Tải bản đầy đủ (.doc) (105 trang)

Hoàn thiện công tác quản lý thu thuế các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi cục thuế quận hồng bàng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 105 trang )

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Bản luận văn tốt nghiệp này là công trình nghiên cứu của cá
nhân tôi, thực sự được thực hiện trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết kết hợp với khảo
sát, áp dụng một phần trong tình hình thực tiễn và dưới sự hướng dẫn của PGS.TS
Vũ Trọng Tích.
Các dữ liệu, giải pháp và những kết quả trong luận văn là trung thực, xuất
phát từ việc phối hợp giữa kiến thức khoa học và kinh nghiệm thực tiễn. Luận văn
này chưa từng được công bố dưới bất cứ hình thức nào trước đây.
Một lần nữa, tôi xin khẳng định về sự trung thực của lời cam đoan trên.
Hải Phòng, ngày 25 tháng 3 năm 2016
Tác giả

Vũ Thị Mai Anh

i


LỜI CẢM ƠN
Là một người làm việc trong lĩnh vực quản lý nhà nước, tôi rất muốn được
cống hiến một phần nhỏ bé của mình cho sự nghiệp phát triển của đất nước. Tôi
luôn nhận thức được việc trau dồi kiến thức là rất cần thiết, cùng với sự tin tưởng
của cá nhân vào trường Giao thông vận tải mà tôi đã từng học đại học, tôi đã tiếp
tục theo học tại ngôi trường thân yêu này. Để hoàn thành chương trình cao học,
trước hết phải kể đến công ơn của Nhà trường và Quý Thầy cô đã tận tình giúp đỡ,
tận tâm chỉ bảo. Tôi xin gửi lời cảm ơn trân trọng nhất đến Nhà trường và Quý
thầy cô, những người đã dậy và dìu dắt tôi trong suốt quá trình học tập vừa qua.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS Vũ Trọng Tích,
người Thầy đã dành rất nhiều thời gian và tâm huyết hướng dẫn, nghiên cứu để
giúp tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Trong quá trình hoàn thành luận văn, mặc dù tôi đã có nhiều cố gắng bằng


tất cả sự nhiệt huyết và năng lực của mình, tuy nhiên chắc chắn sẽ không thể tránh
khỏi những hạn chế và thiếu sót. Rất mong nhận được những đóng góp quý báu
của Quí Thầy Cô và các bạn.
Trân trọng./.

ii


MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TĂT..........................................................................iv
1. Tính cấp thiết của đề tài.....................................................................................1
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài..........................................................................2
3. Đối tượng nghiên cứu........................................................................................2
4. Phạm vi nghiên cứu...........................................................................................2
5. Phương pháp nghiên cứu...................................................................................2
6. Kết cấu của luận văn..........................................................................................2
1.1 Tổng quan về thuế...........................................................................................3
1.2 Công tác quản lý thu thuế..............................................................................11
2.1 Tổng quan về Chi cục thuế Quận Hồng Bàng...............................................31
2.2 Đánh giá thực trạng công tác quản lý thuế tại Chi cục thuế Quận Hồng Bàng
.............................................................................................................................34
2.3 Những kết quả đạt được, những hạn chế trong công tác quản lý thu thuế đối
với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Chi cục thuế Quận Hồng Bàng.................55
3.1 Căn cứ đề xuất giải pháp...............................................................................60
3.2 Nội dung các giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thu thuế đối với doanh
nghiệp vừa và nhỏ tại Chi cục thuế Quận Hồng Bàng........................................63
3.3. Các giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thu thuế đối với các doanh nghiệp
vừa và nhỏ tại Chi cục thuế quận Hồng Bàng.....................................................79
3.3. Các đề xuất, kiến nghị đối với Nhà nước, Bộ Tài chính, Tổng cục Thuế và
Cục Thuế Thành phố Hải Phòng.........................................................................88

1. Kết luận...........................................................................................................94
2. Kiến nghị.........................................................................................................96
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................99

iii


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TĂT
Chữ viết tắt
GTGT
HĐND
HKD
KTT&TH
LXTT
NSNN
NVTTHT
UBND

Chữ viết đầy đủ
Giá trị gia tăng
Hội đồng nhân dân
Hộ kinh doanh
Kế toán thuế và tin học
Liên xã thị trấn
Ngân sách nhà nước
Nghiệp vụ tuyên truyền hỗ trợ
Ủy ban nhân dân

iv



DANH MỤC CÁC BẢNG
Số bảng
2.1
2.2
2.3
2.4
2.5
2.6
2.7
2.8
2.9
2.10

Tên bảng
Trang
Tình hình thực hiện thu ngân sách nhà nước năm 2013
37
Tình hình thực hiện thu ngân sách nhà nước năm 2014
39
Tổng hợp tình hình thực hiện thu ngân sách nhà nước
41
năm 2015
Tình hình quản lý đối tượng người nộp thuế năm 2013
44
Tình hình quản lý đối tượng người nộp thuế năm 2014
44
Tình hình quản lý đối tượng người nộp thuế năm 2015
45
Báo cáo tổng hợp kết quả kiểm tra hồ sơ khai thuế tại trụ

48
sở CQT (2013 - 2015)
Báo cáo tổng hợp kết quả thanh tra, kiểm tra thuế tại trụ
50
sở NNT (2013- 2015)
Tổng hợp tình hình nợ thuế của DN vừa và nhỏ giữa các
53
năm
Tổng hợp công tác tuyên truyền hướng dẫn đối với người
55
nộp thuế 2012 – 2013 - 2014

v


DANH MỤC CÁC HÌNH
Số hình
2.1
3.1

Tên hình
Sơ đồ cơ cấu tổ chức Chi cục thuế Quận Hồng Bàng
Các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ hài lòng của người
nộp thuế

vi

Trang
34
67



PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Để đảm bảo giữ vững ổn định môi trường đầu tư mang tính cạnh tranh quốc
tế cao của nền kinh tế Việt Nam đã và đang hội nhập mạnh mẽ vào nền kinh tế thế
giới, đòi hỏi nhà nước phải đưa ra một chính sách thuế với các chiến lược quản lý
hợp lý.
Thuế là nguồn thu chủ yếu của quốc gia. Vì vậy, một nền kinh tế phát triển
lành mạnh phải dựa vào nguồn thu từ nội bộ của mỗi quốc gia đó. Tất cả các nhu
cầu chi tiêu của Nhà nước đều được đáp ứng qua các nguồn thu từ thuế, phí và các
hình thức thu khác như: vay mượn, viện trợ nước ngoài, bán tài nguyên quốc gia,
các khoản thu khác..vv.. Song thực tế cho thấy các hình thức thu ngoài thuế đó có
rất nhiều hạn chế và bị ràng buộc bởi nhiều điều kiện. Do đó thuế vẫn được coi là
khoản thu quan trọng nhất vì khoản thu này mang tính chất ổn định và khi nền kinh
tế càng phát triển thì khoản thu này càng tăng.
Trong thực tế nước ta hiện nay, nguồn lực cho công tác quản lý thu thuế đối
với các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn nhiều hạn chế, trong khi sự phức tạp từ các
doanh nghiệp kinh doanh ngày một tăng lên. Điều đó đã mang đến nhiều khó khăn
hơn cho cơ quan quản lý thu thuế trước sức ép phải đảm bảo công tác thu thuế để
đảm bảo ngân sách nhà nước hàng năm. Đây là khó khăn lớn nhất mà ngành thuế ở
Việt Nam cần phải vượt qua.
Đối với quận Hồng Bàng, một trong 3 quận nội thành của thành phố Hải
Phòng, là một trong những đơn vị có số dân, số doanh nghiệp đóng trên địa bàn
đông trong các quận huyện thuộc Thành phố, thì những hạn chế và khó khăn nêu
trên của công tác quản lý thu thuế cũng là một bài toán khó cần lời giải của ngành
thuế địa phương.
Từ những phân tích nêu trên, tôi chọn luận văn Thạc sỹ với đề tài " Hoàn
thiện công tác quản lý thu thuế các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Chi cục thuế Quận
Hồng Bàng" để nhằm nghiên cứu, giải quyết một vấn đề cấp thiết và có ý nghĩa

thực tiễn trong công tác quản lý thu thuế tại Chi cục thuế Quận Hồng Bàng hiện
1


nay.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài.
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là từ việc hệ thống hóa và làm rõ cơ sở lý
luận về công tác quản lý thu thuế cùng với việc phân tích thực trạng công tác quản
lý thu thuế đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong điều kiện thực tế tại địa
phương để có thể đề xuất các giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thu thuế tại
Chi cục thuế Quận Hồng Bàng cho phù hợp với đường lối chính sách và pháp luật
của Nhà nước.
3. Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là công tác quản lý thuế.
4. Phạm vi nghiên cứu.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là tiếp cận số liệu và tập trung nghiên cứu
những vấn đề liên quan đến công tác quản lý thuế tại Chi cục thuế Quận Hồng
Bàng trong gần 3 năm 2013 – 2015.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Để hoàn thành mục tiêu nghiên cứu, luận văn đã sử dụng tổng hợp nhiều
phương pháp nghiên cứu khác nhau.
Cơ sở phương pháp luận: Duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
Các phương pháp nghiên cứu: Phương pháp phân tích, phương pháp so sánh,
phương pháp thống kê, phương pháp tổng hợp, điều tra, khảo sát thực tế.
6. Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần mở đầu và kết luận thì luận văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Tổng quan lý luận về thuế và công tác quản lý thu thuế.
Chương 2: Thực trạng công tác quản lý thu thuế các doanh nghiệp vừa và
nhỏ tại Chi cục thuế Quận Hồng Bàng.
Chương 3: Các giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thu thuế đối với các

doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Chi cục thuế Quận Hồng Bàng.

2


CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ THUẾ VÀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ THU THUẾ
1.1 Tổng quan về thuế
1.1.1 Khái niệm Thuế
Thuế là một khoản nộp bắt buộc mà các thể nhân và pháp nhân có nghĩa vụ
phải thực hiện đối với Nhà nước, phát sinh trên cơ sở các văn bản pháp luật do Nhà
nước ban hành, không mang tính chất đối giá và hoàn trả trực tiếp cho đối tượng
nộp thuế. Thuế không phải là một hiện tượng tự nhiên mà là một hiện tượng xã hội
do chính con người định ra và nó gắn liền với phạm trù Nhà nước và pháp luật.
+ Sự ra đời và tồn tại của thuế gắn liền với sự phân chia xã hội thành các
giai cấp đối kháng và sự xuất hiện của Nhà nước - Pháp luật.
+ Thuế do cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất ban hành.
+ Thuế là khoản nộp mang tính nghĩa vụ bắt buộc của các pháp nhân và thể
nhân đối với Nhà nước không mang tính đối giá hoàn trả trực tiếp.
+ Thuế là công cụ phản ánh quan hệ phân phối lại của cải vật chất dưới
hình thức giá trị giữa Nhà nước với các chủ thể khác trong xã hội.
1.1.2 Phân loại thuế
Tùy theo điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của mỗi nước mà hệ thống pháp luật
thuế bao gồm nhiều loại thuế khác nhau. Ðể định hướng xây dựng và quản lý hệ
thống thuế, chúng ta tiến hành sắp xếp các Luật thuế có cùng tính chất thành những
nhóm khác nhau, gọi là phân loại thuế. Tùy thuộc vào mục tiêu, yêu cầu của từng
giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội mà cơ cấu và nội dung các Luật thuế có khác
nhau. Cũng tùy thuộc vào cơ sở, mục đích phân định, thông thường thuế được
phân loại theo các tiêu thức sau:
+ Căn cứ vào tính chất của nguồn tài chính động viên vào ngân sách Nhà

nước, thuế được phân làm 2 loại: thuế trực thu và thuế gián thu.
- “Thuế gián thu là loại thuế mà Nhà nước sử dụng nhằm động viên một
phần thu nhập của người tiêu dùng hàng hóa, sử dụng dịch vụ thông qua việc thu
thuế đối với người sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. Tính chất gián thu thể
3


hiện ở chổ người nộp thuế và người chịu thuế không đồng nhất với nhau. Thuế
gián thu là một bộ phận cấu thành trong giá cả hàng hoá, dịch vụ do chủ thể hoạt
động sản xuất, kinh doanh nộp cho Nhà nước nhưng người tiêu dùng lại là người
phải chịu thuế. Ở nước ta thuộc loại thuế này bao gồm: Thuế giá trị gia tăng, thuế
xuất khẩu, thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt”...
- “Thuế trực thu là loại thuế mà Nhà nước thu trực tiếp vào phần thu nhập
của các pháp nhân hoặc thể nhân. Tính chất trực thu thể hiện ở chổ người nộp thuế
theo quy định của pháp luật đồng thời là người chịu thuế. Thuế trực thu trực tiếp
động viên, điều tiết thu nhập của người chịu thuế. Ở nước ta thuộc loại thuế này
gồm: thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao,
thuế chuyển quyền sử dụng đất, thuế sử dụng đất nông nghiệp”...
Sự phân loại thuế thành thuế trực thu và thuế gián thu có ý nghĩa quan trọng
trong việc xây dựng chính sách pháp luật thuế.
+ Căn cứ vào đối tượng đánh thuế. Thuế được chia thành:
- Thuế đánh vào hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ như thuế giá trị gia
tăng.
- Thuế đánh vào sản phẩm hàng hoá như thuế xuất nhập khẩu, thuế tiêu thụ
đặc biệt...
- Thuế đánh vào thu nhập như thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập
đối với người có thu nhập cao.
- Thuế đánh vào tài sản như thuế nhà đất.
- Thuế đánh vào việc khai thác hoặc sử dụng một số tài sản quốc gia như
thuế tài nguyên, thuế sử dụng đất, sử dụng vốn của ngân sách Nhà nước.

- Thuế khác và lệ phí, phí.
Các loại thuế trên được áp dụng cho nhiều đối tượng khác nhau để vừa phát
huy tác dụng riêng của từng loại thuế, vừa hổ trợ, bổ sung cho nhau nhằm thực
hiện một cách tổng hợp các mục tiêu và vai trò của hệ thống pháp luật thuế.
Ở nước ta, từ giữa những năm 1980, cùng với công cuộc đổi mới và mở cửa
nền kinh tế, hệ thống pháp luật thuế Việt Nam đã được nghiên cứu và đến năm
4


1990 một hệ thống pháp luật thuế mới được hình thành, bao gồm hệ thống chính
sách pháp luật thuế và hệ thống quản lý Nhà nước về thuế.
Hiện nay theo Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011 – 2020 đã
được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, hệ thống chính sách thuế trong giai đoạn
2011 - 2020 bao gồm các sắc thuế, phí và lệ phí chủ yếu sau đây: Thuế giá trị gia
tăng; Thuế tiêu thụ đặc biệt; Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; Thuế thu nhập doanh
nghiệp; Thuế thu nhập cá nhân; Thuế tài nguyên; Thuế sử dụng đất nông nghiệp;
Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp; Thuế bảo vệ môi trường. Ngoài ra còn có một
số phí và lệ phí có tính chất như thuế như: lệ phí trước bạ, lệ phí giao thông, lệ phí
chứng thư, lệ phí sát sinh.
1.1.3 Chức năng và vai trò của thuế đối với sự phát triển Kinh tế – Xã hội.
1.1.3.1 Chức năng của thuế.
Chức năng của một sự vật hay một hiện tượng là sự thể hiện công dụng vốn
có của nó. Ðối với một phạm trù kinh tế - xã hội thì chức năng phản ánh sự tác
động của nó - là một phương thức đặc biệt biểu hiện những thuộc tính vốn có của
phạm trù. Cũng như bản chất, chức năng cũng có tính ổn định tương đối của nó
trong suốt thời gian tồn tại của sự vật hay đối tượng.
Thuế là một phạm trù tài chính, nó biểu hiện những thuộc tính chung vốn có
của các quan hệ tài chính. Tuy nhiên thuế cũng có những đặc trưng, hình thức vận
động và các chức năng riêng bắt nguồn từ tổng thể các mối quan hệ tài chính.
Căn cứ vào nội dung cùng với qúa trình ra đời, tồn tại và phát triển của thuế,

thuế thực hiện các chức năng sau đây:
a/ Chức năng phân phối và phân phối lại: là chức năng cơ bản, đặc thù của
thuế.
Ngay từ lúc ra đời thuế là phương tiện dùng để động viên nguồn tài chính
vào ngân sách Nhà nước (có ở tất cả các kiểu Nhà nước).Về mặt lịch sử, chức năng
huy động nguồn tài chính là chức năng đầu tiên, phản ánh nguyên nhân nảy sinh ra
thuế. Thông qua chức năng này, các qũy tiền tệ tập trung của Nhà nước được hình
thành để đảm bảo cơ sở vật chất cho sự hoạt động thường xuyên và tồn tại của Nhà
5


nước. Bằng chính chức năng này, Nhà nước tiến hành tham gia phân phối và phân
phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân trong xã hội. Chức năng phân
phối và phân phối lại thu nhập của thuế là sự huy động một bộ phận thu nhập quốc
dân dưới hình thức tiền tệ vào ngân sách Nhà nước. Phần lớn thuế đánh trên hàng
hóa và thu nhập. Người có thu nhập cao và sử dụng nhiều hàng hóa, dịch vụ là
người nộp thuế nhiều hơn. Số tiền này sau đó lại được Nhà nước chi nhằm thực
hiện chính sách kinh tế -xã hội, tạo ra tính công bằng tương đối cho xã hội. Trong
một chừng mực nhất định, chức năng phân phối và phân phối lại đã tạo điều kiện
cho sự ra đời và phát huy tác dụng chức năng điều tiết của thuế.
Chức năng phân phối và phân phối lại có vị trí ngày càng quan trọng. Ðiều
này được giải thích bởi sự phát triển, mở rộng các chức năng của Nhà nước và việc
thực hiện nhiều chính sách khác nhau, trong đó có việc can thiệp của Nhà nước vào
các qúa trình kinh tế.
b/ Chức năng điều tiết đối với nền kinh tế.
Chức năng điều tiết của thuế được nhận thức và sử dụng rộng rãi từ những
năm đầu của thế kỷ XX và gắn liền với vai trò điều chỉnh của Nhà nước đối với
nền kinh tế. Việc tăng cường vai trò kinh tế - xã hội của Nhà nước dẫn đến tốc độ
chi tiêu của Nhà nước ngày càng tăng lên và hậu qủa tất yếu là đòi hỏi Nhà nước
phải mở rộng qũy tài chính Nhà nước, hình thành chủ yếu từ việc thu thuế. Nhu

cầu về nguồn tài chính càng lớn thì Nhà nước cần phải tăng cường các chức năng
của thuế để tác động một cách có hiệu qủa đến nền kinh tế quốc dân. Chính trong
qúa trình đó chức năng phân phối và phân phối lại và chức năng điều chỉnh của
thuế đã được sử dụng một cách hiện thực.
Ðiều đó có nghĩa là nội dung điều tiết theo một mục tiêu nào đó đã được dự
liệu trước vào trong qúa trình huy động tập trung nguồn tài chính. Bằng cách sử
dụng nó để kích thích hoặc kìm hãm tốc độ tăng trưởng, tăng cường hoặc làm yếu
đi sự tích lũy tiết kiệm, mở rộng hoặc thu hẹp nhu cầu có khả năng thanh toán của
dân cư, đẩy nhanh hoặc làm chậm lại chu kỳ khủng hoảng kinh tế, Nhà nước đã
thực hiện điều tiết các hoạt động kinh tế - xã hội trong phạm vi quốc gia.
6


Thực hiện chức năng điều chỉnh của thuế thông qua việc quy định các hình
thức thu thuế khác nhau, xác định đúng đắn đối tượng chịu thuế và đối tượng nộp
thuế; xây dựng chính xác, hợp lý các mức thuế phải nộp có tính đến khả năng của
người nộp thuế. Trên cơ sở đó Nhà nước kích thích các hoạt động kinh tế đi vào
qũy đạo chung của nền kinh tế quốc dân, phù hợp với lợi ích của toàn xã hội.
Trong điều kiện chuyển sang cơ chế thị trường, vai trò kích thích kinh tế thông qua
thuế ngay càng được nâng cao. Nhà nước sử dụng thuế để tác động lên lợi ích kinh
tế của các chủ thể vì lợi ích của nền kinh tế quốc dân. Với công cụ thuế, sự can
thiệp của Nhà nước không mang tính chất mệnh lệnh, bắt buộc các chủ thể phải
kinh doanh hay không kinh doanh mà chủ yếu tạo ra sự lựa chọn đối với các chủ
thể kinh doanh.
Giữa hai chức năng trên của thuế có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau.
Chức năng phân phối và phân phối lại của thuế là nguyên nhân ảnh hưởng đến sự
vận động và phát triển của chức năng điều tiết. Nhưng chức năng điều tiết của thuế
cũng có tác động ngược lại đến chức năng phân phối và phân phối lại thu nhập.
Nguồn tài chính mà Nhà nước tập trung được dưới dạng thuế là tiền đề của sự can
thiệp của Nhà nước trên diện rộng và theo chiều sâu tới qúa trình sản xuất kinh

doanh của các doanh nghiệp. Ngược lại, việc điều tiết, sắp xếp sản xuất của Nhà
nước nhằm vào việc thúc đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế lại tạo điều kiện để
tăng thu nhập của các tầng lớp nhân dân và đây chính là cơ sở quan trọng để mở
rộng phạm vi tác động của chức năng phân phối và phân phối lại.
Sự thống nhất nội tại của các chức năng hoàn toàn không loại trừ các mâu
thuẫn nội tại trong mỗi chức năng và giữa hai chức năng. Sự tăng cường chức năng
phân phối và phân phối lại làm cho nguồn thu của Nhà nước tăng lên. Ðiều đó có
nghĩa là mở rộng khả năng của Nhà nước trong việc thực hiện các chương trình
kinh tế - xã hội. Mặt khác, việc tăng cường chức năng phân phối và phân phối lại
một cách qúa mức làm tăng gánh nặng thuế và hậu qủa là làm giảm động lực phát
triển kinh tế, trong nhiều trường hợp làm hạn chế vai trò của chức năng điều tiết.
Ðó là tính hai mặt của thuế, nó có khả năng làm ảnh hưởng đến nền kinh tế một
7


cách tích cực, nhưng cũng có thể ảnh hưởng một cách tiêu cực. Tính hai mặt của
sự tác động đó cần phải được xem xét nghiêm túc kỹ lưỡng trong tiến trình hoạch
định, xây dựng, ban hành các chính sách pháp luật về thuế của Nhà nước trong
từng giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội nhất định.
1.1.3.2 Vai trò của thuế đối với sự phát triển Kinh tế – Xã hội.
Các nhà kinh tế học thường đề cập vai trò của thuế đối với ngân sách Nhà
nước và đời sống xã hội. Bởi vì trên thực tế, thông qua hoạt động thu thuế, Nhà
nước tập trung được một bộ phận của cải của xã hội từ đó hình thành nên qũy ngân
sách Nhà nước và thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội.
Về phương diện Luật học, thuế là một thực thể do Nhà nước đặt ra thông qua
việc ban hành các văn bản pháp luật. Các văn bản quy phạm pháp luật không chỉ
quy định nội dung các loại thuế mà còn xác lập các quyền, nghĩa vụ của các chủ
thể, các biện pháp đảm bảo thực hiện thu, nộp thuế. Pháp luật thuế là sự thể chế
hoá các chính sách kinh tế - xã hội cuả Nhà nước. Chính vì vậy pháp luật thuế là
nhân tố quyết định ý nghĩa kinh tế - xã hội của thuế và có vai trò quan trọng đối

với nền kinh tế và đời sống xã hội.
Vai trò của thuế là sự biểu hiện cụ thể các chức năng của thuế trong những
điều kiện kinh tế, xã hội nhất định. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, với sự
thay đổi phương thức can thiệp của Nhà nước vào hoạt động kinh tế, thuế đóng vai
trò hết sức quan trọng đối với qúa trình phát triển kinh tế - xã hội. Vai trò của thuế
được thể hiện trên các khía cạnh sau đây:
a/ Thuế là công cụ chủ yếu của Nhà nước nhằm huy động tập trung một
phần của cải vật chất trong xã hội vào ngân sách Nhà nước.
Nhà nước ban hành pháp luật thuế và ấn định các loại thuế áp dụng đối với
các pháp nhân và thể nhân trong xã hội.Việc các chủ thể nộp thuế, thực hiện nghĩa
vụ nộp thuế theo quy định của pháp luật thuế đã tạo ra nguồn tài chính quan trọng,
chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu nguồn thu ngân sách Nhà nước.
Cũng như pháp luật nói chung, Pháp luật thuế có chức năng điều chỉnh các
quan hệ xã hội. Mục đích chủ yếu và quan trọng nhất cuả sự điều chỉnh quan hệ
8


pháp luật thu - nộp thuế là nhằm tạo lập qũy ngân sách Nhà nước. Hầu hết ở các
quốc gia, thuế là hình thức chủ yếu mà pháp luật quy định để thu ngân sách Nhà
nước.
Một nền tài chính quốc gia lành mạnh phải dựa chủ yếu vào nguồn thu nội
bộ của nền kinh tế quốc dân. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, xuất phát từ
phạm vi hoạt động mà đòi hỏi Nhà nước phải ban hành và tổ chức thực hiện pháp
luật thuế để tập trung nguồn tài chính vào ngân sách Nhà nước từ đó mới đáp ứng
được nhu cầu chi ngày càng tăng.
Thuế là công cụ quan trọng nhất để phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và
thu nhập quốc dân theo đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Hiện nay
nguồn thu nước ngoài đã giảm nhiều, kinh tế đối ngoại chuyển thành có vay có trả.
Trước tiên, thuế là một công cụ quan trọng để góp phần ổn định trật tự xã hội,
chuẩn bị điều kiện và tiền đề cho việc phát triển lâu dài.

Với cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, hệ thống pháp luật thuế mới được áp
dụng thống nhất giữa các thành phần kinh tế. Thuế đã điều chỉnh được hầu hết các
hoạt động sản xuất, kinh doanh, các nguồn thu nhập, mọi tiêu dùng xã hội. Ðây là
nguồn thu chính của ngân sách Nhà nước.
b/ Thuế là công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế và đời
sống xã hội.
Ngoài việc huy động nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, pháp luật thuế còn
có vai trò quan trọng trong việc điều tiết vĩ mô đối với nền kinh tế. Ðiều 26 Hiến
pháp 1992 ghi nhận: Nhà nước thống nhất quản lý nền kinh tế quốc dân bằng pháp
luật, kế hoạch, chính sách. Là một bộ phận của hệ thống pháp luật Việt Nam, pháp
luật thuế đóng vai trò là công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Thông qua việc ban
hành và thực hiện pháp luật thuế, Nhà nước thể chế hoá và thực hiện chính sách
điều tiết đối với nền kinh tế, điều tiết thu nhập và tiêu dùng xã hội.
Ðiều tiết đối với nền kinh tế là yêu cầu khách quan, thường xuyên của Nhà
nước trong điều kiện nền kinh tế thị trường. Thông qua các quy định của pháp luật
thuế về cơ cấu các loại thuế, phạm vi đối tượng nộp thuế, thuế suất, miễn giảm
9


thuế... Nhà nước chủ động phát huy vai trò điều tiết đối với nền kinh tế. Vai trò
này của pháp luật thuế được thể hiện ở chỗ pháp luật thuế là công cụ tác động đến
tư duy đầu tư, hành vi đầu tư của các chủ thể kinh doanh, hành vi tiêu dùng của các
thành viên trong xã hội. Dựa vào công cụ thuế, Nhà nước có thể thúc đẩy hoặc hạn
chế việc đầu tư, tiêu dùng.
Thông qua các quy định của pháp luật thuế, Nhà nước chủ động can thiệp
đến cung - cầu của nền kinh tế. Sự tác động của Nhà nước để điều chỉnh cung - cầu
của nền kinh tế một cách hợp lý sẽ có tác động lớn đến sự ổn định và tăng trưởng
kinh tế. Bằng các quy định của pháp luật thuế, Nhà nước tác động tích cực đến
cung - cầu của nền kinh tế trong tất cả các giai đoạn từ sản xuất, lưu thông đến tiêu
dùng.

Ðiều tiết tiêu dùng là hoạt động quan trọng của Nhà nước đối với nền kinh tế
thị trường. Thông qua các quy định của pháp luật thuế, Nhà nước tác động đến các
quan hệ tiêu dùng của xã hội. Nhằm hạn chế việc tiêu dùng đối với một số hàng
hóa, dịch vụ, Nhà nước tăng thuế suất thuế giá trị gia tăng, thuế xuất nhập khẩu...
đối với việc sản xuất kinh doanh, tiêu dùng các loại hàng hóa đó.
Ðể thực hiện chính sách bảo hộ, khuyến khích sản xuất trong nước và
khuyến khích xuất khẩu, pháp luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có các quy định
khuyến khích hoặc hạn chế việc xuất, nhập khẩu đối với một số hàng hóa. Sự
khuyến khích hoặc hạn chế này thể hiện tập trung ở biểu thuế áp dụng có tính chất
phân biệt đối với các loại hàng hóa xuất nhập khẩu.
Trong điều kiện cạnh tranh của nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường
tất yếu dẫn đến tình trạng suy thoái về tài chính ở một số doanh nghiệp. Ðối với
những ngành nghề, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh cần khuyến khích, ngoài các quy
định chung, pháp luật thuế còn có các quy định ưu đãi, miễn, giảm thuế nhằm khắc
phục sự suy thoái về tài chính, tạo sự ổn định và phát triển của các doanh nghiệp.
Thuế góp phần khuyến khích khai thác nguyên liệu, vật tư trong nước để đáp
ứng nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu.Thông qua pháp luật thuế, Nhà nước có tác
động tích cực trong việc thúc đẩy sản xuất phát triển trên cơ sở tận dụng và sử
10


dụng hợp lý và có hiệu qủa các nguồn lực cuả đất nước trong việc điều chỉnh cung
- cầu và cơ cấu kinh tế.
c/ Thuế là công cụ góp phần đảm bảo sự bình đẳng giữa các thành phần
kinh tế và công bằng xã hội.
Hệ thống pháp luật thuế mới được áp dụng thống nhất chung cho các ngành
nghề, các thành phần kinh tế, các tầng lớp dân cư nhằm đảm bảo sự bình đẳng và
công bằng xã hội về quyền lợi và nghĩa vụ đối với mọi thế nhân và pháp nhân.
Sự bình đẳng và công bằng được thể hiện thông qua chính sách động viên
giống nhau giữa các đơn vị, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế có những điều

kiện hoạt động giống nhau, đảm bảo sự bình đẳng và công bằng.
Vai trò điều tiết thu nhập của pháp luật thuế thể hiện ở sự tác động của pháp
luật thuế đối với các quan hệ phân phối và sử dụng thu nhập trong xã hội.
Sự vận động của nền kinh tế theo cơ chế thị trường đòi hỏi Nhà nước phải sử
dụng đồng bộ nhiều công cụ khác nhau để khắc phục những sự mất cân đối về mặt
xã hội trong đó có mất cân đối về thu nhập. Nhà nước sử dụng pháp luật thuế làm
công cụ để điều hòa vĩ mô thu nhập trong xã hội. Sự điều tiết này thể hiện ở chổ
thông qua các quy định của pháp luật thuế, Nhà nước thực hiện việc điều tiết thu
nhập của các đối tượng nộp thuế và các thành viên trong xã hội. Sự thay đổi của
pháp luật thuế về cơ cấu các loại thuế trong hệ thống thuế, vế thuế suất... đều có tác
động đến thu nhập và sử dụng thu nhập trong xã hội.
Hiện nay, xu hướng chung của các quốc gia là xây dựng các quy phạm pháp
luật thuế theo hướng hội nhập quốc tế, đơn giản hóa cơ cấu hệ thống thuế và thuế
suất... Tuy vậy, việc thực hiện xu hướng chung đó không làm triệt tiêu vai trò của
pháp luật thuế là công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước trong điều kiện nền kinh tế
thị trường.
1.2 Công tác quản lý thu thuế
1.2.1 Khái niệm công tác quản lý thu thuế
Quản lý thu thuế là một dạng của quản lý xã hội kể từ khi có nhà nước và
gắn với quyền lực nhà nước. Quản lý thu thuế trước hết và quan trọng nhất thuộc
11


trách nhiệm của nhà nước cho nên người ta thường quan niệm quản lý thu thuế là
quản lý của nhà nước trong lĩnh vực thuế. Tuy nhiên, hiện nay để quản lý thuế có
hiệu quả, ở những mức độ nhất định có sự tham gia các tổ chức, cá nhân trong xã
hội để hỗ trợ cho công tác quản lý thuế của nhà nước.
Sự ra đời, tồn tại và phát triển của thuế cho thấy, thuế là phạm trù kinh tế
khách quan luôn gắn liền với nhà nước. Khi Nhà nước xuất hiện làm phát sinh các
nhu cầu chi tiêu, để thoả mãn các nhu cầu chi tiêu, nhà nước sử dụng quyền lực

chính trị để tham gia vào việc phân phối một phần sản phẩm xã hội bằng cách đặt
ra chế độ thuế khoá buộc các thành viên trong xã hội phải đóng góp - phương thức
động viên tài chính đầu tiên trong lịch sử đó là thuế. Do yêu cầu chi tiêu của nhà
nước ngày một tăng, ngoài việc huy động nguồn tài chính từ thuế, nhà nước còn sử
dụng một số hình thức huy động khác như phát hành công trái, thu phí, lệ phí...
Nhưng thuế vẫn là hình thức động viên tài chính chủ yếu của các nhà nước trong
các chế độ xã hội có nhà nước. Như vậy, thuế được sinh ra từ nhà nước, tồn tại dựa
vào quyền lực nhà nước và nhằm thoả mãn phần lớn các nhu cầu chi tiêu của nhà
nước. Bởi vậy, ngay từ khi thuế ra đời, việc quản lý thuế đã trở thành hoạt động tất
yếu của nhà nước.
Quan hệ thu nộp thuế không chỉ là quan hệ quyền lực và nghĩa vụ mà nó còn
là quan hệ lợi ích phát sinh giữa nhà nước với các tổ chức, cá nhân trong xã hội. Vì
vậy, thu nộp thuế bao giờ cũng là quan hệ khá phức tạp. Không những thế, hoạt
động thu thuế của nhà nước còn nhằm mục đích hiện thực hóa các mục tiêu của hệ
thống chính sách thuế như: tác động đến thiết lập và điều chỉnh cơ cấu nền kinh tế,
điều tiết hoạt động sản xuất kinh doanh, hướng dẫn tiêu dùng và điều hoà thu nhập
dân cư đảm bảo mục tiêu công bằng xã hội. Tầm quan trọng và tính chất đặc biệt
của thuế, nên các nhà nước luôn luôn phải tìm ra phương thức quản lí sao cho có
hiệu quả nhất để nhằm đạt được mục tiêu và phát huy tối đa vai trò của thuế trong
đời sống thực tiễn. Nếu nhà nước không quản lí thuế hoặc quản lí kém hiệu quả
đều gây ra những hệ quả xấu cho nhà nước và cho toàn xã hội. Cụ thể: Nhà nước
không thể có nguồn tài chính lớn để tồn tại và thực hiện các chức năng, nhiệm vụ
12


của mình, đồng thời, sẽ nảy sinh nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội như: tham
ô, hối lộ, móc ngoặc, để thất thu hoặc lạm thu; hoặc sẽ xảy ra tình trạng gian lận,
trốn thuế, nợ đọng thuế… tạo ra sự không công bằng, bình đẳng trong thực hiện
nghĩa vụ thuế với nhà nước, không đảm bảo kỷ cương xã hội, nhà nước không thể
thực hiện vai trò quản lý và điều tiết nền kinh tế - xã hội, lợi ích của nhà nước và

của tổ chức, cá nhân chân chính đều có thể bị xâm hại. Chính vì thế, quản lý thuế
là hoạt động cần thiết, quan trọng luôn được nhà nước và cả xã hội quan tâm.
Theo Luật Quản lý thuế số 78/2006/QH11 được Quốc hội Khóa XI, kỳ họp
thứ 10 ngày 29/11/2006 thông qua và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2007:
Công tác quản lý thu thuế là hoạt động tổ chức, điều hành và giám sát của cơ quan
thuế nhằm đảm bảo các đối tượng nộp thuế chấp hành nghĩa vụ nộp thuế vào Ngân
sách Nhà nước theo đúng qui định của pháp luật.
Công tác quản lý thuế được triển khai thực hiện theo nguyên tắc như sau:
- Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước. Nộp thuế theo quy
định của pháp luật là nghĩa vụ và quyền lợi của mọi tổ chức, cá nhân. Cơ quan, tổ
chức, cá nhân có trách nhiệm tham gia quản lý thuế.
- Việc quản lý thu thuế được thực hiện theo quy định của Luật này và các
quy định khác của pháp luật có liên quan.
- Việc quản lý thu thuế phải bảo đảm công khai, minh bạch, bình đẳng; bảo
đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người nộp thuế.
Theo Luật Quản lý thu thuế thì cơ quan quản lý thuế bao gồm:
- Cơ quan thuế bao gồm : Tổng cục thuế, Cục thuế, Chi cục thuế;
- Cơ quan hải quan bao gồm: Tổng cục hải quan, Cục hải quan, Chi cục hải
quan.
Cơ quan quản lý thu thuế có trách nhiệm và quyền hạn như sau:
Trách nhiệm:
- Tổ chức thực hiện thu thuế theo quy định của pháp luật.
- Tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn pháp luật về thuế; công khai các thủ
tục về thuế.
13


- Giải thích, cung cấp thông tin liên quan đến việc xác định nghĩa vụ thuế
cho người nộp thuế; công khai mức thuế phải nộp của hộ gia đình, cá nhân kinh
doanh trên địa bàn xã, phường, thị trấn.

- Giữ bí mật thông tin của người nộp thuế theo quy định của Luật này.
- Thực hiện việc miễn thuế, giảm thuế, xoá nợ tiền thuế, xóa nợ tiền phạt, hoàn
thuế theo theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật về thuế.
- Xác nhận việc thực hiện nghĩa vụ thuế của người nộp thuế khi có đề nghị
theo quy định của pháp luật.
- Giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến việc thực hiện pháp luật về thuế
theo thẩm quyền.
- Giao kết luận, biên bản kiểm tra thuế, thanh tra thuế cho đối tượng kiểm
tra thuế, thanh tra thuế và giải thích khi có yêu cầu.
- Bồi thường thiệt hại cho người nộp thuế theo quy định của Luật này.
- Giám định để xác định số thuế phải nộp của người nộp thuế theo yêu cầu
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Quyền hạn:
- Yêu cầu người nộp thuế cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến việc xác
định nghĩa vụ thuế, số hiệu, nội dung giao dịch của các tài khoản được mở tại ngân
hàng thương mại, tổ chức tín dụng khác và giải thích việc tính thuế, khai thuế, nộp thuế.
- Yêu cầu tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp thông tin, tài liệu liên
quan đến việc xác định nghĩa vụ thuế và phối hợp với cơ quan quản lý thuế để thực
hiện pháp luật về thuế.
- Kiểm tra thuế, thanh tra thuế.
- Ấn định thuế.
- Cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về thuế.
- Xử phạt vi phạm pháp luật về thuế theo thẩm quyền; công khai trên
phương tiện thông tin đại chúng các trường hợp vi phạm pháp luật về thuế.
- Áp dụng biện pháp ngăn chặn và bảo đảm việc xử lý vi phạm pháp luật về
thuế theo quy định của pháp luật.
14


- Ủy nhiệm cho cơ quan, tổ chức, cá nhân thu một số loại thuế vào ngân

sách nhà nước theo quy định của Chính phủ.
1.2.2 Đặc trưng cơ bản của công tác quản lý thuế.
Trên cơ sở khái niệm công tác quản lý thuế theo Luật Quản lý thuế năm
2006, công tác quản lý thu thuế có các đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, về bản chất quản lý thuế là một bộ phận của quản lý tài chính
công. Vì vậy, quản lý thuế được tiến hành trên cơ sở tuân thủ các nguyên tắc quản
lý tài chính công nói chung và quản lý nguồn thu của ngân sách nhà nước nói
riêng. Do thuế là khoản thu mang tính bắt buộc nên phương pháp quản thuế thường
được sử dụng chủ yếu là phương pháp quản lý hành chính. Tuy nhiên, quản lý thuế
trong xã hội hiện đại đang phát triển theo xu hướng thu hẹp biện pháp quản lý hành
chính cưỡng bức, mở rộng biện pháp quản lý mang tính phục vụ, dịch vụ.
Mặc dù ý thức được sự cần thiết và tính tất yếu của thuế nhưng thuế chưa
bao giờ được người dân cảm nhận như một thực tế dễ chịu. Vì vậy, những người
có trách nhiệm quản lý thuế thường phải đối mặt với những mối quan hệ khó điều
chỉnh, thậm chí đôi khi còn nảy sinh xung đột. Công tác quản lý thuế về lâu dài
vẫn còn là những nhiệm vụ hành chính khó khăn và ít có khả năng gây được thiện
cảm của người dân. Đặc điểm này đòi hỏi trong công tác quản lý thuế phải rất kiên
trì, phải sử dụng kết hợp nhiều phương pháp, biện pháp, công cụ phương tiện khác
nhau để đạt hiệu quả trong quản lý.
Thứ hai, về chủ thể trong quản lý thuế: Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân
sách nhà nước, là tài sản quốc gia để phục vụ lợi ích cho toàn xã hội. Vì thế, tham
gia quản lý thuế là trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân trong
xã hội. Tuy nhiên, trách nhiệm quản lý thuế trước hết là thuộc về nhà nước. Để bảo
đảm thực thi trách nhiệm này, Nhà nước trao quyền hạn, trách nhiệm quản lý thuế
cho Bộ Tài chính mà trực tiếp là hệ thống cơ quan quản lý thuế gồm cơ quan thuế
và cơ quan hải quan chịu trách nhiệm chính trong thực thi nhiệm vụ quản lý thuế.
Việc quy định, cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm tham gia quản lý thuế
trong Luật Quản lý thuế ở nước ta hiện nay đã thể hiện tư tưởng xã hội hoá hoạt
15



động quản lý thuế của nhà làm luật. Xã hội hóa hoạt động quản lý thuế, có thể
được hiểu là công tác quản lý thuế phải được nhiều tổ chức, cá nhân tham gia, từ
tham gia xây dựng ban hành pháp luật thuế đến quá trình thực hiện pháp luật trong
cuộc sống. Từ đó, góp phần xây dựng chính sách thuế, quản lý thuế một cách dân
chủ, minh bạch, nâng cao các quyền, nghĩa vụ của người nộp thuế, quyền giám sát
của người dân; đồng thời, tạo ra sự thay đổi cơ bản về nhận thức của xã hội, nâng
cao ý thức, trách nhiệm của người dân đối với nghĩa vụ thuế, xây dựng cộng đồng
trách nhiệm của mọi tổ chức, cá nhân trong xã hội đối với công tác quản lý thuế.
Đối tượng chủ yếu chịu sự quản lý thuế của nhà nước là người nộp thuế
được xác định trong các Luật thuế cụ thể do nhà nước ban hành. Để tạo thuận lợi
cho công tác quản lý nguồn thu ngân sách nhà nước nói chung và quản lý thuế nói
riêng, trong Luật Quản lý thuế của Việt Nam hiện nay có mở rộng hơn về đối
tượng chịu sự quản lý thuế của Nhà nước đó là: Ngoài đối tượng nộp thuế do Luật
thuế quy định còn có các chủ thể phải nộp các khoản thu khác thuộc ngân sách nhà
nước do cơ quan quản lý thuế quản lý thu theo quy định của pháp luật.Trong một
số trường hợp đối tượng chịu sự quản lý thuế của nhà nước còn bao gồm: tổ chức,
cá nhân khấu trừ thuế; tổ chức, cá nhân làm thủ tục về thuế thay người nộp thuế và
cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân khác có liên quan đến việc thực hiện pháp luật
về thuế.
Thứ ba, mục tiêu của quản lý thuế là nhằm đạt các vấn đề cơ bản sau:
- Tập trung huy động đầy đủ và kịp thời các khoản thu cho ngân sách nhà
nước dựa vào khai thác cơ sở thuế hiện tại và tìm kiếm, khuyến khích cơ sở thuế
tiềm năng.
- Tối thiểu hóa chi phí quản lý thuế của nhà nước và chi phí tuân thủ của
người nộp thuế.
- Phát huy tốt nhất vai trò của công cụ thuế trong nền kinh tế thị trường như:
Ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo công bằng trong phân phối thu nhập và điều tiết các
hoạt động sản xuất kinh doanh theo mục tiêu của nhà nước đã định trong từng thời kỳ.
- Tăng cường sự tuân thủ thuế của người nộp thuế một cách đầy đủ, kịp thời

16


và tự nguyện theo các quy định của luật thuế.
- Góp phần bảo đảm sự công bằng, bình đẳng giữa các chủ thể nộp thuế
khác nhau trong thực hiện nghĩa vụ thuế đối với nhà nước, bảo đảm môi trường
cạnh tranh lành mạnh, tạo động lực thúc đẩy kinh tế tăng trưởng và phát triển.
- Quản lý thuế không chỉ có mục tiêu bảo đảm những quyền và lợi ích cho
nhà nước mà còn bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người nộp thuế.
Trong các mục tiêu nói trên, mục tiêu tăng cường sự tuân thủ thuế là mục
tiêu cơ bản nhất để đạt được các mục tiêu còn lại trong quản lý thuế. Bởi vì, khi sự
tuân thủ thuế của người nộp thuế ở mức cao nhất (nộp đầy đủ, đúng hạn và tự
nguyện) chính là cơ sở để duy trì những nguồn thu hiện tại và mở rộng nguồn thu
trong tương lai. Khi sự chấp hành luật thuế của người nộp thuế được thực hiện,
giúp Nhà nước sử dụng tốt nhất công cụ thuế trong việc điều tiết quản lý nền kinh
tế thị trường. Sự tuân thủ thuế của đại bộ phận doanh nghiệp và người dân sẽ góp
phần xây dựng một nền văn hóa tuân thủ thuế. Khi sự tuân thủ thuế của người nộp
được thực hiện một cách tự nguyện, tự giác sẽ làm giảm chi phí quản lý của cơ
quan quản lý thuế và chi phí tuân thủ của người nộp thuế. Chính từ việc xác định
được mục tiêu chính này, một số quốc gia đã định ra chiến lược đổi mới quản lý
thuế theo hướng: Lấy người nộp thuế làm trung tâm, coi người nộp thuế là khách
hàng mà cơ quan quản lý thuế phải phục vụ, tạo ra điều kiện thuận lợi nhất cho
người nộp thuế thực hiện tốt các quyền, nghĩa vụ thuế của họ.
Thứ tư, hoạt động quản lý thuế là hoạt động đặc thù, đòi hỏi tính chuyên
môn cao nên được điều chỉnh bằng các quy phạm pháp luật chuyên ngành (Luật
Quản lý thuế và các văn bản pháp luật khác có liên quan). Quản lý thuế tương tự
các lĩnh vực quản lý nhà nước khác là quản lý bằng pháp luật, theo pháp luật và
các công cụ quản lý khác, trong đó pháp luật là công cụ chủ yếu, là chuẩn mực,
buộc mọi người phải tuân theo, dù là người quản lí thuế hay người nộp thuế. Đây
là một yêu cầu khách quan trong nền kinh tế thị trường và là yêu cầu của việc xây

dựng nhà nước pháp quyền quản lí thuế theo luật nhằm bảo vệ quyền lợi nhà nước,
đồng thời coi trọng và bảo vệ quyền, lợi hợp pháp của người nộp thuế.
17


Việc điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong hoạt động quản lý thuế chủ yếu
bằng các quy phạm pháp luật chuyên ngành. Ngoài ra, tham gia điều chỉnh các
quan hệ quản lý thuế còn có các bộ phận pháp luật khác có liên quan. Hơn nữa,
trong quản lý thuế ở nước ta hiện nay, phương tiện để thực hiện quản lý thuế
không phải chỉ có pháp luật mà chuẩn mực xã hội, dư luận xã hội cũng đóng vai
trò quan trọng, đặc biệt với một nền văn hoá lúa nước rất biết coi trọng thể diện
như ở Việt Nam: “Mất mặt là mất hết sự tôn trọng của xã hội – một dấu hiệu của
sự phá sản”. Do đó, bên cạnh việc nâng cao hiệu lực của các quy định pháp luật thì
tác động vào dư luận xã hội là một giải pháp hiệu quả cần phải quan tâm, nghiên
cứu để cải thiện công tác quản lý thuế.
Thứ năm, quản lý thuế thuộc lĩnh vực quản lý có tính kỹ thuật phức tạp,
mang tính chuyên môn cao, hiệu quả quản lý thuế phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác
nhau trong đó có yếu tố: Trình độ năng lực của bộ máy quản lý thuế; điều kiện cơ
sở vật chất của ngành thuế; trình độ nhận thức và văn hoá tuân thủ (ý thức chấp
hành) pháp luật thuế của người dân; sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật thuế và
các thể chế quản lý kinh tế - xã hội có liên quan... Đặc điểm này của quản lý thuế
đặt ra yêu cầu muốn nâng cao hiệu quả quản lý thuế cần có giải pháp đồng bộ,
quan tâm phát triển nhiều mặt trong tổ chức hoạt động quản lý thuế như chất lượng
cán bộ, điều kiện cơ sở vật chất…thì Nhà nước mới có thể đạt được mục tiêu nâng
cao tính hiệu lực, hiệu quả trong quản lý thu thuế.
1.2.3 Nội dung công tác quản lý thu thuế
-Lập kế hoạch thu thuế: Căn cứ vào chỉ tiêu, dự toán thu ngân sách của Cục
thuế Thành phố Hải Phòng và Nghị quyết của HĐND Quận Hồng Bàng hằng năm,
căn cứ vào tình hình thực hiện kế hoạch thu thuế của năm trước và tình hình kinh
tế xã hội hiện tại của Quận, từ đó Chi cục thuế Quận Hồng Bànglập kế hoạch thu

và thực hiện thu ngân sách nhà nước cả năm, tháng, quý. Từ kế hoạch thu, Chi cục
lên kế hoạch thực hiện chi tiết như: kế hoạch tuyên truyền hỗ trợ người nộp thuế,
kế hoạch cho công tác kê khai thuế, kế hoạch cho công tác quản lý các đối tượng
nộp thuế, kế hoạch kiểm tra, thu nợ thuế...
18


-Công tác tổ chức thu thuế: Thực hiện các chỉ tiêu kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng là việc làm quan trọng bậc nhất đối với mỗi đơn vị hành chính. Lãnh
đạo địa phương luôn xác định đốc thúc thu thuế ngay từ những ngày đầu, tháng
đầu của năm mới nhằm thực hiện vượt mức kế hoạch cấp trên giao. Đôn đốc thu
nộp thuế là khâu thiết thực nhất đem lại số thu thực tế cho Ngân sách nhà nước. Vì
vậy, các đơn vị quản lý Thuế xem đây là lĩnh vực trọng tâm quản lý.
-Công tác kiểm tra và xử lý các vi phạm về thuế: Để đảm bảo công bằng về
nghĩa vụ thuế, đối với việc chống thất thu ngân sách nhà nước, ngăn chặn các hành
vi gian lận thuế và nâng cao ý thức chấp hành pháp luật thuế của người nộp thuế,
các đơn vị quản lý thu thuế cần quan tâm đến công tác thanh tra kiểm tra thuế, xử
lý các vi phạm về thuế và đốc thúc thu nợ đọng thuế.
1.2.4 Các mô hình tổ chức quản lý thuế.
Trên thế giới đã tồn tại các mô hình tổ chức quản lý thu thuế như sau:
1.2.4.1 Mô hình tổ chức quản lý theo sắc thuế.
Đây là mô hình trong đó, bộ máy quản lý thuế được tổ chức thành từng bộ
phận riêng biệt để quản lý một hoặc một số loại thuế cụ thể như:
Mô hình tổ chức quản lý theo sắc thuế có ưu điểm:
- Tạo điều kiện để chuyên sâu quản lý từng sắc thuế, hiểu rõ phương pháp
quản lý sắc thuế một cách hiệu quả nhất.
- Phản ứng kịp thời với những thay đổi của luật thuế hay những biện pháp
quản lý đối với từng sắc thuế.
- Cơ quan quản lý thuế có thể tổng kết đánh giá được tính hiệu quả của từng
sắc thuế, thấy rõ được ưu điểm, nhược điểm của từng sắc thuế để kịp thời có sự
điều chỉnh thích hợp.

Tuy nhiên, mô hình tổ chức quản lý theo sắc thuế có những nhược điểm sau:
- Chi phí quản lý cao, hiệu suất quản lý thấp vì các chức năng quản lý bị
chồng chéo giữa các bộ phận. Mỗi bộ phận đều phải thực hiện đầy đủ các chức
năng quản lý trong khi có những chức năng có thể chỉ do một bộ phận quản lý
hoặc mỗi bộ phận phải có một hệ thống chương trình phầm mềm riêng phục vụ
19


×