Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

SKKN ngư van: Hướng dẫn kĩ năng nghị luận thơ đạt hiệu quả cho học sinh lớp 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.37 KB, 23 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1 Lí do chọn đề tài:
Thơ là điệu nhạc của tâm hồn, là kết tinh tiếng lòng người nghệ sỹ, biểu
hiện trong ngôn từ nghệ thuật đặc biệt: cô đọng, hàm xúc và tinh tế. Hiểu được thơ,
cảm được thơ không dễ, phải có một tâm hồn đồng điệu, một năng khiếu trời cho,
một lòng say văn thực sự ...Có vậy, ta mới dễ hòa nhịp đập trái tim với tiếng lòng
của người nghệ sỹ. Nói như hoàng thơ Xuân Diệu: “Thơ hay là hay cả hồn lẫn
xác”, “hồn” là nội dung ý nghĩa, “xác” là nghệ thuật của thơ. Nhưng làm thế nào để
học sinh cảm nhận được cái hay, cái đẹp về “xác” và “hồn” thơ ấy? Điều đó thật
không dễ!
Nhiều năm qua, tôi trực tiếp đứng lớp, nắm bắt kĩ năng viết văn của từng học
sinh theo khóa học. Đồng nghiệp – cũng như tôi còn rất nhiều băn khoăn, trăn trở,
khi đọc những bài viết của các em cảm nhận về đoạn thơ, bài thơ. Học sinh còn
vụng về trong cách dùng từ, đặt câu, dựng đoạn cách khai thác nội dung, nghệ
thuật thơ, hành văn chưa mạch lạc, chặt chẽ, sơ sài, suy diễn chung chung, vừa
thừa vừa thiếu, có khi xa đề, lạc đề, không biết xây dựng luận điểm… Thi học sinh
giỏi văn lớp 9 thì không đạt giải, không lọt vào đội tuyển. Là giáo viên dạy văn, tôi
thực sự lo lắng về thực trạng này.
Trong quy định phân phối chương trình Ngữ văn lớp 6-7-8 các em đã tiếp
cận với số lượng văn bản thơ không nhỏ xong không có thời lượng cho thực hành,
chủ yếu được giáo viên lồng ghép trong các bài giảng văn bản. Vì vậy, nhận thức
về kiến thức tạo lập văn bản rất mờ nhạt, học sinh chưa hiểu được khái niệm kiểu
bài, thể loại, chưa định hình việc tạo lập văn bản nghị luận thơ là gì. Đến Ngữ văn
9, số tiết dành cho thực hành viết nghị luận về thơ rất khiêm tốn (1tiết), luyện nói
(2tiết). Số tiết học giảng văn bản thơ tới 19 tiết, chênh lệch lí luận và thực hành rất
lớn. Do vậy, học sinh khó nắm bắt được kĩ năng viết nghị luận về đoạn thơ, bài thơ
đồng nghĩa hiệu quả viết bài dạng tập làm văn này không cao.
Hiện tại, chưa có nhiều tài liệu chính thống, nghiên cứu chuyên sâu về vấn
đề này, nhà trường, đồng nghiệp còn lúng túng, khó khăn giải quyết, khắc phục hạn
chế của học sinh khi làm dạng văn này.
Học văn là học cách làm người: biết yêu thương, căm thù, giận hờn biết sẻ


chia...Những bài viết của các em một phần thể hiện tâm hồn, suy nghĩ, cách cảm,
cách hiểu về thế giới quan, nhân sinh quan. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả giáo dục
ở bộ môn Ngữ văn trong nhà trường hiện nay, giáo viên cần đặc biệt chú trọng hơn
nữa trong việc rèn luyện kĩ năng viết văn nghị luận về đoạn thơ, bài thơ theo chuẩn
kiến thức và kĩ năng ngành yêu cầu. Đúc rút từ thực tế học văn, dạy văn, nhân đây,
tôi mạnh dạn góp một vài ý kiến của mình qua nghiên cứu kinh nghiệm: “Hướng
dẫn kĩ năng nghị luận thơ đạt hiệu quả cho học sinh lớp 9”.

1


1.2. Mục đích nghiên cứu:
Mục đích của tôi khi thực hiện đề tài này nhằm góp phần củng cố kĩ năng
tạo lập văn bản, kĩ năng viết tốt bài văn nghị luận về đoạn thơ, bài thơ nâng cao
chất lượng dạy và học môn Ngữ văn lớp 9, nâng cao kết quả thi vào 10 và thi học
sinh giỏi môn Ngữ văn của trường THCS .
- Bồi đắp niềm tin, tình yêu thơ văn cho học sinh.
1.3 Đối tượng nghiên cứu:
- Là những học sinh đang theo học lớp 9
- Phạm vi thực hiện: ứng dụng vào các tiết học văn học, tập làm văn, các
buổi học bồi dưỡng, phụ đạo buổi chiều và ôn thi vào 10.
- Đề tài nhiên cứu tìm hiểu sâu hơn, phát hiện và ứng dụng những giải pháp
nâng cao hiệu quả kĩ năng nghị luận thơ.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu
- Điều tra khảo sát nắm bắt tình hình thực tế.
- Tiến hành thực nghiệm trong các tiết dạy.
- Dạy học trực quan (gắn lí thuyết và thực hành cụ thể).
2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm:

Đây hoàn toàn không phải là vấn đề mới, thực tế có rất nhiều công trình
nghiên cứu của các tác giả tên tuổi như Nguyễn Khắc Viện, Trần Đình Sử... Căn cứ
vào tài liệu chính thống trong nhà trường từ: Sách giáo khoa, sách giáo viên Ngữ
Văn 9 đã cung cấp cho học sinh những kiến thức lí luận chung cách nghị luận về
đoạn thơ, bài thơ như : khái niệm, yêu cầu, các bước làm bài, nhiệm vụ từng phần
theo bố cục bài văn... Đó chính là những cơ sở lí luận có tác dụng định hướng cho
việc nghiên cứu, tìm kiếm những giải pháp nhằm khắc phục mâu thuẩn, khó khăn,
tồn tại mà tôi đã trình bày trong phần đặt vấn đề. Tuy nhiên, những bài viết ấy còn
lí thuyết chung, chưa cụ thể, hoặc chưa phù hợp với đặc điểm bộ môn và tiếp nhận
của học sinh địa phương.
2. 2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:

2


Thực tế, Sách giáo khoa, sách giáo viên, phân phối chương trình Ngữ Văn
9 ở phân môn làm văn chỉ có 2 tiết (T124 - T125) trang bị kiến thức lí luận cho học
sinh về nghị luận thơ, 2 tiết luyện nói (T139 - T140) và phân môn giảng văn bản có
19 tiết /14 tác phẩm thơ và 1tiết kiểm tra thơ. Như vậy, chênh lệch số tiết thực hành
tập làm văn và giảng văn rất lớn. Điều đó hạn chế khả năng hình thành kĩ năng
nghị luận về thơ của học sinh.
Thực tế nhiều học sinh kêu ca : “học thơ khó, phân tích thơ cũng khó”. Hiểu
thơ thế nào cho đúng, cho trúng? Mỗi tiết học chỉ có 45p, cái khó của người giáo
viên là làm sao cho học sinh hiểu, khắc sâu kiến thức liên quan đến tác phẩm. Mỗi
tiết kiểm tra định kì là 45ph - 90ph số học sinh viết có bố cục, có nội dung, có độ
sắc thật khiêm tốn. Trường địa phương chúng tôi, năm học 2013-2014 có 58 em,
gạn đục khơi trong chỉ có 5 em có kĩ năng làm bài nghị luân thơ, 13 học sinh viết
khá, số còn lại là yếu kém. Nhiều em còn chưa biết hình thành câu, đoạn, chưa có
kĩ năng xây dựng luận điểm hoặc đưa ra luận điểm nhưng chưa biết vận dụng các
phép lập luận, chưa tìm được luận cứ, bước khái quát nâng cao vấn đề bị bỏ qua

…Tất cả những hạn chế đó xuất phát từ những kiến thức lí luận còn nghèo nàn
thậm chí xem thường các tiết học Tập làm văn .
Thực tế tập làm văn là tiết khó: khó dạy, khó học. Giáo viên ngại dạy. Học
sinh ngại học hay cho rằng chỉ cần có năng khiếu là học được, viết được …Đây là
cách hiểu không sai nhưng chưa chính xác. Năng khiếu là cái trời cho nhưng nếu
có năng khiếu mà không rèn rũa, tìm tòi phát huy nâng cao, không có kiến thức lí
luận cơ bản thì viết bài nghị luận khó cho đúng, cho hay …
Có thời gian dài người ta thích ra đề bài kiểm tra trắc nghiệm. Bên cạnh ưu
điểm, tích cực hình thức kiểm tra đánh giá này. Nếu giáo viên nào lạm dụng sẽ hạn
chế khả năng viết tự luận của học sinh. Học văn mà không viết thì vô tình làm mất
đi vẻ đẹp đặc thù của bộ môn .Vì vậy, kĩ năng nghị luận của các em vốn kém lại
càng kém hơn .
Vào đầu năm học, tôi khảo kĩ năng nghị luận thơ của học sinh qua bài tập nhỏ:
+ Viết đoạn văn nêu cảm nhận của em về một đoạn thơ đã học …?
+Vẻ đẹp nội dung và nghệ thuật qua một bài thơ đã
* Kết quả khảo sát chất lượng trước khi thực hiện đề Tài:
Khối
lớp

9A

KẾT QUẢ XẾP LOẠI
Giỏi
Tổng
học
25

Khá

Trung bình


Yếu

TS

%

TS

%

TS

%

TS

%

2

2%

7

8,%

10

40%


6

20%

sinh
3


9B

33

3

9%

6

18%

16

48%

10

30%

Qua kết quả khảo sát có thể nhận thấy số học sinh không có kĩ năng nghị

luận viết bài còn nhiều, số học sinh có kĩ năng viết đoạn thành thạo còn ít. Trên bài
làm của hầu hết các em thể hiện việc nắm kiến thức lí luận còn lơ mơ.
Do vậy để khắc phục hạn chế của học sinh, nâng cao chất lượng dạy và học đòi hỏi
giáo viên phải có những giải pháp hợp lí. Đó là lí do tôi chọn đề tài này để trình
bày sáng kiến:“Hướng dẫn kĩ năng nghị luận thơ đạt hiệu quả cho học sinh lớp
9”
2.3. Giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề:
Năng lực Nghị luận thơ tuỳ thuộc rất lớn vào trình độ hiểu biết văn chương,
kỹ năng sử dụng ngôn ngữ diễn đạt cũng như các thao tác, phương pháp, kiến thức
lí luận ...Viết bài văn nghị luận đúng, trúng và hay bao giờ cũng dành cho người
nắm được kĩ năng. Nghị luận thơ mà không có phương pháp thì khó bề đặt chân
đến bờ chân - thiện - mĩ của thi phẩm. Muốn vậy, Giáo viên cần hiểu biết vững sâu
về thơ, có nhiệm vụ cung cấp vốn kiến thức lí luận về thơ cho học sinh .
Giải pháp 1: Cung cấp kiến thức các yếu tố nội dung và hình thức nghệ
thuật cần chú ý khi nghị luận về thơ :
Giáo viên chỉ ra cho học sinh nắm được các yếu tố nội dung và hình thức
nghệ thuật mà nhà thơ thường dùng để biểu hiện tình cảm, tư tưởng qua : Ngôn
ngữ, hình ảnh, giọng điệu, biện pháp tu từ, thể thơ , nhan đề…Và những điều lưu ý
khi phân tích các yếu tố ấy. Kiến thức lí luận chung này rất quan trọng giúp học
sinh làm quen và dần khắc sâu kĩ năng phân tích thơ .
a. Ngôn ngữ Thơ
- Kiến thức lí luận : Ngôn ngữ thơ cô đọng, lời ít ý nhiều mang dấu ấn riêng
của mỗi người nghệ sĩ. Ngôn ngữ thơ phải chính xác, giàu hình tượng và biểu cảm
tạo nên tính họa, tính nhạc trong thơ.
Đây là yếu tố cơ bản và quan trọng nhất của hình thức chất liệu ngôn
từ. Bởi vì mọi nội dung cần thể hiện của tác phẩm văn học không có cách nào khác
là nhờ vào hệ thống này. “Văn học là nghệ thuật ngôn từ”do tầm quan trọng ấy mà
người ta xem nhà văn nhà thơ là người lao động chữ nghĩa. P.Reveredy nói: “Chỉ
một từ thôi cũng đủ tiêu diệt bài thơ hay nhất”. Không cần lý giải dài dòng vẫn
thấy vai trò quan trọng của từ ngữ thơ. Đó là những từ “sáng”, từ “đắt”, từ làm nên

giá trị nội dung thơ .
- Tổ chức thực hiện: Giáo viên cần chỉ ra cho hoc sinh chú ý không thoát li từ
ngữ, phát hiện và phân tích từ ngữ thơ bằng cách đặt ra các câu hỏi :
- Tại sao tác giả không dùng từ này mà lại là từ khác ?
Ví dụ :
Bỗng nhận ra hương ổi
4


Phả vào trong gió xe
(Sang Thu –Hữu Thỉnh)
- “Phả”: động từ có nghĩa là tỏa vào trộn lẫn. Người ta có thể dùng các từ :
lan, tan, bay, tỏa …thay cho từ “phả” nhưng cả bấy nhiêu từ không có cái nghĩa đột
ngột bất ngờ ..Từ “phả“cho thấy mùi hương ổi ở độ đậm đặc nhất, thơm nồng
quyến rũ hòa trong gió heo may lan tỏa khắp không gian tạo nên mùi hương ngọt
mát của những trái ổi chín vàng rộ, gợi ta liên tưởng đến những khu vườn xum xuê
trái ngọt ở nông thôn Bắc Bộ.
- Đặt ra câu hỏi : Tại sao từ này lại lặp lại nhiều lần có tác dụng gì ? Có bao
nhiêu từ đồng nghĩa với từ ấy ? Có thể thay thế từ này với các từ khác không ?
- Trong câu thơ ấy, đoạn thơ ấy những từ ngữ nào cần chú ý phân tích? Ở
đây cũng cần nhắc nhở các em không phải từ nào, câu nào cũng đáng phân tích
cũng có giá trị như nhau, chính vì vậy biết phát hiện phân tích cũng là năng lực
trình độ. Trong thực tế không ít em đi phân tích hết các câu, từ nào cũng khen hay
dẫn đến cách suy diễn tán tụng thái quá .
Thần thái của thơ có khi được tập trung trong một từ, một cụm từ, hay một
câu thơ. Giáo viên khi hướng dẫn phân tích cần gợi mở cho học sinh tìm, phát hiện
các “nhãn tự”, các từ “sáng”, từ“đắt” và cảm nhận chính xác nghĩa biểu đạt nội
dung của các từ ngữ ấy.
Ví dụ:
Ghế trên ngồi tót sỗ sàng...

(Mã Giám Sinh mua Kiều –Truyện Kiều,Nguyễn Du)
Chỉ bằng từ “tót” Nguyễn Du đã giết chết Mã Giám Sinh, vạch trần bộ mặt giả
dối, bản chất lưu manh, vô học của con buôn họ Mã.
hay câu thơ :

“Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi lại đi trời xanh thêm”
(Bài thơ tiểu đội xe không kính )
- “chông chênh” là từ láy giàu giá trị gợi tả, gợi cảm. Từ “chông chênh” gợi
tư thế không bằng phẳng, không chắc chắn, gợi sự nguy hiểm của người lính trên
đường lái xe ra tuyền tuyến. Đây là nét vẽ hiện thực được Phạm Tiến Duật tái hiện
lại cuộc đời gian khổ của người lính lái xe Trường Sơn. Trong hoàn cảnh chiến
đấu cam go họ phải ăn - những bữa ăn vội vàng, xoàng xĩnh, phải ngủ - những giấc
ngủ tranh thủ, ngắn ngủi trên xe hay dọc đường đi giữa làn mưa bom bão đạn quân
thù …Song từ : “chông chênh”còn gợi tả phong thái ung dung của người lính. Bom
đạn của quân thù không thể hủy diệt sự sống ngược lại sự sống không chỉ tồn tại
mà còn tồn tại bất diệt trong một tư thế kiêu hãnh, hiên ngang, tư thế của người
chiến thắng của chính nghĩa …
Như vậy,Từ ngữ thơ mang thần thái của thi phẩm và tài năng thơ của người sáng
tác.
c. Hình ảnh thơ :
5


- Kiến thức lí luận: Hình ảnh thơ không phải là tổng số của nhiều hình ảnh
mà chính sự chọn lọc những hình ảnh có giá trị biểu cảm, giàu sức gợi có tính hàm
xúc, thể hiện tư tưởng, tinh thần, cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ.
- Tổ chức thực hiện : khi giảng văn, giáo viên gợi cho học sinh nhận ra đâu
là hình ảnh cần phân tích, cảm nhận .
Ví dụ : Viết về mùa xuân, Nguyễn Du đã miêu tả hình ảnh nào?

Cảm nhận của em về bức tranh mùa xuân qua các hình ảnh ấy?
Cỏ non xanh tận chân trời
cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
(Truyện Kiều - Nguyễn Du )
Viết về Mùa xuân chỉ bằng hai câu thơ tuyệt bút, Nguyễn Du đã phác họa bức
tranh xuân tươi tắn, tràn ngập ánh sáng, màu sắc. Hình ảnh đặc trưng của mùa
xuân: thảm cỏ non xanh vô tận chân trời là gam nền cho bức tranh xuân. Trên nền
màu xanh non ấy, điểm xuyết vài bông hoa lê trắng, màu sắc hài hòa tới mức tuyệt
đối : mới mẻ, tinh khôi, giàu sức sống, khoáng đạt, trong trẻo( xanh tận chân trời),
nhẹ nhàng, tinh khiết (vài bông hoa trắng ). Chữ “ điểm”làm cho cảnh vật trở nên
sinh động chứ không tĩnh tại. Nguyễn Du, tuy không tả mặt biển mà ta như dập
dờn say giữa những con sóng đung đưa của cỏ xanh hoa trắng . “Thi trung hữu
họa” là đấy.
*Suy nghĩ hình ảnh “vầng trăng” trong bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy.
Hình ảnh ấy mang nhiều tầng nghĩa, trước hết là vầng trăng tự nhiên tươi mát, tròn
đầy. Trăng còn là hình ảnh biểu tượng cho quá khứ nghĩa tình, người bạn tri kỉ với
tuổi thơ lam lũ, hồn nhiên vui sống giữa thiên nhiên không so đo, toan tính. Khi đó,
tâm hồn con người rộng mở, khoáng đạt như sông, như đồng, như bể, như rừng.
Kháng chiến thành công, người ta mãi mê với những dục vọng hay nhốt mình trong
cửa kính buyn - đinh sống cho riêng mình. Lúc này, Trăng tượng trưng cho quá
khứ thủy chung, cho những tình cảm lớn lao, mộc mạc nhưng bất tử , sáng trong.
Con người có thể dửng dưng với quá khứ còn “trăng vẫn tròn vành vạnh”cũng như
quá khứ không bao giờ mờ phai, khuyết thiếu. Trăng vẫn bao dung khiến những ai
vô tình phải giật mình, thức tỉnh. Ánh trăng là ánh nhìn....
Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
( Mùa Xuân nho nhỏ- Thanh Hải)
Sắc xanh của mùa xuân, sắc tím của bông hoa đã mở ra không gian rộng, thoáng
đãng nổi bật hình ảnh, màu sắc đặc trưng của xứ Huế làm nên bức tranh xuân tươi
đẹp, thơ mộng, tràn đầy sức Xuân. Thiên nhiên xòe nở trước lòng xuân, trời xuân

bát ngát.
6


Tóm lại, khi nghị luận về thơ, giáo viên chỉ cho học sinh sự cần thiết cần bám vào
hình ảnh thơ để khai thác nội dung thơ.
d. Giọng điệu :
- Kiến thức lí luận : “giọng điệu là một phương diện biểu hiện quá trình chủ thể
sáng tạo. Giọng điệu thể hiện thái độ lập trường, cách nhìn của chủ thể phát ngôn
về đối tượng được nói đến”(Thuật ngữ văn học )
- Tổ chức thực hiện : Giáo viên hướng dẫn học sinh nhận ra giọng điệu của từng
nhà thơ qua đọc hiểu văn bản để thấy được phong cách sáng tác, cái khác biệt của
người nghệ sĩ. Từ đó nhận ra đặc điểm âm hưởng thơ của một thời đại văn học,
một giai đoạn lịch sử dân tộc, cốt cách tâm hồn một lớp thế hệ, một địa phương.
Giọng điệu được thể hiện qua nhịp thơ, ngôn ngữ thơ và nội dung thơ...
Ví dụ :
Phạm Tiến Duật có giọng thơ mang tính khẩu ngữ, đậm chất lính tráng,
khoẻ khoắn, dạt dào sức sống, tinh nghịch vui tươi, giàu suy tưởng.
“Không có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
( Bài thơ về Tiểu đội xe không kính- Phạm Tiến Duật)
Giọng điệu thơ Thanh Hải tha thiết, trìu mến, trữ tình như hồn phách con người
cố đô:
.....Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng.
(Mùa Xuân nho nhỏ)

Viễn Phương chân thành, nhẹ nhàng, tinh tế, giàu cảm xúc. Thơ Y Phương đẹp
như một bức tranh thổ cẩm nhiều màu sắc, mang cái hồn cái vía của con người
vùng cao. Bằng Việt trong trẻo, mượt mà thường khai thác những kỉ niệm và mơ
ước của tuổi trẻ nên rất gần gũi với người đọc ....
Nắm được đặc điểm giọng điệu của từng nhà thơ, làm rõ đặc điểm đó qua văn
bản đôi khi chỉ cần một khổ thơ cũng đủ minh chứng cho phong cách thơ tác giả
ấy.
e. Biện pháp tu từ:
- Kiến thức lí luận: Muốn làm bài văn phân tích thơ đúng, hay và sâu, học
sinh phải có kiến thức vững về tiếng việt, nhận biết và cảm được vai trò của biện
pháp tu từ trong việc diễn đạt nội dung thơ.
Các biện pháp tu từ chính là những phương tiện quan trọng để thực hiện
nhiệm vụ trang điểm cho ngôn từ văn học. Phân tích biện pháp tu từ chính là chỉ ra
tính hiệu qủa của cách viết, cách nói ấy chứ không đơn thuần là gọi được tên, liệt
kê các biện pháp mà nhà thơ .
7


- Tổ chức thực hiện: Giáo viên cung cấp kiến thức khái niệm lí luận về các
biện pháp tu từ trên kết hợp với dẫn chúng cụ thể, giao bài tập thực hành kiểm tra
đánh giá kết quả (kiến thức về biện pháp tu từ các em đã học từ lớp 6, vì vậy thông
qua các tiết giảng văn giáo viên lồng ghép để khắc sâu kiến thức thêm.)
* Biện pháp so sánh:
Biện pháp nghệ thuật này khá phổ biến trong thơ. Thế mạnh của biện pháp so
sánh góp phần gợi ra trí tưởng tượng của người đọc những hình ảnh cụ thể, những
liên tưởng thú vị, chính xác về đối tượng được nói đến .
Ví dụ:
Nguyễn Du sử dụng biện pháp nghệ thuật gì để miêu tả không khí tết Thanh minh ?
Câu thơ: “Ngựa xe như nước áo quần như nen”
(Cảnh ngày Xuân-Nguyễn Du)

- “Ngựa xe như nước’, Nguyễn Du mượn dòng nước để tả dòng ngựa xe tấp
nập trong tếtt thanh minh. “Quần áo” là hình ảnh hoán dụ chỉ con người. “Nen” là
một loại cây mọc san sát nhau ở ven biển miền Trung (có ở nhiều nơi quê hương
Nguyễn Du). Câu thơ đã diễn tả không khí nhộn nhịp của tết thanh minh. Người
đông đúc, san sát với nhau, còn ngựa xe thì tấp nập trên mọi ngả đường. Cái vui
chung hướng ngoại ấy làm nền cho cái buồn riêng của Kiều ( khi Kiều gặp mộ
Đạm Tiên và được Đạm Tiên báo mộng).
* Phân tích biện pháp tu từ trong việc diễn đạt nội dung khổ thơ.
Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao.
Đất nước bốn nghìn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước...
( Mùa xuân nho nhỏ -Thanh Hải)
Biện pháp tu từ so sánh kết hợp với nghệ thuật điệp từ gợi cho người đọc
nhiều xúc động. Từng vần thơ nhẹ nhàng trong sáng cứ ngân nga mãi trong lòng
người nghe, lôi cuốn ta trước vẻ đẹp của đất nước vào xuân. Bước đi của mùa xuân
như đang hoà nhịp với bước “ đi lên phía trước ” của dân tộc trên hành trình "vất
vả gian lao " nhưng rất đỗi tự hào : Mùa xuân đến giữa hương sắc và âm thanh đất
trời, lòng người vui “xôn xao”. Cả một dân tộc bừng bừng khí thế, một sức xuân
dào dạt “ hối hả” bước đi giữa mùa xuân. Mùa xuân mang đến cho quân dân ta một
sức sống mới, nhiệt tình cách mạng mới, hăng hái, khẩn trương lên đường. Cả một
dân tộc ngập tràn niềm vui. Người "người xôn xao” đón chào một mùa xuân đẹp,
một “ mùa xuân hồng"
8


* Hoán dụ :
Ví Dụ :

« Xe vẫn chạy vì Miền nam phía trước
chỉ cần trên xe có một trái tim »
( Bài thơ về tiểu đội xe không kính )
“Trái tim” là hình ảnh hoán dụ mang nhiều ý nghĩa biểu tượng. Trái tim (bộ
phận) - trái tim của người lính chứa dòng máu yêu nước, ý chí quyết tâm giải
phóng Miền Nam và niềm tin mãnh liệt vào ngày mai chiến thắng (toàn thể ).
Những chiếc xe không kính càng độc đáo hơn bởi có trái tim cầm lái.
* Nhân hóa :
- Ví dụ :
“hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ”.
(Ánh Trăng-Nguyễn Duy )
Bằng nghệ thuật nhân hoá, Nguyễn Duy đã khắc hoạ Trăng như người bạn tình
nghĩa, thuỷ chung. Cuộc sống trong rừng thời chiến gian khổ, khó khăn nhưng
trăng vẫn đến với người lính bằng một tình cảm chân thành, nồng hậu, không chút
ngần ngại…Ánh trăng đã trở thành một biểu tượng cao đẹp: “vầng trăng tri kỉ”,
“vầng trăng tình nghĩa”, “ánh nhìn của quá khứ” …
*Biện pháp ẩn dụ: Hình ảnh « lộc » gợi cho em những suy nghĩ gì ?
Ví dụ:
Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy quanh lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ…
(Mùa xuân nho nhỏ - Thanh Hải)
“Lộc”được hiểu từ hai nghĩa.“Lộc” là mầm non nương mạ, là màu xanh
vòng lá ngụy trang. Lộc còn là sức sống thanh xuân đang trỗi dậy, đua nhau giục
giã, thôi thúc lòng người, là sức xuân, tươi mới của quê hương, đất nước. Những
người lao động, chiến đấu mang cả sức xuân ra trận địa để gặt hái mùa xuân về cho
đất nước.
• Ý nghĩa biểu tượng hình ảnh bếp lửa trong bài thơ cùng tên của Bằng Việt :

Bếp lửa là hình ảnh ẩn dụ đẹp. Hình ảnh thân quen trong mỗi gia đình gợi sự ấm
nóng, no đủ và không khí sinh hoạt đầm ấm ở mỗi làng quê. Bếp lửa tỏa sáng câu
thơ, lung linh chân dung người bà, tâm hồn bà, là ngọn lửa của tình yêu thương của
niềm tin, của sức sống bền bỉ, là ý chí nghị lực phi thường trong bà. Bếp lửa
chuyển thành « ngọn lửa » biểu tượng của sự sống muôn đời bất diệt. Bà luôn ủ sẵn
và truyền vào tim cháu tự nhiên như hơi thở, sự sống. Ngọn lửa ở đây không chỉ
được nhen lên bằng rơm, bằng dạ còn là ngọn lửa thiêng thiêng trong lòng bàngọn lửa của tình yêu thương – -biểu tượng chung cho toàn dân tôc, đất nước, thắp
sáng cho đến mai sau.

9


Giáo viên cũng cần lưu ý với các em, trong quá trình nghị luận cần phân tích kết
hợp tác dụng của các biện pháp nghệ thuật trong khổ thơ, bài thơ cho việc diễn đạt
nội dung thơ.
Ví dụ : Cảm nhận khổ thơ đầu bài thơ: « Đoàn thuyền đánh cá » của Huy Cận.
Cảnh mặt trời lặn được miêu tả thật độc đáo và ấn tượng. Nghệ thuật
so sánh, nhân hóa cho thấy cảnh biển hoàng hôn vô cùng tráng lệ, hùng vĩ. Mặt trời
được ví như một hòn lửa khổng lồ đang từ từ lặn xuống. Trong hình ảnh liên tưởng
này, vũ trụ như một ngôi nhà lớn, màn đêm buông xuống là tấm cửa khổng lồ,
những lượn sóng là then cài cửa. Bóng tối dần bao trùm nhưng biển cả không kì bí
mà đẹp đẽ, thân thiện, là người bạn lớn của con người.
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồn cùng gió khơi
Đoàn thuyền chứ không phải chỉ một con thuyền ra khơi đã tạo ra sự tấp nập trên
biển. Chữ “lại”vừa khẳng định nhịp điệu lao động của người dân chài thường
xuyên, thói quen thành nề nếp, vừa thể hiện sự đối lập đất trời đi vào trạng thái
nghỉ ngơi cũng là lúc bắt đầu công việc của người ngư dân.
Tác giả đã vẽ nên một hình ảnh khỏe, gắn kết 3 sự vật: Câu hát, cánh buồm
và gió khơi. Người ngư dân căng buồm và cất câu hát lên, nhà thơ có cảm giác như

chính câu hát đó đã làm căng cánh buồm. Câu hát mang theo niềm vui, sự phấn
chấn của người lao động được làm chủ biển trời quê hương đất nước trở thành sức
mạnh cùng với gió biển làm căng cánh buồm để con thuyền lướt sóng ra khơi.
- Nghệ thuật ẩn dụ trong hình ảnh thơ lãng mạn này đã góp phần thể hiện một hiện
thực : Đó là niềm vui phơi phới, tinh thần lạc quan của người dân chài. Họ ra khơi
trong tâm trạng đầy hứng khởi vì họ tìm thấy niềm vui trong lao động, yêu biển và
say mê với công việc chinh phục và làm giàu cho Tổ quốc.
…Tóm lại, biện pháp tu từ có thế mạnh riêng trong cách biểu đạt tình cảm nội
dung thơ. Khi nghị luận thơ giáo viên chỉ cho học sinh biết chú ý khai thác tác
dụng đúng mức của các biện pháp này thì bài viết sẽ sâu hơn, tròn trịa hơn.
Hiệu quả : Việc cung cấp kiến thức lí luận chung - những chú ý nội dung,
nghệ thuật khi nghị luận về thơ giúp các em có cái nhìn tổng quan hơn về tác phẩm
tạo tâm thế làm quen, niềm hứng thú với thơ ca, xóa bỏ thành kiến về nghị luận thơ
khó, để tự tin hơn với bài làm của mình. Tôi luôn chú trọng kiến thức lí luận trong
các tiết dạy và kết hợp lí luận với thực hành cụ thể qua các bài tập kiểm tra, đánh
giá. Thực tế,tôi thu lại nhiều hiệu quả tích cực.
Giải pháp 2: Cung cấp Kiến thức Lí luận chung khi làm bài nghị luận về
đoạn thơ, bài thơ
* Khái niệm :
+ Nghị luận về đoạn thơ, bài thơ là trình bày nhận xét, đánh giá của mình về nội dung và nghệ
thuật của đoạn thơ, bài thơ qua ngôn từ, hình ảnh, giọng điệu...

10


* Yêu cầu : Muốn làm được một bài nghị luận văn học hay cùng với kiến thức, năng lực cảm thụ,
người viết cần có kĩ năng kết hợp đồng thời, linh hoạt nhiều phép lập luận: giải thích, chứng minh, phân tích, bình
giảng, bình luận... để làm sáng tỏ vấn đề, trình bày một cách thuyết phục ý kiến, nhận định của mình.
- Bài văn cần có hệ thống luận điểm rõ ràng, mạch lạc, những luận cứ đúng đắn, sinh động và lập luận sắc
bén.


- Lời văn phải chuẩn xác, trong sáng, thể hiện rung cảm chân thành, tự
nhiên.
Như vậy, một bài văn nghị luận hay vừa đòi hỏi sự thâm nhập, thẩm bình sâu tác
phẩm vừa yêu cầu kĩ năng tổng hợp, khái quát thành nhận định, đánh giá riêng.
* Các bước tạo lập văn bản

Sơ đồ :

1
Tìm hiểu đề, tìm ý

4 bước tạo lập văn bản

2
Lập dàn ý

3
Viết bài

4
Đọc, sửa lỗi

A - Bước 1: Tìm hiểu đề, tìm ý:
* Tìm hiểu đề:
- Xác định thể loại, kiểu bài nghị luận? (chú ý mệnh đề: suy nghĩ, phân tích,
cảm nhận để thực hiện đúng phương pháp làm bài)
- Tìm nội dung bàn luận? (Nội dung và nghệ thuật bài thơ, đoạn thơ...)
- Tìm phạm vi kiến thức để phục vụ cho vấn đề bàn luận mà đề yêu cầu? (tác
phẩm nào? Của ai? Hoặc kiến thức thuộc lĩnh vực nào...

*Tìm ý:
- Nghị luận về đoạn thơ, bài thơ phải tìm hiểu nhà thơ, cuộc đời sự nghiệp,
phong cách sáng tác, hoàn cảnh ra đời của tác phẩm, nhan đề đặc biệt phải bám sát
bố cục của bài để tìm luận điểm. Vì Vậy, giáo viên nhắc học sinh đọc thuộc, kĩ chú
thích sách giáo khoa đó là kiến thức văn học sử mang tính khách quan, chân thực là
cơ sở ban đầu tiếp cận tác phẩm.
B - Bước 2: Lập dàn bài.
Đây là bước mà học sinh coi là khó nhất khi làm bài. Các em hay bỏ qua để
thực hiện bước viết bài dẫn đến hậu quả hệ thống luận điểm sắp xếp không theo
trật tự lô gic, các ý lộn xộn, thiếu ý, bỏ luận điểm trong bài viết. Vậy, bước này,
giáo viên cần phải làm gì để giúp các em tránh khỏi những tồn tại trên? Người dạy
11


nhắc và kiểm tra, yêu cầu nắm vững kiến thức cơ bản triển khai theo hệ thống luận
điểm, luận cứ mà giáo viên đã hướng dẫn các em tìm hiểu qua các tiết giảng văn.
Bố cục của bài văn nghị luận gồm 3 phần rõ ràng:
b1/ Mở bài:
- Giới thiệu vài nét về tác giả (tên,quê quán, đề tài, phong cách, …)
- Giới thiệu hoàn cảnh ra đời, xuất xứ tác phẩm, vị trí đoạn thơ.
- Nêu vấn đề cần nghị luận,…ý kiến nhận đinh (cần bám sát đề bài , nếu có
luận điểm cần trích dẫn ).
Ví dụ: “Phân tích bài thơ “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương” .
Viễn Phương tên thật là Phan Thanh Viễn, quê ở An Giang – người con của
mảnh đất cực Nam của Tổ quốc. Ông là nhà thơ có mặt sớm nhất trong lực lượng
văn nghệ giải phóng ở miền Nam thời kì chống Mĩ. Bài thơ “Viếng lăng Bác” sáng
tác năm 1976, trong không khí xúc động của nhân dân cả nước khi lăng Chủ tịch
Hồ Chí Minh vừa được hoàn thành, đồng bào Miền Nam mong ước được ra thăm
lăng Bác. Đây là, một trong những bài thơ hay nhất viết về đề tài lãnh tụ, với
những thành công đặc sắc giá trị nội dung và nghệ thuật .

b2/ Thân bài:
- Phân tích giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm
- Dựa vào bố cục bài thơ để tìm hệ thống luận điểm, luận cứ.
- Nêu luận điểm 1 – luận cứ 1 – luận cứ 2,…(Các luận điểm, luận cứ này các
ý 1, 2, 3…ý a, ý b,..mà các thầy cô đã giảng trong bài học về tác phẩm ấy ).
-Học sinh cần chỉ ra giá trị nội dung thứ nhất là gì, trong đó chứa đựng giá
trị nghệ thuật gì? Giá trị tư tưởng tình cảm gì?,…
- Nêu luận điểm 2 – luận cứ 1 – luận cứ 2,…Cần chỉ ra giá trị nội dung thứ
2, trong đó chứa đựng giá trị nghệ thuật gì, giá trị tư tưởng tình cảm gì…(các luận
điểm luận cứ tiếp theo dựa vào bố cục của đoạn thơ, bài thơ )
- Nhận định chung : khắc sâu giá trị tư tưởng – chỉ ra thành công về nội dung
và nghệ thuật của tác phẩm (so sánh với các tác phẩm khác cùng thời) và nêu hạn
chế của nó (nếu có).
VD:. Với đề bài trên, chúng ta phải triển khai những luận điểm và tương ứng
với những luận cứ sau:
* Luận điểm 1: Cảm xúc tác giả trước cảnh vật bên ngoài lăng - khổ 1)
+ Luận cứ 1: Câu thơ thứ nhất “Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác” chứa
đậm chất tự sự, nó như một lời kể, lời thông báo với Bác. Tác giả xưng hô “con”
với “Bác”diễn tả tình cảm của nhân dân với lãnh tụ gần gũi, thân mật như con với
cha. Từ “thăm”- nói giảm nói tránh làm giảm đi nỗi đau mất mát vô cùng to lớn
trước sự ra đi của Người.)
+ Luận cứ 2: Hình ảnh tả thực hàng tre “Đã thấy trong sương hàng tre bát
ngát” trong sương sớm, mờ ảo, lung linh trước lăng Bác, một hình ảnh quen thuộc
nơi làng quê về đây hội tụ.
12


+ Luận cứ 3: Hình ảnh ẩn dụ “Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam- Bão táp
mưa sa đứng thẳng hàng” tượng trưng cho sức sống bền bỉ, kiên cường, bất khuất
của dân tộc trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước, giữ nước.

=> Khổ đầu mang niềm xúc động với tình cảm thiết tha sâu lắng được gửi gắm qua
những vần thơ mộc mạc giản dị .
* Luận điểm 2: Cảm xúc trước dòng người vào lăng viếng Bác (khổ 2)
+ Luận cứ 1: Hình ảnh mặt trời : Mặt trời trên lăng của thiên nhiên vũ trụ.
- Mặt trời trong lăng (hình ảnh ẩn dụ ) chỉ Bác, Bác là nguồn sống, nguồn
sáng, là chân lí luôn trường tồn vĩnh cữu, đem lại ánh sáng và hạnh phúc cho nhân
dân. Bác thật vĩ đại .
-> Niềm thành kính của tác giả, của nhân dân Miền nam với Bác .
- “Ngày ngày” -> điệp từ -> quy luật tuần hoàn, liên tiếp bất tận của thiên
nhiên và dòng người => Nhịp thơ chậm rãi, sâu lắng như bước chân dòng người
lặng lẽ đi trong thương nhớ đến thăm bác.
+ Luận cứ 2: Hình ảnh “dòng người”,“tràng hoa”-> hình ảnh thực.
-> Biện pháp ẩn dụ - tình cảm chân thành của tác giả, của nhân dân Miền
Nam với bác kết thành đóa hoa ngát hương thành chuỗi nhớ thương, một khối tình
nồng thắm, rực rỡ dâng lên người. Những người con từ mọi miền đất nước là
những tràng hoa kính bác, đến báo công với bác.
- “Bảy chín mùa xuân” -> ẩn dụ -> 79 tuổi của bác -> khẳng định cuộc đời
của người cao đẹp, tươi mới vĩ đại vì sự nghiệp giải phóng dân tộc.
=> Tình cảm của nhân dân với bác là tình cảm nồng thắm, bất biến cùng với
thời gian năm tháng .
*Luận điểm 3: Cảm xúc vào lăng viếng Bác (khổ thơ thứ 3)
+ Luận cứ 1: Giấc ngủ bình yên: Không gian như ngưng kết,thời gian như
ngừng trôi . Tất cả yên tĩnh, trang nghiêm dưới ánh sáng dịu nhẹ của trăng.
+ Luận cứ 2 : “vầng trăng dịu hiền “- hình ảnh ẩn dụ -> gợi nhớ những vần
thơ viết về trăng trong thơ bác. Trăng là bạn tri kỉ thể hiện sự giao hòa gắn bó với
thiên nhiên gợi tâm hồn thanh cao, trong sáng , bất tử của người .
+ Luận cứ 3 : Trời xanh : ẩn dụ - Bác vẫn còn như trời xanh bất tử.
- Từ “ nhói” : Động từ mạnh, biểu thị nỗi đau quặn thắt, xoáy chặt sự vận
động con sóng tình cảm dâng trào trong lòng .
=> “Vầng trăng, mặt trời, trời xanh” mãi còn nhưng vẫn không ngăn được niềm

tiếc thương vô hạn trước sự ra đi của bác vào cõi vĩnh hằng .
* Luận điểm 4: Cảm xúccủa tác giả trước khi dời lăng (khổ cuối)
- “Thương trào” cảm xúc vỡ òa, bật ra chan hòa cùng nước mắt
- Muốn làm “con chim, đóa hoa ,cây tre” - Điệp ngữ, ẩn dụ -> tình cảm
quyến luyến không muốn dời xa.
=> Ước nguyện tha thiết, chân thành khiêm nhường nhỏ bé: một tiếng chim
ca, một đóa hoa lặng lẽ tỏa hương, một loài thảo mộc… biểu tượng cho sức sống
13


bất diệt của con người Việt Nam. Tất cả là ước vọng , ước muốn được bên bác, gần
bác, quanh bác (liên hệ ước nguyện của nhà thơ Thanh Hải – Mùa xuân nho nhỏ )
=> Đó là sự thành kính đến nghiêm trang đầy xúc động của tác giả nhằm tôn
vinh một con người mà linh hồn còn phảng phất đâu đây trong gió, trong sương
trong đất trời quê hương .
- Đánh giá về đặc sắc nghệ thuật: giọng thơ vừa trang nghiêm, sâu lắng, vừa
tha thiết, đau xót, tự hào, thành kính, nhịp chậm, lời thơ giản dị, thể thơ 8 chữ…
diễn tả chân thực tâm trạng nhà thơ. Hình ảnh thơ có nhiều sáng tạo, kết hợp cả
hình ảnh thực và ẩn dụ có ý nghĩa khái quát cao.
b3/ Kết luận:
Khẳng định giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ, bài thơ.
Người viết dựa vào việc phân tích giá trị, nét đặc sắc của bài thơ, đoạn thơ để
đánh giá tổng quát về nội dung bình luận, phân tích. Và đưa ra ý kiến của riêng
mình về giá trị bài thơ.(mở rộng)
Sau khi đã có dàn ý, học sinh viết bài dựa vào các luận điểm vừa tìm được
Sơ đồ bài viết

Mở bài

Thân bài


Tác giả. Tác phẩm

LĐ 1.

LĐ 2.

K ết bài

LĐ 3,4

K/định

l/hệ ,mở rộng

Thao tác: phân tích, bình luận, đánh giá từng đoạn thơ.
c- Bước 3: Viết bài.
- Khi thực hiện bước này, nhất thiết người viết phải bám sát vào dàn bài đã
lập để triển khai hệ thống luận điểm, luận cứ, luận chứng.
- Về hình thức bài văn: bố cục của bài viết, các đoạn trong bài phải được
trình bày theo trình tự lô gic, có sự liên kết chặt chẽ cả nội dung lẫn hình thức, các
câu trong đoạn phải thống nhất với nội dung của đoạn. Các đoạn trong bài được
trình bày theo các cách lập luận (diễn dịch, quy nạp, tổng phân hợp, song hành…)

14


- Về nội dung của bài văn: tùy từng yêu cầu của đề bài và phần dàn ý đã lập
mà chúng ta triển khai các luận điểm rõ ràng. Tránh tình trạng diễn xuôi thơ. Mỗi
luận điểm nên trình bày thành mạch, thành đoạn .

- Lưu ý : để bài văn mạch lạc, đủ, hay cần có kĩ năng dùng từ đặt câu và
hình thành đoạn văn .
*Dùng từ :
- Yêu cầu người viết phải biết dùng từ độc đáo sẽ rất nhàm chán cho người
đọc, khi một bài viết không dùng được một từ cho hay, cho đắt. Dùng từ hay thì
mới có đoạn hay rồi bài hay. Từ hay là từ dùng đúng lúc, đúng chỗ, lột tả được cái
thần thái của vấn đề nào đó trong bài thơ, làm cho câu văn có hồn, có sinh khí, làm
cho người đọc sung sướng, thán phục.
Ví dụ:" Tú Bà nói không đầy nửa phút mà nước bọt mép của mụ văng tới
ngàn năm"( Xuân Diệu )
Cũng nên lưu ý rằng từ hay, từ có " thần " không phải là những từ " đao to
búa lớn ", hoa mỹ, công thức, sáo rỗng... mà là những từ sử dụng đúng chỗ.
+ Viết câu :
Phương tiện ngôn ngữ cơ bản để diễn đạt ý là câu. Một câu luôn diễn đạt một
nội dung nào đấy. Muốn cách diễn đạt khỏi đơn điệu, nhàm chán người viết phải
biết cách sử dụng nhiều kiểu câu. Tính linh hoạt trong việc sử dụng câu ở chỗ : tuỳ
từng lúc, từng nơi, tuỳ giọng văn của từng đoạn mà có những loại câu tương ứng.
Khi người viết muốn biểu đạt tình cảm của mình thì dùng câu cảm thán; lúc muốn
gây sự chú ý cho người đọc ta có thể dùng câu nghi vấn để đặt vấn đề và tự trả lời
để giải quyết vấn đề; khi muốn nhìn nhận vấn đề ở nhiều góc độ theo nhiều mối
quan hệ ta dùng câu có cặp quan hệ từ : tuy - nhưng, càng - thì càng, không những
- mà còn, nếu - thì ... khi muốn khái quát tổng hợp vấn đề ta dùng kiểu câu có tính
chất quy nạp toàn thể với các từ mở đầu : nhìn chung, đại thể, về cơ bản…
* Dựng đoạn: (cách tổ chức và triển khai luận điểm )
Cần nhận thức rõ mỗi luận điểm phải được tách ra thành một đoạn văn nghị luận
(Phải xuống dòng và lùi đầu dòng, chữ đầu tiên phải viết hoa)
Một đoạn văn nghị luận thông thường cần chứa đựng một số loại câu sau
đây:
- Câu chủ đoạn: nêu lên luận điểm của cả đoạn, câu chủ đoạn cần ngắn gọn
rõ ràng.

- Câu phát triển đoạn: gồm một số câu liên kết nhau: câu giải thích, câu dẫn
chứng, câu phân tích dẫn chứng, câu so sánh, câu bình luận,…
- Câu kết đoạn: là câu nhận xét, đánh giá vấn đề vừa triển khai, tiểu kết cả
đoạn.
MÔ HÌNH ĐOẠN VĂN

15


Mở đoạn:Câu chủ đề (khái quát nội dung đoạn
thơ)
Câu 2
- Đoạn văn tổng- phân- hợp:
Thân đoạn:
câu 3-> ND,NT-tác dụng
=>bình luận
Câu 4 …
Câu kết đoạn(khẳng định lại giá trị đoạn thơ)
Mở đoạn: Câu chủ đề: khái quát Nêu luận điểm
-Đoạn văn diễn dịch:
Thân đoạn:

câu 2
câu 3
Câu 4…

NT- NDvà tác dụng
=>bình luận.

Câu Kết đoạn

Bài tập : Viết đoạn văn diễn dịch phân tích những câu thơ sau :
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính …
( Đồng chí- Hữu Thỉnh)
Những người đồng chí biết thấu hiểu và chia sẻ những tâm tư, nỗi lòng
sâu kín của nhau.Họ là những người lính gác tình riêng ra đi vì nghĩa lớn, để lại
sau lưng mảnh trời quê hương với những băn khoăn, trăn trở. Ta bắt gặp sự thay
đổi lớn trong quan niệm của người chiến sỹ: “Ruộng nương” tạm gửi cho “bạn thân
cày” “Gian nhà không” để “ mặc kệ gió lung lay” lên đường đi chiến đấu, người
lính chấp nhận sự hi sinh, tạm gạt sang những tính toán riêng tư. Hai chữ “mặc kệ”
nói lên cái kiên quyết mạnh mẽ, dứt khoát của người ra đi khi lí tưởng đã rõ ràng,
khi mục đích đã lựa chọn. Song dù dứt khoát, mạnh mẽ nhưng họ vẫn nặng lòng
với quê hương. “Giếng nước gốc đa” hình ảnh hoán dụ mang tính nhân hóa này
càng tô đậm sự gắn bó yêu thương của người lính đối với quê nhà. “Giếng nước
gốc đa ” nhớ người lính hay người lính nhớ “Giếng nước gốc đa “? Đây là nỗi nhớ
hai chiều ….Quả thực giữa người lính và quê hương có sự giao cảm vô cùng sâu
sắc, đậm đà. Ba câu thơ với 3 hình ảnh : “Gian nhà, giếng nước,gốc đa”, hình ảnh
nào cũng thân thương, ăm ắp một tình quê, một nỗi nhớ thương vơi đầy. Nỗi nhớ
nhung, suy nghĩ ấy của “anh” cũng là của “tôi”…
Mở đoạn ( Dẫn thơ)
câu 1
16


-Đoạn văn quy nạp:

Thân đoạn

câu 2

câu 3…

Phân tích ND-NT
=>bình luận.

Kết đoạn: Câu chủ đề: khẳng định ND và NT đoạn
thơ.
Ví dụ :Viết đoạn văn cảm nhận khổ thơ đầu bài thơ : “Mùa xuân nho
nhỏ”của Thanh Hải
Bức tranh mùa xuân thiên nhiên được tạo nên từ các chi tiết rất tiêu biểu
được vẽ bằng cả màu sắc lẫn âm thanh. Nghệ thuật đảo ngữ, động từ“mọc” tượng
trưng cho sức sống, sự vươn lên, trỗi dậy. Giữa dòng sông rộng lớn, không gian
mênh mông chỉ có một bông hoa thôi nhưng không hề lẻ loi đơn chiếc .Với gam
màu hài hoà dịu nhẹ, tươi tắn, màu xanh lam của nước sông Hương, màu tím biếc
của hoa. Đó là, màu sắc đặc trưng của xứ Huế. Bức tranh đó còn rộn rã âm thanh
của tiếng chim chiền chiện, loài chim của mùa xuân. Cách dùng các từ “ơi”, “chi”
hay “chi mà” mang chất giọng ngọt ngào đáng yêu của người xứ Huế (thân thương,
gần gũi) như một lời trách yêu. Nhà thơ cảm thấy say sưa ngây ngất, xốn xang rạo
rực trước cảnh đất trời vào xuân:
“Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”:
Giọt long lanh rơi dù hiểu là giọt sương, giọt nắng, giọt mùa xuân hay giọt
hạnh phúc, giọt âm thanh thì vẫn thể hiện cảm xúc say sưa của nhà thơ. Tiếng chim
chiền chiện hót vang trời nhưng không tan biến vào không trung, như ngưng đọng
lại thành từng giọt âm thanh, như những hạt lưu li trong vắt long lanh chói ngời.
Nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác: từ thính giác đến thị giác, xúc giác thể hiện
một cách sáng tạo, gợi cảm và tài tình.“Tôi đưa tay tôi hứng” thi nhân trân trọng
đắm say đồng cảm với vẻ đẹp của thiên nhiên và cuộc đời.Chọn lựa hình ảnh tiêu
biểu, từ ngữ thơ độc đáo, giọng thơ tha thiết, trữ tình cảm diễn tả sâu sắc xúc
cảm của tác giả trước mùa xuân thiên nhiên đất trời .

* Liên kết câu và liên kết đoạn văn
Các đoạn văn trong bài văn cũng như các câu trong đoạn văn phải liên kết
chặt chẽ với nhau về nội dung và hình thức.
- Liên kết nội dung:
+ các đoạn văn phải phục vụ chủ đề chung của văn bản, các câu của đoạn
văn phải phục vụ chủ đề của đoạn văn.
+Các đoạn văn và các câu phải được sắp xếp theo một trình tự hợp lí .
* Liên kết hình thức:
+ Giáo viên cần chỉ ra cho các em cách liên kết hình thức để giúp cho việc
triển khai ý thêm dễ dàng, làm cho bài văn trở nên dễ đọc, dễ hiểu, có tính mạch
17


lạc. Liên kết hình thức thông qua một số biện pháp như: phép lặp, phép thế, phép
nối…dưới đây là một số từ ngữ mà tần số xuất hiện rất nhiều trong các bài làm
văn: (Trước tiên, tiếp theo đó, ở khổ thơ thứ nhất, sang khổ thơ thứ hai,…; Bên
cạnh đó, song song đó, không những thế, song, nhưng…
Ví dụ:
“Như vậy, giữa các khổ, các phần của Mùa xuân nho nhỏ có sự gắn kết tự
nhiên, chặt chẽ, vừa luyến láy, vừa được nâng cao. Bài thơ lay động tâm hồn chúng
ta bởi chất họa, chất nhạc vấn vương, quyến luyến bởi nguyện ước thiết tha chân
thành. Cái nguyện ước thiết tha dâng cho đời một Mùa xuân nho nhỏ kia đâu còn
riêng Thanh Hải mà có lẽ trở thành tiếng lòng của nhiều bạn đọc” (Hà Vinh )
Làm nên bài nghị luận về đoạn thơ,bài thơ hay phải là sự phối hợp linh hoạt, đồng
điệu nhiều kĩ năng : từ cách thức hình thức đến phương pháp lập luận,từ yếu tố như
dùng từ,đặt câu đến dựng đoạn tạo thành văn bản. Từ kiến thức lí luận đến thực
hành viết bài. GV phải trang bị và hướng dẫn các em sao cho dễ hiểu nhờ vào kĩ
năng diễn đạt của người dạy. Tôi đã thu được nhiều tín hiệu hiệu quả từ giải pháp
này.
d-Bước 4: Đọc và sửa lỗi.

Đây là khâu cuối cùng của học sinh. Các em làm bài xong, cần phải đọc lại
toàn bài để rà soát, sửa lỗi:
- Bố cục bài văn.
- Các luận điểm (đoạn văn).
- Chính tả, dùng từ ngữ diễn đạt.
Khâu này, giáo viên hướng dẫn các em và yêu cầu các em phải thực hiện
bước này để hình thành thói quen kiểm tra lại bài viết của mình sau khi viết.
Tóm lại: Nghị luận về thơ là kiểu bài khó nhưng hay thể hiện được năng lực
thẩm bình, cá tính cá nhân.Trong chương trình Ngữ văn 9 số lượng các tác phẩm
thơ chiếm đa số, nhiệm vụ của người giáo viên là phải làm thế nào để học sinh yêu
thích các tác phẩm ấy. Ngoài năng lực thẩm bình của giáo viên, chúng ta cần
truyền niềm say văn cho các em bằng cách cung cấp kiến thức lí luận kết hợp với
thực hành cụ thể …Hai hình thức này luôn song hành bổ trợ cùng nhau ..đó là cách
tốt nhất để học sinh làm tốt kiểu bài này .
2.4 . Hiệu quả sáng kiến kinh nghiệm:
So với kết quả khi chưa thực hiện đề tài, kết quả có thay đổi rõ rệt, tỉ lệ khá giỏi
tăng, tỉ lệ trung bình, yếu giảm. Số học sinh có giải huyện và đậu vào đội tuyển
tăng lên đáng kể có học sinh đậu cấp tỉnh . Dưới đây là thống kê số liệu tăng giảm
cụ thể:
- Sau khi làm đề tài:
Khối
Tổng
KẾT QUẢ XẾP LOẠI
lớp
học
18


Giỏi


Khá

Trung bình

Yếu

TS

%

TS

%

TS

%

TS

%

9A

25

4

16%


+ 11

44
%

+9

36 %

- 1

4 %

9B

33

+5

15
%

+15

45
%

+ 11

33 %


-2

7 %

( Kí hiệu: + là tăng, - là giảm).
Nhìn vào bảng so sánh đối chứng ta thấy sau khi thực hiện đề tài số học sinh
đạt điểm giỏi khá của lớp 9A tăng 30%, lớp 9B tăng 39%. Số học sinh bị điểm yếu
của 9A giảm 16%, 9B giảm 23%. Kết quả này cũng được khẳng định một cách
khách quan qua các kì thi tuyển học sinh giỏi Ngữ văn 9 và thi vào 10 môn Ngữ
văn của trường THCS địa phương tôi trong hai năm vừa qua. Cả hai năm học 2012
– 2013, 2013-2014,2015-2016 có 2/2 học sinh đạt học sinh giỏi Văn cấp huyện có
học sinh đậu đội tuyển vòng 1 cấp tỉnh ; có học sinh đạt giải ba cấp tỉnh. Đội tuyển
môn Ngữ văn của trường được xếp dưới một chữ số trong huyện. Kết quả thi vào
10 môn Ngữ văn năm học 2012 – 2013, 2013-2014 đặc biệt 2015-2016 có 90%
>5% học sinh đạt điểm khá giỏi, tỉ lệ chung cả trường môn Ngữ văn đạt 6,5 điểm
đứng thứ nhất cụm , đưa kết quả thi vào 10 môn Ngữ văn của trường xếp tốp đầu
cụm .
Kết quả như trên đã nằm ngoài dự kiến và mong muốn của người thực hiện
đề tài. Mong rằng kết quả này sẽ được tiếp tục khẳng định qua những kì thi trong
các năm học

3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết Luận:
Sáng kiến kinh nghiệm được rút từ thực tế học tập từ thời phổ thông và quá
trình giảng dạy. Những giải pháp thực hiện đã giúp học sinh khá giỏi văn tăng lên
nhất là đối tượng học sinh từ trung bình trở xuống có kĩ năng viết nghị luận đoạn
thơ và bài thơ góp phần hun đúc niềm yêu thơ say văn của các em để mỗi giờ văn
được các em trông, chờ đón đợi ...Đó thực là hạnh phúc của người giáo viênVăn
chúng tôi và hiệu quả ứng dụng là rất rõ ràng .

Với nghiên cứu nhỏ này, tôi đưa ra những vấn đề tuy không mới nhưng
cũng là những điều trăn trở đối với nhiều thầy cô giáo đã và đang giảng dạy môn
19


Ngữ văn trong nhà trường chúng ta .Có thể, vấn đề tôi đưa ra còn nhiều điều cần
bàn bạc. Vậy, kính mong các thầy, cô lắng nghe và góp ý để sáng kiến này được
hoàn thiện nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy môn Ngữ văn trong nhà trường.
Xin chân thành cảm ơn các thầy cô!
Tôi cũng rút ra được những kinh nghiệm quí giá trong quá trình áp dụng
sáng kiến như:
- Luôn kết hợp cung cấp lí thuyết với thực hành .
- Ra bài tập cụ thể, đánh giá, nhận xét, chấm trả bài nghiêm túc.
- Không nóng vội, Giáo viên biết kiên trì, nhẫn nại ghi nhận sự tiến bộ của
các em.
3.2. Kiến nghị :
- Đối với chính quyền địa phương : Cần quan tâm hơn nữa đầu tư trang thiết
bị và cơ sở hạ tầng hiện đại phục vụ công tác dạy và học tốt hơn .
- Tôi hy vọng rằng, trong những năm học tới phòng giáo dục đào tạo sẽ tiếp
tục tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên môn hiệu quả hơn nữa,phổ biến các sáng
kiến hay để chúng tôi có được những phương pháp dạy học hay.
- Bộ giáo dục nên bổ sung thêm số tiết thực hành nghị luận về thơ và truyện
trong sách Ngữ văn 9, giảm bớt số văn bản nhật dụng.
Những vấn đề mà người viết nêu ra trên đây chỉ một sự nghiên cứu tìm tòi
riêng của bản thân trong quá trình dạy học, điều này sẽ không tránh khỏi những sai
sót hạn chế, rất mong sự đóng góp ý kiến của Hội đồng khoa học, quý thầy cô để
đề tài hoàn chỉnh hơn.

XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ


Quang Trung, Ngày 12-4-2014
Tôi xin cam đoan đây là mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.
NGƯỜI THỰC HIỆN

20


Tài liệu tham khảo
1. Sách giáo khoa và Sách giáo viên Ngữ văn 8;
2. Sách giáo khoa và Sách giáo viên Ngữ văn 9;
3. Ôn thi vào lớp 10 môn Ngữ văn .
4. Luyện tập cách lập luận trong đoạn văn nghị luận cho học sinh phổ thông
của các tác giả: Nguyễn Quang Ninh – Nguyễn Thị Ban- Trần Hữu Phong.
5. Tài liệu dạy học theo chủ đề tự chọn ở nhà trường THCS.
6. Báo Vnam.net

21


MỤC LỤC
STT

NỘI DUNG

TRANG

1


PHẦN MỞ ĐẦU

1- 2

1.1

Lí do chọn đề tài.

1

1.2

Mục đích nghiên cứu

2

22


1.3
1.4
2

Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu.
PHẦN NỘI DUNG

2.1

Cơ sở lí luận của vấn đề nghiên cứu.


2.2

Cơ sở thực tiễn của vấn đề nghiên cứu.

2.3

Nội dung của vấn đề nghiên cứu..

2.4

Hiệu quả của sáng kiến.

3.

Kết luận –kiến nghị

2
2
2 - 15
2
3-4
416-17
18

23




×