Tải bản đầy đủ (.pdf) (140 trang)

Đảng bộ tỉnh bắc ninh lãnh đạo phát triển khu công nghiệp từ năm 2000 đến năm 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.24 MB, 140 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN
LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

NGUYỄN THỊ THANH HUYỀN

ĐẢNG BỘ TỈNH BẮC NINH LÃNH ĐẠO PHÁT
TRIỂN KHU CÔNG NGHIỆP TỪ NĂM 2000 ĐẾN
NĂM 2010

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

HÀ NỘI - 2011


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN
LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

NGUYỄN THỊ THANH HUYỀN

ĐẢNG BỘ TỈNH BẮC NINH LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN
KHU CÔNG NGHIỆP TỪ NĂM 2000 ĐẾN NĂM 2010

Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số

:

60 22 56


LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN XUÂN TÚ

HÀ NỘI – 2011

2


BẢNG KÝ HIỆU CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt

Chữ viết đầy đủ

BQL

Ban quản lý

CNH,HĐH

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá

GDP

Tổng sản phẩm quốc dân

FDI

Vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài


ICD

Cảng nội địa

KCN

Khu công nghiệp

KCNC

Khu công nghệ cao

KT – XH

Kinh tế - Xã hội

TW

Trung ương

UBND

Uỷ ban nhân dân

4


MỤC LỤC
Trang

6

MỞ ĐẦU
Chương 1 ĐẢNG BỘ TỈNH BẮC NINH LÃNH ĐẠO

15

PHÁT TRIỂN KHU CÔNG NGHIỆP
TỪ NĂM 2000 ĐẾN NĂM 2005
1.1. Yêu cầu khách quan phát triển KCN ở tỉnh Bắc Ninh từ

15

năm 2000 đến năm 2005
1.2. Chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh về

41

phát triển KCN trong những năm 2000-2005
Chương 2 ĐẢNG BỘ TỈNH BẮC NINH LÃNH ĐẠO

54

ĐẨY MẠNH PHÁT TRIỂN KHU CÔNG NGHIỆP
TRONG NHỮNG NĂM 2005 – 2010
2.1. Quan điểm, chủ trương của Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh về

54

đẩy mạnh phát triển KCN từ năm 2005 đến năm 2010

2.2. Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh chỉ đạo đẩy mạnh phát triển

70

KCN từ năm 2005 đến năm 2010
Chương 3 KẾT QUẢ VÀ KINH NGHIỆM ĐẢNG BỘ TỈNH

87

BẮC NINH LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN KHU
CÔNG NGHIỆP TRONG NHỮNG NĂM 2000-2010
3.1. Thành tựu, hạn chế và nguyên nhân
3.2. Kinh nghiệm từ quá trình lãnh đạo phát triển KCN của
Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh trong những năm 2000-2010
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

5

87
111


MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Chủ trương xây dựng các KCN là một trong những phương hướng đúng
đắn, phù hợp, cần thiết trong chiến lược phát triển đất nước hiện nay. Phát
triển các KCN có ý nghĩa quan trọng nhằm thu hút các nguồn lực để phát triển
công nghiệp thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong thực hiện

CNH,HĐH ở Việt Nam. Các KCN không chỉ có vai trò to lớn đối với phát
triển kinh tế mà nó còn củng cố quốc phòng trong quá trình hội nhập quốc tế
hiện nay. KCN là nơi thu hút vốn đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước
nhằm thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Bên cạnh đó KCN còn là nơi
thu hút và tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động, góp phần giải quyết
nhiều vấn đề KT - XH khác, tạo điều kiện cho chúng ta tiếp cận với kỹ thuật
và công nghệ hiện đại của các nước tiên tiến thông qua đó chúng ta học hỏi
cách quản lý tiên tiến và nâng cao tay nghề của đội ngũ công nhân.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng năm 1996 đã xác định:
Hình thành các KCN tập trung (bao gồm cả KCN, KCNC) tạo địa
bàn thuận lợi cho việc xây dựng các cơ sở công nghiệp mới, phát triển
mạnh công nghiệp nông thôn và ven đô thị ở các thành phố, thị xã. Nâng
cấp cải tạo các cơ sở công nghiệp hiện có, đưa các cơ sở không có khả
năng xử lý ô nhiễm ra ngoài thành phố, hạn chế việc xây dựng cơ sở công
nghiệp xen lẫn khu dân cư.[23, tr.555]
Việc xây dựng các KCN được Đảng, Nhà nước xác định là một trong
những chủ trương, chính sách lớn nhằm đạt được các chỉ tiêu tăng trưởng
trong thời gian tới. Hiện nay ở Việt Nam đã có nhiều KCN ra đời, nhiều tỉnh
và thành phố trực thuộc TW cũng đã xây dựng các KCN nhằm thực hiện mục
tiêu thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước vào phát triển KCN, chuyển đổi

6


cơ cấu kinh tế của địa phương. Đã có nhiều KCN đi vào hoạt động và được
đánh giá có hiệu quả góp phần quan trọng vào phát triển công nghiệp, vào
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động ở Việt Nam nói chung và từng
địa phương nói riêng. Tuy nhiên, quá trình qui hoạch, xây dựng, quản lý các
KCN ở nước ta vẫn còn nhiều mặt yếu kém chưa đáp ứng với đòi hỏi của hoạt
động kinh tế mới mẻ này.

Tỉnh Bắc Ninh có nhiều tiềm năng, lợi thế phát triển KCN. Bắc Ninh là
một tỉnh nằm trong khu vực kinh tế trọng điểm phía Bắc (Khu vực đồng bằng
Bắc Bộ) của Việt Nam. Ngay từ khi tái lập tỉnh năm 1997, Đảng bộ, chính
quyền và nhân dân tỉnh Bắc Ninh đã xây dựng định hướng phát triển KT - XH
là “tập trung đầu tư xây dựng phát triển các KCN, cụm công nghiệp, tiểu thủ
công nghiệp…phấn đấu đưa tỉnh trở thành tỉnh công nghiệp vào năm 2015”
[50]. Trong những năm đổi mới, xây dựng KCN ở tỉnh Bắc Ninh có những
bước phát triển nhanh so với nhiều địa phương trong cả nước, bước đầu giành
được những thành tựu quan trọng.
Việc tìm hiểu quá trình Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh lãnh đạo phát triển KCN từ
năm 2000 đến năm 2010, tổng kết những thành công, những khuyết điểm hạn
chế và rút ra những bài học có ý nghĩa thiết thực cả về lý luận và thực tiễn là
việc làm cần thiết. Nghiên cứu tốt vấn đề này sẽ giúp làm rõ lý luận và quan
điểm về phát triển KCN trong quá trình CNH,HĐH. Về thực tiễn đề tài sẽ góp
phần đánh giá thực trạng phát triển KCN trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh hiện nay
và những kinh nghiệm làm cơ sở giúp cho Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh có thêm
căn cứ đề ra những phương hướng, chủ trương và giải pháp nhằm phát triển
một cách có hiệu quả và bền vững các KCN trên địa bàn của tỉnh trong quá
trình CNH,HĐH nền kinh tế trong những năm tới, hướng nhanh tới mục tiêu
trở thành một tỉnh công nghiệp vào năm 2015.

7


Với ý nghĩa đó, tôi chọn vấn đề “Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh lãnh đạo phát
triển khu công nghiệp từ năm 2000 đến năm 2010” làm đề tài luận văn cao
học chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là đề tài có ý nghĩa
lý luận và thực tiễn, hy vọng góp phần nhỏ bé vào việc đẩy mạnh phát triển
KCN Bắc Ninh nói riêng và cả nước nói chung.
2.Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài

Vấn đề công nghiệp đã thu hút sự quan tâm của nhiều người, đặc biệt là từ
khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, thực hiện đẩy mạnh CNH,HĐH. Hiện
nay, KCN đang được triển khai xây dựng ở hầu hết các tỉnh, thành phố trong
cả nước. Ở các địa phương, mô hình kinh tế KCN đã mang lại hiệu quả KT XH to lớn, thúc đẩy tăng trưởng GDP, góp phần nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần của nhân dân. Trên phạm vi cả nước, có nhiều công trình, nhiều hội
thảo, nhiều đề tài cấp nhà nước của các cơ quan lãnh đạo, quản lý hay các nhà
khoa học trong nước bàn về công nghiệp nói chung và đề cập một số khía
cạnh về phát triển các KCN.
Liên quan đến đề tài có nhiều công trình nghiên cứu đề cập dưới các dạng
khác nhau, trong đó có một số công trình nghiên cứu tiêu biểu sau:
Cuốn Tiềm năng Việt Nam thế kỉ XXI của Phan Văn Khải, Vũ Khoan, Võ
Hồng Phúc, Nhà xuất bản Thế giới năm 2001. Các tác giả khái quát những
tiềm năng phát triển công nghiệp, KCN của các địa phương, các vùng kinh tế
trọng điểm của Việt Nam. Đề án nghiên cứu khoa học của Bộ Xây dựng năm
1996: Điều tra, đánh giá và đề xuất các giải pháp thiết kế quy hoạch khu
công nghiệp Việt Nam thời kỳ 1996-2010. Đề án đánh giá thực trạng công tác
quy hoạch, thiết kế, xây dựng KCN ở Việt Nam và đề xuất những giải pháp
thiết kế xây dựng KCN thời kỳ 1996-2010. Cuốn Quy hoạch, quản lý và phát
triển các khu công nghiệp ở Việt Nam của Vụ Kiến trúc Bộ Xây dựng, Nhà
xuất bản Xây dựng năm 1998. Cuốn sách trình bày quy hoạch tổng thể các

8


KCN ở Việt Nam đến năm 2005, 2010. Tác phẩm Kinh nghiệm thế giới về
phát triển khu chế xuất và đặc khu kinh tế của Viện Kinh tế học, Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia xuất bản năm 1994. Tác phẩm trình bày về quan điểm khu
chế xuất của các nước trên thế giới, rút ra những bài học kinh nghiệm để vận
dụng vào Việt Nam. Đề tài khoa học của Bộ Xây dựng: Cơ sở hình thành các
khu công nghiệp tập trung ở Việt Nam hoàn thành năm 1996. Đề tài khẳng

định tính tất yếu về lý luận và thực tiễn xây dựng KCN ở nước ta và những
điều kiện cần thiết để hình thành các KCN. Cuốn Địa lý kinh tế - xã hội Việt
Nam, Lê Thông (chủ biên), Nhà xuất bản Giáo dục ấn hành năm 2001. Cuốn
sách trình bày tổng quan về đặc điểm tổ chức lãnh thổ công nghiệp của Việt
Nam, các hình thức tổ chức kinh tế lãnh thổ ở Việt Nam, khẳng định KCN là
một hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp đặc biệt cần được xây dựng.
Cuốn Tiềm năng kinh tế Đông Nam Bộ của Trần Hoàng Kim, Nhà xuất bản
Thống kê xuất bản năm 1995 chỉ ra lợi thế so sánh để phát triển kinh tế công
nghiệp của khu vực miền Đông Nam Bộ, đưa ra phương hướng phát triển các
ngành kinh tế có lợi thế. Cuốn Phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một
nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 của PGS.TSKH
Nguyễn Văn Đặng (chủ biên), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội năm
2007. Cuốn Điều tra tâm lý nông dân bị thu hồi đất làm khu công nghiệp do
Lưu Song Hà (chủ biên), Hà Nội, năm 2009. Cuốn Chiến lược huy động và sử
dụng vốn trong nước cho phát triển nền công nghiệp Việt Nam của Trần Xuân
Viện, Nhà xuất bản Lao động, Hà Nội, năm 1998.
Ngoài ra còn có một số bài viết trên các báo, tạp chí có liên quan đến đề tài.
Trong đó có các bài: Để góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả phát triển
khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam của Nguyễn Bích Đạt; bài Một số
nhận xét về quy hoạch khu công nghiệp, khu chế xuất trong tiến trình hội
nhập kinh tế quốc tế của Lưu Đức Hải; bài Cơ sở lý luận phát triển mô hình

9


khu công nghiệp trong quá trình công nghiệp hoá hiện nay của Trần Ngọc
Hiên; bài Tình hình phát triển cụm công nghiệp và những vấn đề đặt ra của
Lê Công Huỳnh; bài Đổi mới và tăng cường công tác xúc tiến đầu tư vào các
khu công nghiệp của Trần Ngọc Hưng; bài Khu công nghiệp, khu chế xuất với
vấn đề bảo vệ môi trường và các tác động về mặt xã hội của Chu Thái Thành;

bài Một số vấn đề trong công tác cải tạo và quy hoạch phát triển các khu
công nghiệp hiện nay của GS.TS Nguyễn Hữu Dũng; bài Tổng quan về hoạt
động của các khu công nghiệp, khu chế xuất của Vũ Huy Hoàng; bài Các khu
công nghiệp, khu chế xuất trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và
hội nhập của TS Đinh Sơn Hùng...Các tác giả khái quát thực trạng các KCN ở
Việt Nam, chỉ ra một số thành công, hạn chế và đề xuất ý kiến để phát triển
KCN, khẳng định vai trò nổi bật của khu chế xuất trong tiến trình đẩy mạnh
CNH,HĐH. Các tác giả còn chỉ ra những vấn đề giải quyết trong xây dựng
KCN như xây dựng nguồn nhân lực; công tác quy hoạch; công tác quản lý
nhà nước và một số vấn đề lý luận xây dựng KCN.
Một số luận án, luận văn nghiên cứu về KCN, tiêu biểu như: Đề tài Quy
hoạch xây dựng khu công nghiệp ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, Luận án
Tiến sĩ Kiến trúc của Nguyễn Xuân Hinh hoàn thành năm 2003. Đề tài Những
biện pháp phát triển và hoàn thiện công tác quản lý nhà nước đối với khu
công nghiệp ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Kinh tế của Lê Tuyển Cử hoàn
thành năm 2003. Luận văn Thạc sĩ của Chu Phương Anh (2003) “Hoàn thiện
quản lý nhà nước về đào tạo nghề ở Hà Nội đáp ứng sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá”, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Luận văn Thạc
sĩ của Bùi Vĩnh Kiên (2002) “Một số giải pháp đẩy mạnh phát triển các khu
công nghiệp tỉnh Bắc Ninh”, Trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội. Luận
văn Thạc sĩ của Hà Thị Là (2005) “Thực trạng và giải pháp phát triển nguồn
nhân lực cho các khu chế xuất, khu công nghiệp trên địa bàn thành phố Hồ

10


Chí Minh”, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Luận văn Thạc sĩ của
Bùi Hoàng Mai (2007) “Đổi mới quản lý nhà nước đối với các khu công
nghiệp ở Bắc Ninh”, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
Luận văn Thạc sĩ của Phạm Văn Tuyền (2000) “Nâng cao chất lượng lao

động trong thời kì đẩy mạnh công nghiệp hoá, hịên đại hoá ở tỉnh Thanh
Hoá”, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Luận văn Thạc sĩ của Vũ
Đức Quyết (2006) “Phát triển các khu công nghiệp trong quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh”, Trường Đại học Kinh
tế quốc dân Hà Nội. Luận văn Thạc sĩ của Hoàng Thị Thu Hải (2008) “Giải
pháp hỗ trợ nâng cao chất lượng nhân lực trong các khu công nghiệp tỉnh
Bắc Ninh”, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
Nhìn chung các công trình tập trung nghiên cứu về công nghiệp, về phát
triển KCN; nghiên cứu vấn đề đổi mới cơ chế quản lý, chính sách kinh tế
công nghiệp; nêu lên những vấn đề cần tiếp tục giải quyết như quản lý sử
dụng đất đai, thực hiện chính sách xã hội, xây dựng cơ sở hạ tầng, chuyển
dịch cơ cấu kinh tế. Nghiên cứu con đường thực trạng của quá trình
CNH,HĐH; nêu lên những thành tựu, bài học và những hạn chế cần khắc
phục trong xây dựng, phát triển KCN.
Đối với việc nghiên cứu Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh lãnh đạo phát triển KCN
trong những năm đổi mới còn rất ít tác giả đề cập đến. Cho đến nay, chưa có
công trình nào nghiên cứu về vấn đề Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh lãnh đạo phát
triển KCN trong những năm 2000-2010. Chính vì thế, khi nghiên cứu đề tài
này sẽ không trùng với bất cứ công trình nào đã được công bố. Tuy nhiên, để
giúp cho việc nghiên cứu đạt được mục tiêu thì chính những kết quả của các
công trình nghiên cứu trên sẽ là tài liệu, tư liệu quý để tác giả tham khảo, kế
thừa.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

11


* Mục đích
Làm sáng tỏ sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh về phát triển KCN từ
năm 2000 đến năm 2010, trên cơ sở đó rút ra một số kinh nghiệm của Đảng

bộ tỉnh Bắc Ninh về lãnh đạo phát triển KCN để vận dụng vào những năm tới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Trình bày yêu cầu khách quan Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh lãnh đạo phát triển
KCN trong những năm 2000-2010.
- Phân tích, luận giải làm rõ chủ trương và quá trình chỉ đạo của Đảng bộ
tỉnh Bắc Ninh về phát triển KCN từ năm 2000 đến năm 2010.
- Đánh giá thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và rút ra một số kinh nghiệm
từ quá trình Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh lãnh đạo phát triển KCN trong 10 năm
(2000-2010).
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu hoạt động lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh về phát triển
KCN
* Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: nghiên cứu chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Bắc
Ninh về phát triển KCN.
- Về thời gian: Luận văn nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Bắc
Ninh phát triển KCN trong 10 năm (2000-2010). Tuy nhiên, để bảo đảm tính
hệ thống và đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn có đề cập đến khoảng
thời gian trước năm 2000 (từ khi tái lập tỉnh Bắc Ninh – năm 1997).
- Về không gian: Nghiên cứu KCN trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh hiện nay.

12


5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận, phương pháp duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh;
các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển

công nghiệp.
* Cơ sở thực tiễn
Từ thực tiễn xây dựng, phát triển KCN trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh trong
những năm 2000 đến năm 2010.
* Phương pháp nghiên cứu
Quá trình nghiên cứu luận văn có sử dụng phương pháp lịch sử, phương
pháp logic và sự kết hợp 2 phương pháp này là chủ yếu, đồng thời còn sử
dụng một số phương pháp khác như: thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp...
để làm rõ các nội dung của luận văn.
6. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn góp phần tổng kết lịch sử Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh về lãnh đạo
phát triển kinh tế trong những năm đổi mới. Kết quả của luận văn góp phần
cung cấp những căn cứ khoa học để tiếp tục bổ sung, phát triển chủ trương
chính sách về phát triển KCN ở tỉnh Bắc Ninh trong thời kỳ mới.
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu để tham khảo trong nghiên cứu,
giảng dạy, học tập các chuyên đề về Lịch sử Đảng trong các nhà trường.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu luận
văn bao gồm 3 chương:
Chương 1: Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh lãnh đạo phát triển khu công nghiệp từ
năm 2000 đến năm 2005

13


Chương 2: Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh lãnh đạo đẩy mạnh phát triển khu công
nghiệp trong những năm 2005 – 2010
Chương 3: Kết quả và một số kinh nghiệm từ quá trình Đảng bộ tỉnh Bắc
Ninh lãnh đạo phát triển khu công nghiệp trong những năm 2000 - 2010


14


Chương 1
ĐẢNG BỘ TỈNH BẮC NINH LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN
KHU CÔNG NGHIỆP TỪ NĂM 2000 ĐẾN NĂM 2005

1.1. Yêu cầu khách quan phát triển khu công nghiệp ở tỉnh Bắc Ninh
từ năm 2000 đến năm 2005
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò khu công nghiệp
* Khái niệm khu công nghiệp
Cuộc cách mạng công nghiệp bùng nổ vào thế kỷ XVIII tại Anh đã tạo ra
một bước chuyển biến mới trong nền kinh tế và lao động máy móc đã thay thế
lao động chân tay. Với sự bùng nổ của cuộc cách mạng công nghiệp, các
KCN đã được hình thành và phát triển ở các nước tư bản vào những năm cuối
của thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Các KCN đầu tiên được thành lập ở
Manchester (Anh) vào năm 1896, ở Ý thành lập KCN Napoli vào năm 1940.
Cho đến nay KCN đã xuất hiện ở hầu hết các nước trên thế giới và ở cả Việt
Nam. Về khái niệm KCN trên thế giới đã có nhiều khái niệm khác nhau. Ở
mỗi khu vực, mỗi quốc gia đều có khái niệm riêng về KCN, khu chế xuất của
mình:
Ở Thái Lan cho rằng KCN tương tự như một thành phố công nghiệp, một
cộng đồng hoàn chỉnh. Mỗi KCN được quy hoạch đầy đủ các tiện nghi đa
dạng, hệ thống nước thải, hệ thống kết cấu hạ tầng hoàn hảo, thương mại,
thông tin liên lạc, bệnh viện, trường học và khu chung cư dành cho công nhân.
Tổ chức phát triển công nghiệp liên hợp quốc (UNIDO) quan niệm: Khu
chế xuất là khu vực được giới hạn về hành chính, có khi về địa lý, được
hưởng một chế độ thuế quan cho phép tự do nhập trang thiết bị và sản phẩm
nhằm mục đích sản xuất sản phẩm xuất khẩu, chế độ thuế quan được ban


15


hành cùng với những quy định luật pháp ưu đãi, chủ yếu về thuế nhằm thu hút
đầu tư nước ngoài.
Còn ở Việt Nam, KCN được đề cập đến từ khi miền Bắc xây dựng khu
gang thép Thái Nguyên, miền Nam khi Mỹ nguỵ xây dựng KCN Biên Hoà.
Quy chế KCN, khu chế xuất, KCNC ban hành kèm theo Nghị định số 36/CP
ngày 24 – 4 - 1997 của Chính phủ xác định khái niệm về KCN:
KCN là khu tập trung các doanh nghiệp công nghiệp chuyên sản xuất hàng
công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới
địa lý xác định, không có dân cư sinh sống, do Chính phủ hoặc Thủ tướng
Chính phủ quyết định thành lập. Trong KCN có thể có các doanh nghiệp chế
xuất.[10]
Tuỳ theo mục đích, tính chất có thể phân chia KCN thành các loại hình cơ
bản:
Khu chế xuất là KCN tập trung các doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng
xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động
xuất khẩu, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống; do Chính
phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập. Khu chế xuất là một loại
hình khá thích hợp với những quốc gia mới thực hiện nền kinh tế mở cửa như
Việt Nam. Nó là cầu nối nền kinh tế trong nước với nền kinh tế thế giới, là
vùng đệm có tác dụng thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
KCNC thường được xây dựng trên cơ sở viện nghiên cứu khoa học, trường
đại học lớn, hệ thống các công xưởng và khu thử nghiệm hỗ trợ. KCNC có
vai trò to lớn, phát triển công nghệ kỹ thuật cao, thu hút công nghệ cao của
nước ngoài, chuyển giao công nghệ cao và nâng cao năng lực nội sinh của các
ngành công nghệ cao trong nước. Mục tiêu phát triển của các KCNC thường

16



hướng tới các ngành công nghiệp mũi nhọn: điện tử, sản xuất phần mềm,
công nghệ sinh học, vi điện tử…
KCN thông thường là một khu vực lãnh thổ giới hạn, được chuẩn bị chu
đáo về kết cấu hạ tầng, trong đó tập trung các doanh nghiệp chuyên sản xuất
công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống.
Đặc khu kinh tế có đặc điểm là tổng hợp tất cả các hoạt động sản xuất kinh
doanh toàn diện, công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, du lịch, tài chính, ngân
hàng, nghiên cứu và ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ trong một
vùng lãnh thổ riêng biệt, có diện tích lớn hơn nhiều so với KCN thông thường
và khu chế xuất. Đặc khu kinh tế đóng vai trò là cửa ngõ giao lưu KT- XH
của nước chủ nhà với thế giới bên ngoài.
Theo Thạc sỹ Vũ Đức Quyết - Trưởng ban BQL các KCN Bắc Ninh đã
đưa ra quan niệm về KCN dựa trên hoạt động thực tiễn tại các KCN Bắc Ninh:
KCN là một tổ chức không gian KT - XH được xác định bởi những giới hạn
nhất định, trong đó có những điều kiện thuận lợi về hạ tầng (gồm hạ tầng kỹ
thuật và hạ tầng xã hội), cơ chế chính sách và cơ chế quản lý nhằm tạo ra lợi
thế thu hút đầu tư phát triển các doanh nghiệp sản xuất hàng công nghiệp, các
hoạt động kinh doanh dịch vụ và nghiên cứu chuyển giao đạt hiệu quả cao.[46,
tr.8]
Dù theo hình thức nào, KCN đều là một khu vực có ranh giới địa lý xác
định, có những thuận lợi về tự nhiên, xây dựng kết cấu hạ tầng về xã hội và
nhân văn để thu hút, tập trung các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp và dịch
vụ, hoạt động theo một phương thức quản lý và được áp dụng những cơ chế,
chính sách ưu đãi nhất định nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao.
* Đặc điểm khu công nghiệp

17



Từ năm 1986 đến nay, các KCN được xây dựng theo quy định thống nhất
trên toàn quốc. Là khu vực tập trung các doanh nghiệp công nghiệp, có ranh
giới xác định, sử dụng chung kết cấu hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội. Các
doanh nghiệp trong KCN được hưởng một số quy chế ưu đãi riêng của Nhà
nước và địa phương, có BQL thực hiện quản lý nhà nước thống nhất theo
Nghị định 36/CP.
KCN có môi trường đầu tư thông thoáng hơn các vùng khác. KCN được
Nhà nước dành cho những ưu đãi trong chính sách thuế, tài chính, thủ tục hải
quan, hành chính, giá thuê đất…Các KCN chủ yếu là hoạt động kinh tế hướng
ngoại, bao gồm sản xuất công nghiệp, chế biến phục vụ sản xuất, hoạt động
xuất khẩu và kinh doanh dịch vụ. Các KCN thường nằm ở vị trí thuận lợi về
giao thông, có điều kiện phát triển sản xuất thương mại. KCN là khu vực tập
trung tương đối nhiều xí nghiệp công nghiệp trong một khu vực có ranh giới
rõ ràng, có hàng rào ngăn cách với xung quanh.
Hầu hết các doanh nghiệp KCN Việt Nam được hình thành trong thời kỳ
đổi mới cơ chế quản lý nền kinh tế từ bao cấp sang cơ chế thị trường có sự
định hướng và quản lý của Nhà nước và ngày càng tiến sâu vào hội nhập khu
vực, quốc tế nên các KCN được xây dựng ngày càng hoàn chỉnh hơn. Chất
lượng công trình hạ tầng ngày một cao. Các KCN đang được hoàn chỉnh
nhằm đáp ứng đa dạng nhu cầu đầu tư trong nước và nước ngoài, thích ứng
các loại hình công nghệ sản xuất.
* Vai trò khu công nghiệp
Xây dựng phát triển KCN ở Việt Nam là một giải pháp nhằm sử dụng và
phát huy vai trò, tác dụng to lớn của hình thức kinh tế tư bản chủ nghĩa nhà
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nước có nền kinh tế
chậm phát triển. Lênin coi chủ nghĩa tư bản nhà nước là một mắt xích trung
gian giữa sản xuất nhỏ và chủ nghĩa xã hội “Phải biết nghĩ đến những mắt

18



xích trung gian có thể tạo điều kiện thuận lợi cho bước chuyển từ chế độ gia
trưởng, từ nền tiểu sản xuất lên chủ nghĩa xã hội”[39, tr.276]. Phát triển kinh
tế tư bản nhà nước sẽ giúp chúng ta hình thành một hệ thống kiểm kê kiểm
soát toàn bộ nền kinh tế quốc dân “Hiện nay, thực hiện chủ nghĩa tư bản nhà
nước có nghĩa là thực hiện chế độ kiểm kê kiểm soát mà trước đây các giai
cấp tư bản đã thực hiện”[40, tr.311]. Nó tạo cơ sở cho việc đẩy lùi và ngăn
chặn những tiêu cực trong các cơ sở kinh tế nhất là kinh tế nhà nước. Trong
khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, kinh tế tư bản nhà nước không chỉ
đem lại nguồn vốn, chuyển giao công nghệ, mà thậm chí còn quan trọng hơn
là đem vào cách quản lý kinh tế thị trường hiện đại. Sử dụng hình thức kinh tế
tư bản nhà nước chẳng những chúng ta thu hút được tư bản nước ngoài, mà
còn thu hút được tư bản trong nước bằng cách cổ phần hoá doanh nghiệp nhà
nước, hùn vốn liên doanh và qua đó thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, ở Việt Nam phải xây dựng “…nền kinh tế xã
hội chủ nghĩa với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học và kỹ thuật
tiên tiến”[44, tr.588]. Thực hiện mục tiêu đó ta phải tiến hành công nghiệp
hoá là một yêu cầu khách quan. Người còn chỉ rõ: “Muốn cho chủ nghĩa cộng
sản thực hiện được, cần phải có kỹ nghệ…”[41, tr.272]. Người cũng khẳng
định những điều kiện ấy chúng ta vẫn chưa có đủ. Do vậy, Việt Nam phải
phát triển khoa học - công nghệ, tận dụng những thành tựu khoa học của các
nước tiên tiến, hợp tác giao lưu với các nước phát triển trên thế giới. Hồ Chí
Minh đã khẳng định:
“Nước Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong
mọi lĩnh vực: a) Nước Việt Nam dành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của
các nhà tư bản, nhà kỹ thuật nước ngoài trong tất cả các ngành kỹ nghệ của
mình. b) Nước Việt Nam sẵn sàng mở rộng các cảng, sân bay, đường xá giao
thông cho việc buôn bán và quá cảnh quốc tế.” [42, tr.470]


19


Hồ Chí Minh luôn bày tỏ quan điểm mong muốn được hợp tác với các
nhà tư bản nước ngoài trên tinh thần bình đẳng, hai bên cùng có lợi, vừa xây
dựng mối quan hệ hữu nghị, vừa tranh thủ sự giúp đỡ của họ để phát triển
kinh tế: “Chúng tôi bao giờ cũng mong muốn kiến thiết lại nước chúng tôi với
sự giúp đỡ của tư bản và các nhà chuyên môn Pháp để mưu lợi ích chung cho
cả hai dân tộc [43, tr.19]. Muốn vậy chúng ta phải xây dựng các KCN, tạo
môi trường thông thoáng nhằm thu hút các nhà tư bản bỏ vốn đầu tư vào Việt
Nam.
Trong bối cảnh mở rộng giao lưu hợp tác khu vực và quốc tế ngày càng
sâu rộng, Đảng ta chủ trương phát triển kinh tế tư bản nhà nước được sử dụng
ở các khu vực: công nghiệp, xây dựng, dịch vụ, nông nghiệp nông
thôn…trong đó hình thức KCN, khu chế xuất , KCNC.
Lịch sử hình thành, phát triển các KCN cho thấy rằng, sự ra đời của các
KCN gắn liền với quá trình xuất khẩu tư bản của các nước tư bản phát triển
sang các nước đang phát triển. KCN có vai trò to lớn đối với phát triển KT XH của các nước đang phát triển. Các KCN ra đời góp phần quan trọng tạo
môi trường đầu tư thuận lợi thu hút nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài. Ở các
KCN, nhà nước sẽ có điều kiện cải tiến và hoàn thiện hệ thống chính sách, tạo
nên hành lang pháp lý thuận lợi, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật
đồng bộ, hiện đại, vai trò đó giúp KCN trở thành điểm thu hút vốn đầu tư
trong nước và ngoài nước. KCN hấp thu nhanh nhất chính sách mới phát triển
hiệu quả nền kinh tế quốc dân. KCN là nơi thí điểm những chính sách kinh tế
mới, đặc biệt là những chính sách về kinh tế đối ngoại và luôn đi tiên phong
trong phát triển kinh tế quốc dân.
KCN là nơi tiếp cận, đổi mới và chuyển giao có hiệu quả những thành tựu
khoa học công nghệ, tăng năng suất lao động. KCN được hình thành dựa trên
cơ sở khoa học và theo một mô hình tập hợp các doanh nghiệp cùng ngành.


20


Do vậy sẽ liên kết với nhau trong hấp thu công nghệ và trình độ quản lý tiên
tiến, hiện đại trên thế giới. Nhờ áp dụng những thành tựu khoa học công nghệ,
các doanh nghiệp giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao
năng lực cạnh tranh trên thị trường trong nước, khu vực và trên thế giới.
KCN là nơi tạo việc làm và nâng cao chất lượng lao động. Xây dựng và
phát triển các KCN để tạo thêm nhiều việc làm là một trong những mục tiêu
của các nước đang phát triển. Làm việc trong các KCN, người lao động được
tiếp cận với tác phong công nghiệp làm việc khẩn trương và theo một dây
chuyền tiên tiến cùng kỷ luật lao động cao buộc các nhà quản lý và người lao
động phải rèn luyện và không ngừng học hỏi nâng cao trình độ chuyên môn.
KCN là cầu nối hội nhập nền kinh tế nội địa với thế giới. KCN thường gắn
liền với các điều kiện thuận lợi cả về vị trí địa lý và các dịch vụ đi kèm cùng
với các chính sách ưu đãi. Đó là điều kiện thuận lợi thu hút doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ là cầu
nối tốt nhất cho doanh nghiệp trong nước tiếp cận với thế giới.
KCN góp phần quan trọng vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc
đẩy đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. KCN hình thành và phát triển sẽ góp phần
làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp
và dịch vụ, làm giảm tỷ trọng nông nghiệp trong nền kinh tế. Số lượng, chủng
loại, chất lượng hàng hoá và kim ngạch xuất khẩu vừa phản ánh sức cạnh
tranh vừa phản ánh năng lực hội nhập và khả năng cân bằng ngoại thương của
nền kinh tế. Để tạo môi trường thông thoáng, Nhà nước thực hiện cơ chế “một
cửa, tại chỗ”. Thực hiện cơ chế này sẽ tạo nên bước đột phá trong cải thiện
môi trường đầu tư, tạo nên sức hấp dẫn của các KCN và tạo nên sức lan toả,
tác động làm thay đổi cơ chế quản lý của toàn bộ nền kinh tế.
KCN có vai trò quan trọng thúc đẩy quá trình CNH,HĐH đất nước. Các
KCN thúc đẩy CNH,HĐH nông nghiệp, phát triển kinh tế nông thôn, tạo sự


21


phát triển đồng đều giữa các vùng. Với tư cách là hạt nhân hình thành những
đô thị mới, KCN góp phần to lớn cải tạo, xây dựng mới các đô thị, phát triển
kết cấu hạ tầng kỹ thuật, mở rộng hệ thống dịch vụ công cộng.
1.1.2. Điều kiện tự nhiên, đặc điểm KT – XH ở Bắc Ninh tác động tới
phát triển khu công nghiệp
* Điều kiện tự nhiên
Bắc Ninh là một tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ - khu
vực kinh tế năng động, thuộc tam giác kinh tế trọng điểm Hà Nội - Hải Phòng
- Quảng Ninh; có các tuyến đường giao thông chính thuận lợi bao gồm: Quốc
lộ 1A nối Lạng Sơn – Hà Nội - Thành phố Hồ Chí Minh, Quốc lộ 18, Quốc lộ
38, Quốc lộ 3 mới, vành đai 3 và 4 Hà Nội, đường sắt liên vận Hà Nội - Lạng
Sơn – Trung Quốc, đường sắt cao tốc Yên Viên – Cái Lân, hệ thống đường
sông trên sông Cầu, sông Đuống, sông Thái Bình nối với các cảng sông, cảng
biển trong khu vực. Dân số hơn 1 triệu người, nguồn nhân lực của Bắc Ninh
khá dồi dào, có tới 50,5% thành phần dân số có khả năng lao động. Bắc Ninh
là vùng đất có truyền thống văn hiến, khoa bảng trình độ dân trí tương đối cao,
đã hoàn toàn xoá mù chữ, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp phổ thông trung học thi đỗ
vào đại học và cao đẳng khá cao. Ngoài ra, Bắc Ninh còn nằm gần các nguồn
năng lượng lớn như thuỷ điện Hoà Bình, nhiệt điện Phả Lại, nhiệt điện Uông
Bí và than Quảng Ninh.
Bảng 1.1. Chiều dài quốc lộ
TT

Tên

Chiều dài


Giai đoạn 2003 - 2005

Giai đoạn 2006 – 2010

đường
1

Quốc lộ I
mới

19,8

Hoàn thành xây mới 4 làn xe Hoàn thiện đủ 6 làn xe có rải
và GPMB đủ 6 làn xe xây phân cách, rào chắn theo tiêu
mới các cầu vượt.

22

chuẩn đường cao tốc.


2

Quốc

lộ

26,2


- Bắc Ninh - Phả Lại: Nâng Mở mới đoạn Bắc Ninh - Phả

18

cấp, mở rộng theo tiêu đường Lại đạt tiêu chuẩn đường cao
cấp 3. Nâng cấp đoạn từ tốc
TT.TP Bắc Ninh-Quốc lộ 1
theo TC đường đô thị cấp 1Đoạn N.Bài -Bắc Ninh:
Mở mới theo Tiêu chuẩn
đường cao tốc.

3

Quốc

lộ

23,0

Nâng cấp, mở rộng theo tiêu Xây dựng vỉa hè, thoát nước

38
4

đường cấp 3

Quốc lộ 1

20,0


các khu dân cư

Nâng cấp đủ T/c nền mặt Nâng cấp theo tiêu chuẩn



đường cấp 3
Tổng

đường cấp 1

89,0 Km
Nguồn: Sở Giao thông vận tải

Bảng 1.2. Chiều dài tỉnh lộ

TT

1

2

Tên

C. dài

đường

( KM )


ĐT 280

24

ĐT 281

22,3

Giai đoạn 2003 – 2005

Giai đoạn 2006 – 2010

Nâng cấp rải nhựa 7 Km từ

Nâng cấp 6 Km đoạn từ Km 11

Km 0 – Km 7 lên T/c cấp 4

- Km 17 lên cấp 4

Làm mặt đường nhựa 6 Km đoạn -Nâng cấp 3 Km đoạn Từ Km
từ Km 6 - Km 12 theo T/c cấp 4

12 - Km 15 lên cấp 3-đô thị
- Nâng cấp 7,3 km từ km15-km
22,3 lên đường đô thị

3

ĐT 282


30

Nâng cấp 15 Km đoạn Km 9 - Nâng cấp 15 Km đoạn còn lại
Km 24 lên cấp 3 đô thị.

23


4

ĐT 283

22

Làm mặt đường nhựa 8 Km đoạn Nâng
từ Km 4 - Km12 T/c cấp 4

cấp 3,5 Km đoạn từ

Km12,5 - Km16 lên

Nâng cấp theo TC đường đô thị 4 cấp 4
Km từ Km 0 –Km 4
5

ĐT 286

18,0


Nâng cấp 10,5 Km đoạn Từ

Nâng cấp 5 Km đoạn Từ Km 13

Km 0 - Km 10,5 nên cấp 4

- Km 18 nên cấp 4

Thảm 2,5 km theo tiêu chuẩn
đường đô thị
6

ĐT 295

20,9

Nâng cấp 2 Km đoạn từ Km 74 - Nâng cấp 13 Km đoạn Từ Km
Km 76 theo tiêu chuẩn đường đô 60 - Km 73 nên T/c cấp 4.
thị;

Xây cầu Đông xuyên

5 km mở mới nền
7

ĐT 291

27

Nâng cấp rải nhựa 8 Km đoạn từ Nâng cấp 11 Km đoạn Từ Km 4

Km 15 - Km 23 T/c cấp 4

- Km 15 nên T/c cấp 4

Xây cầu Chì và 4 km đường đầu
cầu
8

ĐT 270

21,9

Nâng cấp 6 Km đoạn từ Km 14 - Nâng cấp 7 Km đoạn Từ Km 7 Km 20 ( Đê sông đuống ) theo Km 14 lên cấp 4, xây cầu Sộp
tiêu chuẩn đường cấp 4

9

ĐT 271

20

Nâng cấp 3 Km đoạn Từ Km 12 - Nâng cấp 12 Km đoạn Km 0 Km 15 theo T/c đường đô thị, 3 Km12 lên cấp 4, xây cầu Đồng
Km đoạn từ Km 15 - Km 18 theo kỵ II
T/c cấp 3, xây cầu Đồng kỵ I

10

ĐT 272

6,5


Làm mặt nhựa 2 Km đoạn từ Km Nâng cấp 4,5 Km đoạn từ Km 0
4,5 - Km 6,5 T/c cấp 4

11

ĐT 284

14,7

Làm mặt đường nhựa 2 Km đoạn Làm mặt đường nhựa 11 Km
Từ Km 2 - Km 4 theo T/c cấp 4

12

ĐT 285

23,7

- Km 4,5 lên T/c cấp 4

đoạn còn lại theo T/c cấp 4

Làm mặt đường nhựa 18,5 Từ Km Nâng cấp 7 Km đoạn từ Km 3 -

24


5,2 - Km 23,7 theo T/c cấp 4; Xây Km 10 lên T/c cấp 3.
mới bến phà Thi và 1,7 km đường

dẫn
Tổng

251,0

108,2 Km

145,3 Km
Nguồn: Sở Giao thông vận tải

Bảng 1.3. Bảng phụ lục các tuyến đường đô thị

STT

Huyện (Thị xã)

Đường đô thị

Giai đoạn

Giai đoạn

(km)

2003 – 2005

2006 - 2010

1


Từ Sơn

5

1,5

3,5

2

Thuận Thành

7

2

5

3

Quế Võ

10

3

7

4


Tiên Du

12

3,5

8,5

5

Yên phong

8

2,5

5,5

6

Gia Bình

10

3

7

7


Lương Tài

8

2,5

5,5

60

18

42

Tổng

Nguồn: Sở Giao thông vận tải
Bảng 1.4. Bảng phụ lục các tuyến đường gom và đường ven Khu công nghiệp
STT

Tên đường

Chiều dài

Giai đoạn

Giai đoạn

(KM)


2003 - 2005

2006 – 2010

1

Đường gom Quốc lộ 1

30

30

2

Đường ven KCN Quốc lộ 18

50

50

3

Đường ven KCN Quốc lộ 38

5

5

85


85

4

Tổng

25


Tài nguyên đất: Bắc Ninh có tổng diện tích tự nhiên khoảng 82.271,2 ha,
chiếm 0,25% diện tích đất tự nhiên cả nước. Trong đó: diện tích đất nông
nghiệp theo thống kê đất đai đến ngày 01/01/2009 chiếm 60,03%, đất ở chiếm
12,05%, đất chuyên dùng chiếm 20,30%, đất chưa sử dụng chiếm 0,77%.
Theo điều tra khảo sát, toàn tỉnh Bắc Ninh hiện có 15 loại đất chính bao gồm:
đất cát ven sông, đất phù sa được bồi của hệ thống sông Thái Bình, đất xám
bạc màu trên phù sa cổ... [47, tr.5]
Tài nguyên khoáng sản: Bắc Ninh nghèo về tài nguyên khoáng sản, ít về
chủng loại, chủ yếu chỉ có vật liệu xây dựng như đất sét làm gạch, ngói, gốm
ở Quế Võ và Tiên Du; đất sét làm gạch chịu lửa ở thành phố Bắc Ninh, đất cát
kết với trữ lượng khoảng 1 triệu tấn ở Thị Cầu - Bắc Ninh, đá sa thạch ở Vũ
Ninh - Bắc Ninh với trữ lượng khoảng 300.000m3. Ngoài ra, còn có than bùn
ở Yên Phong với trữ lượng 60.000 – 200.000 tấn. [47, tr.6-7]
Tài nguyên nước: Bắc Ninh có 3 hệ thống sông lớn chảy qua, gồm sông
Đuống, sông Cầu và sông Thái Bình. Trong đó:
Sông Đuống, có chiều dài 42km nằm trên đất Bắc Ninh, tổng lượng nước
bình quân 31,6 tỷ m3. Mực nước cao nhất tại bến Hồ tháng 8/1945 là 9,64m,
cao hơn so với mặt ruộng là 3 - 4m. Sông Đuống có hàm lượng phù sa cao.
Sông Cầu, tổng chiều dài 290km với đoạn chảy qua tỉnh Bắc Ninh dài
70km, lưu lượng hàng năm khoảng 5 tỷ m3. Sông Cầu có lượng nước trong
mùa lũ cao từ 3 - 6m, cao nhất là 8m, trên mặt ruộng 1- 2m.

Sông Thái Bình, thuộc loại sông lớn của miền Bắc có chiều dài 385km
đoạn chảy qua tỉnh Bắc Ninh dài 17km.

26


×