Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

Đảng bộ tỉnh đắklắc lãnh đạo giải quyết vấn đề di dân tự do từ năm 2004 đến năm 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.88 MB, 120 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

NGUYỄN KHẮC TRINH

ĐẢNG BỘ TỈNH ĐẮKLẮK LÃNH ĐẠO
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ DI DÂN TỰ DO
TỪ NĂM 2004 ĐẾN NĂM 2010

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

HÀ NỘI - 2011


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ...............................................................................................................................1

Chƣơng 1. TÌNH TRẠNG DI DÂN TỰ DO ĐẾN TỈNH ĐẮKLẮK VÀ NHỮNG
TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
CỦA TỈNH ......................................................................................... 7

1.1. Điều kiện tự nhiên và tình hình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh
ĐắkLắk ............................................................................................. 7
1.1.1. Điều kiện tự nhiên và dân cư .................................................................. 7

1.1.2. Tình hình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh ĐắkLắk ..................... 13
1.2. Tình hình di dân tự do đến ĐắkLắk và tác động của nó đến sự phát triển
kinh tế - xã hội của tỉnh .................................................................. 20
1.2.1. Tình hình di dân tự do đến ĐắkLắk ................................................ 20
1.2.2. Một số tác động của di dân tự do .................................................... 29
Chƣơng 2. CHỦ TRƢƠNG, CHÍNH SÁCH GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ DI DÂN TỰ


DO VÀ QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN Ở TỈNH ĐẮK LẮK (2004 - 2010) ... 45

2.1. Chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và Đảng bộ, chính quyền
tỉnh ĐắkLắk .................................................................................... 45
2.1.1. Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước .............................. 45
2.1.2. Các chủ trương, chính sách của Đảng bộ, chính quyền tỉnh

ĐắkLắk.................................................................................................. 59
2.2. Chỉ đạo giải quyết vấn đề di dân tự do ....................................................... 68
2.2.1. Ổn định địa bàn cư trú cho đồng bào di cư tự do............................. 68
2.2.2. Ổn định và phát triển sản xuất ........................................................ 72
Chƣơng 3. NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM................................................ 78
3.1. Nhận xét chung.......................................................................................... 78
3.1.1. Ưu điểm .......................................................................................... 78
3.1.2. Một số hạn chế ............................................................................... 87


3.2. Một số kinh nghiệm ................................................................................... 92
3.2.1. Phải coi việc giải quyết dứt điểm vấn đề di dân tự do là một công
tác trọng tâm trong chương trình phát triển kinh tế - xã hội của
tỉnh ................................................................................................. 93
3.2.2. Phát huy vai trò chủ động của các cấp uỷ, chính quyền cơ sở
trong việc tuyên truyền, ngăn chặn tình trạng di cư tự do ............... 95
3.2.3. Đổi mới toàn bộ các chính sách sắp xếp, bố trí ổn định dân cư ....... 96
3.2.4. Chỉ đạo việc xây dựng và thực hiện các chương trình phát triển
kinh tế - xã hội ở những vùng tái định cư có hiệu quả thiết thực
hơn ................................................................................................. 98
3.2.5. Xây dựng các điểm dân cư mới thành những cộng đồng xã hội
bền vững và truyền thống ............................................................... 99
3.2.6. Đầu tư phát triển kinh tế - xã hội cho các tỉnh có đông đồng bào

xuất cư .......................................................................................... 101
KẾT LUẬN .................................................................................................... 104
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. 107
PHỤ LỤC

..................................................................................................... 114


QUY ƯỚC VIẾT TẮT

DCTD:

Di cư tự do

DTTS:

Dân tộc thiểu số

TP:

Thành phố

UBND:

Ủy ban nhân dân


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

ĐắkLắk là tỉnh nằm ở khu vực Tây Nguyên - là trung tâm kinh tế,
chính trị, văn hóa của vùng, nổi tiếng với cà phê, cao su và các lễ hội. Đây là
vùng giàu có và đa dạng về tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là tài nguyên đất.
Với diện tích tự nhiên 13.125 km2, đất đai màu mỡ, rất thuận lợi cho việc phát
triển kinh tế nông - lâm nghiệp, đặc biệt là trồng cây công nghiệp lâu năm có
lợi ích kinh tế cao. Vì vậv, ĐắkLắk đã và đang là điểm đến hấp dẫn của dân
cư các địa phương trong cả nước, nhất là dân cư các tỉnh miền núi phía Bắc nơi mà điều kiện tự nhiên có nhiều khó khăn, khan hiếm về đất sản xuất.
Từ năm 1990, Chính phủ cùng các ngành các cấp từ Trung ương đến địa
phương đã ban hành và triển khai nhiều chủ trương, chính sách nhằm giảm
thiểu, ngăn chặn và giải quyết tình trạng này. Tuy nhiên, với nhiều hình thức
khác nhau, tình trạng di dân tự do đến ĐắkLắk vẫn tiếp tục tăng lên và hệ quả
mà nó gây ra đã và đang ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của tỉnh. Đó là
nguyên nhân quan trọng gây ra tình trạng thiếu đất sản xuất, phá rừng lấy đất
trồng trọt, quá tải cơ sở hạ tầng, xung đột về lợi ích, văn hóa… giữa dân cư mới
đến với cộng đồng dân cư bản địa, đồng thời cũng là nguyên cớ quan trọng gây
bất ổn xã hội, ảnh hưởng tiêu cực đến an ninh chính trị của địa phương. Chính
vì vậy, giải quyết tình trạng này hiện đang là vấn đề nóng bỏng không chỉ riêng
đối với ĐắkLắk mà đối với cả vùng Tây Nguyên nói chung.
Tình hình trên đòi hỏi phải xây dựng các chính sách phù hợp nhằm
ngăn chặn và giải quyết vấn đề di dân tự do tạo ra sự ổn định để phát triển
kinh tế - xã hội của địa phương là một yêu cầu quan trọng và cấp thiết. Muốn
vậy, cần tổng kết sự lãnh đạo của Đảng địa phương trong việc giải quyết vấn
đề di dân tự do, từ đó rút ra những kinh nghiệm mạng tính định hướng trong
việc giải quyết dứt điểm tình trạng di dân tự do. Vì vậy, tôi đã chọn đề tài


“Đảng bộ tỉnh ĐắkLắk lãnh đạo giải quyết vấn đề di dân tự do từ năm 2004
đến năm 2010” làm luận văn tốt nghiệp chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng
sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu vấn đề

Liên quan đến vấn đề mà đề tài nghiên cứu đã có một số công trình, đề
tài nghiên cứu và các bài viết có liên quan, đáng chú ý là một số bài viết của
Đặng Nghiêm Vạn, Lê Duy Đại, Lê Mạnh Khoa, Nguyễn Đức Hùng, Đỗ Tiến
Dũng, Nguyễn Xuân Du, Nguyễn An Vinh, Hoàng Lê, in trong sách Tây
Nguyên trên đường phát triển do Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam (nay là
Viện Khoa học xã hội Việt Nam) chủ trì năm 1990. Đây là tập hợp những bài
viết của những người tham gia vào chương trình nghiên cứu và khảo sát về
điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của Tây Nguyên lần thứ II (còn được gọi
là chương trình nghiên cứu Tây Nguyên II). Trên cơ sở những nghiên cứu cơ
bản về các điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của Tây Nguyên, các tác giả đã
đưa ra một số dự báo về các vấn đề liên quan đến việc phát triển kinh tế - xã
hội Tây Nguyên, trong đó bước đầu quan tâm và đưa ra những khuyến cáo
cho tình trạng di dân và tăng dân số cơ học ở Tây Nguyên.
Từ năm 1990, khi tình trạng di dân vào Tây Nguyên diễn mạnh mẽ,
việc nghiên cứu di dân vào Tây Nguyên được chú trọng và đẩy mạnh hơn. Có
thể kể ra một số công trình tiêu biểu như: Di dân tự do và các biện pháp tác
động của Trung tâm dân số và nguồn lao động (Hà Nội, 1994); Dân số và dân
số tộc người ở Việt Nam của tác giả Khổng Diễn (Nhà xuất bản KHXH, Hà
Nội, 1995); dự án Điều tra cơ bản và xác định các giải pháp giải quyết tình
trạng di dân tự do đến Tây Nguyên và một số tỉnh khác của Cục Định canh,
định cư & Kinh tế mới (1996); Báo cáo Kết quả điều tra di dân nông thôn tại
tỉnh ĐắcLắc của Viện Khoa học lao động và các vấn đề xã hội (1997). Các
công trình nghiên cứu này đã điều tra, khảo sát và đánh giá tình hình di dân tự
do đến Tây Nguyên qua các giai đoạn khác nhau và đề xuất những giải pháp

2


khoa học nhằm giải quyết vấn đề di dân tự do đến các tỉnh Tây Nguyên nói
chung và ĐắkLắk nói riêng.

Những nghiên cứu nói trên là những tài liệu quan trọng, hữu ích, cần
thiết cho việc triển khai đề tài này. Tuy vậy, cũng dễ nhận thấy, các nghiên
cứu đó chỉ đề cập đến những vấn đề di dân nói chung, hoặc thiên về những
vấn đề di dân tự do của các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc vào Tây
Nguyên. Cho đến nay chưa có công trình, đề tài nào nghiên cứu về sự lãnh
đạo của Đảng bộ tỉnh ĐắkLắk trong việc giải quyết vấn đề di dân tự do. Do
vậy, đây là một hướng nghiên cứu mới mà sự thành công của đề tài sẽ có
những đòng góp nhất định cả về lý luận và thực tiễn đối với việc giải quyết
vấn đề di dân tự do ở tỉnh ĐắkLắk nói riêng, khu vực Tây Nguyên và cả nước
nói chung.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Làm sáng tỏ sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh ĐắkLắk trong việc giải
quyết vấn đề di dân tự do trong những năm 2004 - 2010. Từ đó, bước đầu
tổng kết một số kinh nghiệm về sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh ĐắkLắk trong
việc giải quyết vấn đề di dân tự do.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh ĐắkLắk và chỉ
ra những nguyên nhân dẫn đến tình trạng di cư đến địa bàn tỉnh ĐắkLắk.
- Khái quát thực trạng di cư tự do đến tỉnh ĐắkLắk và tác động của nó
đến kinh tế - xã hội của tỉnh.
- Trình bày một cách hệ thống các chủ trương, chính sách của Đảng,
Nhà nước cũng như các chương trình dự án đã và đang thực hiện liên quan
đến việc giải quyết vấn đề di cư tự do.

3


- Trình bày một cách hệ thống các chủ trương, chính sách của Đảng,
Nhà nước cũng như các chương trình dự án đã và đang thực hiện liên quan

đến việc giải quyết vấn đề di dân tự do.
- Trình bày các chủ trương, chính sách của Đảng bộ tỉnh ĐắkLắk và
đánh giá việc chỉ đạo thực hiện giải quyết vấn đề di dân tự do và những vấn
đề liên quan trong khoảng thời gian mà đề tài nghiên cứu.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
- Những chủ trương, giải pháp của Đảng bộ, chính quyền tỉnh ĐắkLắk
trong việc giải quyết vấn đề di dân tự do.
- Quá trình thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng bộ tỉnh
ĐắkLắk trong việc giải quyết vấn đề di dân tự do trong những năm 2004 - 2010.
* Phạm vi nghiên cứu
- Di dân tự do bao gồm nhiều đối tượng khác nhau, trong đề tài này, tác
giả chỉ tập trung nghiên cứu tình trạng di dân tự do từ các vùng nông thôn ở
các đia phương trong cả nước, đặc biệt là vùng đồng bào dân tộc thiểu số phía
Bắc đến vùng nông thôn trên địa bàn tỉnh ĐắkLắk.
- Các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và chính quyền địa
phương trong việc giải quyết vấn đề này từ năm 2004, khi tỉnh ĐắkLắk cũ
được chia tách thành hai tỉnh ĐắkLắk và ĐăkNông đến năm 2010 là điểm
chốt mà Chính phủ chỉ đạo phải cơ bản chấm dứt tình trạng di dân tự do.
5. Cơ sở lý luận, nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản
Việt Nam, các báo cáo, tổng kết trong các văn kiện, các công trình nghiên cứu
liên quan đến việc giải quyết vấn đề di cư tự do.

4


* Nguồn tài liệu:

- Các tác phẩm, bài viết của Hồ Chí Minh về chính sách dân tộc và việc
lãnh đạo chăm lo, ổn định đời sống cho đồng bào các dân tộc thiểu số, miền
núi, vùng sâu vùng xa.
- Văn kiện các kỳ Đại hội VI, VII. VIII, IX và X của Đảng và các Nghị
quyết, Chỉ thị của Đảng về vấn đề di cư tự do.
- Các Nghị quyết, chương trình, đề án… của Chính phủ và các cấp, các
ngành trung ương và địa phương về giải quyết vấn đề di dân tự do đã ban
hành, đặc biêt là trong những năm 2004 - 2010.
- Các văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh ĐắkLắk, Nghị quyết của Tỉnh ủy,
các Huyện ủy; các Báo cáo của UBND tỉnh, các sở, ban, ngành; Niên giám
thống kê, các bài báo, tạp chí Trung ương và địa phương.
- Các công trình, đề tài nghiên cứu của các học giải trong và ngoài
nước liên quan đến vấn đề mà đề tài nghiên cứu.
* Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu là: phương
pháp lịch sử và lôgic, ngoài ra còn kết hợp với các phương pháp khác như
phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, khảo sát thực tế để giải
quyết các nội dụng mà đề tài nghiên cứu.
6. Đóng góp của luận văn
- Khái quát thực trạng di dân tự do và tác động của nó đến sự phát triển
kinh tế - xã hội của tỉnh ĐắkLắk.
- Hệ thống hóa các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và của
Đảng bộ, chính quyền tỉnh ĐắkLắk về việc giải quyết vấn đề di cư tự do trong
những năm 2004 - 2010.
- Đánh giá những kết quả, hạn chế và rút ra những kinh nghiệm trong
việc lãnh đạo giải quyết vấn đề di cư tự do trên địa bản tỉnh ĐắkLắk.

5



7. Bố cục của luận văn
Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn gồm
3 chương:
Chương 1: Tình hình di dân tự do đến tỉnh ĐắkLắk và những chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước
Chương 2: Sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh ĐắkLắk nhằm giải quyết vấn
đề di dân tự do trong những năm (2004 - 2010).
Chương 3: Nhận xét và kinh nghiệm.

6


Chƣơng 1
TÌNH TRẠNG DI DÂN TỰ DO ĐẾN TỈNH ĐẮKLẮK
VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN
KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA TỈNH
1.1. Điều kiện tự nhiên và tình hình phát triển kinh tế - xã hội của
tỉnh ĐắkLắk
1.1.1. Điều kiện tự nhiên và dân cư
Vị trí địa lý: Theo các nhà nghiên cứu, Tây Nguyên là tên gọi tắt của
“Ban vận động đồng bào thiểu số cao nguyên miền Tây Nam Trung Bộ”
thuộc Ủy ban kháng chiến miền Nam Trung Bộ, được thành lập ở Liên khu V
vào giữa năm 1947 [63, tr.6]. Tên gọi này dùng để chỉ vùng cao nguyên rộng
lớn phía Tây Nam Trung Bộ, các nhà nghiên cứu nước ngoài gọi đây là Cao
nguyên Trung phần. Trong sơ đồ phân vùng kinh tế nước ta hiện nay, Tây
Nguyên gồm 5 tỉnh là Kon Tum, Gia Lai, ĐắkLắk, Đắk Nông 1 và Lâm Đồng.
Theo phân vùng địa lý Việt Nam, tỉnh ĐắkLắk trải dài từ 11044’ 13032’ vĩ độ Bắc đến 107023' - 109006' kinh độ Đông. Phía Bắc giáp tỉnh Gia
Lai, phía Nam giáp tỉnh Lâm Đồng, phía Đông giáp tỉnh Phú Yên và tỉnh
Khánh Hòa, phía Tây giáp tỉnh Đăk Nông và tỉnh Mundun Kiri - Vương quốc
Cămpuchia với 73 km đường biên giới chung, trên đó có quốc lộ 14C chạy

dọc theo biên giới hai nước rất thuận lợi cho việc phát triển kinh tế vùng biên
kết hợp với bảo vệ an ninh quốc phòng.
Tổng diện tích tự nhiên toàn tỉnh ĐắkLắk là 13.125 km2, chiếm 27,6%
diện tích vùng Tây Nguyên và 3.9 % diện tích tự nhiên của cả nước. Theo số
liệu tổng điều tra dân số ngày 01/4/2009, Đắk Lắk có 1.728.380 người. Trong
đó, dân số đô thị có 22,5%, dân số nông thôn chiếm 77,5%. Cộng đồng dân
cư Đắk Lắk gồm 44 dân tộc, trong đó người Kinh chiếm trên 70%; các dân
tộc thiểu số như Ê Đê, M'nông, Thái, Tày, Nùng,... chiếm gần 30% [80].
1

Tỉnh Đắk Nông được tách ra từ tỉnh Đắk Lắk tại Nghị quyết số 22/2003/QH11 ngày 26/11/2003 của Quốc hội.

7


Các đơn vị hành chính gồm: TP Buôn Ma Thuột, Thị xã Buôn Hồ; các
huyện: Ea Hleo, Easup, Krông Năng, Krông Buk, Buôn Đôn, Cư’Mgar,
Eakar, M’Đrăc, Krông Pắk, Krông Ana, Krông Bông, Lắk, Cư Kuin. Trung
tâm của tỉnh là thành phố Buôn Ma Thuột, thành phố cấp I đầu tiên của khu
vực Tây Nguyên.
Vị trí địa lý của ĐắkLắk có rất nhiều thuận lợi trong giao lưu, buôn
bán, trao đổi hoàng hoá, mở rộng thị trường và hợp tác kinh tế, văn hóa, du
lịch với vùng Duyên hải miền Trung, miền Đông Nam bộ và cả nước. Từ vị
trí địa lý thuận lợi đó nên từ xưa tới nay, ĐắkLắk được xem là thủ phủ, là
trung tâm giao lưu kinh tế, văn hóa - xã hội của khu vực Tây Nguyên.
Ngoài vị trí thuận lợi về giao lưu kinh tế, ĐắkLắk còn có vị trí chiến
lược quan trọng về quốc phòng an ninh; bảo vệ môi trường, không những đối
với vùng Tây Nguyên mà còn đối với cả nước.
BẢN ĐỒ HÀNH CHÍNH TỈNH ĐẮKLẮK


8


Về địa hình: ĐắkLắk là tỉnh có địa hình, địa mạo đa dạng bậc nhất Tây
Nguyên, là một cao nguyên nằm ở độ cao 500 - 800 mét so với mặt nước
biển, độ cao tuyệt đối lớn nhất là 2445m (đỉnh Chư Yang Sin), thấp nhất là
350 m. Địa hình tương đối bằng phẳng, đại bộ phận diện tích của tỉnh nằm ở
phía Tây Trường Sơn, có hướng thấp dần từ Đông Nam sang Tây Bắc. Địa
hình đa dạng, đồi núi xen kẽ bình nguyên và thung lũng, khái quát có thể chia
thành các dạng địa hình chính sau: Địa hình vùng núi; địa hình cao nguyên;
những vùng bình nguyên; vùng đồng bằng trũng… trong đó địa hình cao
nguyên chiếm phần lớn diện tích của tỉnh.
Do có sự đa dạng về địa hình nên nơi đây có nhiều sự lựa chọn trong
việc canh tác và sản xuất nông nghiệp, đặc biệt rất thích hợp với việc làm
nương rẫy, một loại hình canh tác vẫn quen thuộc với đồng bào dân tộc miền
núi phía Bắc. Cộng thêm lợi thế đất đai màu mỡ nên ĐắkLắk nói riêng và các
tỉnh Tây Nguyên nói chung đã và đang là điểm thu hút số dân di cư tự do đến
lập nghiệp ngày càng đông. Cũng do địa hình rộng và phức tạp, trong khi đội
ngũ cán bộ quản lý còn ít và có những hạn chế nhất định trong công tác quản
lý dân cư, nên việc các hộ dân di cư tự do đến sinh sống và canh tác có phần
dễ dàng hơn so với các địa phương khác trong cả nước.
Tài nguyên thiên nhiên: ĐắkLắk là địa phương có nguồn tài nguyên
thiên nhiên đa dạng, phong phú và quý hiếm. Cụ thể có thể liệt kê ra một số
nhóm tài nguyên chính như sau:
Nguồn nước: ĐắkLắk là tỉnh có hệ thống sông suối dày đặc với mật độ
sông suối là 0,8 km/km2. Trong đó có hai hệ thống sông chính là sông
Sêrêpôk và sông Ba. Trong đó sông Sêrêpôk là hệ thống sông lớn nhất, có
diện tích lưu vực chiếm tới 2/3 diện tích lãnh thổ. Tổng diện tích lưu vực của
hai con sông này là 44.000 km2 (Sông Sêrêpôk là 30.100 km2 - trong phạm vi
của Đắk Lắk là 4200 km2; Hệ thống lưu vực sông Ba là 13.900 km2) [68, tr.

6-7].

9


Ngoài ra, do đặc điểm địa hình, sự ưu đãi của thiên nhiên và bàn tay
con người, ở ĐắkLắk đã hình thành gần 441 hồ chứa, 63 đập dâng, với lượng
nước chứa tương đối lớn, có thể đáp ứng đủ cho nhu cầu sản xuất nông
nghiệp của tỉnh trong suốt mùa khô. Nhờ có nguồn nước từ của các sông, suối
và các hồ chứa nên việc tiến hành sản xuất nông nghiệp đảm bảo đời sống của
các hộ dân là vấn đề không quá khó khăn như các địa phương khác.
Thổ nhưỡng: Từ sản phẩm phun trào của núi lửa phun lên lớp đá phiến
thạch, mi ca và sa phiến thạch được phong hoá, tạo cho Tây Nguyên nói chung
và ĐắkLắk nói riêng một lớp đất đai màu mỡ được phân bố đều ở các địa
phương trong tỉnh. Theo kết quả phân loại đất đã được công bố năm 1995 (FAO
- UNESCO), đất ở ĐắkLắk được chia thành 11 nhóm và 84 đơn vị đất đai.
Theo kết quả kiểm kê đất đai tỉnh ĐắkLắk năm 2005, tổng diện tích tự
nhiên toàn tỉnh là 1312,5 nghìn ha, bao gồm: Đất nông nghiệp 1.084,6 nghìn
ha, chiếm 82,64% diện tích tự nhiên (trong đó đất sản xuất nông nghiệp có
464,8 nghìn ha, chiếm 35,41%, bao gồm đất trồng cây hàng năm có 200,4
nghìn ha, chiếm 15,27%. Đất trồng lúa 53,4 nghìn ha, đất trồng cây hàng năm
khác 147 nghìn ha; đất trồng cây lâu năm có 264,4 nghìn ha, chiếm 20,14%);
Đất lâm nghiệp 618,2 nghìn ha, chiếm 47,1% tổng diện tích đất tự nhiên
(trong đó đất rừng sản xuất 246,6 nghìn ha, chiếm 18,8%, rừng phòng hộ là
143,4 nghìn ha chiếm 10,9%, rừng đặc dụng 228,2 nghìn ha, chiếm 17,4%).
Ngoài ra còn có đất nuôi trồng thủy sản có 1.597 ha và các loại đất nông
nghiệp khác trên 11 nghìn ha; Đất phi nông nghiệp 91,55 nghìn ha, chiếm
6,98% diện tích tự nhiên; Đất chưa sử dụng 136,3 nghìn ha, chiếm 10,39%
diện tích tự nhiên… [68, tr.7-8].
Đất đai ở ĐắkLắk khá thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp (dễ khai thác,

chi phí đầu tư cải tạo thấp, độ an toàn sinh thái cao). Đặc biệt ĐắkLắk có
nhóm đất đỏ bazan với diện tích 324.679 ha chiếm 24,81% diện tích tự nhiên
của tỉnh, phần lớn nằm trên địa hình tương đối bằng phẳng phù hợp cho phát

10


triển cây công nghiệp dài ngày có giá trị kinh tế cao như cà phê, ca cao, cao
su v.v… Ngoài ra còn có nhiều loại đất khác như đất xám, đất nâu, đất nâu
thẫm, thích hợp với các loại cây công nghiệp ngắn ngày, cây ăn quả và một số
cây lâu năm... Đây là điều kiện khá thuận lợi cho việc phát triển nền sản xuất
nông nghiệp đa dạng.
Vì có quỹ đất lớn, bao gồm nhiều nhóm đất khác nhau, đất đai lại màu
mỡ, dễ sử dụng và khả năng sinh lợi nhanh chóng, điều này đã tạo ra một lực
hút hấp dẫn đối với dân di cư từ khắp mọi miền của đất nước, nhất là những
nơi điều kiện sản xuất khó khăn, nổi bật nhất là khu vực miền núi phía Bắc vốn
điều kiện sống khó khăn, thiếu đất sản xuất lại có thói quen du canh, du cư.
Tài nguyên rừng; Tính đến năm 2005, diện tích đất lâm nghiệp của
ĐắkLắk có khảng 618,2 nghìn ha. Tổng trữ lượng rừng khoảng 59 - 60 triệu
m3, trong đó trữ lượng rừng thường xanh 36,3 triệu m3 (rừng giàu và trung
bình 24,4 triệu m3, rừng nghèo 8,9 triệu m3, rừng non 2,9 triệu m3), trữ lượng
rừng khộp 21,2 triệu m3 (rừng giàu và trung bình 4,7 triệu m3, rừng nghèo
12,2 triệu m3, rừng non 4,2 triệu m3), rừng hỗn giao 1 triệu m3, rừng trồng 0,3
triệu m3, tổng trữ lượng rừng tre nứa 335,9 triệu cây…[68, tr. 9]. Với diện tích
hiện có, ĐắkLắk là địa phương có diện tích rừng rộng lớn và phong phú nhất
cả nước. Với thảm thực vật đa dạng, chất đất màu mỡ, nguồn lợi lớn, nên
rừng ở ĐắkLắk đang là điểm tấn công của rất nhiều đối tượng khác nhau.
Trong đó, dân di cư tự do là một trong những lực lượng đông đảo và thường
xuyên nhất.
Về dân cư và phân bố dân cư: Theo số liệu tổng điều tra dân số ngày

01/4/2009, dân số tỉnh Đắk Lắk là 1.728.380 người. Trong đó, dân số đô thị
chiếm 22,5%, còn lại chủ yếu là dân số nông thôn chiếm 77,5%. Cộng đồng
dân cư Đắk Lắk gồm 44 dân tộc. Trong đó, người Kinh chiếm trên 70%; các
dân tộc thiểu số như Ê Đê, M'nông, Thái, Tày, Nùng,... chiếm gần 30%, trong
các dân tộc thiểu số ở ĐắkLắk, người Êđê là dân tộc thiểu số bản địa có số

11


lượng đông và cư trú lâu đời nhất nên được xem là những người chủ của
mảnh đất này.
Mật độ dân số trung bình toàn tỉnh là 131 người/km2, trong đó tập
trung chủ yếu ở Thành phố Buôn Ma Thuột (840,5 người/km2) và các thị trấn
huyện lỵ, ven các trục quốc lộ [80].
ĐắkLắk là một trong những địa phương có mật độ dân số thưa nhất cả
nước. Chính mật độ dân số thưa, nguồn tài nguyên thiên nhiên đa dạng và
phong phú, cộng thêm địa hình phức tạp, khó quản lý nên trong 10 năm trở lại
đây, dân số ở ĐắkLắk luôn có sự gia tăng cơ học do yếu tố di dân tự do đến.
Điều này đã tác động thường xuyên đến cộng đồng dân cư ở ĐắkLắk, đặc biệt
là ở những xã vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới. Thực trạng này đã tạo nên
một sức ép lớn đối với tỉnh trong việc giải quyết đất ở, đất sản xuất và các vấn
đề đời sống xã hội, an ninh trật tự và môi trường sinh thái.
Bảng 1.1: Bảng tổng hợp dân số các huyện trong tỉnh ĐắkLắk
TT
01
02
03
04
05
06

07
08
09
10
11
12
13
14

Vùng
Số hộ dân (hộ)
Tổng số dân (ngƣời)
TP. Buôn Ma Thuột
81.066
331.744
Ea H’leo
28.170
120.076
Ea Súp
14.211
59.378
Cư M’gar
35.404
156.633
Lak
13.193
58.737
Krông Ana
18.564
80.422

Krông Buk (cũ)
34.580
154.237
Krông Năng
27.142
116.805
Krông Pak
45.367
196.337
M’Drak
14.793
65.980
Ea Kar
33.528
135.330
Krông Bông
18.449
86.026
Cư Kuin
22.204
98.536
Buôn Đôn
13.682
59.136
Nguồn: [18, tr.25]
Nguồn lao động: Dân số trong độ tuổi lao động chiếm 53,83%, mức độ

tăng dân số trong thời kỳ 2001- 2005 là 2,68%, từ 816,6 nghìn người năm

12



2000 lên 923,3 nghìn người năm 2005. Với tỉ lệ tăng dân số tự nhiên cao,
cộng với tình trạng tăng cơ học do dân từ các tỉnh khác di cư đến, nguồn lao
động của ĐắkLắk đã tăng lên đáng kể. Số lao động đang làm trong các ngành
kinh tế của tỉnh từ 731,7 nghìn người năm 2000 tăng lên 834 nghìn người
năm 2005 (chiếm 90,3% số người trong độ tuổi lao động). Đây là tiền đề quan
trọng để phát triển kinh tế - xã hội, song cũng tạo nên một sức ép lớn trong
việc giải quyết việc làm và các vấn đề xã hội như giáo dục - đào tạo, y tế, cơ
sở hạ tầng phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân v.v…
Tuy có nguồn lao đồi dào, song trình độ dân trí và chất lượng nguồn lao
động còn thấp; tỉ lệ lao động được đào tạo chưa cao, năm 2005 là 20,5%;
thiếu đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật, công nhân lành nghề và cán bộ tổ
chức quản lý. Đây cũng là một trong những hạn chế của tỉnh trong quá trình
đẩy mạnh phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Tóm lại, ĐắkLắk vừa có sự giàu có, hung vĩ của cao nguyên cây công
nghiệp và những cánh rừng đại ngàn, vừa có sự trù phú của những vùng đồng
ruộng màu mỡ trồng cây lương thực, thực phẩm. Tài nguyên ĐắkLắk nhiều về
số lượng, tốt về chất lượng, phong phú về thể loại đã và đang đáp ứng tốt cho
nhiều ngành kinh tế phát triển như: Trồng cây công nghiệp, cây lương thực
thực phẩm, chăn nuôi đại gia súc, công nghiệp khai thác, chế biết gỗ, chế biến
giấy, ngành chế biến dược liệu... Những tiềm năng phát triển của ĐắkLắk đã
và đang là lực hút hấp dẫn thu hút lượng dân di cư tự do, đặc biệt là các tỉnh
miền núi phía Bắc - nơi mà điều kiện kinh tế còn khó khăn, thiếu đất sản xuất
và hệ quả mà nó để lại đã và đang hàng ngày tác động đến sự phát triển chung
của tỉnh.
1.1.2. Tình hình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh ĐắkLắk
ĐắkLắk là một tỉnh nông - công nghiệp, cho đến nay, sản xuất nông
nghiệp vẫn giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế.


13


Cũng như các tỉnh khác của miền Nam Việt Nam, ĐắkLắk trong thời
kỳ Mỹ và chính quyền Sài Gòn cai quản, nền kinh tế bị chi phối bởi những
mục tiêu chiến tranh và nhu cầu của các tập đoàn quyền lực.
Việc tập trung dân cư vào Thành phố Buôn Ma Thuột, thị trấn Gia
Nghĩa, và các thị trấn, thị tứ ven các tuyến lộ theo tính chất đô thị hoá cưỡng
bức đã tạo ra các trung tâm dịch vụ, buôn bán, xây dựng một số xí nghiệp
công nghiệp chế biến và sản xuất hàng tiêu dùng với quy mô nhỏ tạo ra sự
cách biệt giữa nông thôn và thành thị, đặc biệt là sự cách biệt giữa các bản
làng vùng sâu vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số với các khu vực khác
trong tỉnh. Sản xuất nông nghiệp bị đình đốn, đất đai bị hoang hoá, tài nguyên
thiên nhiên vừa bị huỷ hoại, vừa bị khái thác một cách lãng phí…
Sau ngày đất nước được độc lập, thống nhất, giống như các địa phương
khác trên toàn miền Nam, ĐắkLắk bắt tay vào công cuộc hàn gắn vết thương
chiến tranh, khôi phục phát triển sản xuất. Trong tiến trình phát triển, đặc biệt
là trong thời kỳ đổi mới, kinh tế - xã hội ĐắkLắk đã có những bước chuyển
biến quan trọng và có nhiều nét khởi sắc. Kinh tế tăng trưởng ở mức khá cao
và liên tục, mức tăng GDP bình quân giai đoạn 2001 - 2005 là 10,05%; giai
đoạn 2006 - 2010 là 12,1%, trong đó công nghiệp - xây dựng tăng 18,44%,
thương mại - dịch vụ tăng 22,19%; nông - lâm - ngư nghiệp tăng 6,17%. Quy
mô nền kinh tế tăng mạnh, năm 2010 tổng GDP ước tính đạt 12.810 tỷ đồng,
gấp 1,7 lần so với năm 2005; bình quân đầu người tính theo giá hiện hành đạt
14,2 triệu đồng/người/năm, tương đương 963,3 USD (giá so sánh 1994) [35,
tr.21-22].
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực theo hướng giảm dần tỷ trọng nông
- lâm nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp - xây dựng và dịch vụ. Đến nay nông
- lâm nghiệp chiếm 49,9%, công nghiệp - xây dựng 17,4%, dịch vụ 32,7%.
Tổng kim ngạch xuất khẩu giai đoạn 2006 - 2010 đạt 2.931 triệu USD; kim

ngach nhập khẩu đạt 122 triệu USD. Đời sống đại bộ phận nhân dân trong
tỉnh đã và đang được cải thiện từng bước [35, tr.23].

14


Bảng 1.2: Bảng tổng hợp tốc độ tăng trưởng kinh tế theo GDP, giá so sánh 1994

Đơn vị: Tỷ đồng
Chỉ tiêu

2000

GDP theo giá so sánh năm 1994 4878,9

2003

2004

2005

Tăng bq
2001-2005

6047,6 6678,7 7235,2

8,20 %

- Nông, lâm, thuỷ sản


3783,7 4374,7 4691,0 4771,1

4,75 %

- Công nghiệp, xây dựng

354,5

557,3

21,50 %

- Khu vực dịch vụ

740,7

1115,6 1305,2 1525,3 15,54 %

Theo SXVC-Dịch vụ

4878,9 6047,6 6678,7 7235,2

8,20 %

- Sản xuất vật chất

4138,2

6,60 %


- Dịch vụ

740,7

Theo NN và phi NN

4878,9 6047,6 6678,7 7235,2

- Phi nông nghiệp

1095,2 1672,9 1987.7 2463,9 17,61 %

- Nông nghiệp

3783,7 4374,7 4691 4771,3

Chia theo ngành kinh tế

4932

682,5 938,8

5373,5 5697,4

1115,6 1305,2 1537,8 15,73 %
8,20 %
4,75 %

Nguồn: [18, tr.15]
Sản xuất nông nghiệp đang phát triển nhanh, tốc độ tăng trưởng bình

quân 6,17%/ năm. Cùng với việc đảm bảo lương thực tiêu dùng trong tỉnh,
ĐắkLắk đã hình thành được một số vùng sản xuất hàng hoá tập trung, thâm
canh cây công nghiệp như cà phê 170,4 nghìn ha, sản lượng 330,6 nghìn tấn,
tăng 30 nghìn tấn so năm 2000 mặc dù diện tích giảm; cao su 22,8 nghìn ha,
sản lượng 20,1 nghìn tấn, tăng 9,4 nghìn tấn; cây điều diện tích tăng nhanh
đạt 35,5 nghìn ha; sản lượng lương thực 746,4 nghìn tấn, tăng 1,8 lần so năm
2000... [68, tr.15].
Chăn nuôi tiếp tục phát triển với giá trị tăng bình quân 5 năm (2006 2010) là 28,87%; Đàn trâu có 21,5 nghìn con, đàn bò 162,1 nghìn con, đàn
lợn 643,7 nghìn con. Đã hình thành một số mô hình chăn nuôi trang trại, chăn
nuôi theo phương thức công nghiệp tiên tiến có qui mô lớn. Tuy nhiên vẫn
còn phân tán, đầu ra không ổn định, dịch bệnh chưa được khống chế.

15


Lâm nghiệp có bước chuyển hướng quan trọng từ khai thác rừng tự
nhiên là chính sang trồng mới, khoanh nuôi, giao khoán bảo vệ rừng, gắn khai
thác với chế biến theo kế hoạch. Chỉ tính riêng trong 5 năm (2006 - 2010) đã
trồng được 29,292 ha rừng tập trung và hơn 3,9 triệu cây phân tán, góp phần
nâng độ che phủ rừng lên 50%, tăng 3,9% so với năm 2005 [35, tr.25].
Sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp phát triển nhanh, đã tập
trung vào khai thác thế mạnh của tỉnh, nổi bật là thuỷ điện, chế biến nông - lâm
sản. Giá trị sản xuất công nghiệp (giá so sánh 1994) năm 2005 đạt 1.190,7 tỉ
đồng, tăng gần 2 lần so năm 2000; thời kỳ 2001-2005 tăng bình quân
14,8%/năm. Công nghiệp chế biến chiếm tỷ trọng lớn từ 79 - 82%, trong đó
công nghiệp chế biến nông lâm sản chiếm 60% giá trị sản xuất công nghiệp.
Đến năm 2010, toàn tỉnh đã 6.438 cơ sở sản xuất công nghiệp và tiểu
thủ công nghiệp, tăng thêm 1.288 cơ sở so với năm 2000. Trên địa bàn tỉnh có
92 nhà máy đang hoạt động, trong đó có 32 nhà máy chế biến cà phê công
suất trên 1000 tấn, 10 nhà máy chế biến cà phê bột và hàng trăm cơ sở sản

xuất nhỏ lẻ; 3 nhà máy chế biến cao su với tổng công suất 17 nghìn tấn…
Nhiều nhà máy đang xây dựng, khi hoàn thành sẽ đưa tốc độ tăng trưởng của
ngành công nghiệp lên nhanh vào những năm tới như: nhà máy chế biến cao
su, xưởng may giày da, Nhà máy thuỷ điện Buôn Kuốp, Buôn Tua Srah,
Krông Hing, Krông Kmar, Sêrêpok 3, Nhà máy chế biến cà phê bột.
Tuy có bước phát triển, song công nghiệp của ĐắkLắk còn nhiều vấn
đề nổi cộm: trang thiết bị và trình độ công nghệ còn lạc hậu; sản phẩm phần
nhiều là sơ chế, sản xuất thủ công nên giá trị thu nhập không cao; các doanh
nghiệp nhà nước chậm đổi mới, chưa có chiến lược sản phẩm, thị trường tiêu
thụ thiếu ổn định; doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn nhỏ, thiếu vốn đầu; cơ
chế chính sách chưa thực sự hấp dẫn so với các tỉnh lân cận; cơ sở hạ tầng các
khu cụm công nghiệp chưa đáp ứng được yêu cầu của các nhà đầu tư.
Kết cấu hạ tầng phát triển khá nhanh đã tạo điều kiện thuận lợi cho phát

16


triển kinh tế - xã hội, giao lưu thuận lợi hơn với các tỉnh trong khu vực Tây
Nguyên, Đông Nam Bộ, TP. Hồ Chí Minh, vùng Duyên hải miền Trung và
với Cămpuchia. Hầu hết các tuyến quốc lộ chạy qua địa phận tỉnh ĐắkLắk đã
được nâng cấp, cải tạo. Đường Hồ Chí Minh và tuyến đường Đông Trường
Sơn nối liền 7 tỉnh miền Trung và Tây Nguyên các đoạn qua địa phận tỉnh
ĐắkLắk đang được hoàn thiện phục vụ cho nhu cầu đi lại và phát triển kinh tế
- xã hội của Tây Nguyên nói chung và ĐắkLắk nói riêng. Sân bay Buôn Ma
Thuột đã được cải tạo và nâng cấp, phục vụ hành khách đi các tuyến Buôn Ma
Thuột - Đà Nẵng - Hà Nội - TP. Hồ Chí Minh và ngược lại. Hệ thống đường
tỉnh lộ cũng được nâng cấp và nhựa hoá đến 75,4%, đường liên huyện 52%,
đường liên xã 25% [35, tr.25].
Hệ thống thuỷ lợi được đầu tư và xây dựng khá lớn. Hiện nay toàn tỉnh có
533 công trình thủy lợi lớn, nhỏ. Các công trình này đang phục vụ tưới cho gần

18 nghìn ha lúa, 40,6 nghìn ha cà phê và các cây công nghiệp khác [68, tr.84].
Hệ thống lưới điện phát triển khá nhanh, đã hoàn thành giai đoạn một
cấp điện cho 315 thông buôn và kéo điện sinh hoạt cho 39.755 hộ đồng bào
dân tộc thiểu số, nâng tổng số 94% thôn buôn có điện, 95% số hộ được dùng
điện, 100% xã có lưới điện quốc gia [35, tr.26].
Hạ tầng đô thị và công nghiệp cũng có bước phát triển đáng kể, tốc độ
đô thị hoá tăng nhanh. Hiện tại ĐắkLắk có 01 thành phố cấp I trực thuộc tỉnh,
01 thị xã và 13 thị trấn trong toàn tỉnh.
Văn hoá - xã hội có bước chuyển biến tích cực; chất lượng giáo dục đào tạo có những bước phát triển mạnh và thực chất hơn. Tỷ lệ trẻ đi mẫu
giáo, học sinh tiểu học, học sinh là người dân tộc thiểu số tăng nhanh (chiếm
32,8% tổng số học sinh toàn tỉnh), ở các huyện, thị xã, thành phố đều có
trường dân tộc nội trú, tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn là 98,41%. Đào tạo nghề tăng
nhanh, đưa tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng từ 27,2% năm 2005 lên 37% năm
2010 [35, tr.28]. Trên địa bàn tỉnh ĐắkLắk có 01 trường Đại học, 04 trường

17


Cao đẳng và hàng chục trường Trung cấp với đủ các ngành nghề đào tạo.
Công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân, nhất là ở vùng sâu,
vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số có nhiều tiến bộ. Hiện tại ĐắkLắk là
địa phương có nhiều bệnh viện đa khoa nhất khu vực Tây Nguyên với hệ
thống các tuyến bệnh viện đa khoa cấp huyện, cấp tỉnh và đang hình thành các
bệnh viện tuyến khu vực và chuyên khoa. Chất lượng khám chữa bệnh không
ngừng được nâng cao, công tác xã hội hoá trong lĩnh vực y tế được tỉnh quan
tâm thúc đẩy.
Chính sách dân tộc, tôn giáo, các chương trình mục tiêu quốc gia về xoá
đói giảm nghèo, giải quyết việc làm, chương trình phát triển kinh tế - xã hội các
xã đặc biệt khó khăn, việc thực hiện các chính sách về tái định cư, giải quyết
đất ở, nhà ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt… có nhiều chuyển biến tích cực và

đem lại hiệu quả thiết thực. Tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống còn 10% [35, tr.28].
An ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo, từng bước
ngăn chặn và làm thất bại mọi âm mưu diễn biến hoà bình của chủ nghĩa đế
quốc và các thế lực thù địch. Hệ thống chính trị cơ sở từng bước phát huy dân
chủ của nhân dân, vai trò lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước, góp phần
tích cực vào công tác quản lý, điều hành và phát triển chung của toàn tỉnh.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, quá trình phát triển kinh tế - xã
hội của ĐắkLắk còn tồn tại những hạn chế nhất định. Việc phát triển kinh tế
còn tự phát, chưa theo quy hoạch, kế hoạch và nhiều mặt thiếu ổn định, thiếu
vững chắc, không phát huy hiệu quả những lợi thế sẵn có. Chậm áp dụng tiến
bộ khoa học vào sản xuất nên năng suất, chất lượng và hiệu quả còn thấp.
Phát triển văn hoá, xã hội, cải thiện đời sống nhân dân chưa tương xứng với
phát triển kinh tế.
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch còn chậm, tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ
trong GDP còn thấp (50,1% trong GDP). Thu ngân sách còn thấp, mới đạt
23,94%/năm dự toán chi của địa phương. Các hình thức quan hệ sản xuất

18


trong nông, lâm nghiệp chưa theo kịp yêu cầu phát triển sản xuất hàng hoá
lớn, cần phải được tổ chức và sắp xếp lại. kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội chưa
đáp ứng yêu cầu phát triển, đặc biệt là thuỷ lợi.
Phát triển kinh tế chưa kết hợp tốt với giải quyết các vấn đề xã hội, tình
trạng di dân tự do, chặt phá rừng, sang nhượng đất đai không đúng pháp luật
chưa được ngăn chặn và xử lý hiệu quả. Phân hoá giàu nghèo diễn ra nhanh,
đời sống một bộ phận không nhỏ đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ vẫn còn
nhiều khó khăn, nhất là vùng sâu, vùng xa. Việc thực hiện chính sách đất ở,
nhà ở cho đồng bào dân tộc khó khăn còn chậm. Thu nhập của nhân dân có
tăng nhưng mới bằng khoảng 52% so với bình quân cả nước. Kết quả giảm

nghèo thiếu bền vững, tỷ lệ hộ nghèo trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số,
vùng sâu, vùng xa còn cao, nguy cơ tái nghèo và chênh lệch mức sống giữa
các vùng còn khá lớn. Mặt bằng dân trí thấp và chưa được cải thiện.
Chưa gắn chặt việc phát triển kinh tế với xây dựng hệ thống chính trị,
tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và xây dựng khối đại đoàn kết
toàn dân [35, tr.34]. Việc kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với xây dựng thế
trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân chưa đem lại hiệu quả thiết
thực. Có phần chủ quan, mất cảnh giác trước âm mưu “diễn biến hoà bình” bạo
loạn lật đổ của các thế lực thù địch, để bọn “FULRO” lưu vong cấu kết với
những người chưa chịu cải tạo nhen nhóm tổ chức phản động “Đê Ga” kích
động, lừa mị, khống chế một bộ phận quần chúng gây rối trật tự công cộng.
“Tình hình trên có những nguyên nhân từ âm mưu chống phá của các
thế lực thù địch, nhưng chủ yếu là do khuyết điểm, yếu kém của ta trong lãnh
đạo, chỉ đạo, điều hành cả trên lĩnh vực kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh
quốc phòng, xây dựng thực lực cách mạng và thực hiện chính sách dân tộc,
tôn giáo của Đảng và Nhà nước” [9, tr.35].
Như vậy, bản thân việc phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh ĐắkLắk vẫn
đang còn nhiều vấn đề cần quan tâm nghiên cứu tìm giải pháp và tập trung

19


đầu tư để phát triển. Do đó, phải chịu thêm trách nhiệm trong việc giải giải
quyết vấn đề di dân tự do đã và đang là một gánh nặng lớn đối với Đảng bộ
và các cấp chính quền tỉnh ĐắkLắk. Vì vậy, có thể khẳng định, di dân tự do
đến ĐắkLắk đã tạo ra nhiều xáo trộn lớn trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội của tỉnh và là một lực cản lớn trên con đường phát triển của một tỉnh vùng
cao vốn có nhiều khó khăn và việc giải quyết nó là một bài toán chung đối với
Đảng bộ, chính quyền tỉnh ĐắkLắk và các cấp, bộ ngành Trung ương và các
địa phương có liên quan.

1.2. Tình hình di dân tự do đến ĐắkLắk và tác động của nó đến sự
phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh
1.2.1. Tình hình di dân tự do đến ĐắkLắk
Về quy mô dân số và địa bàn xuất cư, nhập cư: Do vị trí địa lý và điều
kiện tự nhiên có nhiều thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là phát
triển nông, lâm nghiệp nên ĐắkLắk là vùng trọng điểm của các tỉnh Tây
Nguyên trong việc phân bố lại lực lượng lao động và dân cư trên cả nước, nhằm
khai thác tiềm năng sẵn có, giải quyết việc làm, phát triển kinh tế - xã hội, củng
cố an ninh quốc phòng… Ngoài việc tiếp nhận hàng chục ngàn hộ của các tỉnh
đến xây dựng vùng kinh tế mới theo kế hoạch của Nhà nước, ĐắkLắk còn phải
tiếp nhận một lượng lớn dân di cư tự do đến sinh sống, lập nghiệp.
Theo số liệu thống kê, từ năm 1976 đến năm 2005 đã có 58.245 hộ với
283.318 khẩu của hơn 60 tỉnh thành trong cả nước di cư tự do đến cư trú trên
địa bàn 12 huyện và thành phố trong tỉnh, chiếm 17% dân số của tỉnh [16,
tr.3]. Từ năm 2005 đến đầu năm 2010 có 1.368 hộ với 6.763 nhân khẩu của
trên 35 tỉnh, thành phố trong cả nước di cư tự do đến, bằng 109,41% tổng số
hộ di cư đến trong thời kỳ 2000 - 2004. Như vậy, tính bình quân mỗi năm có
khoảng hơn 200 hộ với hơn 1000 khẩu di cư tự do đến tỉnh ĐắkLắk.

20


Bảng 1.3: Tổng hợp dân di cư tự do đến ĐắkLắk từ năm 1976 - 2010
STT

Giai đoạn

Số hộ

Số nhân khẩu


01

1976 - 1980

2.181

12.736

02

1981 - 1985

6.403

34.391

03

1986 - 1990

15.135

74.831

04

1991 - 1995

26.030


120.085

05

1996 - 2000

7.423

36.469

06

2001 - 2005

1.034

4.668

07

2005 - 2010

1.368

6.763

Ghi chú

Nguồn: [16, tr.3]

Những số liệu trong bảng thống kê và các tài liệu khác của Chi cục
Nông nghiệp và phát triển nông thôn ĐắkLắk cho thấy tổng số dân di cư tự do
đến ĐắkLắk từ năm 1976 đến năm 2010 gấp hơn 2,5 lần dân số toàn tỉnh
ĐắkLắk. Trong đó thời kỳ đổi mới tăng gấp 6 lần so với thời kỳ bao cấp, tăng
nhiều nhất là trong thời gian từ năm 1994 đến 1996. Đây là kết quả của quá
trình chuyển đổi cơ chế, tạo ra sự chuyển dịch tự do hơn của lao động.
Trước thực trạng dòng người di cư tự do vào ĐắkLắk ngày càng đông
và diễn biến phức tạp, nhất là từ năm 1990, Đảng, Nhà nước và các bộ, ban
ngành cũng như các cấp chính quyền địa phương cả nơi có dân đi và dân đến
đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách nhằm từng bước hạn chế, ngăn
chặn, khắc phục và giải quyết những hệ quả của di cư tự do đến tỉnh ĐắkLắk.
Quá trình thực hiện các chủ trương, chính sách đó đã có những kết quả nhất
định trong việc hạn chế và giải quyết các vấn đề liên quan đến di dân tự do.
Tuy nhiên, bằng nhiều hình thức khác nhau, lúc nhanh, lúc chậm, tình trạng di
dân tự do đến tỉnh ĐắkLắk vẫn tiếp tục tăng lên và hệ quả mà nó gây ra đã và
đang ảnh hưởng lớn đến sự phát triển chung của tỉnh.

21


×