức tế hoạt động trong xã hội. Vì vậy khi xem xét
mối quan hệ của Tội phạm học với các khoa học khác trước hết cần phải xác
định nó là một khoa học thuộc lĩnh vực khoa học xã hội, có quan hệ một cáhc


×