Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Tính hai mặt của thu hút đầu tư nước ngoài ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (272.79 KB, 31 trang )

Tiểu luận: Kinh tế Việt Nam

SV: Trần Thị Hiền

LỜI NÓI ĐẦU

Hiện nay trong bối cảnh kinh tế thế giới có nhiều biến động trên
thị trường quốc tê, tốc độ toàn cầu hóa cà tự do hóa thương mại đang
diễn ra nhanh chóng, nhiều quốc gia và công ty đang nắm trong tay
lượng vốn dự trữ khổng lồ có nhu cầu đầu tư nước ngoài. Đây là
điều kiện thuận lợi đối với các nước thiếu vốn có nhu cầu đầu tư lớn.
Vì vậy đầu tư nước ngoài chiếm một vị trí quan trọng, không chỉ đối
với các nước phát triển mà cả các nước đang phát triển. Đầu tư nước
ngoài đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa hiền đại hóa, chuyển đổi
cơ cấu kinh tế, chuyển dịch cơ cấu ngành nghề, đầu tư xây dựng kết
cấu hạ tầng, đổi mới công nghệ thiết bị, nâng cao chất lượng sản
phẩm, dịch vụ và sức mạnh cạnh tranh của hàng hóa.
Các nước đang phát triển có thể tận dụng mọi nguồn lực của thế
giới, tiếp thu những tinh túy của nhân loại, những cống hiến và phát
minh vĩ đại của các bậc thế hệ đi trước, nhằm đi tắt đón đầu trên con
đường phát triển và thu hẹp dần khoảng cách với các nước đi trước.
Khi đó đầu tư nước ngoài có vai trò như một phương tiện đắc lực để
thực hiện chủ trương trên. Là một quốc gia đang trưởng thành và
phát triển, đồng thời đang tiến hành công nghiệp hóa hiện đại hóa,
Việt Nam cần huy động tối đa mọi nguồn lực. Đại hội Đảng toang
quốc lần thứ IX đã khẳng định: “Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là
một bộ phận quan trọng của nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa
ở nước ta, được khuyến khích phát triền đầu tư nước ngoài, bình
đẳng với các thành phần khác. Thu hút đầu tư nước ngoài là chủ
trương quan trọng, góp phần khai thác các nguồn lực trong nước, mở
rộng hợp tác kinh tế quốc tế, tạo nên sức mạnh tổng hợp phục vụ sự


nghiệp Công nghiệp hóa - hiện đại hóa phát triển của đất nước”. Tuy
nhiên cái gì cũng có hai mặt của nó: Mặt tốt và mặt chưa tốt. Với
mong muốn vận dụng kiến thức tìm hiểu nền kinh tế Việt Nam nên
tôi chọn đề tài: “Tính hai mặt của thu hút đầu tư nước ngoài ở
Việt Nam”. Tôi rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô và bạn bè.

1


Tiểu luận: Kinh tế Việt Nam

SV: Trần Thị Hiền

Lời cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn cô giáo NGUYỄN THỊ
VI đã tận tình hướng dẫn tôi và các đồng nghiệp đã giúp đỡ tôi hoàn
thành bài tiểu luận này.

PHẦN A – PHẦN MỞ ĐẦU
I. Ý nghĩa của đề tài.
Với mục tiêu xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp và
tiến hành công nghiệp hóa hiện đại hóa, cải biến nước ta thành một
nước công nghiệp có cơ sở vật chất kĩ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế
phù hợp, ổn định và phát triển kinh tế, nâng cao GDP bình quân đầu
người… Muốn thực hiện những điều đó cần một lượng vốn lớn. Với
tình hình nước ta thì thu hút vốn đầu tư nước ngoài cũng là một cách
tích lũy vốn nhanh có thể làm được. Đầu tư nước ngoài là một hoạt
động kinh tế ngày càng có vai trò quan trọng, trở thành xu thế của
thời đại. Đó là kênh chuyển giao công nghệ, thúc đẩy quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo việc làm, nâng cao tay nghề và thu
nhập cho người lao động, tạo nguồn thu cho ngân sách…

Bên cạnh những điều thuận lợi mà đầu tư nước ngoài mang lại, ta
cũng cần phải chú ý đến tính tiêu cực của nó.
Nhận thức đúng vai trò của đầu tư nước ngoài là vô cùng cần
thiết. Chính phủ đã ban hành chính sách đầu tư nước ngoài vào Việt
Nam, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho những nhà đầu tư nước ngoài.
Chúng ta bằng những biện pháp mạnh về cải thiện môi trường đầu tư
kinh doanh… để thu hút đầu tư nước ngoài, đồng thời cũng cố gắng
khắc phục những khó khăn mà đầu nó mang lại.
II. Phương pháp luận của đề tài.
Bài viết dựa trên những quy luật hiện tượng khách quan, dựa vào
các quy luật của triết học như:
- phương pháp duy vật biện chứng.
2


Tiểu luận: Kinh tế Việt Nam

SV: Trần Thị Hiền

- phương pháp lịch sử
- phương pháp so sánh.
- Phương pháp phân tích tài liệu.
- Phương pháp tổng hợp đánh giá.
Và một số phương pháp khác.
III. Phạm vi nghiên cứu.
Do phạm vi nghiên cứu có giới hạn nên trong quá trình nghiên
cứu, xem xét, đánh giá nó phải có cái nhìn sâu sắc, nhìn từ nhiều
hướng nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau trên cơ sở đánh giá sâu
vấn để. Bài viết được trình bày dưới dạng một đề án môn học và chỉ
dừng lại ở mức độ đề án môn học.


PHẦN B – NỘI DUNG
I. Một số vấn đề về cơ sở lí luận:
1.

Khái niệm vốn đầu tư

Hoạt động đầu tư là quá trình huy động và sử dụng mọi nguồn
vốn phục vụ nhu cầu sản xuất, kinh doanh nhằm sản xuất hay cung
cấp dịch vụ đáp ứng nhu cầu tiêu dung của cá nhân và xã hôi.
Nguồn vốn đầu tư có thể là những tài sản hàng hóa như tiên vốn,
đất đai, nhà cửa, máy móc, thiết bị, hàng hóa hoặc tài sản vô hình
như bằng sang chế, phát minh, nhãn hiệu hang hóa, bí quyết kĩ thuật,
uy tín kinh doanh… Các doanh nghiệp có thể đầu tư bằng cổ phiếu,
trái phiếu, các quyền sở hữu khác như quyền thế chấp, cầm cố hoặc
các quyền có giá trị về mặt kinh tế như quyền thăm dò, khai thác, sử
dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên.
2. Khái niệm đầu tư nước ngoài
Đầu tư nước ngoài là sự di chuyển vốn đầu tư sang lãnh thổ một
nước do một nước khác sở hứu hoặc kiểm soát trực tiếp hay gián
tiếp, thực hiện dưới các hình thức như một công ty hay một doanh
nghiệp; cổ phần cổ phiếu cà hình thức góp vốn khác, trái phiếu, giấy
3


Tiểu luận: Kinh tế Việt Nam

SV: Trần Thị Hiền

ghi nợ, các quyền theo hợp đồng, tài sản hữu hình, vô hình, quyền sở

hữu trí tuệ…
Đầu tư nước ngoài gồm hai hình thức là đầu tư trực tiếp và đầu tư
gián tiếp.
Đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII)
FII là sự di chuyển vốn giữa các quốc gia trong đó người sở hữu
vốn không trực tiếp quản lí và điều hành các hoạt động sử dụng vốn,
họ không chịu trách nhiệm trực tiếp về kết quả đầu tư. Họ chỉ hưởng
lãi suất theo tỉ lệ đã được công bố trước hoặc không công bố trước
trên số vốn mà họ đã đầu tư.
FII thường tồn tại dưới ba dạng: đầu tư vào chứng khoán, cho vay
thương mại và viện trợ phát triển chính thức.
- Đầu tư chứng khoán là việc mua cổ phiếu và trái phiếu của
chính phủ cà các công ty nước ngoài.
Đầu tư trái phiếu là việc nhà đầu tư mua trái phiếu của chính phủ
hay của những tập đoàn quốc gia nổi tiếng của nước ngoài. Bản
chất của hình thức này là nhà đầu tư cho quốc gia hay công ty
phát hành trái phiếu vay một lượng vốn nhất định. Sau một thời
gian nhất định, nhà đầu tư nhận lại đủ giá trị danh nghĩa của trái
phiếu cộng thêm một phần lãi vốn cho vay theo tỉ lệ lãi suất công
bố trước.
Đầu tư cổ phiếu nghĩa là nhà đầu tư mua cổ phiếu của các công ty
nước ngoài (thường nhà đầu tư nước ngoài chỉ được phép mua ột
số lượng tối đa là 10-25% vốn pháp định của công ty tùy theo quy
định của từng quốc gia).
- Cho vay thương mại là trường hợp các nhà đầu tư, thường là các
ngân hang thương mại, các công ty tài chính và các tổ chức tín
dụng nước ngoài cho các nước (có thể là chính phủ hay tư nhân)
vay một khoản tín dụng. Sau một thời gian nhất định, các chủ đầu
tư nhận được lại toàn bộ số vốn vay ban đầu va một khoản theo
lãi suất đã được công bố trước.

- Viện trợ phát triển chính thức (ODA) là hình thức trong đó các
nhà đầu tư (thường là chính phủ, các tổ chức quốc tế hay tổ chức
4


Tiểu luận: Kinh tế Việt Nam

SV: Trần Thị Hiền

phi chính phủ) hỗ trợ cho các nước khác, thường là nước đang
phát triển trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế của các nước đó.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
FDI là hình thức di chuyển vốn giữa các nước trong đó người chủ
sở hữu vốn đồng thời là người trực tiếp quản lí và điều hành hoạt
động sử dụng vốn. Về bản chất, FDI là hình thức đầu tư quốc tế mà
chủ đầu tư bỏ vốn để xây dựng hoặc bỏ vốn để mua (toàn bộ hoặc
một phần) các doanh nghiệp ở nước ngoài để trở thành người chủ sở
hữu, trực tiếp quản lí điều hành hoặc tham gia quản lí điều hành cơ
sở kinh doanh đó (hoặc toàn bộ hoặc một phần theo số vốn họ đóng
góp).
Các hình thức chủ yếu của FDI gồm có:
- Hợp đồng hợp tác kinh doanh là hình thức đầu tư trong đó các bên
tham gia hợp đồng kí kết thỏa thuận để tiến hành một hay nhiều hoạt
động sản xuất kinh doanh ở nước nhận đầu tư, trên cơ sở quy định rõ
đối tượng, nội dung kinh doanh, nghĩa vụ, trách nhiệm và phân chia
kết quả kinh doanh cho từng bên tham gia. Hình thức này không cầ
thành lập một pháp nhân mới. Hình thức này chiếm 19,5% tổng số
vốn đăng kí (số liệu năm 2004).
- Doanh nghiệp liên doanh là loại hình doanh nghiệp do hai bên hay
nhiều bên phía nước ngoài và nước nhận đầu tư hợp tác cùng góp

vốn, cùng kinh doanh, cùng hưởng lợi nhuận, cùng chia sẻ rủi ro
theo tỉ lệ góp vốn. Doanh nghiệp liên doanh được thành lập theo
hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, có tư cách pháp nhân thep
pháp luật nước nhận đầu tư. Hình thức này chiếm 40,6% tổng số vốn
thực hiện (số liệu năm 2004).
- Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là doanh nghiệp thuộc sở hữu
của nhà đầu tư nước ngoài. Họ tự quản lí và chịu trách nhiệm về kết
quả sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài được
thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn có tư cách
pháp. Hình thức này chiếm 39,9% tổng số vốn thực hiện (số liệu
năm 2004).
II. Thực trạng thu hút vốn đầu tư nước ngoài.

5


Tiểu luận: Kinh tế Việt Nam

SV: Trần Thị Hiền

Chỉ hai năm sau ngày thống nhất đất nước, ngày 18-7-1977,
chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ban hành
điều lệ về đầu tư của nước ngoài ở Việt nam, trong đó: “Chính phủ
nước CHXHCN Việt Nam hoan nghênh việc đầu tư của nước ngoài
trên nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền của Việt Nam và hai
bên cùng có lợi”. Để khuyến khích đầu tư của nước ngoài vào Việt
Nam, bản điều lệ cũng đã đưa ra nhiều hình thức ưu đãi đối với đầu
tư nước ngoài ở Việt Nam và đây là một tín hiệu tích cực rất đáng
quan tâm. Tuy nhiên sau khi bản điều lệ ra đời thì không có đối tác
nào bỏ tiền vào nơi đang nằm trong tình trạng chiến tranh, tình hình

an ninh không ổn định. Hơn nữa tình hình kinh tế Việt Nam lúc đó
gặp rất nhiều khó khăn, sản xuất lạc hậu, cơ sở hạ tầng yếu kém, các
dịch vụ không phát triển, hệ thống pháp luật vừa thiếu vừa không
phù hợp về các thong lệ quốc tế, vừa quan điểm không rõ ràng về
đường lối phát triển tổng thể kinh tế.
Sau khi ban hành luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 12-1987,
năm đầu tiên thực hiện (1988) đã có 37 dự án đầu tư trực tiếp nước
ngoài vào Việt Nam với tổng số vốn là 366 triệu USD. Luật đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam ra đời phù hợp với xu hướng của sự hợp tác
nhiều mặt, nhiều chiều, tùy thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia, trên cơ
sở bình đẳng và cùng có lợi. Tuy nhiên sau hai năm thực hiện, đầu tư
nước ngoài đã bộc lộ một số quan điểm chưa phù hợp vói điều kiện
kinh tế và thông lệ quốc tế. Vì vậy chúng ta đã thực hiện hai lần sửa
đổi. Luật bổ sung thứ nhất được Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 30-6-1990 và luật sửa đổi lần
thứ hai vài 23-12-1992. Trên cơ sở nhận thức ngày càng đúng đắn về
hoạt động đầu tư nước ngoài, chúng ta đã có quan điểm rõ rang về
thu hút và sử dụng nguồn lực bên ngoài để phục vụ cho sự nghiệp
công nghiệp hóa hiện đại hóa nền kinh tế. Chúng ta coi nguồn lực
trong nước là quyết định, nguồn lực bên ngoài là quan trọng đối với
sự phát triển lâu dài của nền kinh tế.
1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài.
1.1. Về vốn đầu tư.
Giai đoạn 1988-1990 là ba năm khời đầu. FDI chưa có tác động
rõ rệt đến tình hình kinh tế xã hội của Việt Nam. Cả ba năm cộng lại
6


Tiểu luận: Kinh tế Việt Nam


SV: Trần Thị Hiền

có hơn 1,5 tỉ USD vốn đăng kí với 214 dự án, còn vốn thực hiện thì
không đáng kể vì các doanh nghiệp FDI sau khi được cấp phép phải
làm nhiều thủ tục cần thiết mới được đưa vốn vào Việt Nam.
Giai đoạn 1991-1997 là thời kì FDI tăng trưởng nhanh và góp
phần ngày càng quan trọng vào thực hiện các mục tiêu kinh tế xã
hội(1.409 dự án với tổng vốn đăng kí cấp mới 18,3 tỉ USD). Trong
thời kì 1991-1996 được xem là thời kì “bùng nổ” đầu tư nước ngoài
tại Việt Nam với 1.781 dự án và 16,7 tỉ USD vốn đăng kí, tốc độ
tăng trưởng bình quân đạt khoảng 50% một năm. Vốn đăng kí năm
1991 là 1,32 tỉ USD thì năm 1995 đạt gần 6,6 tỉ USD, tăng 5,5 lần.
Vốn thực hiện trong 5 năm 1991-11995 là 7,2 tỉ USD, bằng 32%
tổng vốn đầu tư xã hội của cả nước trong cùng thời gian đó. Hai năm
tiếp theo 1996-1997 FDI tiếp tục tăng trường nhanh: thêm 14 tỉ USD
vốn đăng kí mới và 6,06 tỉ USD vốn thực hiện. Riêng năm 1996 có
326 dự án với tổng số vốn đầu tư đăng kí 8,6 tỉ USD.
Giai đoạn 1998-2000 FDI vào Việt Nam liên tục giảm. Số vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm trung bình khoảng 24% một năm.
1998, vốn đăng kí là 4,82 tỉ USD thì năm 1999 chỉ đạt 2,21 tỉ, bằng
45,8% của năm trước. Năm 2000 có nhích lên chút ít, đạt 2,58 tỉ
USD. Sau khi đạt kỉ lục về vốn thực hiện vào năm 1997 với trên 3,2
tỉ USD thì năm 1998 còn 1,9 tỉ USD. Năm 1999 và 2000 mỗi năm
chỉ đạt mức 2,2 tỉ USD. Ngoài ta trong giai đoạn này, còn có một xu
hướng rất đáng lo ngại là vốn đầu tư giải thể tăng cao hơn nhiều so
với giai đoạn trước. Tổng số vốn đầu tư giải thể giai đoạn 1998-2000
khoảng 2,56 tỉ USD, so với 2,69 tỉ USD các năm trước đó cộng lại.
Giai đoạn 2001 đến nay là thời kì phục hồi hoạt động của FDI.
Vốn đăng kí năm 2001 là 3,02 tỉ USD, tăng 22,6% so với năm 2000.
Vốn thực hiện là 2,3 tỉ USD, tăng 3% so với năm trước. Năm 2002,

vốn đăng kí là 2,79 tỉ USD và vốn thực hiện là 2,44 tỉ USD. Năm
2003, vốn đăng kí là 3,1 tỉ USD và vốn thực hiện là 2,5 tỉ USD. Năm
2004, vốn đăng kí là 4,2 tỉ USD và vốn thực hiện là 2, tỉ USD. Vốn
đăng kí năm 2005 là 6,79 tỉ, năm 2006 là 11,9 tỉ USD, và năm 2007
đạt mức kỉ lục trong 20 năm qua là 20,3 tỉ USD, tăng hơn gấp đôi so
với năm 1996 – năm cao nhất của thời kì trước khủng hoảng.
Như vậy, tính đến cuối năm 2005, Việt Nam đã thu hút hơn 6100
dự án đầu tư nước ngoài với tổng số vốn đăng kí 65,6 tỉ USD, trong
7


Tiểu luận: Kinh tế Việt Nam

SV: Trần Thị Hiền

đó 45,4% là hình thực doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài,
42,5% theo hình thức liên doanh, số còn lại là Hợp đồng hợp tác
kinh doanh và hình thức đầu tư – vận hành – chuyển giao (BOT);
khu công nghiệp, khu chế xuất chiếm 33,2% về số dự án và 29,7%
về tổng số vốn đăng kí.
1.2. Cơ cấu vốn đầu tư nước ngoài 1988-2007
1.2.1. Đầu tư nước ngoài phân theo ngành nghề:
- Lĩnh vực công nghiệp và xây dựng:
Qua các thời kỳ, định hướng thu hút ĐTNN lĩnh vực công
nghiệp- xây dựng tuy có thay đổi về lĩnh vực, sản phẩm cụ thể
nhưng cơ bản vẫn theo định hướng khuyến khích sản xuất vật liệu
mới, sản phẩm công nghệ cao, công nghệ thông tin, cơ khí chế tạo,
thiết bị cơ khí chính xác, sản xuất sản phẩm và linh kiện điện tử... Cơ
cấu đầu tư có chuyển biến tích cực theo hướng gia tăng tỷ trọng đầu
tư vào lĩnh vực công nghệ cao, lọc dầu và công nghệ thông tin (IT)

với sự có mặt của các tập đoàn đa quốc gia nổi tiếng thế giới: Intel,
Panasonic, Canon, Robotech.v.v. Hầu hết các dự án đầu tư nước
ngoài này sử dụng thiết bị hiện đại xấp xỉ 100% và tự động hoá đạt
100% cho sản lượng, năng suất, chất lượng cao, do đó có ảnh hưởng
lớn đến các chỉ tiêu giá trị của toàn ngành. Tính đến hết năm 2007,
lĩnh vực công nghiệp và xây dựng có tỷ trọng lớn nhất với 5.745 dự
án còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký hơn 50 tỷ USD, chiếm 66,8% về
số dự án, 61% tổng vốn đăng ký và 68,5% vốn thực hiện.
ST Chuyên ngành

Số dự án

T

Vốn đầu tưVốn
thực
(tỉ USD)
hiện (tỉ USD)

1

CN dầu khí

38

3,9

5,1

2


CN nhẹ

2,542

13,2

3,6

3

CN nặng

2,404

24,0

7,1

4

CN thực phẩm

310

3,6

2,1

5


Xây dựng

451

5,3

2,1

50,0

20,0

Tổng số

5,74
5
8


Tiểu luận: Kinh tế Việt Nam

SV: Trần Thị Hiền

- Lĩnh vực dịch vụ:
Nước ta đã có nhiều chủ trương chính sách, tạo điều kiện thuận
lợi cho hoạt động kinh doanh dịch vụ phát triển từ khi thi hành Luật
Đầu tư nước ngoài (1987). Nhờ vậy, khu vực dịch vụ đã có sự
chuyển biến tích cực đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu sản xuất,
tiêu dùng và đời sống nhân dân, góp phần đẩy nhanh tăng trưởng

kinh tế..
Trong khu vực dịch vụ, đầu tư nước ngoài tập trung chủ yếu vào
kinh doanh bất động sản, bao gồm: xây dựng căn hộ, văn phòng,
phát triển khu đô thị mới, du lịch - khách sạn, giao thông vận tải bưu điện .

Trong năm 2007 tuy vốn đầu tư đăng ký tiếp tục tập trung vào
lĩnh vực công nghiệp (50,6%), nhưng đã có sự chuyển dịch cơ cấu
đầu tư mạnh vào lĩnh vực dịch vụ, chiếm 47,7% tổng vốn đăng ký
của cả nước, tăng 16,5% so với năm 2006 (31,19%) với nhiều dự án
xây dựng cảng biển, kinh doanh bất động sản, xây dựng khu vui
chơi, giải trí.v.v.
- Lĩnh vực nông – lâm - ngư nghiệp:
Dành ưu đãi cho các dự án đầu tư vào lĩnh vực Nông Lâm ngư
nghiệp đã được chú trọng ngày từ khi có luật đầu tư nước ngoài
1987. Tuy nhiên đến nay do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên
nhân rủi ro đầu tư cao trong lĩnh vực này, nên kết quả thu hút đầu tư
nước ngoài vào lĩnh vực nông-lâm–ngư nghiệp chưa được như mong
muốn.
9


Tiểu luận: Kinh tế Việt Nam

SV: Trần Thị Hiền

Các dự án đầu tư nước ngoài trong ngành nông-lâm-ngư nghiệp
tập trung chủ yếu ở phía Nam. Vùng Đông Nam Bộ chiếm 54% tổng
vốn đăng ký của ngành, đồng bằng sông Cửu Long 13%, duyên hải
Nam Trung Bộ 15%. Miền Bắc và khu vực miền Trung, lượng vốn
đầu tư còn rất thấp, ngay như vùng đồng bằng sông Hồng lượng vốn

đăng ký cũng chỉ đạt 5% so với tổng vốn đăng ký của cả nước.
1.2.2.Đầu tư nước ngoài phân theo vùng, lãnh thổ
Qua 20 thu hút, đầu tư nước ngoài đã trải rộng khắp cả nước,
không còn địa phương “trắng” đầu tư nước ngoài nhưng tập trung
chủ yếu tại các địa bàn trọng điểm, có lợi thế, góp phần chuyển dịch
cơ cấu kinh tế của địa phương, làm cho các vùng này thực sự là vùng
kinh tế động lực, lôi kéo phát triển kinh tế-xã hội chung và các vùng
phụ cận.
Vùng trọng điểm phía Bắc có 2.220 dự án còn hiệu lực với vốn
đầu tư trên 24 tỷ USD, chiếm 26% về số dự án, 27% tổng vốn đăng
ký cả nước và 24% tổng vốn thực hiện của cả nước; trong đó Hà Nội
đứng đầu (987 dự án với tổng vốn đăng ký 12,4 tỷ USD) chiếm 51%
vốn đăng ký và 50% vốn thực hiện cả vùng. Tiếp theo thứ tự là Hải
Phòng, Vĩnh Phúc, Hải Dương, Hà Tây, Bắc Ninh và Quảng Ninh.
Vùng trọng điểm phía Nam thu hút 5.293 dự án với tổng vốn đầu
tư 44,87 tỷ USD, chiếm 54% tổng vốn đăng ký, trong đó, tp Hồ Chí
Minh dẫn đầu cả nước (2.398 dự án với tổng vốn đăng ký 16,5 tỷ
USD) chiếm 36,9% tổng vốn đăng ký của Vùng. Tiếp theo thứ tự là
Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa-Vũng Tàu. Điều này, minh chứng
cho việc triển khai thực hiện Nghị quyết 09/2001/NQ-CP
ngày 28/8/2001 của Chính phủ và Chỉ thị 19/2001/CT-TTg
ngày28/8/2001 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường thu hút và
nâng cao hiệu quả ĐTNN thời kỳ 2001-2005.
Vùng trọng điểm miền Trung thu hút được 491 dự án với tổng
vốn đăng ký 8,6 tỷ USD qua 20 năm thực hiện Luật Đầu tư, chiếm
6% tổng vốn đăng ký của cả nước, trong đó: Phú Yên (39 dự án với
tổng vốn đăng ký 1,9 tỷ USD) hiện đứng đầu các tỉnh miền Trung
với dự án xây dựng nhà máy lọc dầu Vũng Rô có vốn đăng ký 1,7 tỷ
USD. Tiếp theo là Đà Nẵng, Quảng Nam… đã có nhiều tiến bộ trong


10


Tiểu luận: Kinh tế Việt Nam

SV: Trần Thị Hiền

thu hút vốn đầu tư nước ngoài, nhất là đầu tư vào xây dựng các khu
du lịch, trung tâm nghỉ dưỡng, vui chơi đạt tiêu chuẩn quốc tế,
nhưng nhìn chung vẫn còn dưới mức nhu cầu và tiềm năng của vùng.
Tây Nguyên cũng ở trạng thái thu hút vốn đầu tư nước ngoài còn
khiêm tốn như vùng Đông Bắc và Tây Bắc, trong đó, tuy Lâm Đồng
(93 dự án với tổng vốn đăng ký 318,4 triệu USD) đứng đầu các tỉnh
khu vực Tây Nguyên nhưng chỉ chiếm tỷ trọng 1% về số dự án.
Đồng bằng sông Cửu Long thu hút vốn đầu tư nước ngoài còn thấp
so với các vùng khác, chiếm 3,6% về số dự án và 4,4% về vốn đăng
ký và 3,2% vốn thực hiện của cả nước.
Tuy Nhà nước đã có chính sách ưu đãi đặc biệt cho những vùng
có điều kiện địa lý - kinh tế khó khăn nhưng việc thu hút đầu tư nước
ngoài phục vụ phát triển kinh tế tại các địa bàn này còn rất thấp.
1.2.3. Đầu tư nước ngoài phân theo hình thức đầu tư
Tính đến hết năm 2007, chủ yếu các doanh nghiệp đầu tư nước
ngoài thực hiện theo hình thức 100% vốn nước ngoài, có 6.685 dự án
đầu tư nước ngoài với tổng vốn đăng ký 51,2 tỷ USD, chiếm 77,2%
về số dự án và 61,6% tổng vốn đăng ký. Theo hình thức liên doanh
có 1.619 dự án với tổng vốn đăng ký 23,8 tỷ USD, chiếm 18,8% về
số dự án và 28,7% tổng vốn đăng ký. Theo hình thức Hợp đồng hợp
tác kinh doanh có 221 dự án với tổng vốn đăng ký 4,5 tỷ USD
chiếm 2,5% về số dự án và 5,5% tổng vốn đăng ký. Số còn lại thuộc
các hình thức khác như BOT, BT, BTO. Có thể so sánh tỷ trọng dự

án hoạt động theo hình thức 100% vốn nước ngoài tính đến hết năm
2004 là 39,9%, theo hình thức liên doanh là 40,6% và theo hình
thức hợp doanh là 19,5% để thấy được hình thức 100% vốn nước
ngoài được các nhà đầu tư lựa chọn hơn.
1.2.4. Đầu tư nước ngoài phân theo đối tác đầu tư
Thực hiện phương châm của Đảng và Chính phủ “đa phương hóa,
đa dạng hóa quan hệ hợp tác.. Việt Nam muốn làm bạn với các nước
trong khu vực và thế giới...” được cụ thể hóa qua hệ thống pháp luật
đầu tư nước ngoài, qua 20 năm đã có 81 quốc gia và vùng lãnh thổ
đầu tư tại Việt Nam với tổng vốn đăng ký trên 83 tỷ đô la Mỹ. Trong
11


Tiểu luận: Kinh tế Việt Nam

SV: Trần Thị Hiền

đó, các nước Châu Á chiếm 69%, trong đó khối ASEAN chiếm 19%
tổng vốn đăng ký. Các nước châu Âu chiếm 24%, trong đó EU
chiếm 10%. Các nước Châu Mỹ chiếm 5%, riêng Hoa Kỳ chiếm
3,6%.Hiện đã có 15 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vốn đăng ký
cam kết trên 1 tỷ USD tại Việt Nam.Đứng đầu là Hàn Quốc vốn
đăng ký 13,5 tỷ USD, tiếp theo là Singapore (10,7 tỷ USD), Đài loan
(10,5 tỷ USD), Nhật Bản (9,03 tỷ USD). Có thể thấy rằng, đầu tư
nước ngoài ở Việt Nam là đầu tư của các nước OECD, bao gồm G7
còn rất ít.
Mặc dù số nước và khu vực có dự ánh đàu tư nước ngoài ở Việt
Nam khá nhiều nhưng chỉ có 8 nước có vốn đầu tư thực hiện trên 1 tỉ
USD. Thực trạng dó nói lên rằng, lượng vốn đầu tư thực tế mà Việt
Nam thu hút được còn quá ít so với vốn đầu tư nước ngoài của thế

giới.
1.3. Tình hình sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Tiến độ thực hiện vốn đầu tư của các dự án.
Năm

Vốn thực So với vốn Vốn nước Vốn trong
hiện (triệu đăng
kí ngoài (triệu nước (triệu
USD)
mới trong USD)
USD)
năm (%)

1991

478

37,49

432

46

1992

542

26,74

487


64

1993

1097

42,37

781

226

1994

2213

59.08

1936

277

1995

2761

41,79

2363


398

1996

2837

32,84

2447

390

1997

3032

62,53

2768

264

1998

2189

56,17

2062


127

1999

1933

123,36

1758

175

2000

2100

105,69

1900

200

2001

2300

94,42

2100


200

12


Tiểu luận: Kinh tế Việt Nam

Tổng

21482

SV: Trần Thị Hiền

51,72

19115

2367

Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam, Kinh tế 2001-2002, tr50
Đến hết năm 2001 tổng số vốn đã thực hiện bằng 51,72% của
tổng số cốn đăng kí. Trong điều kiện của Việt Nam kinh tế kém phát
triển, kết cấu hạ tầng lạc hậu, cá nguồn lực cũng như chính sách đối
với đầu tư nước ngoài còn nhiều biến động, thị trường chưa phát
triển đầy đủ… thì tỉ lệ vốn như vậy là không thấp. Khu vực kinh tế
có vốn đầu tư nước ngoài đã góp phần đáng kể trong quá trình phát
triển kinh tế - xã hội đất nước bằng việc tạo ra tổng giá trị doanh thu
đáng kể, trong đó có giá trị xuất khẩu, cũng như đóng góp tích cực
vào ngân sách và tạo việc làm và thu nhập ổn định cho người lao

động. Đồng thời, tiếp tục khẳng định vai trò trong sự nghiệp phát
triển kinh tế, đóng góp ngày càng lớn vào tổng sản phẩm quốc nội
(GDP) của đất nước và thực sự trở thành bộ phận cấu thành quan
trọng của nền kinh tế. Từ mức đóng góp trung bình 6,3% của GDP
trong giai đoạn 1991-1995, khu vực doanh nghiệp đầu tư nước ngoài
đã tăng lên 10,3% GDP của 5 năm 1996-2000. Trong thời kỳ 20012005, tỷ trọng trên đạt trung bình là 14,6%. Riêng năm 2005, khu
vực đầu tư nước ngoài đóng góp khoảng 15,5% GDP, cao hơn mục
tiêu đề ra tại Nghị quyết 09 (15%). Trong hai năm 2006 và 2007 khu
vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đóng góp trên 17% GDP.
Không kể dầu thô, giá trị xuất khẩu của khu vực có vốn đầu tư
nước ngoài cũng gia tăng nhanh chóng. Cả thời kỳ 1991-1995 tổng
giá trị xuất khẩu mới đạt 1,2 tỷ USD, nhưng đã tăng lên 10,5 tỷ USD
trong giai đoạn 1996-2000, gấp hơn 8 lần so với 5 năm trước. Trong
5 năm 2001-2005, giá trị trên đạt hơn 34,6 tỷ USD, cao gấp 3 lần so
với thời kỳ 5 năm trước, trong đó năm sau tăng hơn năm trước, năm
2002 tăng 25%, năm 2003 tăng 38%, năm 2004 tăng 39%, năm 2005
đạt 11,2 tỷ USD, tăng 26%, đóng góp 35% tổng giá trị kim ngạch
xuất khẩu của cả nước; tính cả dầu thô tỷ lệ này là 56%. Năm 2006
giá trị xuất khẩu của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt (nếu tính
cả dầu thô) đạt 12,6 tỷ USD, chiếm trên 57% tổng giá trị xuất khẩu
của cả nước. Năm 2007, giá trị xuất khẩu của khu vực có vốn đầu tư
nước ngoài đạt 19,7 triệu USD, nếu tính cả dầu thô thì giá trị xuất
khẩu là 27,3 tỷ USD, chiếm 56,8% tổng giá trị xuất khẩu của cả
nước.
13


Tiểu luận: Kinh tế Việt Nam

SV: Trần Thị Hiền


Tuy những năm đầu thi hành Luật Đầu tư nước ngoài, khu vực
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được hưởng chính sách ưu đãi của
Nhà nước, nhưng cũng đã tích cực đóng góp vào ngân sách nhà
nước, thể hiện qua việc thu nộp ngân sách tăng dần qua các năm và
bắt đầu vượt ngưỡng 1 tỷ USD từ năm 2005 (đạt 1,29 tỷ USD, tăng
39,5% so với năm trước và chiếm 12% tổng thu ngân sách nhà nước,
vượt mục tiêu đề ra tại Nghị quyết 09 (10%). Giai đoạn 1991-1995
do chính sách ưu đãi, khuyến khích đầu tư nước ngoài của Nhà nước
ta nên các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đóng góp ngân sách còn
hạn chế 115 triệu USD, nhưng con số này đã tăng hơn 10 lần trong
thời kỳ 1996-2000 (đạt 1,49 tỷ USD). Lý do một số doanh nghiệp
đầu tư nước ngoài đã qua thời gian hưởng chính sách ưu đãi thuế của
nhà nước. Giai đoạn 2001-2005 khu vực doanh nghiệp đầu tư nước
ngoài đã nộp ngân sách hơn 3,6 tỷ USD, tăng gấp hơn 2 lần 5 năm
trước. Năm 2006 con số trên đạt 1,4 tỷ USD, bằng cả 5 năm 19962000. Năm 2007,thu ngân sách đạt 1,576 tỷ USD, tăng 7% so với
năm trước.
Đồng thời, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài cũng tạo
việc làm và thu nhập ổn định cho một bộ phận dân cư, tính từ 1988
đến cuối 2007 có trên 1,26 triệu lao động trực tiếp, chưa kể số lao
động gián tiếp khác làm việc trong khu vực dịch vụ mà theo kết quả
điều tra của Ngân hàng Thế giới, cứ 1 lao động trực tiếp sẽ tạo việc
làm cho khoảng từ 2-3 lao động gián tiếp khác. Số lao động làm việc
trong các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài cũng tăng lên qua từng
giai đoạn, từ 21 vạn người vào cuối năm 1995 đã tăng lên 37,9 vạn
người vào cuối năm 2000, tăng 80% so với 5 năm trước. Đến cuối
năm 2005 đã tăng gấp 2,5 lần so với 5 năm trước thể hiện số lượng
các doanh nghiệp đi vào triển khai dự án tăng lên. Trong 2 năm 2006
và 2007 do lượng dự án vào nhiều và triển khai nhanh nên số lượng
lao động trong khu vực đầu tư nước ngoài tính đến cuối 2 năm này

đã tăng 9,9% và 12% so với cuối năm 2005.
Tính đến hết năm 2007, đã có 38 dự án đầu tư nước ngoài kết
thúc đúng thời hạn với tổng vốn đăng ký 658 triệu USD. Các dự án
kết thúc đúng thời hạn chủ yếu là các dự án đầu tư trong những lĩnh
vực đặc thù như trục vớt tàu đắm, thăm dò và khai thác dầu, khí,
nuôi trồng thuỷ sản... Đồng thời, đã có 1.359 dự án đầu tư nước
ngoài bị giải thể trước thời hạn với số vốn đăng ký giải thể khoảng
14


Tiểu luận: Kinh tế Việt Nam

SV: Trần Thị Hiền

15,5 tỷ USD, trong đó, vốn giải thể chủ yếu tập trung trong lĩnh vực
dịch vụ chiếm 50%, lĩnh vực công nghiệp - xây dựng chiếm 42,3%.
Trong các dự án đầu tư nước ngoài bị giải thể, số dự án hoạt động
theo hình thức liên doanh chiếm đa số (56% về số dự án và 67,2% về
tổng vốn đăng ký), tiếp theo là hình thức Hợp doanh (10,2% về số
dự án và 15,5% về tổng vốn đăng ký). Hình thức 100% vốn nước
ngoài chiếm 13,1% về số dự án và 15,5% về tổng vốn đăng ký.
2. Đầu tư gián tiếp nước ngoài.
Để đáp ứng nhu cầu vốn cho các phát triển kinh tế xã hội, Việt
Nam khuến khích cả hình thức đầu tư trực tiếp va gián tiếp. Trong
thời gian qua vốn đầu tư gián tiếp chủ yếu là các nguồn ODA.Tổng
số vốn các nước và tổ chức quốc tế đã cam kết dành cho Việt Nam
lên đến 29 tỉ USD. Trong số nay đã có khoảng 20 tỉ USD đã được
hợp thức hóa, chính thức hóa bằng các hiệp định quốc tế.
Bảng: Huy động vốn ODA trong giai đoạn 2001-2005 (Đơn vị:
Triệu USD)

2001

2002

2003

2004

2005

Tổng
số

Số vốn cam 2356
kết

2461

2839

3441

3500

14597

Số vốn đã 2430
kí kết

1826


1761

2563

2500

11080

Số vốn đã 1500
giải ngân

1528

1442

1650

1720

7840

Nguồn: Báo cáo Chính phủ tại Hội nghị nhóm tư vấn các nhà tài trợ
cho Việt Nam, Hà Nội, 06-07 tháng 12 năm 2005.
Các lĩnh vực sử dụng vốn ODA trong thời gian qua gồm có: nâng
cấp và xây dựng mới trên 3700 km đường quốc lộ, hơn 1000km
đường tỉnh lộ, hơn 1000km đường nông thôn, hàng trăm cây cầu lớn
nhỏ, nhiều cảng biển, sân bay, nhà máy nhiệt điện và thủy điện có
tổng công suất thiết kế chiếm tới hơn 40% tổng công suất điện hiện
nay của cả nước, công trình thủy lợi, cấp nước đô thị và nông thôn,

trường học, bệnh viện… Ngoài ra nhiều công trình nghiên cứu tư
15


Tiểu luận: Kinh tế Việt Nam

SV: Trần Thị Hiền

vân về các loại quy hoạch , về cải cách thể chế kinh tế, về đổi mới
hoạt động tài chính ngân hàng… cũng được thực hiện bằng vốn
ODA.
Nguồn vốn ODA trên thế giới ngày càng eo hẹp và đang bị cạnh
tranh gay gắt giữa những nền kinh tế kém phát triển và đang phát
triển. Việt Nam cần chú ý nâng cao khả năng cạnh tranh thu hút
nguồn vốn ODA. Điều này phụ thuộc vào hiệu lực – hiệu quả hoạt
động của bộ máy hành chính công, và kết quả của cuộc chiến chống
lãng phí và chống tham nhũng.
III. Tính hai mặt của thu hút đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
1. Vai trò của đầu tư nước ngoài đối với quá trình phát triển
kinh tế.
1.1 Tác động tích cực.
* Về mặt kinh tế:
Thứ nhất, đầu tư nước ngoài là nguồn vốn bổ sung quan trọng
cho vốn đáp ứng nhu cầu cho đầu tư phát triển xã hội và tăng trường
kinh tế
Đóng góp của đầu tư nước ngoài trong tổng vốn đầu tư xã hội có
biến động lớn, từ tỷ trọng chiếm 13,1% vào năm 1990 đã tăng lên
mức 32,3% trong năm 1995. Tỷ lệ này đã giảm dần trong giai đoạn
1996-2000, do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính khu vực (năm
2000 chiếm 18,6%) và trong 5 năm 2001-2005 chiếm khoảng 16%

tổng vốn đầu tư xã hội; hai năm 2006-2007 chiếm khoảng 16%
(Theo Niên giám Thống kê cơ cấu vốn đầu tư thực hiện của khu vực
đầu tư nước ngoài năm 2003 là 16%, năm 2004 là 14,2%, năm 2005
là 14,9% và năm 2006 là 15,9%, ước năm 2007 đạt trên 16%).
Vốn đầu tư nước ngoài đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
đất nước. Từ năm 1991-2000, GDP tăng liên tục qua các năm với tốc
động tăng bình quân mỗi năm 7,56%, trong đó: 1991-1995: tăng
8,18% (nông lâm ngư tăng 2,4%; công nghiệp xây dựng tăng 11,3%,
dịch vụ tăng 7,2%);1996-2000: tăng 6,94% (nông lâm ngư tăng
4,3%; công nghiệp xây dựng tăng 10,6%, dịch vụ tăng 5,75%). Nhờ
vậy, đến năm 2000 tổng sản phẩm trong nước tăng gấp hơn 2 lần

16


Tiểu luận: Kinh tế Việt Nam

SV: Trần Thị Hiền

năm 1990; 2001-2005: tốc độ tăng GDP đạt 7,5% (nông lâm ngư
tăng 3,8%; công nghiệp xây dựng tăng 10,2%, dịch vụ tăng 7%;
Năm 2006 đạt 8,17% (nông lâm ngư tăng 3,4%; công nghiệp xây
dựng tăng 10,37%, dịch vụ tăng 8,29% và năm 2007 đạt 8,48%
(nông lâm ngư tăng 3,4%; công nghiệp xây dựng tăng 10,6%, dịch
vụ tăng 8,6%.
Thứ hai, đầu tư nước ngoài góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế
và cơ cấu lao động, nâng cao năng lực sản xuất công nghiệp.
Tốc độ tăng trưởng công nghiệp của khu vực kinh tế có vốn đầu
tư nước ngoài cao hơn mức tăng trưởng công nghiệp chung của cả
nước, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng

công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH), tăng tỷ trọng của khu
vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài trong ngành công nghiệp qua
các năm (từ 23,79% vào năm 1991 lên 40% năm 2004, 41% năm
2005 và năm 2006). Giá trị sản xuất công nghiệp của khu vực kinh
tế có vốn đầu tư nước ngoài trong 5 năm qua chiếm trung bình
42,5% giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước. Cụ thể tỷ trọng trên
tăng từ 41,3% vào năm 2000 lên 43,7% vào 2 năm 2004 và 2005.
Đặc biệt, một số địa phương (Bình Dương, Đồng Nai, Vĩnh Phúc..)
tỷ lệ này đạt đến 65-70% giá trị sản xuất công nghiệp của địa bàn.
Đầu tư nước ngoài đã tạo ra nhiều ngành công nghiệp mới và
tăng cường năng lực của nhiều ngành công nghiệp như dầu khí, công
nghệ thông tin, hóa chất, ô tô, xe máy, thép, điện tử và điện tử gia
dụng, công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm, da giày, dệt may…
Hiện nay, đầu tư nước ngoài đóng góp 100% sản lượng của một số
sản phẩm công nghiệp (dầu khí, thiết bị máy tính, máy giặt, điều
hòa), 60% cán thép, 33% hàng điện tử, 76% dụng cụ y tế chính xác,
49% sản phẩm da giày, 55% sản lượng sợi, 25% hàng may mặc.
Thứ ba, đầu tư nước ngoài thúc đẩy chuyển giao công nghệ.
Đầu tư nước ngoài góp phần thúc đẩy chuyển giao công nghệ tiên
tiến vào Việt Nam, phát triển một số ngành kinh tế quan trọng của
đất nước như viễn thông, thăm dò và khai thác dầu khí, hoá chất, cơ
khí chế tạo điện tử, tin học, ô tô, xe máy... Nhất là sau khi Tập đoàn
Intel đầu tư 1 tỷ đô la Mỹ vào Việt Nam trong dự án sản xuất linh
kiện điện tử cao cấp, đã gia tăng số lượng các dự án đầu tư vào lĩnh

17


Tiểu luận: Kinh tế Việt Nam


SV: Trần Thị Hiền

vực công nghệ cao của các tập đoàn đa quốc gia (Canon, Panasonic,
Ritech.v.v)
Nhìn chung, trình độ công nghệ của khu vực đầu tư nước ngoài
cao hơn hoặc bằng các thiết bị tiên tiến đã có trong nước và tương
đương các nước trong khu vực. Hầu hết các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài áp dụng phương thức quản lý tiên tiến, được kết
nối và chịu ảnh hưởng của hệ thống quản lý hiện đại của công ty mẹ.
Trong nông – lâm - ngư nghiệp, đầu tư nước ngoài đã tạo ra một số
sản phẩm mới có hàm lượng kỹ thuật cao và các cây, con giống mới.
Thứ tư, đầu tư nước ngoài có tác động lan tỏa đến các thành phần
khác trong nền kinh tế. Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp đầu tư
nước ngoài được nâng cao qua số lượng các doanh nghiệp tăng vốn
đầu tư, mở rộng quy mô sản xuất. Đồng thời, có tác động lan tỏa đến
các thành phần khác của nền kinh tế thông qua sự liên kết giữa
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với các doanh nghiệp trong
nước, công nghệ và năng lực kinh doanh được chuyển giao từ doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Sự lan tỏa này có thể theo hàng
dọc giữa các doanh nghiệp trong ngành dọc hoặc theo hàng ngang
giữa các doanh nghiệp hoạt động cùng ngành. Mặt khác, các doanh
nghiệp đầu tư nước ngoài cũng tạo động lực cạnh tranh của các
doanh nghiệp trong nước nhằm thích ứng trong bối cảnh toàn cầu
hóa.
Thứ năm, đầu tư nước ngoài đóng góp đáng kể vào ngân sách nhà
nước và các cân đối vĩ mô và do vậy góp phần làm giảm bội chi
ngân sách nhà nước.
Cùng với sự phát triển các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam, mức đóng góp của khu vực kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài vào ngân sách ngày càng tăng. Thời kỳ 1996-2000,

không kể thu từ dầu thô, các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đã nộp
ngân sách đạt 1,49 tỷ USD, gấp 4,5 lần 5 năm trước. Trong 5 năm
2001-2005, thu ngân sách trong khối doanh nghiệp đầu tư nước
ngoài đạt hơn 3,6 tỷ USD, tăng bình quân 24%/năm. Riêng 2 năm
2006 và 2007 khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã nộp
ngân sách đạt trên 3 tỷ USD, gấp đôi thời kỳ 1996-2000 và bằng
83% thời kỳ 2001-2005. Đầu tư nước ngoài tác động tích cực tới các
cân đối lớn của nền kinh tế như cân đối ngân sách, cải thiện cán cân

18


Tiểu luận: Kinh tế Việt Nam

SV: Trần Thị Hiền

vãng lai, cán cân thanh toán quốc tế thông qua việc chuyển vốn vào
Việt Nam và mở rộng nguồn thu ngoại tệ gián tiếp qua khách quốc
tế, tiền thuê đất, tiền mua máy móc và nguyên, vật liệu...
Thứ sáu, đầu tư nước ngoài góp phần giúp Việt Nam hội nhập
sâu rộng vào đời sống kinh tế quốc tế.
Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu của khu vực đầu tư nước ngoài
tăng nhanh, cao hơn mức bình quân chung của cả nước, đóng góp
quan trọng vào việc gia tăng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Thời
kỳ 1996-2000, xuất khẩu của khu vực đầu tư nước ngoài đạt 10,6 tỷ
USD (không kể dầu thô), tăng hơn 8 lần so với 5 năm trước, chiếm
23% kim ngạch xuất khẩu cả nước; năm 2000 chiếm 25%, năm 2003
chiếm 31%; tính cả dầu thô thì tỷ trọng này đạt khoảng 54% năm
2004 và chiếm trên 55% trong các năm 2005, 2006 và 2007. Đầu tư
nước ngoài chiếm một tỷ trọng cao trong xuất khẩu một số sản

phẩm: 100% dầu khí, 84% hàng điện tử, máy tính và linh kiện, 42%
sản phẩm da giày, 35% hàng may mặc…Thông qua mạng lưới tiêu
thụ của các tập đoàn xuyên quốc gia, nhiều sản phẩm sản xuất tại
Việt Nam đã tiếp cận được với các thị trường trên thế giới. Trong
lĩnh vực khách sạn và du lịch, đầu tư nước ngoài đã tạo ra nhiều
khách sạn cao cấp đạt tiêu chuẩn quốc tế 4, 5 sao cũng như các khu
du lịch, nghỉ dưỡng đáp ứng nhu cầu khách du lịch quốc tế, góp phần
gia tăng nhanh chóng xuất khẩu tại chỗ. Bên cạnh đó, đầu tư nước
ngoài còn góp phần đưa nền kinh tế nước ta từng bước hội nhập với
kinh tế thế giới, đặc biệt trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng.

* Về mặt xã hội:
Thứ nhất, đầu tư quốc tế giúp phát triển nguồn nhân lực, tạo việc
làm, nâng cao năng suất lao động.
Đến nay, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đã tạo ra việc làm
cho trên 1,2 triệu lao động trực tiếp và hàng triệu lao động gián tiếp
khác theo kết quả điều tra của World Bank cứ 1 lao động trực tiếp sẽ
tạo việc làm cho từ 2-3 lao động gián tiếp phục vụ trong khu vực
dịch vụ và xây dựng, góp phần nâng cao phúc lợi xã hội, cải thiện
19


Tiểu luận: Kinh tế Việt Nam

SV: Trần Thị Hiền

đời sống một bộ phận trong cộng đồng dân cư, đưa mức GDP đầu
người tăng lên hàng năm. Thông qua sự tham gia trực tiếp vào hoạt
động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, Việt Nam đã
từng bước hình thành đội ngũ cán bộ quản lý, công nhân kỹ thuật có

trình độ cao, có tay nghề, từng bước tiếp cận được với khoa học, kỹ
thuật, công nghệ cao và có tác phong công nghiệp hiên đại, có kỷ
luật lao động tốt, học hỏi được các phương thức, kinh nghiệm quản
lý tiên tiến. Đặc biệt, một số chuyên gia Việt Nam làm việc tại các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã dần thay thế các chuyên
gia nước ngoài trong đảm nhiệm các vị trí quản lý doanh nghiệp
cũng như điều khiển các quy trình công nghệ hiện đại.
Thứ hai, đầu tư nước ngoài góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại,
chủ động hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới.
Đầu tư nước ngoài đã góp phần quan trọng trong việc xóa bỏ cấm
vận của Hoa Kỳ đối với Việt Nam, tạo điều kiện mở rộng quan hệ
kinh tế theo hướng đa phương hóa và đa dạng hóa, thúc đẩy Việt
Nam chủ động hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, đẩy nhanh tiến
trình tự do hóa thương mại và đầu tư. Đến nay, Việt Nam là thành
viên chính thức của ASEAN, APEC, ASEM và WTO. Nước ta cũng
đã ki kết 51 Hiệp định tự do hóa, khuyến khích và bảo hộ đầu tư,
trong đó có Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ (BTA), Hiệp
định tự do hóa, khuyến khích và bảo hộ đầu tư đối với Nhật Bản.
Thông qua tiếng nói và sự ủng hộ của các nhà đầu tư nước ngoài,
hình ảnh và vị thế của Việt Nam không ngừng được cải thiện.
* Về mặt môi trường:
Theo kết quả điều tra năm 2002 của Viện Quản lí kinh tế trung
ương, đa số các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài than thủ các
tiêu chuẩn môi trường Việt Nam và có kết quả môi trường tốt hơn so
với só đông các doanh nghiệp trong nước (có 77% doanh nghiệp có
kết quả về các thông số gây ô nhiễm môi trường thấp hơn tiêu chuẩn
cho phép của Việt Nam). Đáng chú ý là 60% doanh nghiệp đầu tư
nước ngoài trong lĩnh vực chế biến thực phẩm đã lắp đặt thiết bị xử
lí nước thải đúng tiêu chuẩn, trong khi doanh nghiệp trong nước chỉ
là 10%. Không có doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nào được

điều tra vi phạm tiêu chuẩn môi trường của Việt Nam.

20


Tiểu luận: Kinh tế Việt Nam

SV: Trần Thị Hiền

1.2. Những hạn chế.
Tuy đạt được những kết quả quan trọng nêu trên, nhưng hoạt
động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam còn những mặt hạn chế sau:
Thứ nhất, sự mất cân đối về ngành nghề, vùng lãnh thổ.
Mục đích cao nhất của các nhà đầu tư là lợi nhuận. Do đó những
lĩnh vực, ngành, dự án có tỷ suất lợi nhuận cao đều được các nhà đầu
tư quan tâm, còn những dự án, lĩnh vực mặc dù rất cần thiết cho dân
sinh, nhưng không đưa lại lợi nhuận thỏa đáng thì không thu hút
được đầu tư nước ngoài.
Các nhà đầu tư nước ngoài trong khi lựa chọn địa điểm để triển
khai dự án đầu tư thường tập trung vào những nơi có kết cấu hạ tầng
kinh tế - xã hội thuận lợi, do đó các thành phố lớn, những địa
phương có cảng biển, cảng hàng không, các tỉnh đồng bằng là nơi
tập trung nhiều dự án đầu tư nước ngoài nhất. Trong khi đó, các tỉnh
miềm núi, vùng sâu, vùng xa, những địa phương cần được đẩy nhanh
tốc độ phát triển kinh tế, mặc dù chính phủ và chính quyền địa
phương có những ưu đãi cao hơn nhưng không được các nhà đầu tư
quan tâm. Tình trạng đó đã dẫn đến một nghịch lý, những địa
phương có trình độ phát triển cao thì thu hút được đầu tư nước ngoài
nhiều, do đó tốc độ tăng trưởng kinh tế vượt quá tốc độ tăng trưởng
trung bình của cả nước. Trong khi đó, những vùng có trình độ kém

phát triển thì có ít dự án đầu tư nước ngoài, tốc độ tăng trưởng kinh
tế vẫn thấp.
Đối với các ngành nghề cũng xảy ra tình trạng tương tự, các nhà
đầu tư nước ngoài chỉ đầu tư vào các ngành có khả năng sinh lợi cao,
rủi ro thấp, còn các ngành, lĩnh vực có khả năng sinh lời thấp, rủi ro
cao không được sự quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài.
Thứ hai, tranh chấp lao động trong khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài chưa được giải quyết kịp thời.
Các tranh chấp lao động là khó tránh, đặc biệt trong những thời
điểm doanh nghiệp mới bắt đầu hoạt động, hoặc khi doanh nghiệp
gặp khó khăn về sản xuất kinh doanh. Nhìn chung người chủ thường
trả công cho người lao động thấp hơn cái mà họ đáng được hưởng,
không thỏa đánh với nhu cầu của người lao động. Điều đó dẫn đến
mâu thuẫn giữa chủ sử dụng lao động và người lao động, dẫn đến
21


Tiểu luận: Kinh tế Việt Nam

SV: Trần Thị Hiền

tình trạng đình công bãi công làm thiệt hại cho doanh nghiệp. Đầu tư
nước ngoài ở nước ta đã thu hút được hàng nghìn doanh nghiệp của
các nước và vũng lãnh thổ khắp thế giới. Điều đó cho thấy tính hấp
dẫn của môi trường đầu tư ở Việt Nam, đồng thời cũng thể hiện tính
đa dạng của các nền văn hóa trong quan hệ giữa người sử dụng lao
động.

Thứ ba, sự yếu kém trong chuyển giao công nghệ.
Nhìn chung công nghệ được sử dụng trong các doanh nghiệp đầu

tư nước ngoài thường cao hơn mặt bằng công nghệ cùng ngành và
cùng loại sản phẩm tại nước ta. Tuy vậy, một số trường hợp các nhà
đầu tư nước ngoài đã lợi dụng sơ hở của pháp luật Việt Nam, cũng
như sự yếu kém trong kiểm tra giám sát tại các cửa khẩu nên đã nhập
vào Việt Nam một số máy móc thiết bị có công nghệ lạc hậu thậm
chí là những phế thải của các nước khác. Tính phổ biến của việc
nhập máy móc thiết bị là giá cả đươc ghi trong hóa đơn thường cao
hơn giá trung bình của thị trường thế giới. Nhờ vậy một số nhà đầu
tư nước ngoài có thể lợi dụng để khai tăng tỷ lệ góp vốn trong các
liên doanh với Việt Nam.
Việc chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam được thực
hiện thông qua các hợp đồng và được cơ quan quản lý nhà nước về
khoa học công nghệ chuẩn y. Tuy vậy, đây là một hoạt đông cực kỳ
khó khăn đối với các nước tiếp nhận đầu tư nói chung, kể cả Việt
Nam, bởi khó có thể đánh giá chính xác giá trị thực của từng loại
công nghệ trong những ngành khác nhau, đặc biệt trong những
ngành công nghệ cao. Do vậy, thường phải thông qua thương lượng
theo hình thức mặc cả đến khi hai bên có thể chấp nhận được, thì ký
kết hợp đồng chuyển giao công nghệ.
2. Thuận lợi và khó khăn của Việt Nam đối với thu hút đầu tư
nước ngoài
2.1. Thuận lợi.

22


Tiểu luận: Kinh tế Việt Nam

SV: Trần Thị Hiền


Thứ nhất, giá công nhân ở Việt Nam rất thấp so với giá công
nhân đang tăng lên trong khu vực. Tuy nhiên so với Trung Quốc,
yếu tố này chưa hấp dẫn bằng.
Thứ hai, các nguồn tài nguyên đang trở nên khan hiếm ở các
nước phát triển lại sẵn có và chưa được khai thác ở Việt Nam.
Thứ ba, Việt Nam có tiềm năng trở thành thị trường tiêu thụ rộng
lớn các loại sản phẩm được sản xuất trong nước và khu vực (yêu tố
này cũng không hấp dẫn bằng Trung Quốc, Thái Lan).
Thứ tư, Việt Nam có vị trí địa lí thuận tiện: nằm trên con đường
giao thông hàng hải quan trọng giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình
Dương, là một bộ phận của con đường xuyên Á.
Thứ năm, Việt Nam có môi trường chính trị ổn định. Trong công
cuộc đổi mới kinh tế, môi trường chính trị - xã hội ở Việt Nam luôn
được duy trì ổn định, tạo thuận lợi cho phát triển kinh tế xã hội của
đất nước nói chung và thu hút vốn đầu tư nước ngoài nói riêng, được
cộng đồng quốc tế đánh giá là điểm mạnh của Việt Nam.
2.2. Khó khăn.
Thứ nhất, cơ sở hạ tầng vật chất kĩ thuật phục vụ cho nền kinh tế
còn kém so với các nước, kể cả các nước trong khu vực.
Thứ hai, cơ sở hạ tầng pháp lí còn bất cập, tình trạng hàng giả,
hàng nhái, hàng kém chất lượng, vi phạm sở hữu công nghiệp chưa
được xử lí dứt điểm.
Thứ ba, thuế là một vấn đề bức xúc lớn của các nhà đầu tư nước
ngoài.
Thứ tư, nguồn nhân lực của Việt Nam còn nhiều hạn chế.
Thứ năm, công nghiệp phụ trợ là ngành cung cấp sản phẩm đầu
vào cho các ngành công nghiệp khác, đặc biệt là các ngành chế tạo
và lắp ráp thành phẩm cơ khí, điện tử còn yếu.
Chính những khó khăn này làm cho tình trạng thu hút vốn đầu tư
nước ngoài trong những năm qua bị chững lại.

2.3. Nguyên nhân của khó khăn.

23


Tiểu luận: Kinh tế Việt Nam

SV: Trần Thị Hiền

- Tư duy kinh tế chậm đổi mới. Chưa tạo lập đồng bộ các loại thị
trường theo nguyên tắc thị trường. Nhận thức về chung về đầu tư
nước ngoài đều thống nhất như các chủ trương, pháp luật của Đảng
và Nhà nước là coi đầu tư nước ngoài là một bộ phận cấu thành hữu
cơ của nền kinh tế, được khuyến khích phát triển lâu dài, bình đẳng
với các thành phần kinh tế khác. Tuy nhiên, thực tế xử lý các vấn đề
cụ thể ở nhiều Bộ, ngành và địa phương vẫn còn phân biệt rất khác
nhau giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, chưa thực sự coi
đầu tư nước ngoài là thành phần kinh tế của Việt Nam. Điều đó thể
hiện ngay từ khâu quy hoạch sản phẩm, phân bổ các nguồn lực phát
triển kinh tế (lao động, đất đai, vốn…) cũng chưa thực sự cho phép
đầu tư nước ngoài tham gia. Việc xử lý tranh chấp kinh tế giữa các
bên cũng thiên về bảo vệ quyền lợi cho phía Việt Nam. Trong những
thời điểm khó khăn, ta tranh thủ vốn đầu tư nước ngoài nhưng khi
điều kiện thuận lợi lại có xu hướng không khuyến khích đầu tư nước
ngoài mà để trong nước tự làm; những biểu hiện này có tác động
làm nản lòng nhà đầu tư nước ngoài.
- Hệ thống luật pháp, chính sách về đầu tư tuy đã được sửa đổi, bổ
sung nhưng vẫn chưa đồng bộ, thiếu nhất quán. Một số Bộ, ngành
chậm ban hành các thông tư hướng dẫn các nghị định của Chính phủ.
- Môi trường đầu tư-kinh doanh nước ta tuy được cải thiện nhưng

tiến bộ đạt được còn chậm hơn so với các nước trong khu vực, trong
khi cạnh tranh thu hút vốn đầu tư nước ngoài tiếp tục diễn ra ngày
càng gay gắt.
- Định hướng chiến lược thu hút vốn đầu tư nước ngoài hướng chủ
yếu vào lĩnh vực công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu nhưng sự liên
kết, phối hợp giữa các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài với doanh
nghiệp trong nước còn yếu nên giá trị gia tăng trong một số sản
phẩm xuất khẩu (hàng điện tử dân dụng, dệt may) còn thấp. Nhiều
tập đoàn công nghiệp định hướng xuất khẩu đầu tư tại Việt Nam
buộc phải nhập khẩu phần lớn nguyên liệu đầu vào vì thiếu nguồn
cung cấp ngay tại Việt Nam.
- Công tác quy hoạch còn có những bất hợp lý, nhất là quy hoạch
ngành còn nặng về xu hướng bảo hộ sả n xuất trong nước, chưa kịp
thời điều chỉnh để phù hợp với các cam kết quốc tế.

24


Tiểu luận: Kinh tế Việt Nam

SV: Trần Thị Hiền

- Nước ta có xuất phát điểm của nền kinh tế thấp, quy mô nền kinh tế
nhỏ bé; kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội yếu kém; các ngành công
nghiệp bổ trợ chưa phát triển; trình độ công nghệ và năng suất lao
động thấp, chi phí sản xuất cao. Chính sách, biện pháp để khuyến
khích huy động tốt nguồn lực trong nước và ngoài nước vào phát
triển kinh tế, xã hội còn nhiều hạn chế.
- Sự phối hợp trong quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài giữa các Bộ,
ngành, địa phương chưa chặt chẽ. Đánh giá tình hình đầu tư nước

ngoài vẫn nặng về số lượng, chưa coi trọng về chất lượng, còn bệnh
thành tích trong cơ quan quản lý các cấp.
- Tổ chức bộ máy, công tác cán bộ và cải cách hành chính chưa đáp
ứng yêu cầu phát triển trong tình hình mới. Năng lực của một bộ
phận cán bộ, công chức làm công tác kinh tế đối ngoại còn hạn chế
về chuyên môn, ngoại ngữ, không loại trừ một số yếu kém về phẩm
chất, đạo đức, gây phiền hà cho doanh nghiệp, làm ảnh hưởng xấu
đến môI trường đầu tư - kinh doanh.
IV. Giải pháp.
Thứ nhất: Giữ vững ổn định chính trị - xã hội, bộ máy, nhà nước
trong sạc, vững mạnh, nâng cao hiệu lực quản lí của nhà nước đảm
bảo lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lí
của nhà nước bảo đảm trật tự an ninh xã hội, ngăn chặn và xử lí thật
nghiêm khắc mọi hành vi gây rối, bảo vệ tốt tính mạng và tài sản của
các thành viên trong xã hội.
Thứ hai: Giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tốc độ tăng
trưởng, kiềm chế lạm phát và ổn định về tiền tệ giá cả.
Thứ ba: Hoàn thiện môi trường pháp lí, đảm bảo hấp dẫn các nhà
đầu tư nước ngoài bằng các điều khoản có tính chất ưu đãi về mặt lợi
ích kinh tế và đảm bảo an toàn về vốn cho họ. Xây dựng một hệ
thống pháp luật nghiêm chỉnh.
Thứ tư: Xây dựng chiến lược hợp tác đầu tư với nước ngoài trên
cơ sở của chiến lược phát triển kinh tế quốc dân. Khẩn trương hoàn
thiện quy hoạch tổng thề đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài, trong
đó cần quy hoạch cụ thể về cơ cấu kinh tế (theo ngành và lãnh thổ),
quy hoạch các khu công nghiệp, các sản phẩm quan trọng…
25



×