Tải bản đầy đủ (.pdf) (122 trang)

Đảng bộ tỉnh quảng ninh lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH,HĐH từ năm 1996 đến năm 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.38 MB, 122 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
--------------------------------------------

NGUYỄN THỊ THU HIỀN

ĐẢNG BỘ TỈNH QUẢNG NINH LÃNH ĐẠO
CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ THEO HƯỚNG
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
TỪ NĂM 1996 ĐẾN NĂM 2010

Luận văn Thạc sĩ Lịch sử

Hà Nội - 2012


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
--------------------------------------------

NGUYỄN THỊ THU HIỀN

ĐẢNG BỘ TỈNH QUẢNG NINH LÃNH ĐẠO
CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ THEO HƯỚNG
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
TỪ NĂM 1996 ĐẾN NĂM 2010

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số : 60 22 58

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trần Kim Đỉnh



Hà Nội - 2012

1


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU........................................................................................................................ 1
Chương 1: ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ, XÃ HỘI
CỦA QUẢNG NINH TRƯỚC NĂM 1996............................................................. 7
1.1. Điều kiện tự nhiên của tỉnh Quảng Ninh ................................................ 7
1.1.1 Vị trí địa lý, địa hình, khí hậu, sông ngòi và thủy văn ...................... 7
1.1.2. Tài nguyên thiên nhiên ..................................................................... 9
1.2. Vài nét về đặc điểm xã hội của tỉnh Quảng Ninh ................................. 11
1.2.1 Các đơn vị hành chính ..................................................................... 11
1.2.2. Dân cư, lao động ............................................................................ 17
1.3. Vài nét về kinh tế Quảng Ninh trước năm 1996................................... 19
1.4 Tiểu kết chương 1 .................................................................................. 29
Chương 2: ĐẢNG BỘ QUẢNG NINH LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN CHUYỂN
DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ THEO HƯỚNG CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN
ĐẠI HÓA TỪ NĂM 1996 ĐẾN NĂM 2010 ........................................................31
2.1. Chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về chuyển dịch cơ cấu kinh
tế 1996 - 2010 .............................................................................................. 31
2.2 Đảng bộ Quảng Ninh lãnh đạo thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ
năm 1996 - 2000 .......................................................................................... 34
2.3. Đảng bộ Quảng Ninh lãnh đạo thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ
năm 2001 - 2005. ......................................................................................... 41
2.4. Đảng bộ Quảng Ninh đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa từ năm 2006 - 2010..................................... 51
2.5 Tiểu kết chương 2 .................................................................................. 60

Chương 3: KẾT QUẢ CỦA QUÁ TRÌNH ĐẢNG BỘ QUẢNG NINH
LÃNH ĐẠO CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ TỪ NĂM 1996 ĐẾN
NĂM 2010....................................................................................................................62
3.1 Công nghiệp - xây dựng ........................................................................ 64


3.2 Du lịch - dịch vụ - thương mại .............................................................. 71
3.3 Nông - lâm - ngư nghiệp ....................................................................... 78
3.4 Nguyên nhân thành tựu, một số kinh nghiệm của bước chuyển dịch cơ
cấu kinh tế từ năm 1996 - 2010 ................................................................... 88
3.5. Tiểu kết chương 3 ................................................................................. 93
KẾT LUẬN .................................................................................................................97
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................................99
PHỤC LỤC ...............................................................................................................106


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
NXB

Nhà xuất bản

CTQG

Chính trị quốc gia

CCKT

Cơ cấu kinh tế

CDCCKT


Chuyển dịch cơ cấu kinh tế

CNH

Công nghiệp hóa

HĐH

Hiện đại hóa

CN

Công nghiệp

TCN

Thủ công nghiệp


DANH MỤC BẢNG, BIỂU, CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG

Trang

Bảng 3.1: Gía trị sản xuất lâm nghiệp

84

Bảng 3.2: Kết quả một số chỉ tiêu chủ yếu của ngành thủy sản


86

Bảng 3.3: Giá trị sản xuất thủy sản phân theo ngành hoạt động

87

DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 1.1: Tỷ trọng các ngành kinh tế của tỉnh Quảng Ninh

23

Biểu đồ 2.1: Cơ cấu các ngành kinh tế năm 2010

52

Biểu đồ 3.1: Cơ cấu GDP tỉnh Quảng Ninh các năm 1996, 2000, 2005,

63

2010
Biểu đồ 3.2: Giá trị sản xuất công nghiệp-xây dựng từ 1991-2010, dự

64

kiến 2010
Biểu đồ 3.3: Số lượng cơ sở công nghiệp-xây dựng phân theo đơn vị

65


hành chính
Biểu đồ 3.4:Tỷ trọng gia tăng của các khu vực kinh tế

67

Biểu đồ 3.5: Giá trị sản xuất của các khu vực kinh tế

68

Biểu đồ 3.6: Sự thay đổi của cơ cấu ngành công nghiệp

70

Biểu đồ 3.7: Doanh thu từ du lịch của Quảng Ninh so sánh với cả nước

73

Biểu đồ 3.8: Cơ cấu ngành dịch vụ

75

Biểu đồ 3.9: Cơ cấu ngành nông nghiệp từ 2000 đến 2005

79

Biểu đồ 3.10: Giá trị sẩn xuất nông nghiệp từ 1995 đến 2010

82

Biểu đồ 3.11: So sánh cơ cấu ngành kinh tế của Quảng Ninh với các khu


94

vực


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia luôn đòi hỏi phải có một cơ cấu
kinh tế hợp lý, trong đó cần xác định rõ và giải quyết đúng đắn mối quan hệ
giữa các ngành, các vùng kinh tế, lãnh thổ và các thành phần kinh tế, các yếu
tố bộ phận, lĩnh vực trong nền kinh tế quốc dân. Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp
lý là một trong những nội dung cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nước ta đã từng bước
xác lập được cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa phù hợp với đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của
nước ta. Sau hơn 20 năm đổi mới nước ta đã có cơ cấu kinh tế tương đối hợp
lý, với sự tham gia của mọi thành phần kinh tế, góp phần quan trọng phát
triển kinh tế, đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, hoàn
thành chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và bước
vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đảng bộ Quảng Ninh đã nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của chuyển
dịch cơ cấu kinh tế đối với sự phát triển của tỉnh, do đó Đảng bộ và nhân dân
Quảng Ninh đã phát huy tiềm năng, thế mạnh và truyền thống của quê hương
trong sự nghiệp chuyển dịch cơ cấu kinh tế địa phương theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đến nay Quảng Ninh đã trở thành một trọng điểm
trong tam giác kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh... Tuy nhiên, việc
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Quảng Ninh thời gian qua với nhịp độ còn
chậm, chưa tương xứng với tiềm năng vốn có của một tỉnh biên giới trong
điều kiện mở cửa và hội nhập.

Nhằm đánh giá đúng thực trạng và những tồn tại của quá trình chuyển
dịch cơ cấu theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Quảng Ninh, đề tài
“Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo

1


hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, từ năm 1996 đến 2010” bước đầu sẽ
góp phần để nhận diện công cuộc chuyển dịch cơ cấu ở một tỉnh giàu tiềm
năng như Quảng Ninh.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm qua, đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về
chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam. Có thể kể ra hai nhóm nghiên cứu
chính:
Nhóm thứ nhất: Nghiên cứu các khâu chuyển đổi, đột phá theo hướng
mũi nhọn, công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Ở lĩnh vực này, có thể kể đến các
tác giả như: Ngô Đình Giao: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân (NXB Chính trị Quốc gia,
H.1994); Phạm Khiêm Ích - Nguyễn Đình Phan: Công nghiệp hoá, hiện đại
hoá ở Việt Nam và các nước trong khu vực (NXB Thống kê, H.1995); Đỗ
Hoài Nam: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành và phát triển các ngành trọng
điểm, mũi nhọn ở Việt Nam (NXB KHXH, H.1996); Trần Ngọc Hiên: Mối
quan hệ giữa công - nông nghiệp - dịch vụ trong sự hình thành nền kinh tế thị
trường ở nước ta (Học viện CTQG Hồ Chí Minh, 1997); Lê Du Phong:
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp ở đồng bằng sông Hồng, thực
trạng và triển vọng, (NXB Chính trị quốc gia, H.2003); … Ở tầm vĩ mô, các
công trình trên đã đề cập đến những vấn đề lý luận và thực tiễn trong cơ chế
chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Theo các nghiên cứu trên, chuyển dịch là vấn đề
cấp bách trên phạm vi cả nước nhằm tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng lành
mạnh, phát triển và hội nhập.

Nhóm vấn đề thứ hai: Nghiên cứu quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ở phạm vi cấp tỉnh, cấp huyện… Nhóm nghiên cứu này thể hiện những
nghiên cứu về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở cấp độ thấp, qua đó chỉ ra những
vấn đề cụ thể của từng địa phương. Có thể kể ra: Đào Thị Vân: Đảng bộ tỉnh

2


Hưng Yên lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa giai đoạn 1997-2003 (Luận văn thạc sĩ chuyên ngành lịch sử
Đảng, ĐHQG HN, H.2004); Nguyễn Ngọc Thanh: Đảng bộ huyện Gia Lâm
(Hà Nội) lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế (1991-2000) (Luận văn thạc sĩ
chuyên ngành lịch sử Đảng, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, H.2004); Đặng
Kim Oanh: Đảng bộ Vĩnh Phúc lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ năm
1997 đến năm 2003 (Luận văn thạc sĩ chuyên ngành lịch sử Đảng, ĐHQG
HN, H.2005); Trần Thị Thu Hằng: Đảng bộ thành phố Hà Nội lãnh đạo
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, từ
1996 đến 2005 (Luận văn thạc sĩ chuyên ngành lịch sử Đảng, Học viện
CTQG Hồ Chí Minh)…
Nghiên cứu về chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Quảng Ninh hoặc có đề
cập đến nội dung này, có thể kể đến một số công trình: Cơ cấu kinh tế lãnh
thổ Quảng Ninh (Luận án tiến sĩ Địa lý, Đại học Sư phạm Hà Nội) của Hoàng
Minh Quang; Hoàn thiện quản lý ngân sách Nhà nước nhằm thúc đẩy kinh tế
- xã hội trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh (Luận án tiến sĩ, Học viện tài chính, Hà
Nội) của Trần Văn Lâm…
Đây là những nghiên cứu rất quan trọng trong việc tổ chức phân vùng
kinh tế lãnh thổ ở Quảng Ninh cũng như cơ chế chính sách, đặc biệt là cơ chế
tài chính để thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội ở vùng đất giàu tiềm năng như
Quảng Ninh. Đây thực sự là những công trình tham khảo tốt cho luận văn của
tôi.

Ngoài một số công trình được nêu ra ở trên, còn nhiều bài viết về
chuyển dịch cơ cấu kinh tế đăng trên các tạp chí chuyên ngành. Các công
trình khoa học này đã khẳng định tầm quan trọng của xây dựng và phát triển
của kinh tế nói chung, chuyển dich cơ cấu nói riêng, nêu bật được sự quan
tâm, chỉ đạo sát sao của Đảng, được thể hiện bằng các đường lối, chính sách

3


phát triển và sự vận dụng đường lối đó vào các địa phương cụ thể. Tuy nhiên,
đây là vấn đề lớn và phong phú, vẫn còn nhiều nội dung cụ thể chưa được đề
cập đến. Nhất là chưa có công trình nào nghiên cứu đề tài Đảng bộ tỉnh
Quảng Ninh lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, từ năm 1996 đến năm 2010. Do đó đề tài được chọn là mới
và cần thiết phải làm rõ hơn cả về lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích
- Làm rõ quá trình Đảng bộ Quảng Ninh vận dụng đường lối, chủ
trương của Đảng lãnh đạo thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở địa phương
từ năm 1996 đến năm 2010.
- Khẳng định thành tựu, hạn chế và phân tích một số kinh nghiệm.
3.2 Nhiệm vụ
- Trình bày hệ thống đường lối, chủ trương của Đảng về phát triển kinh
tế, về chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ 1996-2010 theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa.
- Làm rõ quá trình Đảng bộ Quảng Ninh vận dụng đường lối, chủ
trương của Đảng, lãnh đạo thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở địa
phương.
- Phân tích kết quả, tổng kết kinh nghiệm.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1 Đối tượng nghiên cứu
- Sự lãnh đạo của Đảng bộ Quảng Ninh trong việc thực hiện chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa từ 1996-2010.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
- Địa bàn nghiên cứu là tỉnh Quảng Ninh.
- Thời gian nghiên cứu: từ năm 1996 đến năm 2010.

4


- Về chuyển dịch cơ cấu kinh tế có một số nội dung chính: Chuyển dịch
cơ cấu kinh tế ngành, chuyển dịch cơ cấu nội ngành, chuyển dịch cơ cấu kinh
tế vùng, chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế. Luận văn tập trung nghiên
cứu sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh trong chuyển dịch cơ cấu kinh
tế ngành và nội ngành.
5. Cơ sơ lý luận, phương pháp nghiên cứu, nguồn tư liệu
5.1 Cơ sở lý luận
Luận văn được tiến hành trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối của Đảng Cộng Sản Việt
Nam về phát triển kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
5.2 Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng một số phương pháp chuyên ngành như: Phương
pháp lịch sử và phương pháp lôgic, ngoài ra còn kết hợp phương pháp phân
tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, điều tra xã hội học...
5.3 Nguồn tư liệu
- Các văn kiện Đại hội Đảng VI, VII, VIII, IX, X, XI; Nghị quyết
Trung ương Đảng, Bộ Chính trị về phát triển kinh tế và chuyển dịch cơ cấu
kinh tế.
- Các văn kiện Đại hội, hội nghị Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh các khóa IX,
X, XI, XII, XIII. Báo cáo hàng năm của Tỉnh ủy, UBND, Sở kế hoạch - Đầu

tư, Sở Công nghiệp, Sở Nông nghiệp, Sở du lịch, Cục thống kê… tỉnh Quảng
Ninh.
6. Đóng góp của đề tài
- Hệ thống hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng bộ Quảng Ninh
trong lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ 1996 đến 2010.
- Phân tích một số kinh nghiệm của Đảng bộ Quảng Ninh về lãnh đạo,
chỉ đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

5


- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo;
góp phần nêu những vấn đề của thực tiễn trong thực hiện đường lối đổi mới
của Đảng trên một địa bàn cụ thể, trong một lĩnh vực cụ thể. Góp phần nghiên
cứu lịch sử Đảng bộ địa phương.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn gồm 3
chương:
Chương 1: Điều kiện tự nhiên và đặc điểm kinh tế, xã hội của Quảng
Ninh trước năm 1996.
Chương 2: Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh lãnh đạo thực hiện chuyển dịch
cơ cấu kinh tế từ năm 1996 đến năm 2010.
Chương 3: Kết quả quá trình Đảng bộ Quảng Ninh lãnh đạo chuyển
dịch cơ cấu kinh tế từ năm 1996 đến năm 2010.

6


Chương 1
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ, XÃ HỘI

CỦA QUẢNG NINH TRƯỚC NĂM 1996
1.1. Điều kiện tự nhiên của tỉnh Quảng Ninh
1.1.1 Vị trí địa lý, địa hình, khí hậu, sông ngòi và thủy văn
Vị trí địa lý: Quảng Ninh là một tỉnh ở địa đầu phía đông bắc Việt Nam
có toạ độ địa lý khoảng 106o26' đến 108o31' kinh độ đông và từ 20o40' đến
21o40' vĩ độ bắc. Điểm cực bắc là dãy núi cao thuộc thôn Mỏ Toòng, xã
Hoành Mô, huyện Bình Liêu. Điểm cực nam ở đảo Hạ Mai thuộc xã Ngọc
Vừng, huyện Vân Đồn. Điểm cực tây là sông Vàng Chua ở xã Bình Dương và
xã Nguyễn Huệ, huyện Đông Triều. Điểm cực đông trên đất liền là mũi Gót ở
đông bắc xã Trà Cổ, thị xã Móng Cái. Phía tây tựa lưng vào núi rừng, phía
đông là vịnh Bắc Bộ
Quảng Ninh có biên giới quốc gia và hải phận giáp giới nước Cộng hoà
Nhân dân Trung Hoa. Trên đất liền, phía bắc của tỉnh (có các huyện Bình
Liêu, Hải Hà và thị xã Móng Cái) giáp huyện Phòng Thành và thị trấn Đông
Hưng, tỉnh Quảng Tây với 132,8 km đường biên giới; phía đông là vịnh Bắc
Bộ; phía tây giáp các tỉnh Lạng Sơn, Bắc Giang, Hải Dương; phía nam giáp
Hải Phòng. Bờ biển dài 250 km.
Diện tích tự nhiên toàn tỉnh là 611.081,3 ha, trong đó đất nông nghiệp
243.833,2 ha, đất chuyên dùng 36.513 ha, đất ở 6.815,9 ha, đất chưa sử dụng
268.158,3 ha.
Địa hình: Quảng Ninh là tỉnh miền núi - duyên hải. Hơn 80% đất đai là
đồi núi. Hơn hai nghìn hòn đảo nổi trên mặt biển cũng đều là các quả núi.
Vùng núi chia làm hai miền: Vùng núi miền Đông từ Tiên Yên qua
Bình Liêu, Hải Hà, Đầm Hà đến Móng Cái. Đây là vùng nối tiếp của vùng núi
Thập Vạn Đại Sơn từ Trung Quốc, hướng chủ đạo là đông bắc - tây nam. Có

7


hai dãy núi chính: dãy Quảng Nam Châu (1.507 m) và Cao Xiêm (1.330 m)

chiếm phần lớn diện tích tự nhiên các huyện Bình Liêu, Hải Hà, Đầm Hà, dãy
Ngàn Chi (1.166 m) ở phía bắc huyện Tiên Yên. Vùng núi miền tây từ Tiên
Yên qua Ba Chẽ, Hoành Bồ, phía bắc thị xã Uông Bí và thấp dần xuống ở
phía bắc huyện Đông Triều. Vùng núi này là những dãy nối tiếp hơi uốn cong
nên thường được gọi là cánh cung núi Đông Triều với đỉnh Yên Tử (1.068 m)
trên đất Uông Bí và đỉnh Am Váp (1.094 m) trên đất Hoành Bồ.
Vùng trung du và đồng bằng ven biển gồm những dải đồi thấp bị phong
hoá và xâm thực tạo nên những cánh đồng từ các chân núi thấp dần xuống các
triền sông và bờ biển. Đó là vùng Đông Triều, Uông Bí, bắc Yên Hưng, nam
Tiên Yên, Đầm Hà, Hải Hà và một phần Móng Cái. Ở các cửa sông, các vùng
bồi lắng phù sa tạo nên những cánh đồng và bãi triều thấp. Đó là vùng nam
Uông Bí, nam Yên Hưng (đảo Hà Nam), đông Yên Hưng, Đồng Rui (Tiên
Yên), nam Đầm Hà, đông nam Hải Hà, nam Móng Cái. Tuy có diện tích hẹp
và bị chia cắt nhưng vùng trung du và đồng bằng ven biển thuận tiện cho
nông nghiệp và giao thông nên đang là những vùng dân cư trù phú của Quảng
Ninh.
Vùng biển và hải đảo của Quảng Ninh là một vùng rộng lớn với hơn
2.000 hòn đảo, chiếm hơn 2/3 số đảo cả nước (2078/ 2779). Có những đảo rất
lớn như đảo Cái Bầu, Bản Sen. Có hai huyện đảo là Vân Đồn và Cô Tô. Vịnh
Hạ Long và Bái Tử Long có hàng ngàn đảo đá vôi nguyên là vùng địa hình kỳ
thú.
Khí hậu: Quảng Ninh nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới với mùa hạ
nóng ẩm, mưa nhiều; mùa đông lạnh, ít mưa và tính nhiệt đới nóng ẩm là bao
trùm nhất. Do nằm trong vành đai nhiệt đới nên hàng năm có hai lần mặt trời
qua thiên đỉnh, tiềm năng về bức xạ và nhiệt độ rất phong phú.

8


Về nhiệt độ: mùa đông lạnh, nhiệt độ không khí trung bình dưới 20 oC.

Mùa nóng có nhiệt độ trung bình trên 25oC. Mùa lạnh bắt đầu từ hạ tuần tháng
11 và kết thúc vào cuối tháng 3 năm sau, mùa nóng bắt đầu từ tháng 5 và kết
thúc vào đầu tháng 10. Mùa ít mưa bắt đầu từ tháng 11 cho đến tháng 4 năm
sau, mùa mưa nhiều bắt đầu từ tháng 5 và kết thúc vào đầu tháng 10.
Sông ngòi, thủy văn: Quảng Ninh có 30 sông, suối dài trên 10 km, diện
tích lưu vực không quá 300 km2 với đặc trưng ngắn, nhỏ, độ dốc lớn. Lưu
lượng và lưu tốc rất khác biệt giữa các mùa: mùa khô 1,45m3/s, mùa mưa là
1500 m3/s.
1.1.2. Tài nguyên thiên nhiên
Tài nguyên khoáng sản
Quảng Ninh có nguồn tài nguyên khoáng sản phong phú, đa dạng, có
nhiều loại đặc thù, trữ lượng lớn, chất lượng cao mà nhiều tỉnh, thành phố
trong cả nước không có được như: than, cao lanh tấn mài, đất sét, cát thủy
tinh, đá vôi…
Than đá: Có trữ lượng khoảng 3,6 tỷ tấn, hầu hết thuộc dòng antraxít,
tỷ lệ cácbon ổn định 80 - 90%; tập trung tại 3 khu vực: Hạ Long, Cẩm Phả và
Uông Bí - Đông Triều; mỗi năm cho phép khai thác khoảng 30 - 40 triệu tấn.
Các mỏ đá vôi, đất sét, cao lanh: trữ lượng tương đối lớn với đá vôi ở
Hoành Bồ, Cẩm Phả; cao lanh ở Hải Hà, Bình Liêu, Ba Chẽ, Tiên Yên, thị xã
Móng Cái; đất sét ở Đông Triều, Hoành Bồ và Hạ Long.
Bên cạnh than đá, các loại nguyên liệu là vật liệu xây dựng như đá vôi,
sét, gạch ngói... rất phong phú và phân bố rộng khắp trong tỉnh. Mỏ đá vôi
Hoành Bồ trữ lượng gần 1 tỷ tấn cho phép sản xuất xi măng vài chục triệu
tấn/ năm, đáp ứng nhu cầu xây dựng kết cấu hạ tầng và đô thị hóa. Các
khoáng sản khác như cao lanh Tấn Mài, Móng Cái; cát thủy tinh Vân Hải...
đều là các mỏ lớn ở miền Bắc, có chất lượng cao, điều kiện khai thác thuận

9



lợi, là nguồn tài nguyên quan trọng để phát triển công nghiệp phục vụ cho nhu
cầu trong tỉnh, cả nước và xuất khẩu.
Các mỏ nước khoáng: nước khoáng uống được phân bố ở Quang Hanh
(Cẩm Phả), Khe Lạc (Tiên Yên), Đồng Long (Bình Liêu). Nước khoáng
không uống được tập trung ở Cẩm Phả có nồng độ khoáng khá cao, nhiệt độ
trên 35oC, dùng chữa bệnh.
Tài nguyên biển
Với bờ biển dài 250km, Quảng Ninh có nhiều ngư trường khai thác hải
sản sản lượng cao, ổn định, phân bố gần bờ và quanh các đảo, thuận tiện cho
việc khai thác, nuôi và chế biến hải sản xuất khẩu.
Ven biển Quảng Ninh có nhiều khu vực nước sâu, kín gió là lợi thế đặc
biệt quan trọng cho việc xây dựng, phát triển hệ thống cảng biển.
Theo kết quả điều tra, khả năng khai thác cá biển của Quảng Ninh
khoảng 20.000-25.000 tấn/năm, vùng nước ven biển và quanh các đảo, cho
phép khai thác từ 25.000-30.000 tấn/năm. Ngoài ra, Quảng Ninh còn có thể
mở rộng khai thác trên 20.000 tấn/năm tại các ngư trường khác thuộc vùng
khơi vịnh Bắc Bộ.
Biển Quảng Ninh có hơn 1000 loài cá và các loại đặc sản như: tôm,
cua, mực, nhuyễn thể... phong phú, phân bố rộng khắp ở các khu vực. Vùng
ven bờ có sò huyết, ngao, hến, sá sùng, bào ngư, hải sâm, mực, tôm he, tôm
hùm. Ngọc trai, ngọc điệp tập trung ở đảo Minh Châu, Ngọc Vừng, Quan
Lạn. Một số loại hải sản độc đáo của vùng biển Quảng Ninh là các cồn bãi san
hô và rong biển.
Quảng Ninh có trên 40.000ha bãi triều, 20.000ha eo vịnh và hàng chục
vạn hecta vũng nông ven bờ thuộc vịnh Hạ Long, Bái Tử Long là môi trường
thuận tiện để phát triển nuôi tôm, cá và đặc sản xuất khẩu.

10



Tài nguyên rừng: Quảng Ninh có 243.833,2 ha rừng và đất rừng (chiếm
40% diện tích đất tự nhiên toàn tỉnh), trong đó rừng tự nhiên chiếm khoảng
80%, rừng trồng, rừng đặc sản khoảng 100 ngàn ha, đất chưa thành rừng
khoảng 230 ngàn ha.
Tài nguyên nước: gồm nước mặt và nước ngầm. Nước mặt: lượng nước
các sông khá phong phú, ước tính 8.776 tỷ m3 phát sinh trên toàn lưu vực.
Nước ngầm: Theo kết quả thăm dò, trữ lượng nước ngầm tại vùng Cẩm Phả là
6.107 m3/ngày, vùng Hạ Long là 21.290 m3/ngày.
Quảng Ninh đã xây dựng gần 30 hồ đập nước lớn với tổng dung tích
195,53 triệu m3, phục vụ những mục đích kinh tế - xã hội của tỉnh như hồ Yên
Lập (dung tích 118 triệu m3), hồ Chúc Bài Sơn (11,5 triệu m3), hồ Quất Đông
(10 triệu m3).
Tài nguyên đất: Quảng Ninh có quỹ đất dồi dào với 611.081,3 ha, trong
đó đất nông nghiệp đang sử dụng là 75,370ha, 146.019 ha đất lâm nghiệp,
khoảng gần 20.000 ha có thể trồng cây ăn quả
Trong tổng diện tích đất đai toàn tỉnh, đất nông nghiệp chiếm 10%, đất
có rừng chiếm 38%, diện tích chưa sử dụng chiếm 43,8% tập trung ở vùng
miền núi và ven biển, còn lại là đất chuyên dùng và đất ở.
1.2. Vài nét về đặc điểm xã hội của tỉnh Quảng Ninh
1.2.1 Các đơn vị hành chính
Quảng Ninh hiện nay có 3 thành phố, 1 thị xã, 10 huyện (có 2 huyện
đảo).
Thành phố Hạ Long:Diện tích: 271,5 km2. Dân số (2006): 200.774
người;
Thành phố Hạ Long gồm 20 phường, xã: Hà Khánh, Hà Lầm, Hà
Trung, Hà Phong, Hà Tu, Hồng Hải, Cao Thắng, Cao Xanh, Yết Kiêu, Trần

11



Hưng Đạo, Bạch Đằng, Hòn Gai, Bãi Cháy, Hồng Hà, Hà Khẩu, Giếng Đáy,
Hùng Thắng, Tuần Châu, Việt Hưng, Đại Yên.
Hạ Long là trung tâm văn hoá, kinh tế, chính trị của tỉnh Quảng Ninh,
nằm hai bên Cửa Lục, phía đông là khu vực phát triển công nghiệp và tập
trung hầu hết các cơ quan quản lý của tỉnh. Khu phía tây (Bãi Cháy) là khu du
lịch hoạt động sôi động.
Thành phố Uông Bí: Diện tích: 243,5 km2; Dân số (2006): 99.985
người; Mật độ dân cư: 411 người/km2.
Uông Bí bao gồm 10 phường, xã: Vàng Danh, Bắc Sơn, Trưng Vương,
Quang Trung, Trung Sơn, Nam Khê, Yên Thanh; Thượng Yên Công, Phương
Đông, Phương Nam. Địa hình Uông Bí hai phần ba là đồi núi. Người Việt
(Kinh) chiếm 90%, còn lại (10%) là của các dân tộc Tày, Hoa, Sán Dìu,
Nùng, Sán Chay, Dao Thanh Y.
Uông Bí có khu thắng cảnh nổi tiếng Yên Tử với dòng Thiền Trúc Lâm
Việt Nam, có nhà máy nhiệt điện công suất 2,68 tỉ kW điện mỗi năm. Khai
thác than ở mỏ Vàng Danh đạt sản lượng 30 đến 45 vạn tấn/ năm.
Thành phố Móng Cái: Diện tích: 516,6 km2; Dân số (2006): 75.852
người; Mật độ dân cư: 147 người/km2.
Móng Cái gồm 16 phường: Hoà Lạc, Ka Long, Ninh Dương, Trà Cổ,
Trần Phú, Hải Sơn, Bình Ngọc, Hải Xuân, Hải Hoà, Vạn Ninh, Hải Yên, Hải
Đông, Hải Tiến, Quảng Nghĩa, Vĩnh Thực, Vĩnh Trung.
Móng Cái là mảnh đất địa đầu vùng Đông Bắc của Việt Nam, có đường
biên giới giáp với Trung Quốc dài 70 km. 71% diện tích đất liền là đồi núi.
Kinh tế của thành phố theo mô hình thương mại - du lịch - nông - ngư nghiệp.
Trong quy hoạch tổng thể, thành phố Móng Cái hình thành ba khu chức năng
là thương mại, du lịch và công nghiệp.

12



Thị xã Cẩm Phả: Diện tích: 339,0 km2; Dân số (2006): 160.745 người;
Mật độ dân cư: 474 người /km2
Thị xã Cẩm Phả bao gồm 16 phường, xã: Mông Dương, Cửa Ông, Cẩm
Thịnh, Cẩm Phú, Cẩm Sơn, Cẩm Đông, Cẩm Tây, Cẩm Thành, Cẩm Trung,
Cẩm Thuỷ, Cẩm Thạch, Quang Hanh; Cộng Hoà, Dương Huy, Cẩm Bình,
Cẩm Hải.
Dân cư thuộc nhiều dân tộc khác nhau như Việt, Tày, Dao, Sán Dìu,
Sán Chỉ, Hoa. Cẩm Phả có một số di tích và thắng cảnh rất nổi tiếng như đền
Cửa Ông, đảo Rều (đảo Khỉ), đảo Thẻ Vàng, Hòn Hai, di tích Vũng Đục...
Công nghiệp khai thác than chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu kinh tế.
Huyện Đông Triều: Diện tích: 396,6 km2, dân số (2006): 154.566
người; mật độ dân cư: 390 người/km2.
Đông Triều là cửa ngõ phía tây của tỉnh Quảng Ninh gồm thị trấn Đông
Triều, Mạo Khê và các xã: Bình Dương, Nguyễn Huệ, Thuỷ An, Việt Dân,
An Sinh, Tân Việt, Hồng Phong, Đức Chính, Tràng An, Hưng Đạo, Xuân
Sơn, Kim Sơn, Yên Thọ, Bình Khê, Tràng Lương, Hoàng Quế, Hồng Thái
Đông, Yên Đức, Hồng Thái Tây.
Người Kinh chiếm khoảng 98% dân số, còn lại là các dân tộc Hoa, Tày,
Sán Dìu, Dao. Đông Triều có nhiều di tích lịch sử và danh thắng được xếp
hạng quốc gia (khu đền và lăng mộ nhà Trần, chùa Quỳnh Lâm, chùa Bắc
Mã...), ngoài ra còn có chùa Hồ Thiên; đền thờ An Sinh vương Trần Liễu;
thắng cảnh núi Con Mèo... Kinh tế của Đông Triều là mô hình công - lâm nông nghiệp. Sản lượng lương thực chiếm 1/4 sản lượng lương thực toàn tỉnh.
Huyện Yên Hưng: Diện tích: 325,9 km2; Dân số (2009): 129.504
người; Mật độ dân cư: 415 người/km2.
Huyện Yên Hưng nằm ở phía tây của Quảng Ninh bao gồm thị trấn
Quảng Yên và các xã: Minh Thành, Đông Mai, Sông Khoai, Cộng Hoà, Tiền

13



An, Tân An, Hoàng Tân, Hà An, Điền Công, Hiệp Hoà, Yên Giang, Nam
Hoà, Yên Hải, Cẩm La, Phong Cốc, Phong Hải, Liên Hoà, Liên Vị, Tiền
Phong.
Huyện Yên Hưng nổi danh với chiến thắng Bạch Đằng trong lịch sử, là
vùng đất cổ với nhiều di tích và danh thắng... Phong tục tập quán, hội hè ở
Yên Hưng rất đặc trưng cho người dân vùng đồng bằng sông Hồng. Một số di
tích quan trọng như đình Phong Cốc, miếu Tiên Công, bãi cọc Bạch Đằng,
Cây Lim - Giếng Rừng, đình Trung Bản... được xếp hạng quốc gia và là tiềm
năng cho du lịch của huyện phát triển.
Yên Hưng là một trong ba huyện lúa trọng điểm của tỉnh Quảng Ninh.
Huyện Hoành Bồ: Diện tích: 843,7 km2; Dân số (2006): 42.566 người;
Mật độ dân cư: 51 người/km2.
Huyện Hoành Bồ nằm ở phía tây của tỉnh, bao gồm thị trấn Trới và các
xã: Kỳ Thượng, Hoà Bình, Đồng Lâm, Đồng Sơn, Vũ Oai, Thống Nhất, Lê
Lợi, Quảng La, Sơn Dương, Dân Chủ, Bằng Cả, Tân Dân.
Thắng cảnh nổi tiếng là hồ Yên Lập và di tích chùa Lôi Âm. Hồ Yên
Lập rộng khoảng 17.000 ha, rừng thông bao quanh, ở giữa hồ có một đảo trên
có chùa Lôi Âm tạo thành một quần thể di tích thắng cảnh đã được cấp bằng
công nhận quốc gia.
Kinh tế huyện Hoành Bồ theo mô hình công - nông - lâm - ngư nghiệp.
Huyện Ba Chẽ: Diện tích: 605,6 km2; Dân số (2006): 18.123 người;
Mật độ dân cư: 30 người/km2.
Huyện Ba Chẽ là huyện miền núi nằm ở phía bắc tỉnh Quảng Ninh, bao
gồm thị trấn Ba Chẽ và các xã: Minh Cầm, Lương Mông, Thanh Lâm, Thanh
Sơn, Đạp Thanh, Đồn Đạc, Nam Sơn.
Cộng đồng các dân tộc bao gồm người Dao, Việt, Tày, Sán Dìu, Hoa,
Nùng. Ba Chẽ là huyện có diện tích rừng lớn nhất của tỉnh, nguồn thu từ rừng

14



là chủ yếu, đặc biệt là cây trầu một lá (là cây dược liệu quý hiếm). Nông
nghiệp chiếm tỷ trọng nhỏ, sản lượng lương thực chưa đủ đáp ứng cho nhu
cầu của huyện.
Huyện Bình Liêu: Diện tích: 473,1 km2; dân số (2006): 27.890 người;
Mật độ dân cư: 59 người/km2.
Bình Liêu là một huyện miền núi, nằm ở phía đông bắc tỉnh, bao gồm
thị trấn Bình Liêu và các xã: Đồng Văn, Hoành Mô, Đồng Tâm, Lục Hồn,
Tĩnh Húc, Húc Động, Vô Ngại. Phía bắc giáp huyện Phòng Thành và Nam
Ninh (tỉnh Quảng Tây-Trung Quốc) với đường biên giới dài 48 km.
Dân cư ở Bình Liêu có năm dân tộc sinh sống, đông nhất là người Tày,
chiếm 54,8% dân số toàn huyện; người Dao chiếm 25,6%; Sán Chỉ 15,4%;
Việt (Kinh) 3,7% và Hoa 0,36%.
Cây trẩu, sở, hồi, quế là bốn cây công nghiệp trọng điểm của huyện.
Huyện Cô Tô: Diện tích: 47,3 km2; Dân số (2006): 5.195 người; Mật
độ dân cư: 110 người/km2.
Cô Tô là một huyện đảo, bao gồm hơn 30 hòn đảo lớn nhỏ, trong đó có
ba đảo lớn nhất là Cô Tô, Thanh Lân và đảo Trần, gồm thị trấn Cô Tô và 2 xã:
Thanh Lân, Đồng Tiến. Nghề chính của người dân trên đảo là đánh bắt cá và
chế biến hải sản.
Huyện Đầm Hà: Diện tích: 309,3 km2. Dân số (2006): 32.765 người;
Mật độ dân cư: 106 người/km2.
Huyện Đầm Hà bao gồm thị trấn Đầm Hà và các xã: Đại Bình, Dực
Yên, Quảng Tân, Quảng Lợi, Quảng An, Quảng Lâm, Đầm Hà, Tân Bình.
Dân cư đa số là người Việt (Kinh), ngoài ra còn có người Tày, Dao, Hoa, Sán
Dìu, Sán Chỉ, Nùng, Mường, Cao Lan.
Về kinh tế chủ yếu là sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng đánh bắt thuỷ
hải sản. Rừng quế là nguyên liệu có giá trị xuất khẩu cao sang Trung Quốc.

15



Huyện Hải Hà: Diện tích: 512,5 km2; Dân số (2001): 52.061 người;
Mật độ dân cư: 102 người/km2.
Hải Hà nằm ở phía đông của tỉnh Quảng Ninh, phía bắc giáp Trung
Quốc, gồm thị trấn Quảng Hà và các xã: Phú Hải, Quảng Trung, Quảng
Phong, Quảng Chính, Quảng Long, Quảng Điền, Cái Chiên, Đường Hoa, Tiến
Tới, Quảng Sơn, Quảng Thịnh, Quảng Minh, Quảng Thành, Quảng Thắng,
Quảng Đức.
Hải Hà là một trong ba trọng điểm lúa của tỉnh. Cây quế, sa mộc, hồi...
mang lại cho Hải Hà những nguồn thu đáng kể. Nuôi trồng, đáng bắt thuỷ sản
phát triển mạnh.
Huyện Tiên Yên: Diện tích: 645,4 km2; Dân số (2006): 44.591 người;
Mật độ dân cư: 69 người/km2.
Tiên Yên nằm ở trung tâm của miền đông bắc tỉnh Quảng Ninh gồm thị
trấn Tiên Yên và các xã: Đại Dực, Hà Lâu, Phong Dụ, Điền Xá, Yên Than,
Hải Lạng, Tiên Lãng, Đông Ngũ, Đông Hải, Đồng Rui.
Cư dân gồm 13 dân tộc, đông nhất là người Việt (Kinh) chiếm 59%;
Dao 19%; Tày 13,8%; Sán Chỉ 8,4%; Sán Dìu 3,8% còn lại là người các dân
tộc khác: Nùng, Hoa, Thái...
Huyện Vân Đồn: Diện tích: 551,5 km2; Dân số (2006): 41.081 người;
Mật độ dân cư: 74 người/km2.
Vân Đồn là một huyện đảo bao gồm thị trấn Cái Rồng và các xã: Đài
Xuyên, Bình Dân, Đoàn Kết, Vạn Yên, Hạ Long, Đông Xá, Minh Châu, Quan
Lạn, Bản Sen, Ngọc Vừng, Thắng Lợi. Mặc dù huyện Vân Đồn mới được
thành lập nhưng lịch sử vùng đất này đã có từ rất lâu đời với thương cảng Vân
Đồn có từ thời Lý. Kinh tế của Vân Đồn theo mô hình ngư - nông - lâm
nghiệp. Đánh bắt hải sản đồng thời với nuôi trồng thuỷ sản đang ngày càng
được nhân rộng và phát triển về quy mô.


16


1.2.2. Dân cư, lao động
Theo kết quả điều tra sơ bộ của cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở năm
2009, dân số Quảng Ninh hiện nay là 1.144.381 người, trong đó nữ chiếm
558.793 người. Quảng Ninh luôn có số lượng nam (chiếm khoảng 51%) cao
hơn nữ, đó là kiểu kết cấu dân số của vùng phát triển ngành công nghiệp khai
thác.
Quảng Ninh có 22 dân tộc, người Việt (Kinh) chiếm 89,23% tổng số
dân. Người Dao (4,45%) có hai nhánh chính là Thanh Y, Thanh Phán cư trú ở
vùng núi cao. Người Hoa (0, 43% dân số), người Sán Dìu (1,80%), Sán Chỉ
(1,11%) ở vùng núi thấp và chủ yếu sống bằng nông nghiệp trồng lúa nước.
Mật độ dân số là 188 người/km2 (năm 1999 là 196 người/km2), nhưng
phân bố không đều. Vùng đô thị và các huyện miền tây rất đông dân (Hạ
Long 739 người/km2, Yên Hưng 415 người/km2, Ðông Triều 390 người/km2),
trong khi đó, huyện Ba Chẽ 30 người/km2, Cô Tô 110 người/km2, Vân Ðồn
74 người/km2.
Quảng Ninh là tỉnh có tỷ lệ dân thành thị khá cao, tốc độ tăng dân thành
thị trung bình đạt khoảng 1% năm. Năm 1976 dân số thành thị ở Quảng Ninh
chiếm 35% tổng dân số, năm 1980 là 40,3% và đạt tỉ lệ dân thành thị cao nhất
vào giai đoạn 1985-1988 (45%). Hiện nay, tỷ lệ dân số sống ở khu vực thành
thị của Quảng Ninh đứng thứ 3 trên toàn quốc (sau TP Hồ Chí Minh và TP Đà
Nẵng), dân số thành thị là 575.939 người (chiếm 50,3%); khu vực nông thôn
là 568.442 người.
Dân số Quảng Ninh có kết cấu trẻ. Dân số trong độ tuổi lao động của
Quảng Ninh lớn hơn tỷ lệ toàn quốc, số người chưa đến độ tuổi lao động
chiếm tỷ lệ nhỏ và thấp hơn so với toàn quốc. Kết cấu dân số lao động theo độ
tuổi cũng khác biệt giữa thành thị và nông thôn. Khu vực thành thị Quảng
Ninh, số người dưới độ tuổi lao động chiếm 27,4%. Trong độ tuổi lao động


17


khu vực thành thị rất cao, chiếm 65,4% cao hơn tỷ lệ chung của toàn tỉnh. Số
người quá độ tuổi lao động ở thành thị Quảng Ninh chiếm 7,2%. Các vùng
nông thôn tỷ lệ tương ứng là 36,8%; 54,8%; 8,4%. Vùng nông thôn Quảng
Ninh, số người phụ thuộc chiếm tỷ lệ cao, nhất là trẻ em dưới độ tuổi lao
động. Đây là một trong những nguyên nhân làm cho kinh tế - xã hội ở các
vùng nông thôn Quảng Ninh chậm phát triển [42].
Kết cấu lao động theo ngành: Tổng số lao động xã hội tỉnh Quảng
Ninh đã tăng từ 29,4 triệu (1990) lên 39,5 triệu (2003), bình quân tăng
775.000 lao động/năm, (tăng 2,14% năm, thời kì 1990-2002). Trong thời gian
này, tổng số lao động khu vực I (nông, lâm, ngư nghiệp) tăng từ 21,5 triệu
năm (1990) lên 25,8 triệu (2003), bình quân tăng 340.000 lao động/năm, tăng
1,3% và chiếm 43,8% tổng số lao động tăng thêm. Các con số tương ứng của
khu vực II (công nghiệp và xây dựng) là 3,3 triệu (1990) tăng lên 5,1 triệu
(2003), tăng bình quân 141.000 lao động/năm, tăng 3,2%/năm và chiếm 18,0%.
Tổng số lao động tăng thêm của khu vực III (các ngành dịch vụ) là 4,6 triệu
(1990) tăng lên 8,5 triệu (2003) tăng bình quân 295.000 lao động/năm, tăng
4,5% năm và chiếm 38,0% tổng số lao động tăng thêm. Như vậy, số lao động
tăng thêm tại khu vực nông nghiệp cao hơn tại khu vực dịch vụ 1,2 lần, và cao
hơn số vào khu vực công nghiệp và xây dựng tới 2,4 lần. Tính bình quân thời
kỳ này, trong 100 lao động tăng thêm thì có 45 người làm nông nghiệp, 18
người tham gia sản xuất trong lĩnh vực công nghiệp và 37 người ở khu vực
dịch vụ. Điều này có nghĩa rẳng, mặc dù về tỷ trọng, lao động ở khu vực nông
nghiệp có giảm đi, nhưng về số lượng tuyệt đối thì vẫn đang tăng lên.
Trong tổng số lao động tăng thêm, sau chừng một thập niên, tức là vào
đầu thập kỷ đầu tiên của thế kỉ XXI, chỉ còn chừng ¼ số lao động tăng thêm
vào nông nghiệp. Tuy nhiên, trong khi cơ cấu GDP đạt được những bước tiến

nhất định, dù chỉ trên phương diện tỷ trọng, thì cơ cấu lao động chưa có bước

18


chuyển dịch đáng kể. Tỷ trọng lao động trong khu vực nông nghiệp - nông
thôn giảm không đáng kể trong khi số lượng tuyệt đối vẫn có xu hướng tăng;
tỷ trọng lao động công nghiệp hầu như không tăng. Còn khu vực dịch vụ, tuy
có tạo thêm nhiều việc làm mới(gắn với sự bùng nổ của khu vực tư nhân sau
Luật Doanh nghiệp), song cũng không có khả năng xoay chuyển tình hình
một cách nhanh chóng và căn bản.
1.3. Vài nét về kinh tế Quảng Ninh trước năm 1996
Quảng Ninh là một vùng đất cổ. Các di tích khảo cổ ở Tấn Mài, Cửa
Lục và một số đảo có niên đại khoảng 300 nghìn năm (sơ kỳ đồ đá cũ) cho
thấy nơi đây đã có con người sinh sống. Nền kinh tế của cư dân nguyên thủy
chủ yếu là khai thác và hái lượm từ tự nhiên.
Vị trí sông biển thuận lợi nên dân cư vùng đất Đông Bắc tổ quốc đã
sớm nhận thức về “mối lợi nhờ núi biển”[36, tr 16]. Thương cảng Vân Đồn và
vùng biên giới Hải Ninh (Móng Cái)… là những trung tâm buôn bán lớn có từ
thời Lý. Các nguồn tư liệu lịch sử Việt Nam cho biết tại Vân Đồn, thuyền
buôn các nước trong khu vực đến buôn bán rất đông. Thế kỷ XV, Nguyễn
Trãi đặt bút ghi nhận vùng Yên Quảng (tức Quảng Ninh hiện nay) “khách
thương đến buôn bán, lớp này đến lớp khác”[31]. Phan Huy Chú cho biết
vùng Yên Quảng “phong thổ và nhân vật đông đúc, giàu thịnh, việc buôn bán
lưu thông tấp nập”[35], nhân dân “quá nửa sinh sống bằng buôn bán... Tổng
Hà Nam dân phần nhiều làm nghề buôn bán”[29], “dân... đi buôn... hàng hoá
thông Bắc Nam (các tổng An Khoái, Vạn Ninh huyện Nghiêu Phong, dùng
thuyền buôn đi lại, thông với miền Mỹ Giang tỉnh Hải Dương và miền châu
Khâm tỉnh Quảng Đông)” [36].
Thời cận đại, sau khi xâm chiếm toàn bộ Việt Nam, khu vực Hồng Gai,

Cẩm Phả trở thành trọng điểm khai thác than của thực dân Pháp. Nền kinh tế
của Quảng Ninh thời kỳ này là nền kinh tế khai thác, lệ thuộc vào thực dân

19


×