Tải bản đầy đủ (.docx) (80 trang)

báo cáo thực tập tốt nghiệp “nâng cao hiệu quả huy động vốn tại ngân hàng TMCP kỹ thương việt nam PGD bát đàn”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (456.01 KB, 80 trang )

Luận văn tốt nghiệp

SV: Trần Thị Thơm-Lớp :D.01.22.01
LỜI CẢM ƠN

Những dòng đầu tiên trong báo cáo thưc tập tốt nghiệp cho phép em được bày tỏ
lòng kính trọng và biết ơn đến các Thầy cô của Đại học Tài chính – Ngân hàng Hà Nội
nói chung và các thầy cô giáo Khoa Ngân hàng, đã dạy dỗ và dìu dắt em trong học tập
nói riêng.
Đồng thời cũng trên trang giấy này cho em được chân thành cảm ơn các bác, các
cô, chú, anh chị tại Ngân hàng TMCP Kỹ Thương Việt Nam – CN/PGD Bát Đàn đã
giúp đỡ em trong thời gian thực tập tại Ngân hàng để em hoàn thành chuyên đề tốt
nghiệp này, em xin chân thành cảm ơn sự quan tâm, hướng dẫn tận tình của thầy cô
giảng viên trong nhà trường và sự chỉ bảo tận tình của các cán bộ nhân viên Ngân
hàng Á TMCP Kỹ Thương Việt Nam – CN/PGD Bát Đàn trong suốt quá trình thực tập
và làm chuyên đề tốt nghiệp.
Em xin chân thành cảm ơn.!
Hà Nội, tháng 6 năm 2016

Trần Thị Thơm

1

1


Luận văn tốt nghiệp

SV: Trần Thị Thơm-Lớp :D.01.22.01
LỜI CAM ĐOAN


Em xin cam đoan đây là đề tài nghiên cứu của riêng em, các số liệu trong chuyên
đề là trung thực có nguồn gốc rõ ràng. Nếu sai em xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Sinh Viên Thực Hiện

Trần Thị Thơm

2

2


Luận văn tốt nghiệp

SV: Trần Thị Thơm-Lớp :D.01.22.01

MỤC LỤC

DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU

3

3


Luận văn tốt nghiệp

SV: Trần Thị Thơm-Lớp :D.01.22.01
BẢNG KÝ HIỆU VIẾT TẮT

Techcombank

NHTM
NHNN
TMCP
TCTD
TGTK
CNH-HĐH
VN
CN/PGD
TCKT

4

Ngân hàng Thương mại cổ phần Kỹ Thương Việt Nam
Ngân hàng thương mại
Ngân hàng nhà nước
Thương mại cổ phần
Tổ chức tín dụng
Tiền gửi tiết kiệm
Công nghiệp hóa-Hiện đại hóa
Việt Nam
Chi nhánh/Phòng giao dịch
Tổ chức kinh tế

4


Luận văn tốt nghiệp

SV: Trần Thị Thơm-Lớp :D.01.22.01
LỜI NÓI ĐẦU


Vốn là yếu tố đầu vào cơ bản và rất quan trọng đối với bất kỳ một doanh nghiệp
nào để tiến hành và duy trì tốt hoạt động sản xuất kinh doanh. Đối với một Ngân hàng
thương mại (NHTM) việc kinh doanh dựa trên việc huy động tiền gửi từ khách hàng
rồi cho vay và làm các dịch vụ khác thì nguồn vốn càng trở nên quan trọng. Do đó vốn
một trong những tiêu chí để đánh giá quy mô hoạt động của ngân hàng. Trong giai
đoạn hiện nay, đa số nguồn vốn của các NHTM thường là ngắn hạn. Nhiều ngân hàng
chịu vay lãi suất cao để đảm bảo thanh khoản và đáp ứng cho nhu cầu tăng trưởng tài
sản như thế dẫn đến kinh doanh không hiệu quả và phát triển không bền vững, đặt
ngân hàng đứng trước nguy cơ rủi ro lãi suất, rủi ro thanh khoản và thậm chí còn dẫn
đến mất ổn định trong toàn bộ hệ thống tài chính như nhiều quốc gia đã từng trải qua.
Với tư cách là loại hình trung gian đặc biệt, chuyên thực hiện huy động vốn để
cho vay nên hiệu quả huy động vốn là vấn đề luôn được các Nhà Quản trị ngân hàng,
các Nhà Nghiên cứu, các Nhà Chính sách quan tâm.
Tuy nhiên, hiệu quả huy động vốn của các Ngân hàng Thương Mại Việt nam
chưa cao : Quy mô huy động vốn nhỏ, cơ cấu huy động chưa phù hợp, chi phí huy
động cao. Ngân hàng TMCP Kỹ Thương Việt Nam PGD Bát Đàncũng không phải là
ngoại lệ.
Làm thế nào để nâng cao hiệu quả huy động vốn tại các Ngân hàng Thương Mại
Việt Nam nói chung và Ngân hàng TMCP Kỹ Thương Việt Nam PGD Bát Đàn nói
riêng đang là câu hỏi được đặt ra cho thực tiễn hiện nay, khi mà Việt nam đã trở thành
thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới. Các Ngân hàng Thương Mại
Việt Nam phải hoạt động theo nguyên tắc thị trường. Cạnh tranh giữa các ngân hàng
sẽ thúc đẩy hiệu quả không chỉ trong huy động vốn, phân bổ các nguồn vốn mà còn
hiệu quả kinh doanh của mỗi ngân hàng.
Xuất phát từ những lý do trên cùng với khoảng thời gian thực tế tại Ngân hàng
Ngoại thương Chi nhánh Thăng Long và tìm hiểu nhu cầu, thực trạng về huy động vốn
tại đây nên em lực chọn đề tài “Nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Ngân hàng
TMCP Kỹ Thương Việt Nam PGD Bát Đàn” làm đề tài cho chuyên đề tốt nghiệp
của mình.

5

5


Luận văn tốt nghiệp

SV: Trần Thị Thơm-Lớp :D.01.22.01

*) Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài:
- Đối tượng: Hiệu quả hoạt động huy động vốn của NHTM
- Phạm vi nghiên cứu: Thực trạng về hiệu quả hoạt động huy động vốn tại Ngân
hàng TMCP Kỹ Thương Việt Nam PGD Bát Đàntrong khoảng thời gian từ 22/2/2016
đến 16/4/2016
*) Kết cấu chuyên đề:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục các tài liệu tham khảo, chuyên đề bao
gồm 3 chương:
- Chương I: Lý luận cơ bản về hiệu quả huy động vốn của NHTM
- Chương II: Thực trạng về hiệu quả huy động vốn tại Ngân hàng TMCP Kỹ
Thương Việt Nam PGD Bát Đàn
- Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Ngân
hàng TMCP Kỹ Thương Việt Nam PGD Bát Đàn
Do thời gian nghiên cứu ngắn cùng với kiến thức thực tế không nhiều, chuyên
đề của em còn nhiều điểm chưa đề cập đến và còn có những thiếu sót nhất định. Rất
mong nhận được sự quan tâm giúp đỡ của các thầy, cô giáo và các đồng chí lãnh đạo
của Ngân hàng TMCP Kỹ Thương Việt Nam PGD Bát Đàn để chuyên đề của em
được hoàn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo cùng các anh chị của phòng Kế
toán, nói riêng và toàn thể các anh chị của PGD Bát Đànnói chung đã tạo điều kiện
giúp đỡ em trong thời gian thực tập và nghiên cứu chuyên đề. Đặc biệt em xin chân

thành cảm ơn TH.S Lã Thị Lâm, người trực tiếp hướng dẫn và giúp đỡ em viết chuyên
đề này.

6

6


Luận văn tốt nghiệp

SV: Trần Thị Thơm-Lớp :D.01.22.01
CHƯƠNG I :

LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG VỐN CỦA NHTM
Ngân hàng thương mại (NHTM) là loại hình doanh nghiệp đặc biệt thực hiện
kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, tức là nguồn vốn của NHTM chủ yếu là nguồn vốn
huy động từ nền kinh tế thông qua các cá nhân, các tổ chức kinh tế trong và ngoài
nước. Do đó vấn đề huy động vốn như thế nào cho hợp lý, đồng thời quản trị tài chính,
phân bổ sử dụng, bảo đảm và phát triển vốn như thế nào để đảm bảo hoạt động kinh
doanh Ngân hàng an toàn và hiệu quả cao là lẽ sống còn đối với mỗi Ngân hàng đặc
biệt trong điều kiện vô cùng phức tạp của nền kinh tế thị trường hiện nay.
Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hóa, tiền tệ hạch toán kinh doanh nên
mọi giao dịch kinh doanh của các tổ chức kinh tế đều thông qua thị trường. Lúc đầu
hoạt động Ngân hàng chỉ đơn giản là các dịch vụ đổi tiền, nó chỉ phù hợp với buổi
bình minh của nền sản xuất hàng hóa. Ngày nay khi nền kinh tế thị trường phát triển
đến trình độ cao của nền kinh tế hàng hóa thì Ngân hàng có một vị trí và nắm giữ vai
trò vô cùng quan trọng. Ngoài chức năng thông thường của mình, Ngân hàng còn là
công cụ để Nhà nước thực thi các chính sách tiền tệ kinh tế vĩ mô quản lý và điều tiết
nền kinh tế có hiệu quả. Một nền kinh tế chỉ có thể phát triển với tốc độ cao nếu có hệ
thống Ngân hàng phát triển ổn định và vững mạnh nhưng Ngân hàng là loại hình

doanh nghiệp tự chủ tài chính rất thấp vì vốn tự có chiếm tỷ trọng nhỏ trong nguồn
vốn và là loại hình kinh doanh có nhiều rủi ro. Tất cả mọi vấn đề an toàn trong kinh
doanh, đảm bảo khả năng thanh toán, đảm bảo mục tiêu hoạt động “khả năng sinh lời”
và hoạt động quản trị đều được đặt dưới sự giám sát, kiểm soát bằng hệ thống văn bản
pháp quy chặt chẽ của Nhà Nước nói chung và Ngân hàng nói riêng bởi sự rủi ro trong
thanh toán dẫn đến khủng hoảng “phá sản” của một Ngân hàng sẽ kéo theo rủi ro trên
toàn hệ thống từ đó dẫn đến khủng hoảng kinh tế tài chính của một quốc gia. Điều đó
đã phản ánh rõ nét vai trò hết sức to lớn của nguồn vốn đặc biệt là nguồn vốn huy
động trong quá trình hoạt động kinh doanh của hệ thống Ngân hàng.
1.1. Khái quát về Ngân hàng thương mại (NHTM)
1.1.1. Khái niệm NHTM

7

7


Luận văn tốt nghiệp

SV: Trần Thị Thơm-Lớp :D.01.22.01

Ngân hàng thương mại đã có một quá trình hình thành và phát triển lâu dài.
Ngay nửa đầu thế kỷ XI, ở châu Âu đã ra đời một số Ngân hàng đầu tiên mà tiền thân
là những tổ chức cho vay nặng lãi. Vào thời điểm này Ngân hàng phát triển ở trình độ
thấp, hoạt động của Ngân hàng chỉ gói gọn trong lĩnh vực giữ hộ tiền và cho vay.
Cùng với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế, hoạt động của NHTM cũng từng
bước được củng cố và hoàn thiện, chuyển hóa dần theo hướng đa năng. Tuy nhiên đến
nay chưa có khái niệm thống nhất về NHTM do các nhà kinh tế nhận thấy có những
khó khăn trong việc định nghĩa “Ngân hàng”, bởi quan niệm Ngân hàng thay đổi theo
không gian (tập quán và phong tục của mỗi nước) và trong thời gian (theo đà tiến triển

kinh tế-xã hội). Theo một số chuyên gia về Ngân hàng trên thế giới thì Ngân hàng
trong nền kinh tế thị trường được quan niệm như sau: “Ngân hàng là một doanh
nghiệp đặc biệt hoạt động trong lĩnh vực tài chính tiền tệ, tuân thủ theo pháp luật theo
đuổi mục tiêu lợi nhuận”.
Ngân hàng thương mại đã hình thành, tồn tại và phát triển gắn liền với sự phát
triển của kinh tế hàng hoá. Sự phát triển của hệ thống ngân hàng thương mại đã có tác
động rất lớn và quan trọng đến quá trình phát triển của nền kinh tế hàng hoá, ngược lại
kinh tế hàng hoá phát triển mạnh mẽ đến giai đoạn cao của nó – kinh tế thị trường – thì
ngân hàng thương mại cũng ngày càng được hoàn thiện và trở thành những định chế
tài chính không thể thiếu được.
Như vậy, có thể hiểu: Ngân hàng thương mại là một Tổ chức kinh tế kinh
doanh trên lĩnh vực tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi
của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả, sử dụng số tiền đó để cấp tín dụng, làm
phương tiện thanh toán và thực hiện các dịch vụ theo uỷ thác của khách hàng.
Thực ra, Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp, nhưng đối tượng kinh
doanh của ngân hàng lại là tiền tệ. Ngân hàng thương mại có hai nghiệp vụ kinh doanh
chính đó là nghiệp vụ kinh doanh tín dụng và nghiệp vụ huy động vốn.
Theo Luật Ngân hàng nhà nước:
Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với
nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng, cung
ứng dịch vụ thanh toán.
Như vậy ngân hàng thương mại là định chế tài chính trung gian quan trọng vào
loại bậc nhất trong nền kinh tế thị trường. Nhờ hệ thống định chế này mà các nguồn
8

8


Luận văn tốt nghiệp


SV: Trần Thị Thơm-Lớp :D.01.22.01

tiền vốn nhàn rỗi sẽ được huy động, tạo lập nguồn vốn tín dụng to lớn để có thể cho
vay phát triển kinh tế.
Từ đó có thể nói bản chất của ngân hàng thương mại được thể hiện qua các
điểm sau:
– Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh tế
– Ngân hàng thương mại hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ tín dụng
và dịch vụ ngân hàng.
1.1.2. Đặc điểm của NHTM
Trước hết hoạt động của NHTM là hình thức kinh doanh kiếm lời, theo đuổi
mục tiêu lợi nhuận là chủ yếu. Ngân hàng thực hiện hai hình thức hoạt động là kinh
doanh tiền tệ và dịch vụ Ngân hàng. Trong đó, hoạt động kinh doanh tiền tệ được biểu
hiện ở nghiệp vụ huy động vốn dưới các hình thức khác nhau, để cấp tín dụng cho
khách hàng có yêu cầu về vốn với mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận. Ngân hàng thương
mại là người “đi vay để cho vay”. Các hoạt động dịch vụ Ngân hàng được biểu hiện
thông qua các nghiệp vụ sẵn có về tiền tệ, thanh toán, ngoại hối, chứng khoán để cam
kết thực hiện công việc nhất định cho khách hàng trong một thời gian nhất định nhằm
mục đích thu phí dịch vụ hoặc hoa hồng.
Hai là, hoạt động của NHTM phải tuân theo pháp luật nghĩa là chỉ khi NHTM
thỏa mãn đầy đủ các điều kiện khắt khe do pháp luật quy định như điều kiện về vốn,
phương án kinh doanh…thì mới được phép hoạt động trên thị trường.
Ba là, hoạt động của NHTM là hình thức kinh doanh có độ rủi ro cao hơn nhiều
so với các hình thức kinh doanh khác và thường có ảnh hưởng sâu sắc tới các ngành
khác và cả nền kinh tế. Rủi ro đến từ phía Ngân hàng, khách hàng vay tiền và từ các
yếu tố khách quan. Để tránh rủi ro đáng tiếc xảy ra Chính phủ các quốc gia đã đặt ra
những đạo luật riêng nhằm kiểm soát, đảm bảo cho hoạt động của Ngân hàng được
vận hành an toàn và đúng quy trình của nó.
Bốn là , sự tồn tại của NHTM phụ thuộc nhiều vào sự tin tưởng của khách hàng.
Năm là, các NHTM chịu ảnh hưởng dây chuyền với nhau.

1.1.3. Các hoạt động cơ bản của NHTM

9

9


Luận văn tốt nghiệp

SV: Trần Thị Thơm-Lớp :D.01.22.01

Cùng với sự phát triển của NHTM, hoạt động và các dịch vụ của NHTM ngày
càng được mở rộng. Nhưng nhìn chung thì có ba hoạt động chính mà NHTM thường
làm đó là:
1.1.3.1. Hoạt động huy động vốn
Là hoạt động khởi đầu cho các hoạt động khác của NHTM. NHTM bản chất là
một tổ chức trung gian tài chính có đặc điểm hoạt động chủ yếu không phải bằng
nguồn vốn chủ sở hữu vì vậy để có nguồn vốn hoạt động, cung cấp vốn cho nền kinh
tế thì NHTM phải huy động những nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế
thông qua các hoạt động nhận tiền gửi, phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, đi vay từ các tổ
chức tín dụng khác hay từ NHTW.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, Ngân hàng có thể huy động từ nhiều
nguồn khác nhau. Lựa chọn hình thức huy động, khả năng huy động còn tuỳ thuộc
chiến lược, khả năng, đặc điểm địa bàn kinh doanh của ngân hàng. Ngân hàng có thể
huy động từ các nguồn như: vốn chủ sở hữu, vốn huy động, vốn vay và các nguồn khác.
Vốn chủ sở hữu
Để bắt đầu hoạt động cũng như các loại hình doanh nghiệp khác, Ngân hàng
phải có một lượng vốn nhất định. Đây là nguồn vốn ngân hàng có thể sử dụng lâu dài,
hình thành nên trang thiết bị, cơ sở vật chất cho ngân hàng. Vốn chủ sở hữu được hình
thành từ rất nhiều nguồn khác nhau tuỳ theo tính chất sở hữu, năng lực tài chính của

chủ ngân hàng, yêu cầu và sự phát triển của thị trường mà ngân hàng có cơ cấu và khối
lượng vốn khác nhau. Ngân hàng có thể tăng vốn của chủ trong quá trình hoạt động
thông qua việc chuyển một phần lợi nhuận sau thuế thành vốn đầu tư và thông qua
việc phát hành thêm cổ phần hoặc góp thêm.
Hoạt động huy động tiền gửi
Ngân hàng mở các tài khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ cho khách
hàng, thực hiện các dịch vụ tài chính khác theo yêu cầu của khách hàng. Bằng cách đó
ngân hàng huy động tiền của các doanh nghiệp, các tổ chức và của dân cư.
Tiền gửi là nguồn tiền quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của
ngân hàng. Để gia tăng lượng tiền gửi và có được nguồn tiền có chất lượng cao, ổn
định trong môi trường cạnh tranh, các ngân hàng đã đưa ra và thực hiện nhiều hình
thức huy động khác nhau. Các cá nhân, doanh nghiệp gửi tiền vào ngân hàng thông
qua việc mở tài khoản để được ngân hàng cung ứng các dịch vụ về thanh toán, đầu tư
10

10


Luận văn tốt nghiệp

SV: Trần Thị Thơm-Lớp :D.01.22.01

một cách nhanh chóng và an toàn. Nâng cao nghiệp vụ huy động tiền gửi sẽ tăng
nguồn vốn kinh doanh cho ngân hàng, thanh toán không dùng tiền mặt giúp NHNN ổn
định và kiểm soát nền kinh tế qua chính sách tiền tệ.
Hoạt động đi vay
Ngân hàng có thể huy động vốn đáp ứng nhu cầu chi trả khi khả năng huy động
bị hạn chế bằng cách vay các tổ chức tín dụng, vay NHNN và vay trên thị trường vốn.
Nguồn vốn chủ yếu của ngân hàng vẫn là từ các nguồn tiền gửi nhưng trong những
trường hợp khẩn cấp, NHNN cho phép các NHTM vay vốn đáp ứng khả năng thanh

toán kịp thời của NHTM dưới hình thức tái chiết khấu (hoặc tái cấp vốn). Ngân hàng
cũng có thể vay vốn trên thị trường vốn thông qua việc phát hành các giấy nợ (kỳ
phiếu, tín phiếu, cổ phiếu và trái phiếu) đáp ứng khả năng chi trả đối với khoản vay
trung và dài hạn. Các tổ chức tín dụng trên thị trường có thể vay mượn lẫn nhau thông
qua thị trường liên ngân hàng, các khoản vay có thể không cần tài sản bảo đảm hoặc
được bảo đảm bằng các chứng khoán của kho bạc. Qui mô và tính ổn định của khoản
vay chịu tác động của qui mô, uy tín của Ngân hàng.
Hoạt động huy động vốn khác
Ngân hàng có thể huy động từ các nguồn khác như: nguồn uỷ thác, nguồn trong
thanh toán, các nguồn khác.
NHTM thực hiện các dịch vụ uỷ thác như: uỷ thác cho vay, uỷ thác đầu tư, uỷ
thác cấp phát, uỷ thác giải ngân…
Nguồn trong thanh toán được thành lập từ các hoạt động thanh toán không dùng
tiền mặt qua ngân hàng (séc trong quá trình chi trả, tiền ký gửi để mở L/C…).
Nguồn khác: Các khoản nợ khác như thuế chưa nộp, lương chưa trả…
Các nguồn này tuy đã có ở thị trường tuy nhiên chưa phổ biến, số lượng ít. Sự
phát triển của các nguồn này phụ thuộc lớn vào sự phát triển của thị trường, công nghệ
ngân hàng.
1.1.3.2. Hoạt động sử dụng vốn

11

11


Luận văn tốt nghiệp

SV: Trần Thị Thơm-Lớp :D.01.22.01

Sau khi huy động vốn, để bù đắp được chi phí huy động vốn và có lợi nhuận thì

NHTM phải tìm cách sử dụng hiệu quả các nguồn vốn này để thu lãi. Đây là hoạt động
chủ yếu và đem lại tỷ trọng thu nhập lớn nhất cho NHTM. NHTM sử dụng vốn theo
các hướng cơ bản là hoạt động tín dụng, đầu tư chứng khoán, đầu tư mua sắm tài sản
cố định và trang thiết bị, hoạt động ngân quỹ trong đó hoạt động tín dụng là quan trọng
nhất bởi vì nó đem lại phần lớn thu nhập cho Ngân hàng.
Hoạt động tín dụng
Nguồn thu nhập lớn nhất của ngân hàng là từ hoạt động tín dụng, chiếm tỷ trọng
cao nhất trong tổng tài sản, tạo thu nhập từ lãi lớn nhất, mang lại rủi ro cao nhất. Tín
dụng là hoạt động tài trợ của ngân hàng cho khách hàng.
Điều 49 Luật các tổ chức tín dụng của Việt Nam ghi: “Tổ chức tín dụng được
cấp tín dụng cho tổ chức cá nhân dưới các hình thức cho vay, chiết khấu thương phiếu
và các giấy tờ có giá, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức khác theo qui định
của NHNN”. Như vậy, các nghiệp vụ tín dụng mà ngân hàng có thể thực hiện chủ yếu
là cho vay, chiết khấu, bảo lãnh, cho thuê tài chính.
Nền kinh tế ngày càng phát triển, nhu cầu mở rộng sản xuất kinh doanh của các
đơn vị cá nhân cũng tăng theo, làm cho hoạt động tín dụng càng phát triển. Các ngân
hàng đang từng bước mở rộng các hình thức, đối tượng kinh doanh.
Ngoài cho vay đối với các doanh nghiệp ngân hàng cũng mở rộng cho vay cá
nhân và hộ gia đình để tiêu dùng và sản xuất kinh doanh. Bên cạnh hình thức cho vay
ngắn hạn, ngân hàng còn cho vay các dự án, có độ rủi ro cao nhưng lợi nhuận lớn.
Ngân hàng hưởng lợi từ chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động. Đối với
ngân hàng hoạt động này có rủi ro cao nên trước khi cho vay ngân hàng thường tổ
chức thẩm định sát sao các dự án cho vay.
Ngân hàng thực hiện chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá trên cơ sở
tín nhiệm. Nghiệp vụ chiết khấu được coi là đơn giản. Độ an toàn của thương phiếu
tương đối cao do có sự bảo đảm của nhiều người (trừ trường hợp ngân hàng miễn ký
miễn truy đòi đối với khách hàng). Ngân hàng có thể tái chiết khấu thương phiếu đáp
ứng nhu cầu thanh khoản với chi phí thấp.
Cho thuê tài chính thường là hình thức tín dụng trung và dài hạn. Nó gần giống
với cho vay ở chỗ ngân hàng phải xuất tiền với kỳ vọng thu về cả gốc lẫn lãi sau thời

hạn nhất định. Cho thuê không có tài sản đảm bảo nên rủi ro cao, ngân hàng phải lập
12

12


Luận văn tốt nghiệp

SV: Trần Thị Thơm-Lớp :D.01.22.01

dự phòng rủi ro.
Bảo lãnh là việc ngân hàng thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng
khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ cam kết. Ngân hàng tài trợ cho khách
hàng để có thể tìm nguồn tài trợ mới, mua hàng hoá thực hiện hoạt động sản xuất kinh
doanh thu lợi nhuận. Bảo lãnh của ngân hàng tạo mối liên kết trách nhiệm tài chính và
san sẻ rủi ro. Ngân hàng thu phí bảo lãnh nhằm bù đắp chi phí. Ngoài ra, ngân hàng
còn thu được khoản ký quĩ và nguồn tiền gửi với lãi suất thấp khi thực hiện nghiệp vụ
bảo lãnh.
Hoạt động đầu tư
Sau cho vay, đầu tư là loại tài sản chiếm tỷ trọng cao thứ hai trong tổng tài sản.
Ngân hàng có thể đầu tư vào việc mua bán chứng khoán, góp vốn vào các doanh
nghiệp hoặc đầu tư vào trang thiết bị tài sản cố định phục vụ cho hoạt động kinh doanh
của Ngân hàng. Đi đôi với sự phát triển của xã hội là sự xuất hiện hàng loạt những nhu
cầu khác nhau. Để đa dạng hoá các nghiệp vụ kinh doanh tăng thu lợi nhuận ngân
hàng cần chú trọng vào các loại hình đầu tư, đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế đang
trên đà phát triển.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế ngành ngân hàng cũng đang phát triển
không ngừng, các ngân hàng đang chú trọng phát triển theo hướng ngân hàng đa năng,
ngân hàng tập đoàn, mở rộng đầu tư vào nhiều các lĩnh vực thuộc tài chính- ngân
hàng- bảo hiểm và nhiều lĩnh vực khác.

1.1.3.3. Các hoạt động trung gian của NHTM
Bao gồm hoạt động thanh toán, hoạt động quản lý tài sản cho khách hàng, hoạt
động phát hành chứng khoán, hoạt động mua bán và bảo quản chứng khoán, hoạt động
cung cấp thông tin, tư vấn kinh doanh và quản trị doanh nghiệp…Các hoạt động này
không phải đem lại nguồn thu nhập chủ yếu cho NHTM nhưng có ý nghĩa quan trọng
trong việc mở rộng hoạt động huy động và sử dụng nguồn vốn, đồng thời đa dạng hóa
hoạt động, giảm bớt rủi ro và tăng thu nhập cho Ngân hàng.
Mở tài khoản giao dịch và và thực hiện thanh toán
Thông qua việc mở các tài khoản ngân hàng ngoài việc bảo quản tiền cho khách
hàng còn thực hiện các hoạt động thanh toán theo nhu cầu của khách hàng. Thanh toán
không dùng tiền mặt, tức là người gửi tiền không cần phải đến ngân hàng để lấy tiền
trả cho khách hàng mà chỉ cần viết lệnh chi trả cho khách (còn được gọi là séc), khách
13

13


Luận văn tốt nghiệp

SV: Trần Thị Thơm-Lớp :D.01.22.01

hàng mang giấy lệnh đến ngân hàng sẽ nhận được tiền. Thanh toán không dùng tiền
mặt sẽ tăng nhanh vòng quay vốn, an toàn, thuận tiện, nhanh chóng hơn cho cả người
nhận tiền và người gửi tiền. Thanh toán không dùng tiền mặt còn giúp giảm lượng tiền
mặt, chi phí lưu thông trong nền kinh tế, tăng cường quản lý vĩ mô, căn cứ hoạch định
và thực thi chính sách tiền tệ. Ngân hàng sẽ thu được phí dịch vụ thanh toán, nguồn
vốn trong thanh toán. Ngân hàng thực hiện vai trò trung gian của mình đối với các chủ
thể trong nền kinh tế.
Cùng với sự phát triển của ngành công nghiệp ngân hàng, nhiều phương
thức thanh toán được phát triển như Uỷ nhiệm chi, nhờ thu, L/C, thẻ thanh toán …

Hoạt động trung gian này vừa mang lại một phần lợi nhuận cho ngân hàng, vừa
giúp ích ổn định, phát triển nền kinh tế, lưu thông thanh toán thương mại thuận
tiện, rõ ràng.
Bảo quản vật có giá
Cũng là nhu cầu được bảo đảm tài sản của khách hàng các ngân hàng thực hiện
việc lưu giữ các vật có giá (vàng, các vật quí có giá trị khác…) chứ không chỉ có tiền
mặt. Ngân hàng sẽ giao cho khách hàng một giấy chứng nhận, được yêu cầu chi trả bất
cứ lúc nào. Khách hàng phải trả phí bảo quản. Trên thế giới hình thức bảo quản các vật
có giá rất phát triển, có những ngân hàng chuyên trách về bảo quản các vật có giá.
Các nghiệp vụ trung gian khác
Ngoài các hoạt động dịch vụ nêu trên, ngân hàng còn cung cấp các dịch vụ: uỷ
thác, bảo quản hộ các chứng từ có giá cho khách hàng thuê két sắt, dịch vụ đại lý….
Tuy ba nhóm hoạt động có những đặc điểm khác nhau song có quan hệ mật
thiết, gắn bó chặt chẽ và bổ sung cho nhau.Ngân hàng thực hiện các hoạt động tài
chính - ngân hàng trên nhu cầu của các chủ thể kinh tế. Hoạt động huy động vốn ảnh
hưởng tới quyết định sử dụng vốn, ngược lại nhu cầu sử dụng vốn ảnh hưởng tới qui
mô, cơ cấu của nguồn vốn huy động. Các nghiệp vụ trung gian tạo thêm thu nhập cho
ngân hàng, đặc biệt là thu hút khách hàng tạo các quan hệ tín dụng mở rộng các hoạt
động chính của ngân hàng (huy động vốn và sử dụng vốn). Các hoạt động của ngân
hàng có mối quan hệ biện chứng qua lại lẫn nhau, ngân hàng cần kết hợp hoạt động
hợp lý, chặt chẽ giữa các hoạt động để thu được hiệu quả kinh doanh cao nhất.
1.1.4. Vai trò của NHTM

14

14


Luận văn tốt nghiệp


SV: Trần Thị Thơm-Lớp :D.01.22.01

Đã từ lâu vai trò của Ngân hàng trong nền kinh tế trở nên vô cùng quan trọng
nhất là khi quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã đi vào chiều sâu, yêu cầu cần có
vốn để xây dựng cơ sở hạ tầng, tăng tốc độ đầu tư, từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, đảm bảo nhịp độ tăng trưởng kinh tế nhanh và bền lâu.
1.1.4.1. NHTM là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế
Vốn được tạo ra trong quá trình tích lũy, tiết kiệm của mỗi cá nhân, doanh
nghiệp và các tổ chức trong nền kinh tế vì vậy muốn tăng vốn phải tăng thu nhập quốc
dân, có mức độ tiêu dùng hợp lý. Tăng thu nhập quốc dân đồng nghĩa với việc mở
rộng sản xuất và lưu thông hàng hóa, đẩy mạnh sự phát triển của các ngành trong nền
kinh tế.
Thông qua hình thức cấp tín dụng Ngân hàng đã tạo điều kiện cho doanh nghiệp
trong những nấc thang cạnh tranh cao hơn, cạnh tranh càng mạnh mẽ, doanh nghiệp
càng có những tiến bộ trong cách thức sản xuất dẫn đến cải thiện đời sống của nhân
dân thông qua tạo việc làm, tăng thu nhập,…làm cho kinh tế càng phát triển. Như vậy
với khả năng cung cấp vốn NHTM đã trở thành một trong những điểm khởi đầu cho sự
phát triển kinh tế của quốc gia.
1.1.4.2. NHTM là cầu nối giữa doanh nghiệp và thị trường
Thị trường ở đây bao gồm thị trường đầu vào và thị trường đầu ra. Để tiến hành
bất kỳ một hoạt động kinh doanh nào doanh nghiệp cần phải tham gia vào thị trường
đầu vào, nơi cung cấp các nguyên vật liệu cần thiết cho việc sản xuất kinh doanh nhằm
thực hiện thành công chiến lược 5P:
- Products: sản phẩm
- Price: giá cả
- Promotion: giao tiếp, khuếch trương
- Place: địa điểm
- People: con người
Từ đó tiếp cận mạnh mẽ thị trường đầu ra, đó là nơi tiêu thụ sản phẩm để tìm
kiếm lợi nhuận. Để quá trình trên diễn ra liên tục và bình thường thì doanh nghiệp cần

có “vốn”, nhưng không phải doanh nghiệp nào cũng có đủ khả năng về tài chính và
NHTM là nơi cần thiết giúp doanh nghiệp cải thiện tình hình đó.
1.1.4.3. NHTM là cầu nối giữa nền tài chính quốc gia và nền tài chính thế giới

15

15


Luận văn tốt nghiệp

SV: Trần Thị Thơm-Lớp :D.01.22.01

Trong xu thế khu vực hóa, toàn cầu hóa như hiện nay thì vai trò này của NHTM
ngày một thể hiện rõ rệt hơn. Áp lực cạnh tranh buộc nền kinh tế mỗi quốc gia khi mở
cửa hội nhập với bên ngoài phải có tiềm lực lớn mạnh về mọi mặt đặc biệt là tiềm lực
về tài chính. Để có thể hòa nhập với các quốc gia khác trên thế giới, hệ thống NHTM
trong nước có khả năng cung cấp nhiều loại hình dịch vụ khác nhau hỗ trợ cho việc
đầu tư từ nước ngoài vào trong nước như: thanh toán quốc tế, cho vay ủy thác đầu tư,
…giúp cho luồng vốn ra, vào một cách hợp lý. Đây là điều kiện tiên quyết cho tiến
trình hội nhập kinh tế ở các quốc gia trên thế giới.
1.1.4.4. NHTM là công cụ để Nhà Nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế
Một trong những con đường dẫn đến lạm phát của nền kinh tế là lạm phát qua
con đường tín dụng và hoạt động của Ngân hàng góp phần chống lạm phát: NHTM sẽ
kiểm soát lạm phát thông qua các hoạt động tín dụng và bảo lãnh còn NHTW sẽ tác
động vào tỷ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất tái chiết khấu hoặc tham gia vào thị trường mở
để thông qua các NHTM thay đổi lượng tiền trong lưu thông. Từ đó Ngân hàng sẽ đưa
ra các biện pháp để ổn định sức mua của đồng tiền, kiềm chế lạm phát.
1.2. Hoạt động huy động vốn của Ngân hàng thương mại


16

16


Luận văn tốt nghiệp

SV: Trần Thị Thơm-Lớp :D.01.22.01

“Hoạt động huy động vốn của các Ngân hàng thương mại là hoạt động mà
trong đó các Ngân hàng này tìm kiếm nguồn vốn khả dụng từ các chủ thể khác nhằm
đảm bảo sự vận hành bình thường, hiệu quả của bản thân nó theo đúng các quy định
pháp luật”
Huy động vốn có thể được xem là một trong những nghiệp vụ xuất hiện sớm
nhất trong hoạt động của các NHTM. Trong giai đoạn sơ khai của hoạt động Ngân
hàng, những nghiệp vụ này chỉ đơn thuần là hoạt động cất giữ các tài sản có giá nhằm
mục đích đảm bảo an toàn, và lúc này, người phải trả phí là người gửi tiền chứ không
phải là các Ngân hàng, các khoản tiền chỉ được xem đơn thuần là vật được kí gửi chứ
hoàn toàn không đóng vai trò là nguồn vốn đối với các Ngân hàng thương mại, tiền lúc
này không được xem là tiền tệ theo đúng nghĩa của nó, vì không có khả năng luân
chuyển, không sinh ra được lợi nhuận. Khi nhu cầu tín dụng gia tăng, nghiệp vụ Ngân
hàng phát triển, vị thế đó bị đảo ngược, Ngân hàng là người phải trả phí (lãi suất – giá
cả của tín dụng), và nguồn tiền được kí gửi thay đổi vai trò của nó, trở thành nguồn
vốn khả dụng và lớn nhất của các NHTM hiện nay. Chính vì vậy, trái ngược với quá
khứ, Ngân hàng là người phải đi nài nỉ khách hàng gửi tiền. Nếu trước đây, Ngân hàng
là người bị động trong quan hệ này thì hiện nay, hầu hết tất cả các Ngân hàng đều có
các chính sách, phương thức để lôi kéo nguồn tiền gửi này và chính vì vậy các phương
thức huy động vốn ngày càng trở nên quan trọng, phong phú và đa dạng hơn. Có thể
nói, hiện nay, hoạt động huy động vốn là một trong những hoạt động hết sức quan
trọng và liên quan đến sự sống còn của các NHTM.

Xuất hiện khá lâu đời và không ngừng phát triển, thay đổi cùng với sự phát triển
của các NHTM, nội hàm của khái niệm hoạt động huy động vốn đã có những thay đổi
rất đáng kể, cả về quy mô và các hình thức thể hiện. Hơn nữa, gần như không tìm
được một định nghĩa hoàn thiện về hoạt động này cũng như không có được sự thống
nhất hoàn toàn giữa các quan điểm. Đặc biệt, là sự khác biệt trong cách hiểu khi đề cập
vấn đề này dưới các khía cạnh khác nhau.

17

17


Luận văn tốt nghiệp

SV: Trần Thị Thơm-Lớp :D.01.22.01

Phổ biến nhất là việc sử dụng thuật ngữ này trong các khía cạnh không chuyên,
đặc biệt là ngôn ngữ thường nhật của xã hội và báo chí. Khái niệm huy động vốn được
sử dụng ở đây đối với hoạt động của các NHTM có thể nói là hẹp và không rõ ràng
nhất, trong nhiều trường hợp có sự không thống nhất trong nội hàm của bản thân khái
niệm. Nhưng nhìn chung, phổ biến nhất, khái niệm này được dùng chủ yếu đề cập đến
một hoạt động đặc trưng nhất của các NHTM, đó là nhận tiền gửi và dưới các hình
thức cơ bản nhất, cụ thể là nhận tiền gửi tiết kiệm và các loại tiền gửi có và không có
kì hạn khác.
Dưới khía cạnh kinh tế cũng có khá nhiều cách tiếp cận với riêng khái niệm này,
tuy cũng khá tương đồng nhau và phạm vi thường rộng hơn khái niệm được đề cập ở
trên nhưng nội hàm của chúng thường không đồng nhất. Cách tiếp cận thông thường
nhất hiện nay trong các nghiên cứu của các chuyên ngành kinh tế, tài chính Ngân hàng
là tiếp cận khái niệm huy động vốn từ nguồn gốc của các nguồn vốn. Chẳng hạn,
nguồn vốn được chia thành vốn tự có, vốn huy động, vốn đi vay, vốn tiếp nhận, vốn

khác. Chính vì vậy, hoạt động huy động vốn của NHTM lúc này bao gồm cả việc khởi
tạo nguồn vốn ban đầu cho sự hình thành vốn điều lệ và cả việc tạo lập nguồn vốn cấp
2 (một bộ phận của nguồn vốn tự có) của NHTM.
1.2.1. Nguồn vốn của NHTM
Nguồn vốn của NHTM là những giá trị tiền tệ do Ngân hàng tạo lập và huy
động để thực hiện các nghiệp vụ cho vay, đầu tư hoặc thực hiện các dịch vụ kinh
doanh nhằm mục tiêu sinh lời.
Nguồn vốn đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt động của các tổ chức kinh tế
nói chung và NHTM nói riêng. Đó là khoản hình thành nên tài sản của ngân hàng,
giúp cho ngân hàng hoạt động một cách hiệu quả. Nguồn vốn của ngân hàng có được
là do tự có, đóng góp hoặc huy động được dùng để cho vay, đầu tư hoặc thực hiện các
dịch vụ kinh doanh khác. Trên bảng tổng kết tài sản nguồn vốn của NHTM nguồn vốn
được chia thành: vốn chủ sở hữu, nguồn tiền gửi, vốn vay và các nguồn vốn khác.
1.2.1.1. Vốn chủ sở hữu

18

18


Luận văn tốt nghiệp

SV: Trần Thị Thơm-Lớp :D.01.22.01

Về mặt kinh tế, vốn chủ sở hữu là vốn riêng của Ngân hàng do các chủ sở hữu
đóng góp và nó còn được tạo ra trong quá trình kinh doanh dưới dạng lợi nhuận giữ
lại. Mặc dù chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của Ngân hàng song lại
là điều kiện pháp lý bắt buộc khi thành lập Ngân hàng.
1.2.1.2. Vốn huy động
Đây là nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong Ngân hàng, Ngân hàng chỉ có

quyền sử dụng mà không có quyền sở hữu, phải có trách nhiệm hoàn trả đúng hạn cả
gốc và lãi khi đến hạn. Nguồn vốn này luôn biến động nên Ngân hàng không được sử
dụng hết mà phải có dự trữ với một tỷ lệ hợp lý để đảm bảo khả năng thanh toán.
NHTM huy động vốn thông qua các hoạt động: nhận tiền gửi, phát hành giấy tờ có
giá, vay vốn giữa các tổ chức tín dụng và vay vốn ngắn hạn của Ngân hàng nhà nước.
* Nguồn hình thành
- Nhận tiền gửi
. Tiền gửi không kỳ hạn của các tổ chức, cá nhân
. Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn
. Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn
- Phát hành giấy tờ có giá: kỳ phiếu, trái phiếu
- Các khoản tiền gửi khác
* Đặc điểm vốn huy động
- Nguồn vốn không ổn định
- Nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất
* Mục đích sử dụng
- Thiết lập dự trữ
- Cấp tín dụng
1.2.1.3. Vốn đi vay
Là loại vốn mà Ngân hàng chủ động đi vay với mục đích, thời hạn vay, và đối
tượng vay khác nhau bao gồm:
1.2.1.3.1. Vay từ các tổ chức tín dụng khác

19

19


Luận văn tốt nghiệp


SV: Trần Thị Thơm-Lớp :D.01.22.01

Các NHTM có thể vay và cho vay lẫn nhau thông qua thị trường liên Ngân hàng
hoặc vay trực tiếp lẫn nhau không thông qua thị trường liên Ngân hàng, phương thức
này rất linh hoạt giúp các NHTM cân đối vốn một cách kịp thời.
Nguyên tắc vay vốn từ các tổ chức tín dụng khác:
+) Các Ngân hàng phải hoạt động hợp pháp
+) Thực hiện việc cho vay và đi vay theo hợp đồng tín dụng
+) Vốn vay phải được đảm bảo bằng thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của Ngân
hàng trung ương.
1.2.1.3.2. Vay từ NHTW
Dù các NHTM thận trọng đến mấy trong việc cho vay thì cũng không thể tránh
khỏi lúc mất khả năng chi trả hoặc thiếu tiền mặt tạm thời, lúc đó NHTW chính là vị
cứu tinh của NHTM, là nguồn vay sau cùng.
Ở Việt Nam hiện nay, NHTW cho các NHTM vay dưới các hình thức:
+) Tái cấp vốn
+) Chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác
+) Cho vay có đảm bảo bằng thế chấp hoặc cầm cố thương phiếu và các giấy tờ
có giá ngắn hạn khác
+) Cho vay theo loại hồ sơ tín dụng
Ngoài ra NHTW còn cho các NHTM vay bổ sung vốn thanh toán bù trừ, nhờ
loại cho vay này mà hệ thống thanh toán bù trừ được thực hiện một cách thuận lợi.
Trong những trường hợp đặc biệt, khi được Thủ tướng Chính phủ chấp nhận, NHTW
còn cho vay đối với các NHTM tạm thời mất khả năng chi trả có nguy cơ gây mất an
toàn cho toàn bộ hệ thống.
1.2.1.3.3 Vốn khác

20

20



Luận văn tốt nghiệp

SV: Trần Thị Thơm-Lớp :D.01.22.01

Bên cạnh các nguồn vốn nêu trên trong quá trình hoạt động các NHTM còn có
thể tạo lập vốn cho mình từ nhiều nguồn khác:
+) Vốn trong thanh toán: Là nguồn vốn mà Ngân hàng tạo lập được trong quá
trình làm trung gian thanh toán.
+) Vốn tiếp nhận: Là số vốn ủy thác đầu tư, tài trợ của Chính phủ, của các tổ
chức tài chính tiền tệ, các tổ chức đoàn thể-xã hội trong và ngoài nước tài trợ cho các
chương trình dự án về phát triển kinh tế, xã hội, cải tạo môi trường…và được chuyển
qua NHTM làm đại lý ủy thác thực hiện.
Các nguồn vốn khác này tuy không nhiều, thời gian sử dụng lại ngắn nhưng
điều đặc biệt là đối với nguồn vốn này, Ngân hàng không những không phải tốn kém
chi phí sử dụng vốn mà đôi khi còn nhận được phí từ việc cung cấp các dịch vụ Ngân
hàng đồng thời có điều kiện mở rộng nghiệp vụ và dịch vụ Ngân hàng làm cho hoạt
động của Ngân hàng đa dạng hơn.
1.2.2. Các hình thức huy động vốn của NHTM
Các NHTM làm nhiệm vụ vay tiền (hầu hết từ những người gửi tiền) cho vay
với mục đích hưởng lợi qua lãi suất. Đây là một công việc của một trung gian tài chính
đóng vai trò trung gian giữa người cần vốn và người có vốn. Quá trình tạo vốn của
NHTM được thể hiện dưới các hình thức sau:

21

21



Luận văn tốt nghiệp

SV: Trần Thị Thơm-Lớp :D.01.22.01

1.2.2.1. Huy động vốn qua tài khoản tiền gửi của khách hàng
1.2.2.1.1. Tiền gửi thanh toán
Với loại tiền này khách hàng có thể gửi tiền vào và rút tiền ra bất cứ lúc nào có
nhu cầu. Mục đích chính của người gửi tiền nhằm đảm bảo an toàn về tài sản và thực
hiện các khoản thanh toán qua Ngân hàng. Tài khoản này mở cho các khách hàng cá
nhân hoặc tổ chức có nhu cầu thực hiện thanh toán qua Ngân hàng.Tuy nhiên hiện nay
tại Việt Nam tỷ trọng trong thanh toán không dùng tiền mặt còn thấp cho nên để khuyến
khích việc thanh toán qua Ngân hàng các NHTM Việt Nam đã tiến hành trả lãi cho
khoản tiền này còn ở các nước kinh tế phát triển thì không trả lãi cho khoản tiền này.
1.2.2.1.2. Tiền gửi có kỳ hạn
Đây là loại tiền gửi mà khách hàng chỉ được rút tiền khi thời hạn ấn định kết
thúc. Nếu khách hàng có nhu cầu rút trước thời hạn thì Ngân hàng sẽ không trả lãi cho
khách hàng. Tuy nhiên ở Việt Nam để khuyến khích khách hàng gửi tiền thì Ngân
hàng sẽ trả cho khách hàng với mức lãi suất của tiền gửi không kỳ hạn.
Đây là nguồn vốn tương đối ổn định do thời gian gửi tiền đã được ấn định trước
nên Ngân hàng thường trả lãi rất cao. Nó phù hợp với những người có khoản tiền tạm
thời nhàn rỗi hoặc những người đang tìm cách quay vòng vốn trong một thời gian để
đạt hiệu quả cao nhất. Hiện tại các NHTM có các loại tiền gửi có kỳ hạn 1 tháng, 3
tháng, 6 tháng, 9 tháng, 1 năm và 2 năm, với mỗi kỳ hạn khác nhau thì Ngân hàng áp
dụng một loại lãi suất khác nhau, thường kỳ hạn càng dài lãi suất càng cao. Tuy nhiên
ở các NHTM Việt Nam hiện nay kỳ hạn 1 tháng là rất hãn hữu và ở nhiều Ngân hàng
khác loại kỳ hạn này không tồn tại.
1.2.2.1.3. Tiền gửi tiết kiệm của dân cư

22


22


Luận văn tốt nghiệp

SV: Trần Thị Thơm-Lớp :D.01.22.01

Là loại tiền gửi mà khi khách hàng gửi tiền vào Ngân hàng thì họ được giao một
cuốn sổ tiết kiệm coi như một giấy chứng nhận tiền gửi vào Ngân hàng. Tiền gửi tiết
kiệm bao gồm:
+)Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn:
Thực chất đây là loại tiền gửi thông thường, người gửi tiền có thể rút ra một
phần hoặc toàn bộ số tiền gửi bất cứ lúc nào mà không thông báo trước nhưng khác
với loại tiền gửi thanh toán, người gửi tiền không được sử dụng các công cụ thanh toán
để chi trả cho người khác, bên cạnh đó số dư của loại này thường không lớn và có ưu
điểm hơn tiền gửi giao dịch ở chỗ là số dư này ít biến động nên lãi suất tiền gửi tiết
kiệm thường cao hơn so với tiền gửi thanh toán và phần lớn những người gửi tiền tiết
kiệm là do chưa xác định được nhu cầu chi tiêu cụ thể trong tương lai nhưng lại hưởng
mức lãi trong thời gian khoản tiền nhàn rỗi.
+)Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn:
Là loại tiền gửi dành cho khách hàng cá nhân và tổ chức có nhu cầu gửi tiền vì
mục tiêu an toàn, sinh lợi và thiết lập được kế hoạch sử dụng tiền trong tương lai. Loại
này tương đối ổn định vì Ngân hàng xác định được thời gian rút tiền của khách hàng. Đối
với loại tiền gửi này Ngân hàng có nhiều loại thời hạn với lãi suất cao hơn loại tiền gửi
không kỳ hạn và mức lãi suất còn thay đổi tùy theo loại đồng tiền gửi tiết kiệm (VNĐ,
USD, EUR, hay vàng) và còn tùy theo uy tín, rủi ro của Ngân hàng nhận tiền gửi.
1.2.2.2. Huy động vốn bằng phát hành giấy tờ có giá

23


23


Luận văn tốt nghiệp

SV: Trần Thị Thơm-Lớp :D.01.22.01

Giấy tờ có giá là chứng nhận của tổ chức tín dụng phát hành để huy động vốn
trong đó xác nhận nghĩa vụ trả nợ một khoản tiền trong một thời hạn nhất định, điều
kiện trả lãi và các điều khoản cam kết khác giữa tổ chức tín dụng và người mua.
Đặc điểm của loại vốn này là lãi suất cao hơn lãi suất tiền gửi tiết kiệm, mục
đích huy động dùng để đáp ứng cho các dự án đầu tư lớn, được huy động theo nhiều
thời hạn khác nhau như ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Hiện nay ở các NHTM Việt
Nam thường huy động nguồn vốn này dưới hình thức phát hành kỳ phiếu có mục đích
và trái phiếu trung, dài hạn.
+) Trái phiếu Ngân hàng: Là một cam kết xác nhận nghĩa vụ trả nợ (cả gốc và
lãi) của Ngân hàng phát hành đối với người chủ sở hữu trái phiếu với mục đích là
nhằm huy động vốn trung và dài hạn, lãi suất của trái phiếu thường cao hơn lãi suất
của tiền gửi tiết kiệm, kỳ phiếu. Việc phát hành trái phiếu các NHTM chịu sự quản lý
của Ngân hàng trung ương, của các cơ quan quản lý trên thị trường chứng khoán và có
thể bị chi phối bởi uy tín của Ngân hàng.
+) Kỳ phiếu Ngân hàng: Đây là loại giấy tờ có giá ngắn hạn, người sở hữu có
thể chuyển nhượng cho người khác qua chứng nhận của Ngân hàng vì trên sổ kỳ phiếu
có ghi tên người hưởng.
+) Phát hành chứng chỉ tiền gửi: Nó là những giấy tờ xác nhận tiền gửi định kỳ
ở một Ngân hàng, người sở hữu giấy này sẽ được thanh toán tiền lãi theo kỳ và nhận
đủ vốn khi đến hạn. Chứng chỉ sau khi phát hành được lưu thông trên thị trường.

24


24


Luận văn tốt nghiệp

SV: Trần Thị Thơm-Lớp :D.01.22.01

1.2.3. Vai trò của hoạt động huy động vốn
Đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào, muốn hoạt động kinh doanh được thì phải
có vốn bởi vốn phản ánh năng lực chủ yếu để quyết định khả năng kinh doanh . Riêng
đối với Ngân hàng là một doanh nghiệp đặc biệt thì hoạt động huy động vốn lại càng
trở nên quan trọng, hoạt động của Ngân hàng gắn bó mật thiết với hệ thống tiền tệ và
hệ thống thanh toán. Vốn không chỉ là phương tiện kinh doanh chính mà còn là đối
tượng kinh doanh chủ yếu của NHTM. Như vậy vốn là điểm đầu tiên trong chu kỳ
kinh doanh của Ngân hàng, ngoài vốn điều lệ là điệu kiện bắt buộc theo luật thì Ngân
hàng phải huy động thêm vốn để hoạt động kinh doanh từ đó thu lợi nhuận.
Với chức năng tập trung và phân phối cho các nhu cầu của nền kinh tế, một
nguồn vốn huy động dồi dào sẽ tạo cho Ngân hàng điều kiện để mở rộng thị trường
kinh doanh bằng việc đa dạng hóa các loại hình dịch vụ, không bỏ lỡ cơ hội đầu tư,
giảm thiểu rủi ro, tạo dựng được uy tín cho khách hàng.
Bên cạnh đó huy động vốn tạo cho Ngân hàng khả năng cạnh tranh cao, nguồn
vốn huy động càng lớn sẽ chứng minh rằng quy mô, trình độ nghiệp vụ, phương tiện
kỹ thuật của Ngân hàng hiện đại.
Ví dụ như: Ngân hàng có vốn lớn khi có sự biến động của thị trường tiền tệ họ
vẫn có khả năng phản ứng nhanh chóng để khắc phục tình thế, ngược lại các Ngân
hàng ít vốn thường bị động trong trường hợp thị trường bị biến động, sự nhạy bén
thích nghi là chậm hơn hoặc không có khả năng khắc phục tình hình dẫn tới hoạt động
kinh doanh bị ảnh hưởng, thậm chí đi đến phá sản.
Các Ngân hàng thực hiện kinh doanh chủ yếu dựa vào nguồn vốn huy động vì
vậy khả năng huy động vốn tốt là điều kiện vô cùng thuận lợi để Ngân hàng mở rộng

quan hệ tín dụng với các thành phần kinh tế khác nhau trong xã hội cả về quy mô, khối
lượng tín dụng, chủ động về thời gian, thời hạn cho vay,…Điều đó sẽ thu hút nhiều
khách hàng, doanh số Ngân hàng sẽ tăng nhanh đảm bảo uy tín và năng lực trên thị
trường.
Với những vai trò quan trọng của hoạt động huy động vốn, các Ngân hàng luôn
tìm cách đưa ra những chính sách quản lý nguồn vốn từ khâu nhận vốn từ những người
gửi tiền và những người cho vay khác nhau đến việc sử dụng vốn một cách hiệu quả.

25

25


×