Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Quan điểm của đảng ta về điều kiện và tiêu chuẩn của người đảng viên đảng cộng sản việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.43 KB, 20 trang )

PHẦN A: MỞ ĐẦU
Điều lệ Đảng là văn kiện cơ bản của Đảng Cộng sản Việt Nam, làm căn
cứ để xây dựng và chỉ đạo hoạt động của các tổ chức đảng và công tác xây
dựng Đảng. Điều lệ Đảng thường nêu những vấn đề chủ yếu: tơn chỉ, mục
đích; nguyên tắc tổ chức và hệ thống tổ chức của Đảng; nhiệm vụ, quyền hạn
của các tổ chức Đảng và đảng viên; tiêu chuẩn và điều kiện của đảng viên;
mối quan hệ của Đảng với các tổ chức có liên quan,...
Sức mạnh của một tổ chức đảng phụ thuộc một phần ở số lượng đảng
viên, nhưng trước hết là ở chất lượng đảng viên, tức là ở ý chí cách mạng, ở
trình độ hiểu biết, ở năng lực lãnh đạo, tổ chức thực hiện của đảng viên. Số
lượng chỉ trở thành sức mạnh khi nó tuân theo những yêu cầu về chất lượng. Vì
vậy, để bảo đảm nâng cao chất lượng đảng viên, việc kết nạp người ưu tú, bảo
đảm đúng tiêu chuẩn, điều kiện đảng viên. Điều lệ Đảng qua các kỳ Đại hội
Đảng đều có những bổ sung về tiêu chuẩn, điều kiện đảng viên cho phù hợp
với nhiệm vụ của từng thời kỳ cách mạng.
Quan điểm của Đảng ta về tiêu chuẩn và điều kiện của người đảng viên
Đảng Cộng sản Việt Nam qua các thời kỳ Đại hội từ ngày 3-2-1930 đến Đại
hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, đều được thể hiện ở Chương I điều 1,
chương nói về đảng viên.
Qua mỗi thời kỳ Đại hội Đảng, quan điểm của Đảng ta về tiêu chuẩn và
điều kiện đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam ln có những vấn đề bổ sung
sửa đổi phù hợp với đường lối nhiệm vụ cách mạng qua mỗi thời kỳ. Có
những vấn đề về tiêu chuẩn và điều kiện đảng viên ở những điều lệ trước
khơng có, hoặc trước đã có, sau thấy khơng cần thiết hoặc khơng phù hợp
phải bỏ hoặc sửa lại; có khi lần trước đã bỏ, đã sửa, lần sau thấy cần giữ lại,
v.v... Điều đó phù hợp với tình hình thực tiễn và trình độ trưởng thành của
Đảng ta. Tuy nhiên, dù có sửa đổi bổ sung như thế nào thì quan điểm của
Đảng ta về tiêu chuẩn và điều kiện đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn


thể hiện được bản chất giai cấp và tính tiên phong của Đảng; đồng thời chứng


minh được sự trưởng thành của Đảng theo tiến trình phát triển của cách mạng
Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Tiêu chuẩn, điều kiện đảng viên là những quy định cơ bản về phẩm
chất chính trị, đạo đức và năng lực của người đảng viên, nhờ đó phân biệt
được ranh giới giữa người đảng viên và quần chúng tích cực ngồi Đảng. Xác
định đúng tiêu chuẩn và điều kiện đảng viên bảo đảm cho Đảng luôn giữ được
bản chất giai cấp công nhân và tính tiên phong, giúp Đảng có căn cứ để xây
dựng đội ngũ đảng viên trong sạch, vững mạnh đảm bảo thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ cách mạng.
Vì vậy, Quan điểm của Đảng ta về điều kiện và tiêu chuẩn của người
đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam có ý nghĩa cả lý luận và thực tiễn trong
công tác Xây dựng Đảng của Đảng ta.

2


PHẦN A: NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: VAI TRÒ CỦA ĐẢNG VIÊN ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM
Từ năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam bước lên vũ đài chính trị, gánh
vác sứ mệnh lãnh đạo cách mạng Việt Nam, phấn đấu vì độc lập, tự do và chủ
nghĩa xã hội. Kể từ đó, dân tộc ta đã làm nên những chiến công rạng rỡ, viết
tiếp những trang sử vàng chói lọi. Là Đảng cầm quyền, Đảng phải thực sự
trong sạch, vững mạnh đủ sức để lãnh đạo chính quyền và lãnh đạo xã hội, mà
vai trị đó thể hiện rõ nét nhất là đội ngũ đảng viên và từng đảng viên của
Đảng, trong từng giai đoạn cách mạng.
Vai trò của đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, trước nhất thể hiện ở
quan hệ giữa đảng viên với lý tưởng cộng sản, đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng và nhiệm vụ chính trị của tổ chức cơ sở đảng.
Đảng viên là người đóng góp ý kiến, góp phần xây dựng hồn thiện

đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, nhiệm vụ chính trị của tổ chức cơ
sở đảng và trực tiếp thực hiện. Hồ Chí Minh từng nói: “Đảng viên là người
thay mặt Đảng đại biểu cho lợi ích của giai cấp cơng nhân và nhân dân lao
động. Vì vậy, lợi ích của người đảng viên phải ở trong chứ không thể ở ngồi
lợi ích của Đảng, của giai cấp. Đảng và giai cấp thắng lợi và thành công, tức là
đảng viên thắng lợi và thành công. Nếu rời khỏi Đảng, rời khỏi giai cấp thì cá
nhân dù tài giỏi mấy, cũng nhất định khơng làm nên việc gì”[2, tr288-289].
Trong q trình thực hiện, đảng viên là người góp phần kiểm nghiệm, khẳng
định tính đúng đắn, phát hiện những điều chưa hợp lý của đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng và nhiệm vụ chính trị của tổ chức cơ sở đảng, để
cấp có thẩm quyền bổ sung, làm cho đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng đúng đắn hơn, cấp ủy cơ sở sửa chữa, điều chỉnh để nhiệm vụ chính trị
của cơ sở hồn chỉnh hơn. Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy rằng: “ Mọi công việc
Đảng đều do đảng viên làm. Mọi nghị quyết Đảng đều do đảng viên chấp
hành… Mọi khẩu hiệu, mọi kế hoạch của Đảng đều do đảng viên cố gắng thực
hiện”[1, tr235-236]. Vì thế, nếu khơng có đảng viên thì lý tưởng cộng sản cao
3


đẹp, đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng, nhiệm vụ chính trị
đúng đắn của tổ chức cơ sở đảng sẽ không thành hiện thực, không đi vào cuộc
sống sinh động.
Đảng viên là người đưa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng
vào quần chúng. Trực tiếp tổ chức, giáo dục và lãnh đạo quần chúng thực
hiện. Họ là người duy trì và tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với quần
chúng. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Mọi chính sách của Đảng đều do đảng
viên mà thấu đến quần chúng”[1, tr253]; “Mỗi đảng viên là một người thay
mặt cho Đảng trước quần chúng, để giải thích chính sách của Đảng và của
Chính phủ cho quần chúng hiễu rõ và vui lòng thi hành”[3, tr270]. Được
Đảng tổ chức, giáo dục và đưa vào phong trào hoạt động cách mạng, quần

chúng sẽ trưởng thành, mối quan hệ giữa đảng viên và quần chúng ngày càng
được tăng cường. Hồ Chí Minh cho rằng, trong mọi công việc đảng viên phải
giữ vai trò tiên phong gương mẫu, thực hiện khẩu hiệu: “đảng viên đi trước
làng nước theo sau”. Từ phong trào cách mạng của quần chúng sẽ sản sinh ra
những người ưu tú, để Đảng giáo dục, kết nạp họ vào Đảng, bổ sung cho
Đảng nguồn lực và tố chất mới, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức
chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và của toàn Đảng.
Mặt khác, phong trào cách mạng của quần chúng là môi trường tốt nhất
để giáo dục, rèn luyện đảng viên và sàng lọc đội ngũ đảng viên. Đó cũng là nơi
khẳng định những đảng viên xuất sắc, để Đảng xem xét giao cho trọng trách
cao hơn. Qua phong trào cách mạng của quần chúng, những đảng viên thối
hóa, biến chất, khơng đủ tư cách đảng viên và những đảng viên không đáp ứng
yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chính trị của tổ chức cơ sở đảng và yêu cầu của
cách mạng sẽ bị đưa ra khỏi Đảng.
Để có một đội ngũ đảng viên đáp ứng yêu cầu của mỗi giai đoạn cách
mạng, Đảng phải không ngừng tiến hành công tác đảng viên của mình. Đó là
một trong những nội dung chủ yếu, quan trọng của công tác xây dựng Đảng,
nâng cao sức chiến đấu của Đảng, bởi vì chất lượng đảng viên quyết định
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Do vậy, Hồ Chí Minh ln
4


ln quan tâm xây dựng đội ngũ đảng viên có chất lượng, quan tâm việc xem
xét, lựa chọn người vào Đảng, vì đây là một vấn đề có ý nghĩa quyết định đến
chất lượng đội ngũ đảng viên. Hồ Chí Minh cho rằng, vào Đảng để phụng sự
Tổ quốc, phụng sự nhân dân, do đó Đảng phải lựa chọn những người đã kinh
qua thử thách và đủ điều kiện vào Đảng, đó là “những người con ưu tú trong
cơng nhân, nơng dân, trí thức và các tầng lớp khác”.
Đảng viên là chiến sĩ cách mạng tiên phong gương mẫu, nói đi đôi với
làm, thực sự tỏ rõ vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành

của nhân dân. Xây dựng đảng viên phải theo quan điểm của giai cấp công
nhân. Bản chất giai cấp công nhân của Đảng không chỉ thể hiện ở hệ tư tưởng,
lý luận, ở đường lối chính trị, tổ chức mà cịn được biểu hiện cụ thể trong hoạt
động của đội ngũ đảng viên. Thực tế cho thấy, Đảng và mọi tổ chức nói chung,
đều do con người lập ra. Chúng là sản phẩm của con người và do đó, nó phụ
thuộc vào con người lập ra. Tổ chức mạnh hay yếu, tính chất hoạt động cách
mạng hay phản động, triệt để hay cải lương,…phụ thuộc một cách quyết định
vào chất lượng của con người trong tổ chức. Tổ chức đảng không nằm ngồi sự
tất yếu đó. Đảng do nhiều đảng viên – những người tiên tiến, tự nguyện, có
cùng mục đích hợp lại. Phẩm chất chính trị, tài năng thực tiễn của đảng viên
hợp thành sức mạnh của Đảng. Tính chất kiên định trong nhận thức và hành
động của đảng viên, là một trong những nhân tố quan trọng kết thành bản chất
của Đảng. Bản chất cách mạng, khoa học của Đảng lại được thể hiện trong hoạt
động cụ thể, thường ngày của từng đảng viên. Chính mối quan hệ biện chứng
ấy đã địi hỏi: Đảng chân chính cách mạng của giai cấp công nhân phải xây
dựng được đội ngũ đảng viên thực sự tỏ rõ là những chiến sĩ cách mạng, tiên
phong gương mẫu.

5


CHƯƠNG 2: QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG TA VỀ ĐIỀU KIỆN VÀ
TIÊU CHUẨN NGƯỜI ĐẢNG VIÊN ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Từ Đại hội lần thứ VI (12-1986), xét cách thể hiện ở Điều 1 trước đó tuy
về căn bản là thích hợp, nhưng giữa điều kiện để được xét và tiêu chuẩn để
được kết nạp vào Đảng còn viết chung làm một cho nên Đại hội đã quyết định
tách nội dung của Điều 1 thành hai phần như sau: “Những công dân Việt Nam
từ 18 tuổi trở lên, có lao động, khơng bóc lột, thừa nhận và nguyện tích cực
phấn đấu để thực hiện đường lối chính trị và Điều lệ của Đảng, nguyện hoạt
động trong một tổ chức cơ sở đảng, phục tùng kỷ luật của Đảng, sẵn sàng nhận

mọi nhiện vụ Đảng giao và đóng đảng phí theo quy định, đều có thể được xét
để cơng nhận là đảng viên”. Đây là những điều kiện và tiêu chuẩn của người
đảng viên khi được kết nạp vào Đảng. Người được công nhận là đảng viên phải
là người trải qua rèn luyện trong phong trào cách mạng đã chứng tỏ là người ưu
tú nhất trong quần chúng, có đủ tiêu chuẩn sau đây: có giác ngộ về lý tưởng
cộng sản chủ nghĩa, có động cơ vào Đảng đúng đắn; trung thành với Tổ quốc,
với chủ nghĩa xã hội; gương mẫu và phát huy tác dụng tích cực trong lao động
sản xuất, cơng tác, chiến đấu và học tập; có liên hệ chặt chẽ với quần chúng,
được quần chúng tín nhiệm. Nếu như trước đây, tính tiền phong, gương mẫu
của đảng viên được nêu chung với các yêu cầu khác, thì nay được nêu thành
một đoạn riêng với các yêu cầu rất cụ thể.
“Người được công nhận là đảng viên phải là người trải qua rèn luyện
trong phong trào cách mạng đã chứng tỏ là người ưu tú nhất trong quần
chúng, có đủ các tiêu chuẩn sau đây: có giác ngộ về lý tưởng cộng sản chủ
nghĩa, có động cơ vào Đảng đúng đắn; trung thành với Tổ quốc, với chủ
nghĩa xã hội; gương mẫu và phát huy tác dụng tích cực trong lao động sản
xuất, công tác, chiến đấu và học tập; có liên hệ chặt chẽ với quần chúng, được
quần chúng tín nhiệm".
Theo nội dung trên đây thì, một mặt Điều lệ vẫn giữ được tinh thần của
công thức do V.I.Lênin đề ra, mặt khác bổ sung các tiêu chuẩn cần thiết để
người xin vào Đảng được công nhận là đảng viên. Nội dung Điều 1 lần này có
6


bổ sung các ý: có động cơ vào Đảng đúng đắn và phát huy tác dụng tích cực
trong lao động sản xuất, công tác, chiến đấu và học tập nhằm đề phịng kết
nạp phải những phần tử cơ hội, có mục đích vào Đảng để có danh lợi, địa vị
trong điều kiện đảng cầm quyền; và để đề phòng đưa vào Đảng những người
tuy trong lao động sản xuất, công tác, chiến đấu, học tập thể hiện tích cực
nhưng ít quan hệ với quần chúng, không tạo điều kiện hoặc ít quan tâm giúp

đỡ quần chúng. Tóm lại, một mặt đề phòng cơ hội chủ nghĩa, mặt khác đề
phòng trung bình chủ nghĩa chưa thật sự giác ngộ về Đảng.
Trong thời kỳ mới, Đảng ta đang bước vào thời kỳ đổi mới, nhiệm vụ
đặt ra là hết sức nặng nề và khó khăn là phát triển kinh tế, ổn định đời sống xã
hội. Do đó, nhiệm vụ đặt ra đối với người đảng viên cũng hết sức quan trọng,
là cùng nhân dân thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới do Đảng đề ra.
Đại hội lần thứ VII (6-1991) của Đảng thông qua Điều lệ (sửa đổi) đã
theo tinh thần ngắn gọn sửa lại Điều 1 như sau: “Những công dân Việt Nam
từ mười tám tuổi trở lên đều có thể được xét để kết nạp vào Đảng, nếu:
thừa nhận và tự nguyện phấn đấu thực hiện Cương lĩnh chính trị và Điều lệ
Đảng, hoạt động trong một tổ chức cơ sở của Đảng, phục tùng kỷ luật
Đảng, sẵn sàng nhận nhiệm vụ được giao; gương mẫu trong lao động, chiến
đấu, học tập, có lối sống lành mạnh, khơng bóc lột; có kiến thức và năng
lực thực hiện nhiệm vụ đảng viên; gắn bó mật thiết với quần chúng, được
quần chúng tín nhiệm, qua thực tiễn chứng tỏ là người ưu tú”.
Điểm bổ sung chính vào Điều 1 lần này là nhấn mạnh thêm mặt “kiến
thức và năng lực thực hiện nhiệm vụ đảng viên”. Tại Đại hội làn thứ VII
khơng có thảo luận gì về đề nghị này. Vấn đề lớn được đặt ra ở đại hội các
cấp là có nên đưa cụm từ “khơng bóc lột” vào Điều 1 không. Ban Chấp hành
Trung ương đề nghị vẫn giữ cụm từ này, coi đó là vấn đề thuộc về bản chất
của Đảng, khi nền kinh tế đã chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần vận
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã
hội chủ nghĩa.
7


Tại Đại hội Đảng lần thứ VII, Đảng ta khẳng định, cơng cuộc đổi mới
tồn diện đất nước trong bối cảnh quốc tế, trong nước và tình hình Đảng ta
hiện nay đòi hỏi Đảng nhất thiết phải tự đổi mới, tự chỉnh đốn. Phương hướng
cơ bản của việc đổi mới và chỉnh đốn Đảng là: phát huy truyền thống cách

mạng, tăng cường bản chất giai cấp cơng nhân và tính tiên phong của Đảng,
xây dựng Đảng thực sự mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, gắn liền với
đổi mới cơ chế quản lý kinh tế - xã hội, cải cách bộ máy Nhà nước, đổi mới
công tác quần chúng, bảo đảm cho Đảng ta – đội tiên phong của giai cấp cơng
nhân, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động
và của cả dân tộc – làm tròn trách nhiệm lãnh đạo sự nghiệp cách mạng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta.
Theo phương hướng trên đây, Điều lệ Đảng (sửa đổi) phần mở đầu đã
xác định: Mục tiêu của Đảng là xây dựng nước Việt Nam dân chủ, giàu mạnh
theo con đường xã hội chủ nghĩa và cuối cùng là thực hiện lý tưởng cộng sản
chủ nghĩa. Đảng giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình đổi
mới, kết hợp sự kiên định về nguyên tắc và chiến lược cách mạng với sự linh
hoạt trong sách lược, nhạy cảm nắm bắt cái mới. Như vậy, mục tiêu lâu dài
vẫn là “thực hiện lý tưởng cộng sản chủ nghĩa:, nhưng mục tiêu cụ thể trước
mắt là: “xây dựng nước Việt Nam dân chủ, giàu mạnh theo con đường xã hội
chủ nghĩa”.
Liên quan đến tiêu chuẩn đảng viên, Đại hội VII của Đảng khẳng định:
Trong cuộc đấu tranh để xóa bỏ nghèo nàn lạc hậu, thực hiện dân giàu, nước
mạnh, đảng viên hoạt động trong các thành phần kinh tế phải nêu được vai trò
tiền phong, gương mẫu; bằng lao động sáng tạo, có năng suất và chất lượng cao
của mình góp phần tích cực vào việc phát triển lực lượng sản xuất, giải quyết
việc làm cho người lao động, ổn định và nâng cao đời sống nhân dân, trong đó
có bản thân và gia đình mình.
Từ Đại hơi VII đến Đại hội IX, các quy định của Điều lệ Đảng liên
quan đến tiêu chuẩn đảng viên và nhiệm vụ đảng viên được bổ sung, sửa đổi
cho phù hợp với tình hình và nhiệm vụ của mỗi giai đoạn cách mạng.
8


Từ sau Đại hội VI đến Đại hội VII, các tổ chức đảng đã kết nạp

303.237 đảng viên mới, trong đó có 68,4% là đồn viên thanh niên cộng sản
Hồ Chí Minh, góp phần tăng thêm sức chiến đấu mới cho Đảng. Đến cuối
năm 1990, tồn Đảng có 2.155.022 đảng viên, sinh hoạt trong 43.088 chi bộ
và đảng bộ cơ sở (dưới đảng uỷ cơ sở có 121.311 chi bộ). Trải qua đấu tranh
cách mạng lâu dài và hơn bốn năm tiến hành công cuộc đổi mới, số đông
đảng viên mà nòng cốt là đội ngũ cán bộ chủ chốt từ trung ương đến cơ sở đã
thể hiện phẩm chất chính trị vững vàng trước mọi thử thách, nhất là trước
những biến động hết sức phức tạp của tình hình thế giới; đã kiên định và
quyết tâm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng. Trình độ nhận thức lý luận
và thực tiễn của nhiều cán bộ, đảng viên đã được nâng lên thể hiện rõ trong
việc đóng góp ý kiến vào các văn kiện Đại hội VII ở đại hội đảng bộ các cấp
vừa qua. Những cán bộ, đảng viên và những tổ chức đảng năng động, sáng
tạo trong việc thực hiện nhiệm vụ, đã đóng góp cho Đảng những kinh nghiệm
tốt, góp phần bổ sung đường lối, chính sách của Đảng.
Đến Đại hội lần thưa VIII và lần thứ IX, Điều 1 được sửa lại theo
hướng trước hết làm rõ tư cách đảng viên nói chung. Nội dung này được
đưa ra lên thành Điểm 1 trong Điều 1, sau đó ở Điểm 2 mới nói đến điều
kiện để được kết nạp vào Đảng:
“1. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là chiến sĩ cách mạng trong
đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, suốt đời phấn đấu cho
mục đích, lý tưởng của Đảng, đặt lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động lên trên lợi ích cá nhân; chấp hành nghiêm
chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết của Đảng và pháp
luật của Nhà nước; có lao động, khơng bóc lột, hồn thành tốt nhiệm vụ
được giao; có đạo đức và lối sống lành mạnh; gắn bó mật thiết với nhân
dân; phục tùng tổ chức, kỷ luật của Đảng, giữ gìn đồn kết thống nhất
trong Đảng.
2. Cơng dân Việt Nam từ mười tám tuổi trở lên thừa nhận và tự
nguyện: thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, tiêu chuẩn và nhiệm vụ
9



đảng viên, hoạt động trong một tổ chức cơ sở đảng; qua thực tiễn chứng tỏ là
người ưu tú, được nhân dân tín nhiệm, đều có thể được xét để kết nạp vào
Đảng”.
Xét về tinh thần, các Điều lệ Đảng trước Đại hội lần thứ VIII, Điều 1
của Điều lệ Đảng lúc này có điểm khác là khơng chỉ dùng để giải quyết vấn
đề ai có thể là đảng viên mà trước khi giải quyết vấn đề này thì đã nêu một
khái niệm về tư cách của đảng viên nói chung trong đó có những điểm cụ thể
về tiêu chuẩn của người được kết nạp vào Đảng. Một điểm khác nữa là cụm
từ “khơng bóc lột” được đem lên đoạn nói về tiêu chuẩn đảng viên.
Trong q trình thảo luận Điều 1 qua các kỳ Đại hội Đảng, nói chung
trong Đảng có sự nhất trí. Tuy nhiên, kể từ Đại hội lần thứ VII khi đất nước
đang bước vào thời kỳ đổi mới, thực hiện cơ chế thị trường, có sự quản lý của
Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa và với cơ cấu kinh tế nhiều
thành phần, một vấn đề lớn được thảo luận nhiều nhất qua các kỳ Đại hội và
Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng là vấn đề cho đảng viên
làm kinh tế tư bản tư nhân không. Và do đó nên để hay nên bỏ cụm từ “có lao
động, khơng bóc lột” trong Điều 1 của Điều lệ Đảng? Về vấn đề này có hai
loại ý kiến chính sau đây:
- Ý kiến thứ nhất đề nghị vẫn giữ cụm từ “khơng bóc lột” để bảo đảm
đúng mục đích, bản chất của Đảng. Nếu bỏ đi sẽ gây nên nhận thức mơ hồ và
hạ thấp tiêu chuẩn đảng viên.
- Ý kiến thức hai là đề nghị bỏ cụm từ “không bóc lột” với lý do bỏ
cụm từ đó khơng có nghĩa là thừa nhận đảng viên được bóc lột, vì Điều lệ
Đảng đã quy định điều kiện người vào Đảng phải gương mẫu trong lao động,
chiến đấu, học tập, có lối sống lành mạnh là đủ.
Về thực chất theo loại ý kiến thứ hai này cịn có một số ý kiến nêu ra
với nhiều lý do khác như cho rằng Đảng, Nhà nước chủ trương cho phát triển
kinh tế nhiều thành phần, đảng viên cũng là công dân Việt Nam nên cũng có

nghĩa vụ và quyền của cơng dân như mọi công dân khác; đảng viên cần làm
kinh tế tư nhân để Đảng có kiến thức lãnh đạo kinh tế nhiều thành phần; có
10


thể làm kinh tế tư bản tư nhân mà không coi là có bóc lột nếu như đảng viên
làm kinh tế theo đúng pháp luật, cơng khai tài chính và dành một phần lợi
nhuận vào việc đầu tư cho lợi ích công cộng, cho công tác xã hội và sẳn sàng
chuyển sang thành phần kinh tế khác khi Đảng yêu cầu. Cũng có ý kiến nêu ra
kinh nghiệm Đảng Cộng sản Liên Xô trước đây ở Điều 1 từ sau Đại hội XX,
cũng bỏ cụm từ “khơng bóc lột”.
Đại hội lần thứ VII, lần thứ VIII và lần tứ IX của Đảng ta đã giữ cụm từ
“khơng bóc lột” trong Điều 1 như trong Điều lệ Đảng. Đại hội VII đã thông
qua Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương về xây dựng Đảng, trong đó có
đoạn trình bày lý do đảng viên không được làm kinh tế tư bản tư nhân.
Đến Đại hội Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII đã thơng qua
đề nghị của Đồn chủ tịch về vấn đề trên như sau: Báo có xây dựng Đảng do
Đại hội lần thứ VII thông qua cũng khẳng định: “đảng viên là công nhân, viên
chức tại chức, ngồi việc hồn thành nhiệm vụ cơng tác, được khuyến khích
phát triển kinh tế gia đình. Đảng viên được góp vốn cổ phần vào các cơng ty,
xí nghiệp quốc doanh, tập thể. Đảng viên không ở trong biên chế của các cơ
quan Đảng, Nhà nước, đoàn thể, bản thân trực tiếp lao động (lao động chân
tay, lao động kỹ thuật, lao động quản lý...) được đứng ra tổ chức các đơn vị
kinh tế tập thể (tổ sản xuất, hợp tác xã,...); được đấu thầu, nhận khoán đất đai,
thuê tài sản của Nhà nước, của tập thể để tổ chức kinh doanh; được làm kinh
tế cá thể, tiểu chủ. Đảng viên không được làm kinh tế tư bản tư nhân”. Báo
cáo chính trị cần tiếp tục khẳng định điều này. Sở dĩ đảng viên không được
làm kinh tế tư bản tư nhân là vì:
- Người đảng viên làm kinh tế tư bản tư nhân theo quy luật kinh tế, quy
luật lợi nhuận, khơng thể khơng bóc lột. Đó là điều trái với bản chất và mục

đích, lý tưởng của Đảng. Nếu đảng viên làm kinh tế tư bản thì dần dần trong
Đảng sẽ có một bộ phận đảng viên trở thành tư sản. Bây giờ có thể cịn ít,
nhưng dần dần nếu trong Đảng có hàng vạn đảng viên là những nhà tư sản thì
liệu Đảng ta có cịn giữ được bản chất là Đảng Cộng sản không? Nhân dân lao
động có cịn gắn bó với Đảng khơng?
11


- Đảng viên trước hết là cơng dân, có quyền và nghĩa vụ cơng dân,
nhưng khơng phải cái gì cơng dân làm được thì đảng viên đều được làm.
Cơng dân chỉ cần tuân theo Hiến pháp, còn đảng viên còn phải phục tùng
Điều lệ Đảng.
- Không cho đảng viên làm kinh tế tư bản tư nhân không phải là làm
thui chột tài năng làm kinh tế của đảng viên. Nếu đảng viên có tài năng làm
kinh tế thì với quy định trong Báo cáo xây dựng Đảng của Đại hội lần thứ VII
vẫn có thể phát huy được vai trị của mình. Làm theo quy định đó, vừa có lợi
cho bản thân, vừa có lợi cho đất nước mà vẫn giữ được lý tưởng của người
đảng viên.
Đối với một số đảng viên hiện nay đã là chủ các doanh nghiệp tư
bản tư nhân, tổ chức đảng cần xem xét và giải quyết từng trường hợp cụ
thể; hướng dẫn và giúp đỡ chuyển đổi thành dạng xí nghiệp, cơng ty cổ
phần, có sự tham gia của người lao động, của Nhà nước; hoặc thành các
hình thức kinh tế hợp tác.
Điều lệ Đảng được thông qua tại Đại hội VIII xác định mục đích của
Đảng là xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công
bằng, văn minh, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là cộng
sản chủ nghĩa. Mục tiêu lâu dài của Đảng vẫn khơng có gì thay đổi, cịn mục
tiêu trước mắt là “xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã
hội công bằng, văn minh”. Để đạt được mục tiêu này, yêu cầu với mỗi đảng
viên cũng có những thay đổi cho phù hợp. Về tiêu chuẩn đảng viên, tính tiền

phong, gương mẫu, lịng trung thành với Đảng, với Tổ quốc, phẩm chất đạo
đức, lối sống, năng lực để hoàn thành nhiệm vụ được giao, ý thức tổ chức, kỷ
luật…trở thành yêu cầu quan trọng hàng đầu với mỗi đảng viên. Cho nên
Điểm 1, Điều 1 về đảng viên nêu rõ: “Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là
chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam,
suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của Đảng, đặt lợi ích của Tổ quốc,
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động lên trên lợi ích cá nhân; chấp
hành nghiêm chỉnh Cưởng lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết của
12


Đảng và pháp luật của Nhà nước; có lao động, khơng bóc lột, hồn thành tốt
nhiệm vụ được giao; có đạo đức lối sống lành mạnh; gắn bó mật thiết với
nhân dân; phùng tùng tổ chức, kỷ luật của Đảng, giữ gìn đồn kết thống nhất
trong Đảng”.
Nhìn chung, những sửa đổi trong tiêu chuẩn đảng viên về căn bản vẫn
giữ những tiêu chuẩn chủ yếu được thông qua trong các kỳ Đại hội trước. Chỉ
đến khi Đại hội X mới có sự thay đổi gây ra tranh luận trong tiêu chuẩn đảng
viên. Sự thay đổi này liên quan đến vấn đề “đảng viên làm kinh tế” được đặt
ra từ Đại hội VII. Sau 3 nhiệm kỳ Đại hội, cho tới nay, vấn đề này đã được
khẳng định và diễn đạt trong Điều lệ Đảng được thông qua tại Đại hội X.
Kể từ “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (1991)”, Đảng ta chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực hiện chủ trương đó, khu vực kinh tế tư
nhân phát triển mạnh mẽ đã có nhiều đóng góp quan trọng đối với sự phát
triển kinh tế và góp phần giải quyết nhiều vấn đề xã hội. Kinh tế tư nhân thực
sự là một bộ phận quan trọng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Để đảm bảo cho sự phát triển đúng hướng của kinh tế tư nhân, sự
hoạt động trực tiếp và vai trị gương mẫu của đảng viên có ý nghĩa quan
trọng. Trong văn kiện Hội nghị Trung ương 5 khóa IX, đã khẳng định

“Những đảng viên đang làm chủ doanh nghiệp tư nhân chấp hành tốt Điều lệ
Đảng và pháp luật của Nhà nước thì vẫn là đảng viên của Đảng”[9, tr59]. Đó
là chủ trương phù hợp với thực tiễn phát triển của đất nước hiện nay.
Tại Đại hội lần thứ IX của Đảng có một số đảng viên đã nêu lại vấn đề
bỏ cụm từ “khơng bóc lột” trong Điều 1, Đại hội đã biểu quyết và vẫn giữ cụm
từ “khơng bóc lột” như ghi trong Điều lệ Đảng; đồng thời vẫn giữ quy định về
đảng viên không được làm chủ doanh nghiệp tư bản tư nhân; chỉ đạo tiếp tục
nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận và thực tế về tư bản tư nhân và các biểu hiện
bóc lột hiện nay để có quy định cụ thể về mức độ hoạt động kinh tế của đảng
viên một cách đúng đắn, có hiệu quả. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 (khóa
IX), đã xác định: “Những đảng viên đang làm chủ doanh nghiệp của tư nhân
13


chấp hành tốt Điều lệ Đảng và pháp luật, chính sách của Nhà nước thì vẫn là
đảng viên của Đảng”[10, tr68].
Tại Đại hội lần thứ X của Đảng, vấn đề có nên để lại cụm từ “khơng
bóc lột” ở Điều 1 không, Ban Chấp hành Trung ương đã đề nghị đưa ý của
cụm từ “khơng bóc lột” lên đoạn nói về mục đích của Đảng, như sau: “Mục
đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã
hội cơng bằng, văn minh, khơng cịn người bóc lột người, thực hiện thành
cơng chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản”[11, tr4].
Do Điều 1 khơng cịn cụm từ “khơng bóc lột”, nên vấn đề được đặt ra
để thảo luận trong Đại hội các cấp và tại Đại hội lần thứ X là đảng viên có
được làm kinh tế tư nhân khơng? Đại hội X quyết định: “Đảng viên làm
kinh tế tư nhân phải gương mẫu chấp hành pháp luật, chính sách của Nhà
nước, nghiêm chỉnh chấp hành Điều lệ Đảng và quy định của Ban Chấp
hành trung ương”[12, tr133]. Đại hội yêu cầu Ban Chấp hành Trung ương
khóa X sớm có quy định và chỉ đạo thực hiện tốt vấn đề này, bảo đảm vừa
phát huy khả năng làm kinh tế của đảng viên vừa giữ được tư cách đảng

viên và bản chất của Đảng.
Như vậy, tiêu chuẩn đảng viên được xác định tại điểm 1 của Điều 1
trong Điều lệ Đảng là: “Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là chiến sĩ cách
mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, suốt đời phấn
đấu cho mục đích, lý tưởng của Đảng, đặt lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động lên trên lợi ích cá nhân; chấp hành nghiêm
chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết của Đảng và pháp
luật của Nhà nước; có lao động hồn thành tốt nhiệm vụ được giao; có đạo
đức và lối sống lành mạnh; gắn bó mật thiết với nhân dân; phục tùng tổ
chức, kỷ luật của Đảng, giữ gìn đồn kết thống nhất trong Đảng”[11, tr7].
Tiêu chuẩn trên đây đã thể hiện được những yêu cầu rất cơ bản mà
đảng viên cần phải có:
- Đảng viên phải là người giác ngộ lý tưởng cách mạng, trung thành và
có kiến thức, năng lực phấn đấu xây dựng đất nước theo con đường chủ nghĩa
14


xã hội. Đây chính là yêu cầu cơ bản nhất của người đảng viên. Giác ngộ lý
tưởng cách mạng của người đảng viên thể hiện trước hết ở việc nắm vững chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; nhận thức đúng đắn quy luật phát
triển của lịch sử, từ đó mà giác ngộ địa vị, vai trị của giai cấp công nhân Việt
Nam và Đảng Cộng sản Việt Nam trước dân tộc là đưa đất nước đi theo con
đường chủ nghĩa xã hội. Trong công cuộc đổi mới hiện nay, người đảng viên
thể hiện giác ngộ cách mạng khơng chỉ ở thái độ tích cực đối với cơng cuộc
đổi mới mà điều quan trọng là nghiêm túc học tập, nắm vững đường lối quan
điểm đổi mới của Đảng; trao dồi văn hóa, chun mơn nghiệp vụ, để có đủ
kiến thức và năng lực làm việc; năng động sáng tạo, dám nghĩ dám làm, dám
chịu trách nhiệm; giữ vững nguyên tắc của Đảng, không đi chệch hướng công
cuộc đổi mới vì chủ nghĩa xã hội. Giác ngộ lý tưởng cách mạng của Đảng còn
thể hiện ở sự thống nhất giữa nhận thức, lời nói và việc làm, chống cục bộ địa

phương, đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân, biết đặt lợi ích chung,
lợi ích tồn cục lên trên, lên trước lợi ích cá nhân, lợi ích bộ phận.
- Đảng viên phải là người có ý thức tự giác và tính tổ chức kỷ luật cao,
chăm lo xây dựng Đảng, xây dựng và bảo vệ đoàn kết thống nhất trong Đảng.
Ý thức tổ chức kỷ luật là một đặc trưng phản ánh bản chất giai cấp công nhân
của người đảng viên. Tính tổ chức kỷ luật của người đảng viên thể hiện ở việc
nghiêm túc thực hiện chế độ dân chủ và kỷ luật trong Đảng theo Điều lệ
Đảng, tôn trọng và thực hiện các nội quy, quy chế của các tổ chức mà người
đảng viên là một thành viên. Nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật của Nhà
nước. Thời kỳ đổi mới càng đòi hỏi người đảng viên phải nghiêm túc với bản
thân mình, sử dụng các quyền trong sinh hoạt và hoạt động của Đảng, giữ
nghiêm kỷ luật phát ngơn, thực hiện thật tốt tự phê bình và phê bình, bảo đảm
đồn kết thống nhất trong Đảng.
- Đảng viên cộng sản là người khơng ngừng giữ gìn và củng cố mối
liên hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân. Đây là vấn đề bản chất của Đảng
Cộng sản, là yêu cầu sống còn của Đảng, là lý do tồn tại của mỗi người cộng
sản. Để giữ vững, không ngừng củng cố và phát triển mối quan hệ máu thịt
15


với dân, mỗi đảng viên phải không ngừng giữ vững phẩm chất chính trị, đạo
đức, lối sống và nâng cao kiến thức, năng lực công tác. Phải sống gần gũi và
quan tâm chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của dân. Đảng viên hoạt
động trong các cơ quan nhà nước, các đoàn thể nhân dân phải gương mẫu
chấp hành pháp luật của Nhà nước, kỷ luật của đoàn thể, tôn trọng và phát
huy quyền làm chủ của nhân dân, học hỏi những kinh nghiệm hay của dân,
tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng, lắng nghe ý kiến của dân để phản ánh trung
thực với Đảng, Nhà nước và cấp trên nhằm giải quyết kịp thời, chống thói
quan liêu, độc đoán, chuyên quyền, trù dập, ức hiếp quần chúng.
Với cách diễn đạt này, mục đích cuối cùng của Đảng vẫn khơng thay

đổi, đó là xây dựng chủ nghĩa cộng sản, xóa bỏ hồn tồn chế độ người
bóc lột người, đây là một quá trình lịch sử lâu dài. Mục tiêu cụ thể, trước
mắt là “xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội
công bằng, văn minh”. Để thực hiện mục tiêu này phải phát triển nền kinh
tế nhiều thành phần, trong đó có kinh tế tư nhân, đồng thời có cơ chế đảm
bảo cơng bằng xã hội.
Về điều kiện của người đảng viên được ghi cụ thể ở Điểm 2 Điều 1 của
Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ X, như sau: “Công dân Việt Nam từ
mười tám tuổi trở lên thừa nhận và tự nguyện: thực hiện Cương lĩnh chính trị,
Điều lệ Đảng, tiêu chuẩn và nhiệm vụ đảng viên, hoạt động trong một tổ chức
cơ sở đảng; qua thực tiễn chứng tỏ là người ưu tú, được nhân dân tín nhiệm,
đều có thể được xét để kết nạp vào Đảng”.
Công dân Việt Nam từ mười 18 tuổi trở lên. Tại thời điểm chi bộ xét
kết nạp, người vào Đảng phải đủ 18 tuổi trở lên (tính theo tháng). Vì 18 tuổi
mới có đủ trình độ nhận thức về chính trị của Đảng. Việc xét những người
trên 60 tuổi (tính theo năm) vào Đảng phải đủ sức khoẻ và có uy tín do cấp uỷ
trực thuộc Trung ương xem xét, quyết định (tỉnh uỷ).
Thừa nhận và tự nguyện: thực hiện cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng,
tiêu chuẩn và nhiệm vụ đảng viên, hoạt động trong một tổ chức cơ sở đảng;
qua thực tiễn chứng tỏ là người ưu tú, được nhân dân tín nhiệm, đều có thể
16


được xét để kết nạp vào Đảng. Đây là những quy định mà người vào Đảng
phải chấp hành, chỉ có thừa nhận và tự nguyện thực hiện Cương lĩnh chính trị,
Điều lệ Đảng, tiêu chuẩn và nhiệm vụ đảng viên, hoạt động trong một tổ chức
cơ sở đảng thì mới có thể trở thành người đảng viên của Đảng. Đảng không
bắt buộc ai vào Đảng cả, mà muốn vào Đảng thì người vào Đảng phải chấp
nhận những quy định của Đảng, quyết tâm phấn đấu vì mục tiêu lý tưởng của
Đảng. Điều đó, địi hỏi tính tự nguyện của người vào Đảng, nhận thức bản

thân mình có thể thực hiện được các quy định đó, thì trở thành người đảng
viên của Đảng.
Người vào đảng nói chung phải có bằng tốt nghiệp trung học cơ sở
hoặc tương đương trở lên. Điều này địi hỏi người vào Đảng phải có trình độ
học vấn thì mới tiếp thu được đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước. Chỉ có hiểu biết đúng mới làm đúng và vận động người khác làm
theo. Người vào Đảng đang sinh sống ở vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện
kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn là già làng, trưởng bản, người thực sự có uy
tín, trình độ học vấn tối thiểu phải biết đọc biết viết chữ quốc ngữ, được ban
thường vụ cấp uỷ trực thuộc Trung ương đồng ý bằng văn bản trước khi cấp uỷ
có thẩm quyền ra quyết định kết nạp.
Ý nghĩa của sự phát triển nhận thức về tiêu chuẩn và điều kiện của
người đảng viên
Cho nên nội dung trong Điều lệ Đảng Đại hội IV, Đại hội V vẫn được
Đại hội VI cũng trên cơ sở đó khẳng định lại quan điểm trên về tiêu chuẩn
đảng viên - điều kiện được kết nạp vào Đảng, tách riêng ra Điều 1 là điều kiện
vào Đảng, 2 tiêu chuẩn đảng viên.
Như vậy, Điều lệ Đảng trình Đại hội VI là một Điều lệ Đảng thể hiện
tương đối hoàn chỉnh về tư cách người đảng viên trong thời kỳ đổi mới, mặc
dù nội dung của Điều lệ Đảng vẫn luôn luôn được sửa đổi bổ sung cho phù
hợp với thực tiễn của cách mạng đặt ra, nhưng nó là cơ sở là nền tảng cho
những nội dung Điều lệ Đảng từ Đại hội VII, Đại hội VIII, Đại hội IX, Đại
hội X và cho các kỳ Đại hội sau này.

17


KẾT LUẬN
Chúng ta đều biết tổ chức đảng là do đảng viên hợp thành theo các
nguyên tắc nhất định. Một trong những quy luật quan trọng của sự tồn tại và

phát triển của Đảng là không ngừng nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng qua
mỗi giai đoạn cách mạng. Vì thế, việc bảo đảm và khơng ngừng nâng cao chất
lượng đảng viên là điều kiện cần thiết của quy luật ấy.
Để xây dựng đội ngũ đảng viên vững mạnh, vấn đề quan trọng trước
hết là phải xác định đúng đắn và đảm bảo chặt chẽ tiêu chuẩn và điều kiện
đảng viên. Tiêu chuẩn và điều kiện đảng viên được xác định đúng đắn sẽ là cơ
sở vững chắc để nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên, là cơ sở để khắc
phục các lệch lạc, sai lầm trong công tác phát triển đảng viên.
Qua từng thời kỳ cách mạng, mà Đảng ta đề ra những tiêu chuẩn và
điều kiện cho phù hợp nhằm tăng cường và củng cố sức mạnh cho Đảng, bảo
đảm cho Đảng hoàn thành tốt nhiệm vụ cách mạng của mình. Những quy định
về tiêu chuẩn và điều kiện đảng viên trong Điều lệ Đảng, được Đảng ta khẳng
định và bổ sung qua các lần Đại hội Đảng đã thể sự vận dụng sáng tạo của
Đảng ta về những chỉ dẫn kết nạp đảng viên của chủ nghĩa Mác – Lênin vào
điệu kiện Việt Nam.
Tiêu chuẩn và điều kiện của đảng viên là những yêu cầu khái quát về
phẩm chất và năng lực mà người đảng viên cộng sản cần phải có, ứng với địi
hỏi của từng giai đoạn cách mạng. Đó cũng là những điều kiện để phân biệt
người đảng viên với quần chúng ngoài Đảng. Cách mạng là quá trình vận
động và phát triển khơng ngừng, do đó tiêu chuẩn và điều kiện đảng viên
cũng phải ứng với những đòi hỏi của yêu cầu cách mạng. Tổng kết công tác
xây dựng Đảng trong thời gian qua, căn cứ vào yêu cầu thực tiễn của công
cuộc đổi mới của đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định cụ thể tiêu
chuẩn và điều kiện của người đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam và ngày
càng làm sáng tỏ thêm những vấn đề lý luận và thực tiễn về công tác kết nạp
đảng viên của Đảng cũng những quy định về tiêu chuẩn và điều kiện của
người đảng viên.
18



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hồ Chí Minh, Tồn tập, Tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996.
2. Hồ Chí Minh, Tồn tập, Tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
3. Hồ Chí Minh, Tồn tập, Tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 2, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 5, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 12, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 21, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Tồn tập, Tập 37, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam, Các nghị quyết của Trung ương Đảng
2001-1004 (Sách phục vụ thảo luận các dự thảo văn kiện Đại hội X), Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thưa năm Ban
Chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007.
12. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần
thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006.
13. Lê Huy Bảo, Điều lệ Đảng từ đại hội đến Đại hội (Lý luận và thực
tiễn), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006.
14. PGS.TS. Lê Huy Thông (Chủ biên), Một số vấn đề về xây dựng
Đảng trong văn kiện Đại hội X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008.

19



MỤC LỤC

20



×