Tải bản đầy đủ (.pdf) (119 trang)

Đảng bộ tỉnh hưng yên lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá giai đoạn 1997 2003

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.28 MB, 119 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

ĐÀO THỊ VÂN

ĐẢNG BỘ TỈNH HƯNG YÊN LÃNH ĐẠO CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU
KINH TẾ THEO HƯỚNG CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
GIAI ĐOẠN 1997-2003

LUẬN VĂN THẠC SỸ LỊCH SỬ ĐẢNG
Mã số: 5 03 16

Người hướng dẫn: TS. PHẠM XUÂN MỸ

Hà nội - 2004


MỤC LỤC
Trang
Mở đầu............................................................................
Chương 1.

1

Cơ sở của việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hóa ở tỉnh Hưng
yên giai đoạn 1997 - 2003..............................................

7

1.1. Chủ trương của Đảng Cộng sản Vịêt Nam về chuyển


dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện
đại hoá..............................................................................

7

1.2. Thực trạng và yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở
Hưng Yên.........................................................................
Chương 2.

25

Đảng bộ tỉnh Hưng Yên lãnh đạo chuyển dịch cơ
cấu

kinh

tế

giai

đoạn

1997

-

32

2003........................................
2.1 Quá trình Đảng bộ tỉnh lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu

kinh tế (1997 - 2000)........................................................

32

2.2. Quá trình Đảng bộ tỉnh lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu

Chương 3.

kinh tế giai đoạn 2001 - 2003...........................................

49

Kết quả và một vài kinh nghiệm bước đầu trong
lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Đảng bộ
tỉnh Hưng Yên giai đoạn 1997 - 2003...........................

75

3.1. Thành tựu và hạn chế chủ yếu

75

3.2. Một vài kinh nghiệm bước đầu trong lãnh đạo chuyển
dịch cơ cấú kinh tế của Đảng bộ tỉnh Hưng Yên giai
đoạn 1997 - 2003.............................................................

96

Kết luận...........................................................................


105

Danh mục tài liệu tham khảo........................................

109

118


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Kể từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI đến nay, Đảng CSVN đã đề
ra và không ngừng hoàn thiện đường lối đổi mới toàn diện mà trung tâm là
đổi mới kinh tế. Điều đó hoàn toàn phù hợp với xu thế thời đại và đòi hỏi của
tình hình đất nước, đáp ứng đúng yêu cầu và nguyện vọng của nhân dân. Hiện
nay cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, kinh tế tri thức, xu thế toàn cầu
hoá kinh tế phát triển mạnh mẽ, đang tác động đến mọi quốc gia cũng như
mỗi địa phương. Ở nước ta, đổi mới lấy phát triển kinh tế trước hết phải lấy
phát triển lực lượng sản xuất, CNH, HĐH đất nước là nhiệm vụ trung tâm
trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH. Xuất phát từ thực tiễn một nước nông
nghiệp, kinh tế chưa phát triển, Đảng ta đã coi CNH, HĐH nông nghiệp và
nông thôn là nhiệm vụ hàng đầu của quá trình CNH, HĐH đất nước. Trong
đó, chuyển dịch CCKT nông nghiệp nông thôn theo hướng CNH, HĐH là vấn
đề cốt lõi quan trọng nhất, là qui luật phát triển của nền kinh tế nước ta trong
thời kỳ quá độ lên CNXH.
Nông nghiệp Việt Nam trong những năm đổi mới từ 1986 đến nay đã
từng bước chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh theo hướng CNH, HĐH, tạo ra
bước phát triển có tính đột phá trên lĩnh vực sản xuất hàng hoá. Qúa trình đó
còn tác động mạnh đến công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thay đổi mạnh kết
cấu hạ tầng nông thôn, xây dựng nông thôn mới, củng cố khối đoàn kết liên

minh công, nông, trí thức, rút ngắn khoảng cách giàu nghèo giữa nông thôn và
thành thị và củng cố niềm tin của nhân dân vào Đảng.
Hưng Yên là một tỉnh nông nghiệp thuộc châu thổ đồng bằng Bắc Bộ.
Đây là vùng đất phù sa màu mỡ, phát triển sớm nghề sản xuất lúa nước với
nhiều sản phẩm nổi tiếng. Với lợi thế tự nhiên có đường quốc lộ số 5, đường
sắt Hà Nội - Hải Phòng, nằm trong khu vực trọng điểm kinh tế phiá Bắc và
1


tam giác tăng trưởng Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, sau khi cầu Thanh
Trì, cầu Minh Khai xây dựng xong, cùng với các cầu Triều dương, Yên lệnh,
Hưng Yên càng có nhiều lợi thế phát triển. Khi còn trong tỉnh Hải Hưng cũ,
Hưng Yên đã phát huy được tiềm năng kinh tế nông nghiệp của mình. Từ khi
tách tỉnh năm 1997 đến nay, Đảng bộ Hưng Yên đã có nhiều chủ trương lớn
nhằm phát huy thế mạnh của tỉnh, thu hút mạnh nguồn vốn đầu tư trong và
ngoài nước, từng bước chuyển dịch CCKT của địa phương theo hướng CNH,
HĐH, nền kinh tế của tỉnh đã có tốc độ tăng trưởng kinh tế khá nhanh, cơ sở
hạ tầng và đời sống nhân dân trong tỉnh ngày càng được cải thiện.
Tuy nhiên trong quá trình phát triển kinh tế, Hưng Yên đang còn những
hạn chế và đang đối mặt với nhiều vấn đề mới nảy sinh. Thực hiện bước đi
CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn như thế nào để phát huy thế mạnh của địa
phương, tiếp tục phát huy truyền thống sản xuất lương thực thực phẩm hàng
hoá, phát triển các khu công nghiệp, kết hợp kinh tế nông - công nghiệp - dịch
vụ, du lịch, giải quyết việc làm, chế biến nông sản, thực phẩm, mở rộng thị
trường tiêu thụ...? Đó là những câu hỏi đòi hỏi đặt ra cho Đảng bộ và nhân
dân Hưng Yên tìm câu trả lời.
Đề tài “Đảng bộ tỉnh Hưng Yên lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng CNH, HĐH giai đoạn 1997 - 2003” được chọn làm luận văn cao
học ngành lịch sử, chuyên ngành Lịch sử ĐCSVN là để góp phần làm rõ quá
trình Đảng bộ tỉnh Hưng Yên lãnh đạo giải quyết các vấn đề trên, rút ra những

kinh nghiệm cần thiết, phấn đấu thực hiện mục tiêu đưa Hưng Yên trở thành
một trong những tỉnh đi đầu của cả nước thành tỉnh công nghiệp vào năm
2020.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về chuyển dịch CCKT ở
nước ta trong những năm đổi mới như :
2


- Giáo sư Đỗ Đình Giao: Chuyển dịch CCKT theo hướng công nghiệp
hoá nền kinh tế quốc dân. NXB CTQG, Hà Nội, 1994.
- TS Đặng Văn Thắng, TS Phạm Ngọc Dũng: Chuyển dịch CCKT công
nông nghiệp ở đồng bằng sông Hồng, thực trạng và triển vọng NXB CTQG,
Hà Nội 2003.
- Luận văn thạc sĩ kinh tế: Phạm Văn Quế - “Chuyển dịch CCKT ở tỉnh
Bình Dương theo hướng CNH, HĐH”, Trường ĐHKHXH & NV, ĐHQG Hà
Nội, 1999.
Một số bài báo viết về chuyển dịch CCKT trên một lĩnh vực cụ thể
đăng trên báo Hưng Yên thời gian qua như bài “Phát triển làng nghề một
hướng đi đúng” của Phạm Đức Nhuận (18/8/1999), bài "Công nghiệp - những
khởi sắc” của Quốc Việt (1/9/1999), bài “Vùng đất mời gọi đầu tư” của Công
Đán (8/10/2001), bài “Nên chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp như thế
nào” của TS Lê Hưng Quốc (18/9/2002) và nhiều bài báo riêng lẻ khác.
Tuy nhiên, chưa có công trình khoa học nào tổng kết một cách hệ thống
và toàn diện quá trình Đảng bộ Hưng Yên lãnh đạo chuyển dịch CCKT theo
hướng CNH, HĐH trên địa bàn tỉnh.
Tôi xin cam đoan rằng đây là công trình mới mẻ do tôi tự nghiên cứu
và thực hiện, chưa có ai nghiên cứu với những nội dung trên, tôi không có sự
sao chép bất cứ một công trình khoa học nào khác.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

a. Mục đích nghiên cứu của luận văn
- Làm rõ quá trình Đảng bộ tỉnh Hưng Yên lãnh đạo chuyển dịch
CCKT ở địa phương giai đoạn 1997 - 2003.
- Đánh giá bước đầu những thành tựu và hạn chế của quá trình chuyển
dịch CCKT ở Hưng Yên.

3


- Nêu lên một số kinh nghiệm bước đầu trong lãnh đạo chuyển dịch
CCKT giai đoạn 1997 - 2003.
a. Nhiệm vụ của luận văn
- Trình bày một cách có hệ thống quá trình Đảng bộ tỉnh Hưng Yên
vận dụng đường lối của Đảng để lãnh đạo chuyển dịch CCKT ở tỉnh từ 1997 2003.
- Chỉ rõ những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của kết quả của quá
trình đó.
- Tổng kết một số kinh nghiệm trong lãnh đạo chuyển dịch CCKT của
Đảng bộ tỉnh Hưng Yên (1997 - 2003) làm cơ sở cho việc hoạch định công
tác này trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
a. Đối tượng nghiên cứu
Nội dung quá trình lãnh đạo chuyển dịch CCKT của Đảng bộ tỉnh
Hưng Yên giai đoạn 1997 - 2003 theo tinh thần của Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VIII, IX của Đảng CSVN và thực hiện Nghị quyết Đại hội XIV
và XV của Đảng bộ tỉnh Hưng Yên.
b. Phạm vi nghiên cứu
Sự lãnh đạo của đảng bộ tỉnh Hưng Yên trong thực hiện chuyển dịch
CCKT trên các ngành công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, nông nghiệp và
thương maị dịch vụ, các thành phần kinh tế, các vùng kinh tế trên địa bàn tỉnh
từ tháng 1/1997 (thời điểm tách tỉnh) đến hết tháng 12/2003.

5. Cơ sở lý luận, phƣơng pháp nghiên cứu, nguồn tƣ liệu
* Cơ sở lý luận
Đây là một phần công trình khoa học lịch sử Đảng bộ địa phương,
Luận văn dựa trên trên nền tảng lý lụân của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
4


Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng CSVN về phát triển kinh tế,
CNH, HĐH đất nước trong thời kỳ đổi mới.
* Phương pháp nghiên cứu
- Trên cơ sở phương pháp luận sử học mac - xit, phương pháp nghiên
cứu chủ yếu của luận văn là phương pháp lịch sử, phương pháp lôgic và sự
kết hợp hai phương pháp đó để làm rõ quá trình Đảng bộ địa phương lãnh đạo
trên một lĩnh vực kinh tế.
- Luận văn có sử dụng các phương pháp thống kê, so sánh, lập bảng để
trình bày kết quả nghiên cứu làm rõ nội dung nêu trên.
* Nguồn tư liệu
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế, các Văn kiện Đại hội
VI, VII, VIII, IX của Đảng CSVN và các Nghị quyết của BCH Trung ương
Đảng, BBT , BCT các khoá VI, VII, VIII, IX về phát triển kinh tế.
- Các Văn kiện Đại hội XIV, XV Đảng bộ tỉnh Hưng Yên và các Nghị
quyết của BCH Đảng bộ tỉnh, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ.
- Các Quyết định của UBND tỉnh Hưng Yên và một số số liệu thống kê
của Cục thống kê Tỉnh Hưng Yên.
- Một số báo cáo tổng kết của các ngành công nghiệp, nông nghiệp,
thương mại - du lịch tỉnh Hưng Yên.
6. Đóng góp của luận văn
- Đóng góp mới mẻ của luận văn là trình bày một cách tương đối hệ
thống và toàn diện quá trình Đảng bộ tỉnh lãnh đạo và tổ chức thực hiện
chuyển dịch CCKT theo hướng CNH - HĐH ở Hưng Yên thời kì 1997 - 2003.

- Chỉ rõ kết quả nổi bật của quá trình đó và bước đầu tổng kết một số
kinh nghiệm lãnh đạo chỉ đạo của Đảng bộ Hưng Yên trong chuyển dịch
CCKT .
5


- Luận văn có thể góp một phần trong Lịch sử Đảng bộ địa phương
lãnh đạo phát triển kinh tế trong thời kì đổi mới, cung cấp thêm tư liệu phục
vụ cho việc nghiên cứu và giảng dạy môn lịch sử Đảng CSVN thời kỳ đổi
mới, phần lịch sử Đảng bộ Hưng Yên.
- Luận văn có thể phục vụ cho việc nghiên cứu và giảng dạy môn
Phương hướng phát triển kinh tế địa phương ở chuyên ngành đào tạo Văn giáo dục công dân ở trường CĐSP Hưng Yên.
7. Bố cục của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, mục lục, Luận văn
được kết cấu thành 3 chương :
Chương 1: Cơ sở của việc chuyển dịch CCKT theo hướng cụng nghiệp
hoỏ, hiện đại hoỏ ở Hưng Yên giai đoạn 1997 - 2003.
Chương 2: Đảng bộ tỉnh Hưng Yên lãnh đạo chuyển dịch CCKT giai
đoạn 1997 - 2003
Chương 3: Kết quả và một vài kinh nghiệm bước đầu trong lãnh đạo
chuyển dịch CCKT của Đảng bộ tỉnh Hưng Yên giai đoạn 1997 - 2003.

6


Chƣơng 1
CƠ SỞ CỦA VIỆC CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ
THEO HƢỚNG CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HÓA
Ở TỈNH HƢNG YÊN GIAI ĐOẠN 1997 - 2003
1.1. Chủ trƣơng của Đảng Cộng sản Vịêt Nam về chuyển dịch cơ

cấu kinh tế theo hƣớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá
1.1.1. Cơ cấu kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế - khái niệm và nội
dung cơ bản
Trước xu thế toàn cầu hoá và sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và
công nghệ, kinh tế tri thức trên thế giới hiện nay, mỗi quốc gia, mỗi địa
phương đều phải tìm cách lựa chọn cho mình một phương án phát triển kinh
tế thích hợp nhằm phát huy tối ưu lợi thế của mình. Để phát triển kinh tế,
CNH, HĐH đang và sẽ là qui luật chung của tất cả các nước hiện nay, đặc biệt
là với những nước kinh tế chưa phát triển như Việt Nam. Lịch sử kinh tế thị
trường trên thế giới đã chỉ ra nhiều mô hình phát triển CCKT khác nhau.
Chuyển dịch CCKT có vai trò rất quan trọng để đưa sản xuất nhỏ lên sản xuất
lớn ngày càng hiện đại. Nhận thức sâu sắc điều đó, đường lối kinh tế của
Đảng ta là lấy phát triển kinh tế là trung tâm, đẩy mạnh chuyển dịch CCKT
theo hướng CNH, HĐH.
a. Về cơ cấu kinh tế
Theo từ điển Bách Khoa Việt Nam xuất bản năm 2003: CCKT là tổng
thể các ngành, lĩnh vực, bộ phận kinh tế có quan hệ hữu cơ tương đối ổn định
hợp thành. Các bộ phận của nền kinh tế có vị trí, tỷ trọng và quan hệ tương
tác ràng buộc lẫn nhau, luôn luôn vận động hướng vào mục tiêu đã định cuả
nền kinh tế.
Cơ cấu kinh tế giữ vai trò là cốt lõi của nền kinh tế - xã hội, thể hiện
trình độ phát triển chuyên môn hoá các ngành kinh tế trong từng thời kỳ lịch
7


sử. CCKT phản ánh nội dung kinh tế của một xã hội, một vùng nên nó có tính
lịch sử, không ngừng vận động và phát triển. CCKT không phải là hệ thống
tĩnh mà là hệ thống động, các nhân tố của CCKT vận động trong mối quan hệ
hữu cơ tác động lẫn nhau, ràng buộc chặt chẽ với nhau; giai đoạn sau cao hơn,
hoàn thiện hơn so với giai đoạn trước.

Cơ cấu kinh tế mang tính khách quan, được hình thành trên cơ sở trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội, sự tăng
trưởng của các yếu tố cấu thành nền kinh tế.
Nội dung CCKT quốc dân rất phong phú, có thể nghiên cứu dưới nhiều
góc độ, lĩnh vực nhưng về cơ bản nội dung đó gồm: CCKT quốc dân, CCKT
ngành và nội bộ ngành kinh tế - kỹ thuật, cơ cấu các thành phần kinh tế, cơ
cấu các vùng kinh tế theo đơn vị hành chính - lãnh thổ.
Trong các nội dung cơ bản của CCKT ở trên thì CCKT ngành là nội
dung cơ bản nhất, có tính chất quyết định, phản ánh sự phát triển theo quan hệ
cung cầu trên thị trường theo tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế. Cơ cấu
các thành phần kinh tế chỉ rõ những lực lượng quan trọng thực hiện CCKT
ngành, theo hướng của cơ cấu ngành, các thành phần kinh tế được tổ chức
thực hiện. Cơ cấu ngành và cơ cấu thành phần kinh tế chỉ có thể được chuyển
dịch đúng đắn trên từng lãnh thổ. cho nên, việc phân bố lãnh thổ một cách
hợp lý để phát triển ngành và thành phần kinh tế có ý nghĩa hết sức quan
trọng.
Việc xác định CCKT hợp lý có ý nghĩa chiến lược quan trọng, thúc đẩy
sự tăng trưởng kinh tế, ổn định tình hình chính trị - xã hội ở mỗi quốc gia,
mỗi địa phương. Đó cũng là sự đòi hỏi khách quan của tái sản xuất và tăng
trưởng kinh tế. Nó phụ thuộc vào sự hiểu biết sâu sắc các nhân tố và lợi thế
kinh tế, xã hội, kỹ thuật cụ thể ở từng vùng trong từng thời gian và khả năng
tổ chức sản xuất và quản lý kinh tế. Trên cơ sở đó khai thác và sử dụng có
8


hiệu quả nhất tài nguyên, đất đai, sức lao động, tư liệu sản xuất, tiềm năng của
mình để phát triển các vùng, nâng cao đời sống nhân dân, khắc phục sự phát
triển không đều giữa các vùng, các tầng lớp dân cư.
Với ý nghĩa đó, sự lãnh đạo, điều hành kinh tế năng động, nhạy bén của
các quốc gia và lãnh đạo các địa phương có vai trò vô cùng quan trọng nhằm

phát huy tiềm năng và thế mạnh của mình để phát triển kinh tế theo một
CCKT hợp lý.
Cơ cấu kinh tế hợp lý phải thoả mãn được năm yêu cầu cơ bản: Một là
phù hợp với các quy luật khách quan mà trước hết là quy luật kinh tế cơ bản.
Hai là khai thác hợp lý và phát huy được nguồn lực và tiềm năng của đất
nước, từng vùng, từng địa phương, vận dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và
công nghệ hiện đại. Ba là tạo nên sự phát triển cân đối, phát huy được lợi thế
của các vùng, các ngành kinh tế. Bốn là tạo nên sự gắn kết giữa các loại thị
trường trong nước và ngoài nước, mở rộng các quan hệ hợp tác kinh tế quốc
tế. Năm là tạo được tích luỹ ngày càng tăng cho nền kinh tế quốc dân, cùng
với phát triển xã hội phát triển lành mạnh, giữ vững quốc phòng an ninh.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam trong thời kỳ quá độ là
xây dựng một CCKT gồm ba nội dung cơ bản sau:
- Cơ cấu ngành: thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn, phát
triển nông - lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến là nhiệm vụ quan
trọng hàng đầu, đồng thời tăng tốc độ phát triển các ngành công nghiệp, mở
rộng khu vực dịch vụ, từng bước đưa nền kinh tế phát triển toàn diện và theo
hướng hiện đại.
- Cơ cấu thành phần kinh tế: phát triển 6 thành phần kinh tế là: kinh tế
nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể - tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh
tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài

9


- Cơ cấu vùng: phát triển các vùng kinh tế trọng điểm và các vùng
chuyên môn hoá sản xuất có hiệu quả cao .
b. Về chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Trong quá trình tái sản xuất xã hội, lực lượng sản xuất nói chung và
giữa các ngành, các vùng và các thành phần kinh tế luôn luôn biến đổi, phát

triển, vì thế CCKT cũng thường xuyên biến động, đó chính là quá trình
chuyển dịch CCKT.
Theo từ điển Bách Khoa Việt nam xuất bản năm 2003: Chuyển dịch
CCKT là quá trình cải biến kinh tế xã hội từ tình trạng lạc hậu, mang nặng
tính chất tự cấp tự túc, từng bứơc vào chuyên môn hoá hợp lý, trang bị kỹ
thuật, công nghệ hiện đại, trên cơ sở đó tạo ra năng suất lao động, hiệu quả
kinh tế cao và nhịp độ tăng trưởng mạnh cho nền kinh tế nói chung. Chuyển
dịch CCKT bao gồm việc cải biến CCKT ngành, vùng lãnh thổ và cơ cấu các
thành phần kinh tế.
Chuyển dịch CCKT là vấn đề khách quan và là quá trình đi lên từng
bước dựa trên sự kết hợp hữu cơ các điều kiện chủ quan, các lợi thế kinh tế xã hội, tự nhiên trong nước, trong vùng, trong đơn vị kinh tế với các khả năng
đầu tư, hợp tác, liên kết, liên doanh về sản xuất, dịch vụ.
c. Về công nghiệp hóa, hiện đại hoá.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 BCH TW Đảng khoá VII (7/1994) đă
xác định rõ: “ CNH, HDH là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt
động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao
động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với
công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát
triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ , tạo ra năng suất lao
động xã hội cao” [8, tr.65].

10


Nước ta hiện nay đang phát triển mạnh kinh tế thị trường vận hành theo
cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Vì
vậy, chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH là nhiệm vụ chiến lược tổng
quát nhằm khai thác tối ưu lợi thế các ngành, các lĩnh vực, các vùng để thúc
đẩy sự tăng trưởng kinh tế. Điều đó cũng có nghĩa là quá trình chuyển dịch từ
cơ cấu nông nghiệp - công nghiệp sang cơ cấu công nghiệp - dịch vụ - nông

nghiệp. Đặc trưng cơ bản là giá trị sản xuất của cả ba ngành đều tăng lên qua
các giai đoạn, nhưng tỷ trọng của ngành nông nghiệp giảm dần trong CCKT
quốc dân, sử dụng công nghệ cao với đội ngũ lao động trí tuệ ngày càng
nhiều, tỷ lệ lao động nông nghiệp ngày càng giảm dần, lao động công nghiệp
và dịch vụ ngày càng tăng lên.
Chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH là quá trình phức tạp và
kéo dài trong suốt thời kỳ quá độ. Đây là quá trình chưa có tiền lệ, Đảng và
Nhà nước ta vừa tìm tòi con đường phát triển, nghiêm túc nghiên cứu kinh
nghiệm của các nước đi trước để đề ra chiến lược và bước đi chuyển dịch
CCKT đúng hướng.
Trong những năm gần đây, nhờ hoạt động theo cơ chế mới, với những
bước đi hợp quy luật, CCKT ở nước ta đã có sự chuyển dịch theo hướng
CNH, HĐH một cách tích cực và ngày càng hợp lý hơn. Tuy nhiên CCKT xã
hội cũng đang tồn tại nhiều hạn chế và chịu nhiều tác động của nền kinh tế thế
giới. Vì vậy, để thúc đẩy chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH, Đảng
CSVN đã nêu rõ các quan điểm cơ bản sau đây:
- Chuyển dịch CCKT phải thúc đẩy kinh tế hàng hoá phát triển, phù
hợp với mô hình kinh tế thị trường theo định hướng XHCN.
- Chuyển dịch CCKT phải khai thác tối ưu khả năng, thế mạnh của
từng vùng kinh tế trong cả nước và phát huy sức mạnh tổng hợp của các thành

11


phần kinh tế. Cần tập trung đúng mức đến việc đầu tư một số vùng kinh tế
trọng điểm có khả năng thu hồi vốn nhanh, hiệu quả kinh tế cao.
- Chuyển dịch CCKT phải đảm bảo quy mô hợp lý và bước đi thích hợp, chú
trọng quy mô vừa và nhỏ, vốn đầu tư ít, tạo nhiều việc làm cho người lao
động, đặc biệt chú ý hình thành và phát triển các ngành kinh tế trọng điểm và
mũi nhọn có công nghệ kỹ thuật tiên tiến hiện đại.

- Chuyển dịch CCKT phải đảm bảo nền kinh tế hoạt động có hiệu quả, bảo
đảm môi trường sinh thái bền vững, tăng cường ổn định chính trị - xã hội và
an ninh quốc phòng.
- Chuyển dịch CCKT phải phù hợp với xu hướng mở rộng quan hệ hợp
tác quốc tế, trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, tranh thủ khả năng thu hút
vốn và công nghệ nước ngoài nhằm phát triển kinh tế, thúc đẩy nhanh quá
trình chuyển dịch CCKT.
Vấn đề xuyên suốt là “Quá trình chuyển dịch CCKT được thực hiện
thông qua hoạt động đầu tư và sản xuất kinh doanh của mọi thành phần kinh
tế dưới tác động của cơ chế thị trường được nhà nước hướng dẫn và thúc đẩy
bằng công cụ quản lý vĩ mô và bằng chương trình đầu tư dựa vào nguồn vốn
tập trung” [5, tr.12].
1.1.2. Tầm quan trọng và vai trò của chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Bất cứ quốc gia phát triển nào đều tất yếu trải qua thời kỳ công nghiệp
hoá. Đó là quá trình công nghiệp hoá ở nước Anh thế kỷ XVIII, ở Nhật Bản
thế kỷ XIX, ở các nước NICS như Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Công,
Singapore thế kỷ XX. Ở mức độ khác nhau, các nước đó đều đạt được những
thành công trong quá trình công nghiệp hoá.
Công nghiệp hoá là nhiệm vụ tất yếu, là nhiệm vụ trung tâm có tầm
quan trọng đặc biệt đối với sự phát triển kinh tế của nước ta. Đại hội đại biểu
12


toàn quốc lần thứ III (9 - 1960) của Đảng đã đề ra đường lối công nghiệp hoá
là: “Thực hiện công nghiệp hoá XHCN bằng cách ưu tiên phát triển công
nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và
công nghiệp nhẹ” [12, tr.559]. Hiện nay hoàn cảnh quốc tế và điều kiện
trong nước, thế và lực của đất nước ta đã khác nhiều so với trước. Những
thành tựu của 18 năm đổi mới đã tăng cường thế và lực của đất nước, cả bên

trong lẫn bên ngoài cho phép chúng ta chuyển sang một thời kỳ phát triển
mới, thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
Tuy nhiên, do điểm xuất phát thấp về kinh tế và phải đi lên trong môi
trường cạnh tranh gay gắt nên chúng ta đang đứng trước những thách thức to
lớn về kinh tế như nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong
khu vực và trên thế giới. Để đẩy lùi nguy cơ đó, thúc đẩy sự nghiệp CNH HĐH, đòi hỏi chúng ta phải tìm cách chọn lựa những bước đi và có CCKT
hợp lý.
Nội dung cơ bản của CNH, HĐH bao gồm hai vấn đề cốt lõi là áp dụng
rộng rãi tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ sản xuất mới vào các ngành
kinh tế và xây dựng CCKT phát triển hợp lý, có hiệu quả và ngày càng hiện
đại.
Chuyển dịch CCKT và CNH, HĐH có mối quan hệ biện chứng, gắn bó
với nhau và thúc đẩy nhau cùng phát triển. Chuyển dịch nền CCKT theo
hướng hiện đại sẽ tạo điều kiện thuật lợi và là nội dung cốt lõi của CNH,
HĐH. Quá trình chuyển dịch CCKT vừa là nguyên nhân vừa là kết quả của
quá trình CNH, HĐH và ngược lại CNH, HĐH nền kinh tế tạo điều kiện tiền
đề vật chất - kỹ thuật và là con đường, phương hướng, mục tiêu thúc đẩy
chuyển dịch CCKT từ một nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ mà chủ yếu là
sản xuất nông nghiệp thành một nền kinh tế công nghiệp ngày càng hiện đại
có năng xuất lao động cao, có khả năng phát triển toàn bộ nền kinh tế quốc
dân.
13


Đối với nước ta hiện nay chuyển dịch CCKT tất yếu phải gắn liền và
phải phát triển theo hướng CNH, HĐH. Chuyển dịch CCKT theo hướng
CNH, HĐH là nội dung, là điều kiện cho sự thành công của sự nghiệp CNH,
HĐH nền kinh tế quốc dân, thực hiện mục tiêu đến 2020 nước ta về cơ bản sẽ
trở thành nước công nghiệp.
Chuyển dịch CCKT là chiến lược kinh tế tổng quát nhằm khai thác lợi

thế tối ưu của các vùng, các ngành, các lĩnh vực để thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế tạo nên sự gắn kết giữa các ngành, các vùng và các thành phần kinh tế, xuất
hiện những yêu cầu lớn hơn để các yếu tố tác động lẫn nhau, thúc đẩy nhau
cùng phát triển .
Trong điều kiện hiện nay ở nước ta, chỉ có chuyển dịch CCKT theo
hướng CNH, HĐH mới có thể khắc phục nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so
với các nước trong khu vực và trên thế giới, mở rộng thị trường trong và
ngoài nước, chủ động hội nhập kinh tế thế giới, thu hút các nguồn vốn đầu tư,
kinh nghiệm quản lý, chuyển giao công nghệ tiên tiến thế giới.
Chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH có vai trò quan trọng trong
quá trình nâng cao vị trí chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế
tập thể, tăng cường sức mạnh của hệ thống chính trị XHCN, từ đó thúc đẩy sự
nghiệp giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ phát triển văn hoá xã hội, tăng
cường khối đoàn kết dân tộc, giữ vững an ninh quốc phòng, rút ngắn khoảng
cách chênh lệch về kinh tế giữa các vùng, nhất là vùng núi, vùng sâu, vùng
xa, nông thôn với thành thị... tạo động lực cho phát triển toàn diện của đất
nước.
Chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH sẽ làm thay đổi căn bản bộ
măt nông thôn, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nông dân (hiện nay
nông dân chiếm tới 76% dân số và 73% lực lượng lao động của toàn xã hội );
góp phần củng cố khối đoàn kết liên minh công, nông, trí thức, nâng cao niềm
tin của nhân dân với Đảng, với chế độ và con đường đi lên CNXH.
14


Như vậy chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH là một trong
những nội dung kinh tế cốt lõi trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng
và nhân dân ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH.
1.1.3. Chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hóa.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát triển sáng tạo lý luận cách mạng của chủ
nghĩa Mác - Lênin về CNXH và con đường tiến lên CNXH. Người chỉ rõ
trong nền kinh tế Việt Nam “Công nghiệp và nông nghiệp là hai chân của nền
kinh tế, cho nên công nghiệp, nông nghiệp phải giúp đỡ nhau cùng phát triển
như hai chân đi khoẻ và đi đều thì tiến bước sẽ nhanh chóng tiến đến mục
đích” [15, tr.544-545]. Người nói: “Phải lấy nông nghiệp làm chính, nhưng
phải toàn diện, phải chú ý cả các mặt công nghiệp, thương nghiệp, tài chính,
ngân hàng, giao thông, kiến trúc, văn hoá, giáo dục, y tế. Các ngành này phải
lấy phục vụ nông nghiệp làm trung tâm” [16, tr.396]. “Nông thôn tăng gia sản
xuất thực hành tiết kiệm thì ngày càng giàu có, nông thôn giàu có sẽ mua
nhiều hàng hoá của công nghiệp sản xuất ra đồng thời sẽ cung cấp đủ lương
thực, nguyên liệu cho công nghiệp và thành thị. Như thế là nông thôn giàu có
giúp cho công nghiệp phát triển. Công nghiệp phát triển lại thúc đẩy nông
nghiệp phát triển mạnh hơn nữa. Công nghiệp, nông nghiệp phát triển thì dân
giàu, nước mạnh” [15, tr.405-406].
Những tư tưởng trên của Hồ Chí Minh đã đặt nền móng quan trọng
cho việc xây dựng một CCKT hợp lý giữa công nghiệp và nông nghiệp trong
xây dựng CNXH ở nước ta.
Trong quá trình xây dựng CNXH ở miền Bắc 1954 - 1975 và trên cả
nước 1975 - 1985, căn cứ vào tình hình lịch sử cụ thể, Đảng ta đã có nhiều
chủ trương để phát triển kinh tế, trong đó nhấn mạnh vai trò và mối quan hệ
giữa công nghiệp và nông nghiệp trong phát triển kinh tế đất nước. Tuy nhiên
do nhiều lý do khách quan và chủ quan, trong đó có lúc còn nóng vội trong
15


việc xác định mô hình kinh tế, vì vậy xác định phát triển CCKT có những yếu
tố không hợp lý, nên CCKT của cả nước và các địa phương suốt trong thời
gian dài có sự chuyển dịch không đáng kể, hạn chế tăng trưỏng kinh tế, đất
nước lâm vào khủng hoảng kinh tế xã hội, đời sống nhân dân rất khó khăn.

Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự
thật, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (12/1986) đã tổng kết nêu lên bốn bài
học kinh nghiệm lớn, trong đó có bài học “Đảng phải luôn luôn xuất phát từ
thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật là điều kiện bảo đảm sự lãnh
đạo đúng đắn của Đảng” [3, tr.20]. Bài học này có ý nghĩa lớn nhưng quan
trọng nhất là trên lĩnh vực kinh tế.
Tư tưởng chủ đạo của các chính sách kinh tế của Đảng tại Đại hội VI là
giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện có, khai thác mọi khả năng tiềm tàng
của đất nước và sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ của quốc tế để phát triển
mạnh mẽ lực lượng sản xuất. “Nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát của
những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là: ổn định mọi mặt tình hình
kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh
công nghiệp hoá XHCN trong chặng đường tiếp theo” [3, tr.42].
Một trong những mục tiêu cụ thể về kinh tế xã hội của chặng đường
đầu tiên là tạo ra CCKT hợp lý, hướng vào việc đẩy mạnh sản xuất nông
nghiệp, chủ yếu là lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.
“Trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên, trước mắt là trong kế
hoạch 5 năm 1985 - 1990, phải thật sự tập trung sức người, sức của vào việc
thực hiện cho được ba chương trình mục tiêu về lương thực, thực phẩm, hàng
tiêu dùng và hàng xuất khẩu [3, tr.47].
Đại hội VI chỉ rõ trong toàn bộ quá trình xây dựng CNXH, kể cả trong
chặng đường hiện nay không được tách rời nông nghiệp với công nghiệp,
không chỉ coi trọng nông nghiệp hoặc công nghiệp, nhưng ở mỗi giai đoạn,
16


trong từng chặng đường, vị trí của nông nghiệp và công nghiệp có khác nhau,
trong chặng đường hiện nay phải tập trung sức phát triển nông nghiệp, coi
nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đưa nông nghiệp một bước lên sản xuất lớn
CNXH. Đây là cụ thể hoá nội dung chính của công nghiệp hoá XHCN trong

chặng đường đầu tiên lên CNXH ở nước ta, là bước đột phá trong tư duy và
nhận thức đổi mới về chuyển dịch CCKT trong thời kì mới của Đảng ta.
Tiếp tục bước chuyển đó, Hội nghị Trung ương 3 khoá VI (8/1987) đã
ra Nghị quyết “Về chuyển hoạt động của các đơn vị kinh tế quốc doanh sang
hạch toán kinh doanh XHCN, đổi mới quản lý nhà nước về kinh tế”. Ngày
5/4/1988 BCT đã ra NQ10/NQ - TW “Về đổi mới quản lý kinh tế nông
nghiệp”. Đây là bước đột phá mở đầu cho chuyển dịch CCKT của Đảng theo
hướng mới ở nước ta.
Đại hội VII của Đảng (6/1991) đã tổng kết 5 năm đổi mới khẳng định
thành tựu đầu tiên trên lĩnh vực kinh tế là đã đạt được những tiến bộ rõ rệt
trong việc thực hiện các mục tiêu của ba chương trình kinh tế. “Những kết
quả thực hiện các mục tiêu của ba chương trình kinh tế gắn liền với những
chuyển biến tích cực trong việc điều chỉnh cơ cấu đầu tư và bố trí lại CCKT ”
[4, tr.19-20].
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ qúa độ lên CNXH, thông
qua Đại hội VII đã chỉ rõ “ Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá đất
nước theo hướng hiện đại hoá gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp
toàn diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất - kỹ
thuật của CNXH, không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cải
thiện đời sống nhân dân” [6, tr.9].
“Khi kết thúc thời kỳ quá độ, hình thành về cơ bản nền kinh tế công
nghiệp với CCKT công - nông nghiệp - dịch vụ gắn với phân công và hợp tác
kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng. Trong qúa trình chuyển đổi CCKT lạc hậu
17


lên CCKT hiện đại, nền kinh tế quốc dân sẽ gồm nhiều ngành nghề, nhiều qui
mô nhiều trình độ công nghệ, phát triển nông - lâm - ngư nghiệp gắn với công
nghiệp chế biến và xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu
để ổn định tình hình kinh tế xã hội. Đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng, hàng

xuất khẩu, mở rộng kinh tế đối ngoại, phát triển kinh tế dịch vụ, xây dựng
đồng bộ kết cấu hạ tầng. Xây dựng nền công nghiệp nặng với bước đi thích
hợp, trước hết là các ngành trực tiếp phục vụ nông nghiệp. Thực hiện chuyên
môn hoá và liên kết kinh tế giữa các vùng, các địa phương. Xây dựng các
trung tâm kinh tế của từng vùng để tạo điều kiện liên kết công nghiệp với
nông nghiệp, thành thị với nông thôn” [6, tr.12].
Để tiếp tục đẩy mạnh phát triển nông nghiệp và kinh tế - xã hội nông
thôn, Hội nghị Trung ương 5 khoá VII (6-1993) đã ra Nghị quyết “Về tiếp tục
đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội nông thôn” đánh giá thực trạng nông
nghiệp, nông thôn nước ta qua những năm đầu đổi mới và khẳng định: “Trải
qua các thời kỳ cách mạng từ khi thành lập đến nay, Đảng ta luôn khẳng định
tầm quan trọng của vấn đề nông dân, nông nghiệp và nông thôn. Công cuộc
đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo trong những năm qua cũng lấy
nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu và là khâu đột phá. Chỉ thị 100 của BBT
(khoá IV), Nghị quyết 10 của BCT (khoá VI) được triển khai cùng với các
Chỉ thị, Nghị quyết khác của các Đại hội và Hội nghị trung ương các khoá V,
VI, VII đã đưa đến những thành tựu to lớn trong nông nghiệp, nông thôn nước
ta” [7, tr.53].
Tại Hội nghị Trung ưong 5, Đảng ta đã xác định 4 quan điểm cơ bản
nhằm tiếp tục đổi mới và phát triển nông nghiệp nông thôn nước ta trong giai
đoạn mới là:

18


- Đặt sự phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng sản
xuât hàng hoá trong quá trình CNH, HĐH đất nước coi đó là nhiệm vụ chiến
lược có tầm quan trọng đặc biệt.
- Thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách kinh tế nhiều thành phần
trong nông nghiệp theo định hướng XHCN, trong đó kinh tế quốc doanh, kể

cả kinh tế quốc doanh trong công nghiệp và dịch vụ nông nghiệp cùng với
kinh tế hợp tác xã được đổi mới và phát triển có hiệu quả, từng bước vươn lên
làm nền tảng tạo điều kiện để củng cố liên minh công nhân, nông dân, trí
thức, huy động tối đa tiềm năng của kinh tế hộ xã viên, hộ cá thể, hộ tư nhân,
kinh tế liên doanh với nước ngoài.
- Gắn sản xuất với thị trường, mở rộng sản xuất đi đôi với mở rộng thị
trường tiêu thụ nông sản, đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật và
công nghệ mới, nhất là công nghệ sinh học để nâng cao năng xuất, tăng chất
lượng sản phẩm, hạ giá thành, nâng cao hiệu quả kinh doanh, tăng sức cạnh
tranh trên thị trường trong và ngoài nước, tăng sức mua của thị trường nội địa,
đẩy mạnh xuất khẩu thay thế nhập khẩu những mặt hàng trong nước sản xuất
có hiệu quả.
- Gắn liền phát triển kinh tế với phát triển văn hoá, xã hội, nâng cao
dân trí, đào tạo nhân tài, bảo vệ phát triển tài nguyên, cải thiện môi trường
sinh thái, xây dựng nông thôn mới. Đổi mới kinh tế đi đôi với đổi mới hệ
thống chính trị trong nông thôn.
Hội nghị Trung ương 7 khoá VII (11/1994) ra Nghị quyết về: "Phát
triển công nghiệp, công nghệ đến năm 2000 theo hướng CNH, HĐH đất nước
và xây dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn mới" đã xác định rõ: “CNH,
HĐH đất nước là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản
xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội từ sử dụng lao động thủ
công là chính sang lao động sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với
19


công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát
triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ, tao ra năng xuất lao
động cao” [8, tr.65]. “Mục tiêu lâu dài của CNH, HĐH là phải biến nước ta
thành một nước có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, có CCKT hợp lý, quan
hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của sức sản xuất, mức

sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng - an ninh vững chắc, dân giàu
nước mạnh, xã hội công bằng văn minh” [8, tr.70].
Nghị quyết đề ra 3 chủ trương lớn phát triển công nghiệp và chuyển
dịch CCKT trong thời gian tới là: CNH, HĐH nông nghiệp và kinh tế nông
thôn, phát triển toàn diện, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến. Phát
triển mạnh công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Mở rộng
thương nghiệp, du lịch, dịch vụ ở cả thành thị và nông thôn, đẩy mạnh các
hoạt động kinh tế đối ngoại khác.
Đại hội VIII của Đảng (6/1996) khẳng định những nhiệm vụ đề ra cho
chặng đường đầu của thời kỳ qúa độ là chuẩn bị tiền đề cho CNH, HĐH đã cơ
bản hoàn thành, cho phép nước ta chuyển sang thời kỳ mới - thời kỳ đẩy
mạnh CNH, HĐH đất nước. Con đường đi lên CNXH ở nước ta ngày càng
được xác định rõ hơn. “Mục tiêu của CNH, HĐH là xây dựng nước ta trở
thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất và kỹ thuật hiện đại, CCKT
hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc,
dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Từ nay đến năm 2020, ra
sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp” [9, tr.80].
Đại hội VIII nhấn mạnh phải đặc biệt coi trọng CNH, HĐH nông
nghiệp và nông thôn, chỉ rõ nội dung cơ bản của CNH, HĐH nông nghiệp
nông thôn những năm còn lại của thập kỷ 90 là phát triển toàn diện nông, lâm,
ngư nghiệp, hình thành các vùng tập trung chuyên canh, có cơ cấu hợp lý về
20


cây trồng, vật nuôi, có sản phẩm hàng hoá nhiều về số lượng, tốt về chất
lượng, bảo đảm an toàn về lương thực trong xã hội, đáp ứng yêu cầu của công
nghiệp chế biến của thị trường trong và ngoài nước.
Thực hiện thuỷ lợi hoá, điện khi hoá, cơ giới hoá, sinh học hoá. Phát
triển công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản với công nghệ ngày càng cao,

gắn với nguồn nguyên liệu và liên kết với công nghiệp ở đô thị. Phát triển các
ngành nghề, làng nghề truyền thống và các ngành nghề mới bao gồm tiểu, thủ
công nghiệp, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, công
nghiệp khai thác và chế biến các nguồn nguyên liệu phi công nghiệp các loại
hình dịch vụ sản xuất và đời sống nhân dân. Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế
và xã hội, từng bước hình thành nông thôn mới văn minh hiện đại” [9, tr.87].
“Phát triển công nghiệp ưu tiên các ngành chế biến lương thực - thực
phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, công nghiệp điện tử và công
nghệ thông tin” [9, tr.88]. “Phát triển nhanh du lịch, các dịch vụ hàng không,
hàng hải, bưu chính - viễn thông, thương mại, vận tải, tài chính, ngân hàng,
kiểm toán, bảo hiểm, công nghệ, pháp lý thông tin và các dịch vụ phục vụ
cuộc sống nhân dân. Từng bước đưa nước ta trở thành một trung tâm du lịch,
thương mại, dịch vụ có tầm cỡ trong khu vực” [9, tr.89].
Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại .Đẩy mạnh xuất khẩu
coi xuất khẩu là hướng ưu tiên và là trọng điểm của kinh tế đối ngoại … chủ
động tham gia cộng đồng thương mại thế giới… [9, tr.90-91].
Hội nghị Trung ương 4 khoá VIII ra Nghị quyết “Về tiếp tục đẩy mạnh
công cuộc đổi mới, phát huy nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, cần
kiệm để CNH, HĐH, phấn đấu hoàn thành các mục tiêu kinh tế xã hội đến
năm 2000” đã chỉ rõ những việc cần tập trung thực hiện CNH, HĐH là: Đẩy
nhanh quá trình chuyển dịch CCKT gắn với phân công lao động ở nông thôn,
giải quyết vấn đề thị trường tiêu thụ nông sản; phát triển mạnh các hình thức
21


kinh tế hợp tác, đổi mới hoạt động của các cơ sở quốc doanh trong nông
nghiệp và nông thôn.
Ngày 10/11/1998, BCT đã ra Nghị quyết 06 - NQ/TW “Về một số vấn
đề phát triển nông nghiệp và nông thôn” khẳng định bốn quan điểm phát triển
nông nghiệp nông thôn.

Một là: Coi trọng thực hiện CNH, HĐH trong phát triển nông nghiệp
(gồm cả lâm nghiệp, ngư nghiệp...) và xây dựng nông thôn, đưa nông nghiệp
và kinh tế nông thôn lên sản xuất lớn là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng cả trước
mắt và lâu dài, là cơ sở để ổn định tình hình kinh tế, chính trị, xã hội, củng cố
liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức, đẩy
mạnh CNH, HĐH đất nước theo định hướng XHCN.
Hai là: Đẩy mạnh chuyển dịch CCKT, gắn phát triển nông nghiệp với
công nghiệp chế biến, ngành nghề, gắn sản xuất với thị trường để hình thành
sự liên kết nông - công nghiệp - dịch vụ và thị trường ngay trên địa bàn nông
thôn và trên phạm vi cả nước; gắn phát triển nông nghiệp với xây dựng nông
thôn mới; gắn công nghiệp hoá với thực hiện dân chủ hoá và nâng cao dân trí,
đào tạo nhân lực ở nông thôn; tạo ra sự phân công lao động mới, giải quyết
việc làm, nâng cao đời sống, xoá đói, giảm nghèo, thu hẹp dần khoảng cách
về mức sống giữa thành thị và nông thôn.
Ba là: Phát huy lợi thế của từng vùng và cả nước, áp dụng nhanh các
tiến bộ khoa học, công nghệ để phát triển nông nghiệp hàng hoá đa dạng, đáp
ứng ngày càng cao nhu cầu nông sản thực phẩm và nguyên liệu công nghiệp,
hướng mạnh ra xuất khẩu.
Bốn là: Phát triển nền nông nghiệp với nhiều thành phần kinh tế, trong
đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế hợp tác xã dần trở
thành nền tảng, hợp tác và hướng dẫn kinh tế tư nhân phát triển theo đúng
pháp luật. Tiếp tục phát triển nhiều hình thức kinh tế hợp tác; các loại hình
22


hợp tác xã dịch vụ cho kinh tế hộ nông dân, từng bước xây dựng các hợp tác
xã nông nghiệp theo Luật hợp tác xã; chú trọng liên kết kinh tế nhà nước với
các thành phần kinh tế khác. Tạo điều kiện và khuyến khích mạnh mẽ hộ
nông dân và những người có khả năng đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh
nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ ở nông thôn” [10, tr.6-7].

Đây là Nghị quyết có tác động mạnh nhất và là cơ sở quan trọng nhất
để Đảng bộ Hưng Yên trực tiếp triển khai thực hiện ngay sau khi tái lập tỉnh.
Tổng kết 15 năm đổi mới, Đại hội IX của Đảng (4/2001) xác định
đường lối kinh tế là “Đẩy mạnh CNH, HĐH, xây dựng nền kinh tế độc lập tự
chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp; ưu tiên phát triển lực lượng
sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng
XHCN; phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền
vững; tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hóa, từng bước cải thiện
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội, bảo vệ và cải thiện môi trường; kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với
tăng cường quốc phòng - an ninh” [11, tr.24].
Nghị quyết nêu rõ định hướng cho việc phát triển các ngành và các
vùng là “Phát triển và chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH. Nâng cao
chất lượng và hiệu quả phát triển kinh tế, tăng sức cạnh tranh chuyển dịch
CCKT, cơ cấu đầu tư dựa trên cơ sở phát huy các thế mạnh và các lợi thế so
sánh của đất nước, gắn với nhu cầu thị trường trong nước và ngoài nước; nhu
cầu đời sống nhân dân và quốc phòng - an ninh, tạo thêm sức mua của thị
trường trong nước và mở rộng thị trường ngoài nước, đẩy mạnh xuất khẩu”
[11, tr.26].
Đại hội IX chủ trương phải ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất đồng
thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng XHCN, phát triển
23


×