Tải bản đầy đủ (.pdf) (114 trang)

Đảng lãnh đạo xây dựng và phát triển nền văn hoá việt nam trong những năm đổi mới (1986 2001)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 114 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

NGUYỄN THỊ ĐỨC

ĐẢNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG
VÀ PHÁT TRIỂN NỀN VĂN HOÁ VIỆT NAM
TRONG NHỮNG NĂM ĐỔI MỚI (1986 - 2001)

LUẬN VĂN THẠC SỸ LỊCH SỬ

HÀ NỘI - 2005


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

NGUYỄN THỊ ĐỨC

ĐẢNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG
VÀ PHÁT TRIỂN NỀN VĂN HOÁ VIỆT NAM
TRONG NHỮNG NĂM ĐỔI MỚI (1986 - 2001)
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số:
5.03.16

LUẬN VĂN THẠC SỸ LỊCH SỬ

Người hướng dẫn khoa học: TS. LÊ VĂN YÊN

HÀ NỘI - 2005




MỤC LỤC
Mở đầu

1

Chương 1. Đảng lãnh đạo xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam
giai đoạn 1986 - 1996

1.1. Khái quát đường lối văn hoá của Đảng thời kỳ trước đổi mới

7

1.2. Quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng và phát triển nền văn hoá

22

Việt Nam giai đoạn 1986-1996
Chương 2. Đảng lãnh đạo xây dựng và phát triển nền văn hoá việt nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc giai đoạn 1996 - 2001

2.1. Quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng và phát triển nền văn hoá
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc

43

2.2. Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa

63


là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội
Chương 3. Một số thành tựu, kinh nghiệm và giải pháp nâng cao năng
lực lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hoá trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước

3.1. Một số thành tựu và kinh nghiệm

78

3.2. Một số giải pháp và kiến nghị

91

Kết luận

100

Danh mục tài liệu tham khảo

102


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong cuộc sống sôi động, phong phú và đa dạng của các quốc gia, dân
tộc, văn hoá không chỉ là hệ quả mà còn là nguyên nhân, không chỉ là mục
tiêu, mà còn là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội. Thực tiễn văn hoá
thế giới đã cho thấy, những nước phát triển là những nước biết dựa trên nền
tảng của văn hoá dân tộc, đồng thời biết kết hợp và phát huy những thành tựu

của văn hoá nhân loại.
Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, thể hiện tầm cao và chiều sâu
về trình độ phát triển của nhân loại nói chung và từng dân tộc nói riêng. Bởi
giá trị văn hoá của toàn nhân loại cũng như giá trị văn hoá của mỗi quốc gia,
dân tộc là do chính con người qua nhiều thế hệ sáng tạo ra và chính các giá trị
văn hoá đó là điều kiện cho sự tồn tại và phát triển của đời sống con người.
Trước đây cũng như hiện nay, xây dựng một nền văn hoá mới trên cơ
sở giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc có ý nghĩa quan trọng đối với
sự phát triển của các quốc gia, dân tộc và hiện nay nó đang nổi lên như một
vấn đề cơ bản, mang tính thời sự nóng hổi trong xu thế quốc tế hoá, toàn cầu
hoá.
Nhận thức rõ vai trò to lớn của văn hoá đối với sự nghiệp cách mạng,
vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, đỉnh cao của văn hoá nhân loại,
ngay từ khi mới ra đời và trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam,
Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định và dày công xây
dựng một nền văn hoá mới với mục tiêu là giải phóng dân tộc, giải phóng con
người, xây dựng chủ nghĩa xã hội, mang lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc cho nhân dân ta. Thực tiễn cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của
Đảng đã xác định văn hoá là một bộ phận không thể thiếu trong cuộc đấu

1


tranh giải phóng dân tộc, góp phần quan trọng làm nên những thắng lợi vĩ đại
của cách mạng Việt Nam.
Sự lãnh đạo của Đảng trong sự nghiệp xây dựng nền văn hoá mới Việt
Nam luôn nhất quán, được bổ sung, hoàn thiện và phát triển qua từng thời kỳ
cách mạng. Đường lối xây dựng nền văn hoá mới của Đảng là một bộ phận
hữu cơ của đường lối cách mạng Việt Nam.
Trong giai đoạn hiện nay, tình hình quốc tế chuyển biến nhanh chóng

và sâu sắc, xu thế quốc tế hoá diễn ra mạnh mẽ, để tồn tại và phát triển, các
quốc gia, dân tộc đều phải tiến hành mở cửa, hội nhập, hợp tác để cùng phát
triển. Trước yêu cầu của phát triển và tránh nguy cơ tụt hậu so với các nước
trên thế giới, Việt Nam thực hiện chính sách đối ngoại đa dạng hoá, đa
phương hoá quan hệ quốc tế, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng đã đưa Việt
Nam ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế-xã hội, đã giành được những thành
tựu rất quan trọng, tạo thêm thế và lực cho đất nước ta.
Tuy nhiên, tình hình mới cũng đặt nền văn hoá dân tộc đứng trước
những thử thách nghiêm trọng. Bên cạnh mặt tích cực là chủ yếu, không ít
những tiêu cực đã nảy sinh làm băng hoại các giá trị đạo đức xã hội, làm xói
mòn truyền thống văn hoá dân tộc. Sự hợp tác và giao lưu văn hoá với các
nước tạo điều kiện thuận lợi cho nền văn hoá nước ta tiếp thu tinh hoa văn
hoá nhân loại, góp phần vào sự phát triển toàn diện của đất nước, nhưng mặt
trái của nó cũng tạo ra những thách thức, nguy cơ không thể xem thường, nhất
là về tư tưởng, đạo đức và lối sống. Nhận thức rõ điều đó, Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định: “Văn hoá là nền tảng tinh
thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế
- xã hội. Mọi hoạt động văn hoá, văn nghệ phải nhằm xây dựng và phát triển
nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người Việt Nam

2


về tư tưởng, đạo đức, tâm hồn, tình cảm lối sống, xây dựng môi trường văn
hoá lành mạnh cho sự phát triển xã hội” [17, tr.110-111].
Việc tìm hiểu và làm rõ sự lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hoá
trong những năm đổi mới vừa qua nhằm phát huy những ưu điểm, khắc phục
những khuyết điểm và hoàn thiện nhân cách con người Việt Nam với những
phẩm chất tốt đẹp, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp đẩy mạnh

công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trở thành yêu cầu cấp bách. Vì thế,
việc nghiên cứu quan điểm của Đảng về xây dựng và phát triển nền văn hoá
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong giai đoạn hiện nay vừa có ý
nghĩa lý luận, vừa có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc.
Với những lý do trên, tôi quyết định chọn đề tài “Đảng lãnh đạo xây
dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam trong những năm đổi mới (1986 2001)” làm luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc đã được nhiều tác giả nghiên cứu, nhất là trong thời kỳ xây dựng nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm đưa văn hoá về đúng
với giá trị của nó với ý nghĩa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu,
vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Có thể
nêu một số tác phẩm dưới đây:
- Phạm Văn Đồng: Xây dựng nền văn hoá văn nghệ ngang tầm dân tộc
ta, thời đại ta, Nxb. Sự thật, 1975.
- Phạm Văn Đồng: Văn hoá và đổi mới, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1994.
- Từ Sơn: Dõi theo tiến trình đổi mới văn hoá văn nghệ, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 1998.
- Lê Quang Thiêm: Văn hoá với sự phát triển của xã hội Việt Nam theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998.

3


- Đình Quang: Nhận thức và xử lý văn hoá trên thế giới, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 1999.
- Hồ Sĩ Vịnh: Văn hoá Việt Nam trong tiến trình đổi mới, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 1999.
- Tập thể tác giả: Phác thảo chân dung văn hoá Việt Nam, Nxb. Chính trị

quốc gia, Hà Nội, 2000.
- Nguyễn Khoa Điềm (chủ biên): Xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sác dân tộc, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.
- GS,TS. Đỗ Huy: Nhận diện văn hoá Việt Nam và sự biến đổi của nó trong
thế kỷ XX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
- Phan Ngọc: Bản sắc văn hoá Việt Nam, Nxb. Văn học, Hà Nội, 2002.
- Tập thể tác giả: Đề cương văn hoá Việt Nam chặng đường 60 năm,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004.
- Nguyễn Nghĩa Trọng: Văn hoá văn nghệ trong đổi mới, Nxb. Đại học
Sư phạm, 2003.
- PGS,TS. Đinh Xuân Dũng: Mấy cảm nhận về văn hoá, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2004.
Từ nhiều góc độ khác nhau, các tác giả chủ yếu đề cập đến khái niệm,
bản chất, đặc trưng, vai trò và phương hướng phát triển của nền văn hoá Việt
Nam gắn liền với sự phát triển của đất nước; đồng thời cũng giải thích các chủ
trương của Đảng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt
Nam, mà chưa có đề tài chuyên biệt nào nghiên cứu về sự lãnh đạo của Đảng
ta trên lĩnh vực văn hoá trong những năm đổi mới dưới góc độ lịch sử Đảng.
Tuy nhiên, những công trình trên tạo điều kiện cho luận văn kế thừa về mặt
nội dung và phương pháp.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
* Mục đích:

4


Luận văn đi sâu tìm hiểu và làm rõ những quan điểm cơ bản của Đảng
Cộng sản Việt Nam trong lãnh đạo, xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong những năm đổi mới vừa qua.
* Nhiệm vụ:

- Khái quát đường lối văn hoá của Đảng trước thời kỳ đổi mới.
- Làm rõ những quan điểm cơ bản của Đảng ta về xây dựng và phát
triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
- Đánh giá đúng thực trạng nền văn hoá Việt Nam trong những năm đổi
mới vừa qua.
- Bước đầu rút ra một số kinh nghiệm và đề xuất một số giải pháp nhằm
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hoá trong công cuộc đổi mới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
* Đối tượng:
Nghiên cứu những quan điểm cơ bản của Đảng trong quá trình lãnh đạo
xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc.
* Phạm vi nghiên cứu:
Tìm hiểu những quan điểm cơ bản của Đảng ta trên lĩnh vực văn hoá
Việt Nam trong thời gian từ năm 1986 đến năm 2001, nghĩa là từ Đại hội lần
thứ VI đến trước Đại hội lần thứ IX của Đảng.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng ta, luận văn dựa vào
phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp duy vật lịch sử.

5


Luận văn còn sử dụng các phương pháp chuyên ngành của khoa học lịch
sử như phương pháp lịch sử và lôgíc, phương pháp so sánh, phương pháp phân
tích và tổng hợp để hoàn thành mục tiêu và nhiệm vụ của luận văn.
6. Đóng góp của luận văn
- Hệ thống hoá một số quan điểm cơ bản của Đảng ta trong quá trình
lãnh đạo xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản

sắc dân tộc.
- Đánh giá thực trạng nền văn hoá Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng
trong những năm đổi mới vừa qua.
- Rút ra một số kinh nghiệm và đề xuất một số giải pháp nhằm góp
phần vào việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
- Có thể làm tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy môn Lịch sử Đảng
về lĩnh vực văn hoá thời kỳ đổi mới.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương, 6 tiết.

6


7


Chương 1
ĐẢNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN
NỀN VĂN HOÁ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1986 - 1996
1.1. Khái quát đường lối văn hoá của Đảng thời kỳ trước đổi mới
1.1.1. Nhận thức của Đảng về văn hoá và vai trò của văn hoá
Khái niệm văn hoá:
Khái niệm văn hoá bao hàm nội dung sâu rộng và phong phú. Cho đến
nay, văn hoá vẫn là một trong những khái niệm có nhiều cách hiểu khác nhau
và có rất nhiều định nghĩa về văn hoá. Tuy được dùng theo nhiều nghĩa khác
nhau, nhưng suy cho cùng, khái niệm văn hoá bao giờ cũng có thể quy về hai
cách hiểu chính: theo nghĩa hẹp và theo nghĩa rộng.
Theo nghĩa hẹp, văn hoá được giới hạn theo chiều sâu hoặc theo chiều

rộng, theo không gian hoặc theo thời gian. Giới hạn theo chiều sâu, văn hoá
được hiểu là những giá trị tinh hoa của nó (nếp sống văn hoá, văn hoá nghệ
thuật…). Giới hạn theo chiều rộng, văn hoá được dùng để chỉ những giá trị
trong từng lĩnh vực (văn hoá giao tiếp, văn hoá kinh doanh…). Giới hạn theo
không gian, văn hoá được dùng để chỉ những giá trị đặc thù của từng vùng
(văn hoá Tây Nguyên, văn hoá đồng bằng Bắc Bộ…). Giới hạn theo thời gian,
văn hoá được dùng để chỉ những giá trị trong từng giai đoạn (văn hoá Hoà
Bình, văn hoá Sa Huỳnh…).
Theo nghĩa rộng, văn hoá thường được xem là bao gồm tất cả những gì
do con người sáng tạo trong quá trình ứng xử với thiên nhiên và xã hội.
Trong quan niệm của Lênin, ở đâu có hoạt động của con người ở đó có
văn hoá, phạm vi của văn hoá không chỉ là văn hoá tinh thần, mà còn là văn
hoá vật chất. Người coi văn hoá là phương tiện quan trọng nhất trong tất cả
các loại hình hoạt động của con người và là kết quả của mọi hoạt động đó.

8


Trong Tạp chí Người đưa tin UNESCO, số 11-1998, Federico Mayor,
Tổng Giám đốc UNESCO đã viết như sau: “Đối với một số người, văn hoá
chỉ bao gồm những kiệt tác tuyệt vời trong các lĩnh vực tư duy và sáng tạo;
đối với những người khác, văn hoá bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc
này khác với dân tộc khác từ những tác phẩm tinh vi hiện đại nhất cho đến tín
ngưỡng phong tục tập quán, lối sống và lao động”.
Trong tiếng Việt, văn hoá là danh từ có nội hàm ngữ nghĩa khá phong
phú và phức tạp. Người ta có thể hiểu văn hoá như một hoạt động sáng tạo
của con người, nhưng cũng có thể hiểu văn hoá như là lối sống, thái độ ứng
xử, lại cũng có thể hiểu văn hoá như trình độ học vấn.
Tiếp thu, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và bằng thực tiễn
hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra một quan niệm về văn

hoá: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng
tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn
giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn,
ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức
là văn hoá. Văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với
biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu
đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn” [35, tr.431].
Kế thừa tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nguyên Thủ tướng Phạm
Văn Đồng cũng đã viết: “Nói tới văn hoá là nói tới một lĩnh vực vô cùng
phong phú và rộng lớn, bao gồm tất cả những gì không phải là thiên nhiên mà
liên quan đến con người trong một quá trình tồn tại, phát triển, quá trình con
người làm nên lịch sử… Cốt lõi của sức sống dân tộc là văn hoá với nghĩa bao
quát và đẹp nhất của nó, bao gồm cả hệ thống giá trị tư tưởng và tình cảm,
đạo đức và phẩm chất, trí tuệ và tài năng, sự nhạy cảm và sự tiếp thu cái mới
từ bên ngoài, ý thức bảo vệ tài sản và bản lĩnh các cộng đồng dân tộc, sức đề

9


kháng và sức chiến đấu để bảo vệ mình và không ngừng lớn mạnh” [25,
tr.16].
Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII đã
đưa ra nội hàm của khái niệm văn hoá theo nghĩa rộng, bao hàm những lĩnh
vực lớn, trong đó tư tưởng, đạo đức, lối sống và đời sống văn hoá được coi là
những lĩnh vực quan trọng nhất hiện nay cần đặc biệt quan tâm.
Có thể nói rằng, có bao nhiêu nhà nghiên cứu văn hoá thì có bấy nhiêu
định nghĩa về văn hoá. Tuy nhiên, dù số lượng định nghĩa về văn hoá như có
người thống kê là 164, 200, có người cho là tới 400, 500…, nhưng dù có bao
nhiêu chăng nữa thì chung quy đều xoay quanh một số khuynh hướng cơ bản.
Xét theo cách thức có hai loại định nghĩa là định nghĩa miêu tả và định nghĩa

nêu đặc trưng. Định nghĩa miêu tả chủ yếu liệt kê các thành tố của văn hoá.
Ví như E.B. Tylor coi văn hoá là một phức thể bao gồm tri thức, tín ngưỡng,
nghệ thuật, đạo đức, pháp luật, tập quán, cùng mọi khả năng và thói quen
khác mà con người như một thành viên của xã hội đã đạt được. Còn định
nghĩa nêu đặc trưng có ba khuynh hướng sau:
- Khuynh hướng thứ nhất, xem văn hoá là những kết quả nhất định. Đó
có thể là những giá trị, những truyền thống, những nếp sống, những chuẩn
mực, những tư tưởng, những thiết chế xã hội, những biểu trưng, ký hiệu,
những thông tư… mà một cộng đồng người đã kế thừa, sáng tạo và tích luỹ.
- Khuynh hướng thứ hai, xem văn hoá như những quá trình. Đó là
những hoạt động sáng tạo, những công nghệ, những quy trình, những phương
thức tồn tại,… sống và phát triển, cách thức thích ứng với môi trường,
phương thức ứng xử của con người, v.v. .
- Khuynh hướng thứ ba, xem văn hoá như những quan hệ, những cấu
trúc… giữa các giá trị, giữa con người với đồng loại và muôn loài.

10


Tất cả các khuynh hướng định nghĩa khác nhau đó đều có hạt nhân hợp
lý của nó, sự khác biệt giữa chúng chủ yếu là do tác giả nhấn mạnh về khía
cạnh này hay khía cạnh khác của khái niệm mà thôi. Dù theo khuynh hướng
nào, mọi định nghĩa về văn hoá đều có một nét chung là “con người”, đều
thừa nhận và khẳng định mối liên hệ mật thiết giữa văn hoá với con người.
Mặc dù có nhiều cách tiếp cận, cách thể hiện khác nhau, song đều có
nét tổng quát: Văn hoá là tổng hoà của mọi giá trị vật chất và tinh thần do con
người sáng tạo và tích luỹ qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương
tác với môi trường tự nhiên và xã hội của mình, là nền tảng tinh thần của xã
hội. Đặc điểm nổi bật: văn hoá là sáng tạo của con người, thuộc về con người,
văn hoá bao gồm cả vật chất và tinh thần, hay nói cách khác là văn hoá vật

chất và văn hoá tinh thần.
Cho đến nay, khái niệm văn hoá đã dần trở thành một phần quan trọng
không thể tách rời khỏi tổng thể chung - xã hội loài người và biểu hiện trình
độ nhân bản đích thực của con người được đo bằng hệ giá trị phổ quát: chân thiện - mỹ.
Vai trò của văn hoá:
Văn hoá có vai trò quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển
của mỗi dân tộc. Quá trình hình thành và phát triển của mỗi dân tộc đòi hỏi
nhiều điều kiện, nhưng điều kiện cơ bản nhất vẫn là văn hoá. Văn hoá “biểu
hiện ở yếu tố ngôn ngữ, chữ viết, tâm lý dân tộc, và nhất là ý thức cộng đồng
về lãnh thổ và về nhiều mặt của đời sống con người” [6, tr.20].
Hoạt động văn hoá là hoạt động sản xuất ra những giá trị tinh thần
nhằm giáo dục con người hướng tới chân, thiện, mỹ và khả năng sáng tạo của
con người. Văn hoá có khả năng sáng tạo ra con người hoàn thiện, đồng thời
tạo ra những kỳ tích cho xã hội và có khả năng cải biến xã hội lạc hậu thành

11


xã hội văn minh. Nghĩa là văn hoá có sức mạnh, sức mạnh đó gọi là sức mạnh
văn hoá.
Kể từ khi loài người xuất hiện đến nay, với sự tác động của mình đã
làm cho diện mạo của trái đất và cuộc sống con người có nhiều biến đổi sâu
sắc, từng bước chuyển từ hoang sơ lên văn minh, hiện đại. Đây là kết quả của
cuộc đấu tranh lâu dài và gian khổ trước sức mạnh của tự nhiên cũng như
trước các thế lực đen tối trong xã hội. Là một bộ phận trong giới tự nhiên,
nhưng nhờ có tri thức, năng lực và kinh nghiệm tích luỹ được trong quá trình
lao động và đấu tranh mà con người đã biết chế ngự giới tự nhiên và cải biến
xã hội, đã tạo ra mọi của cải vật chất và tinh thần, làm giàu và phong phú cho
cuộc sống của mình, đồng thời thúc đẩy xã hội phát triển. Bằng hoạt động
thực tiễn, con người đã biết “nhào nặn” giới tự nhiên và cải biến xã hội theo

nhu cầu của cuộc sống và quy luật của cái chân, cái thiện, cái mỹ, đã tạo ra
một “thiên nhiên thứ hai theo hình ảnh của mình”. Có thể nói, toàn bộ những
sáng tạo đó chính là văn hoá. Sức mạnh hay vai trò của văn hoá đã làm cho
con người có thêm khả năng chinh phục thiên nhiên, phục vụ cho tiến bộ xã
hội, cho hạnh phúc con người, cho tương lai nhân loại.
Vai trò quan trọng và sức mạnh to lớn của văn hoá, ở những mức độ
khác nhau, đã được con người nhận thức từ rất sớm. Đối với dân tộc ta, chúng
ta có quyền tự hào vì các thế hệ cha ông ngay từ buổi đầu dựng nước đã biết
tôn trọng và gìn giữ các giá trị văn hoá, đặc biệt là đã biết sáng tạo và huy
động sức mạnh văn hoá vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Thực tế
lịch sử hàng ngàn năm dựng nước phải thường xuyên đối mặt với thiên tai và
địch hoạ. Trước những thách thức ấy, để tồn tại và phát triển, ông cha ta đã
biết khơi nguồn sức mạnh từ chiều sâu của nền văn hoá dân tộc - một nền văn
hoá có bề dày lịch sử, không ngừng được hun đúc, phát triển và làm giàu
thêm bằng chắt lọc tinh hoa của các nền văn hoá tiên tiến của nhân loại để tạo
nên những giá trị văn hoá cao đẹp, mang đậm bản sắc dân tộc, thấm đượm

12


tính nhân văn. Đó là nền văn hoá giàu lòng nhân ái, nặng nghĩa đồng bào, ý
chí quật cường, tinh thần bao dung và lòng tự tin dân tộc… Điều đó được giải
thích rõ vì sao dân tộc Việt Nam đất không rộng, người không đông, kinh tế
chậm phát triển, lại bị phong kiến nước ngoài thống trị và ra sức đồng hoá mà
vẫn anh dũng kiên cường đấu tranh bảo vệ và giữ vững chủ quyền dân tộc, đã
nhiều phen làm cho kẻ thù khiếp sợ mà vần giữ vững bản sắc văn hoá của
mình. Minh chứng gần đây nhất là chiến công vĩ đại là đánh thắng hai đế
quốc to là Pháp và Mỹ. Nguyên nhân có nhiều, nhưng trước hết phải kể đến
sức mạnh chính nghĩa, của khát vọng được sống trong độc lập, tự do, của bản
lĩnh trí tuệ và chủ nghĩa nhân văn Việt Nam. Có thể tóm tắt đó là sức mạnh

của văn hoá Việt Nam được vun đắp qua hàng ngàn năm lịch sử và được phát
huy cao độ ở thời đại Hồ Chí Minh. Sức mạnh ấy được kết tinh trong câu nói
bất hủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”.
Bảy mươi lăm năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta và Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã nhận thức rõ vai trò của văn hoá, đã sử dụng sức mạnh
truyền thống văn hoá dân tộc như một loại vũ khí diệu kỳ tạo ra sức mạnh vật
chất và tinh thần cho nhân dân ta chiến thắng các loại kẻ thù xâm lược, chiến
thắng nghèo nàn và lạc hậu. Đảng ta đã có nhiều chỉ thị và nghị quyết về vấn
đề văn hoá, mà gần đây nhất là Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khoá VIII về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và được Hội nghị lần thứ mười Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX tiếp tục khẳng định.
1.1.2. Mấy nét về đường lối xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt
Nam của Đảng thời kỳ 1930 - 1985
Mục đích của chủ nghĩa xã hội không chỉ thỏa mãn nhu cầu vật chất và
tinh thần, mà còn tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện. Từ nhận
thức đó, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến vấn đề văn hoá.
Từ năm 1930, với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, nền văn hoá mới

13


Việt Nam theo hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, đã bắt đầu hình thành và ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong đời
sống tinh thần và văn hoá Việt Nam.
Ngay từ khi mới ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã ý thức rõ về vai
trò và sức mạnh to lớn của văn hoá, xác định văn hoá là một bộ phận của cách
mạng Việt Nam, đã coi văn hoá là một trong những mục tiêu và động lực của
cách mạng Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã từng xác định: Trong
công cuộc kiến thiết nước nhà có bốn vấn đề cùng phải chú ý đến, cùng phải

coi là quan trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá.
Nhìn lại từng chặng đường, chúng ta thấy đường lối văn hoá của Đảng
ta ngày càng phát triển. Quán triệt nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin về
văn hoá, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Đảng ta có
một đường lối về văn hoá nhất quán, đồng thời luôn được bổ sung và phát
triển cho phù hợp với từng giai đoạn cách mạng.
Từ việc hình thành một hệ ý thức mới đến việc lựa chọn con đường
cách mạng ở Việt Nam, đó là cơ sở đầu tiên của một nền văn hoá mới mà Hồ
Chí Minh và Đảng ta đã khẳng định trong Chính cương vắn tắt của Đảng từ
năm 1930: “Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách
mạng để đi tới xã hội cộng sản” [35, tr.1]. Trong Luận cương chính trị, tháng
10 năm 1930, Đảng ta mới chỉ đặt ra vấn đề giải phóng dân tộc, nâng cao dân
chí và tự do báo chí. Luận cương của Đảng có ghi: “Sự tất yếu của tư sản dân
quyền cách mạng một mặt là phải tranh đấu để đánh đổ các di tích phong
kiến, đánh đổ các cách bóc lột theo lối tiền tư bản và thực hành thổ địa cách
mạng cho triệt để; mặt nữa là tranh đấu để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp,
làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập. Hai mặt tranh đấu đó có liên lạc mật
thiết với nhau” [20, tr.94]. Nghĩa là các quá trình văn hoá này diễn ra trong
quá trình xóa bỏ những chế định của thực dân, phong kiến, thiết lập quan hệ
xã hội mới bằng một cuộc cách mạng dân chủ nhân dân.

14


Sau đó, với những hoạt động khác nhau trên các mặt trận chính trị, kinh
tế và văn hoá, lúc bí mật, lúc công khai, Đảng ta đã dần dần đề ra một đường
lối văn hoá, văn nghệ tạo cơ sở cho việc hình thành nền văn hoá mới Việt
Nam.
Đến Đề cương văn hoá Việt Nam năm 1943 của Đảng, vấn đề văn hóa
chính thức được đặt ra một cách rộng hơn. Với năm phần, ngoài phần đặt vấn

đề, Đề cương nêu rõ lịch sử và tính chất của văn hoá Việt Nam; nguy cơ của
văn hoá Việt Nam dưới ách phát xít Nhật - Pháp; vấn đề cách mạng văn hoá
Việt Nam; nhiệm vụ cần kíp của những nhà văn hoá mácxít ở Việt Nam. Đề
cương đã đặt một mốc son quan trọng trong việc khởi động, định hướng sự
phát triển của văn hoá Việt Nam. Đề cương văn hoá Việt Nam ra đời thực sự
là văn kiện có giá trị lịch sử, đánh dấu quan điểm của Đảng ta về văn hoá. Với
tính khoa học và cách mạng, Đề cương thực sự trở thành vũ khí tư tưởng sắc
bén của các chiến sĩ trên mặt trận văn hoá; đề cương xác định văn hoá bao
gồm cả tư tưởng, học thuật và nghệ thuật, đồng thời khẳng định quan điểm
của Đảng đối với vấn đề văn hoá: “Mặt trận văn hoá là một trong ba mặt trận
(kinh tế, chính trị, văn hoá) ở đó người cộng sản phải hoạt động”; nhiệm vụ
của Đảng "không phải chỉ làm cách mạng chính trị mà còn phải làm cách
mạng văn hoá nữa”; “có lãnh đạo được phong trào văn hoá, Đảng mới ảnh
hưởng được dư luận, việc tuyên truyền của Đảng mới có hiệu quả” 21,
tr.116. Trên cơ sở đó, Đảng ta đã xác định: “Nền văn hoá mà Đảng ta xây
dựng là nền văn hoá xã hội chủ nghĩa”; chỉ ra ba nguyên tắc của cuộc vận
động văn hoá là: “Dân tộc hoá, đại chúng hoá, và khoa học hoá”, đồng thời
khẳng định: “Văn hoá mới Việt Nam là một thứ văn hoá có tính chất dân tộc
về hình thức và tân dân chủ về nội dung”.
Đề cương văn hoá Việt Nam đã vạch ra con đường đúng đắn cho văn
hoá Việt Nam, trở thành kim chỉ nam soi đường cho những người hoạt động
văn hoá. Với Đề cương cho thấy, ngay từ đầu, Đảng ta đã nhận thức rõ vai trò

15


quan trọng của văn hoá và đã định hướng cho việc xây dựng nền văn hoá Việt
Nam. Trong Đề cương, Đảng ta còn khẳng định: “Phải hoàn thành cách mạng
văn hoá, mới hoàn thành được cuộc cải tạo xã hội… Cách mạng văn hoá có
thể hoàn thành khi nào cách mạng chính trị thành công” 21, tr.118. Điều đó

cho thấy Đảng ta thấm nhuần sâu sắc chủ nghĩa Mác-Lênin về mối quan hệ
biện chứng giữa chính trị, kinh tế và văn hoá, đã “tạo nên một bước ngoặt
trong nhận thức về vai trò và sứ mệnh của văn hoá đối với đời sống xã hội”
46, tr.411. Đảng ta chủ trương tiến hành cách mạng văn hoá và chính trị
đồng thời, cách mạng văn hoá đồng thời với cách mạng giải phóng dân tộc đó là phương châm tối ưu giành thắng lợi trong điều kiện Việt Nam đang phải
“kháng chiến và kiến quốc”. Đề cương khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng
đối với sự nghiệp xây dựng nền văn hoá mới ở Việt Nam.
Đề cương văn hoá Việt Nam phản ánh chủ trương sáng suốt của Đảng
ta, nó có ý nghĩa tập hợp, đoàn kết rộng rãi những nhà văn hoá văn nghệ,
những trí thức tiến bộ ở trong và ngoài nước nhằm phát huy tinh thần yêu
nước, lòng khát khao tự do, và giải phóng dân tộc.
Đến nay, những quan điểm về văn hoá, những phương châm hành động
nêu lên trong bản Đề cương văn hoá Việt Nam năm 1943 đã đi vào cuộc sống
và trở thành hiện thực trên lĩnh vực văn hoá. Tại Hội nghị văn hoá toàn quốc
lần thứ nhất (11-1946) những luận điểm quan trọng của Đề cương văn hoá
Việt Nam được nhấn mạnh và trở thành phương châm hành động của giới văn
hoá văn nghệ.
Tại Hội nghị Văn hoá toàn quốc lần thứ hai (7-1948), đồng chí Trường
Chinh công bố tác phẩm “Chủ nghĩa Mác và văn hoá Việt Nam”. Trong tác
phẩm, khái niệm văn hoá được mở rộng, bao gồm cả văn học, nghệ thuật,
khoa học, triết học, phong tục, tôn giáo… Đây là văn kiện lý luận đầu tiên của
Đảng ta vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin để giải quyết những vấn đề văn hoá

16


Việt Nam. Đây cũng là nền tảng tư tưởng trong sự nghiệp xây dựng nền văn
hoá mới Việt Nam, thể hiện trình độ lý luận và nhận thức của Đảng trên lĩnh
vực văn hoá đã được nâng lên một bước.
Tác phẩm Chủ nghĩa Mác và văn hoá Việt Nam là sự kế thừa, mở rộng

và phát triển Đề cương văn hoá Việt Nam năm 1943 với nội dung cơ bản của
chiến lược văn hoá là xây dựng “nền văn hoá dân chủ mới Việt Nam phải
gồm đủ cả ba tính chất: dân tộc, khoa học và đại chúng” 2, tr.200.
Trong báo cáo chính trị trình bày tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
II (2-1951) của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Xúc tiến công
tác văn hoá để đào tạo con người mới và cán bộ mới cho công cuộc kháng
chiến kiến quốc. Phải triệt để tẩy trừ mọi di tích thuộc địa và ảnh hưởng nô
dịch của văn hoá đế quốc. Đồng thời phát triển những truyền thống tốt đẹp
của văn hoá dân tộc và hấp thụ những cái mới của văn hoá tiến bộ thế giới, để
xây dựng nền văn hoá Việt Nam có tính chất dân tộc, khoa học, đại chúng”
37, tr.173. Trong Chính cương Đảng Lao động Việt Nam được thông qua tại
Đại hội nêu rõ chính sách: “Thủ tiêu nạn mù chữ, cải cách chế độ giáo dục,
mở mang các trường chuyên nghiệp, phát triển khoa học, kỹ thuật và văn
nghệ nhân dân; phát triển tinh hoa văn hoá dân tộc, đồng thời học tập văn hoá
Liên Xô, Trung Quốc và các nước dân chủ nhân dân khác; phát triển văn hoá
dân tộc thiểu số” [22, tr.440].
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9-1960), trên lĩnh vực
văn hoá, Đảng đề ra đường lối: “Đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa về tư
tưởng, văn hoá và kỹ thuật, biến nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa có
công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại, văn hoá và khoa học tiên tiến” [7,
tr.79]. “Mục tiêu của cuộc cách mạng văn hoá và kỹ thuật là làm cho nhân
dân lao động đông đảo có trình độ văn hoá vững vàng, nắm được hiểu biết
cần thiết về khoa học và kỹ thuật và vận dụng được những hiểu biết đó vào

17


công cuộc cải biến bộ mặt lạc hậu của văn hoá và kỹ thuật nước ta, xây dựng
một nền văn hoá, khoa học và kỹ thuật tiên tiến” [7, tr.71]. Đảng đã xác định
nền văn hoá mới trong giai đoạn này là nền văn hoá xã hội chủ nghĩa, hình

thức dân tộc mà nội dung quan trọng là xây dựng con người mới. Đường lối
văn hoá được thông qua tại Đại hội lần thứ III của Đảng tạo ra một bước phát
triển mới trong đời sống tinh thần của dân tộc. Các hoạt động văn hoá trong
thời gian này đã hướng vào việc cổ vũ tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã
hội, giáo dục chủ nghĩa anh hùng cách mạng và xác lập các giá trị văn hoá
mới.
Từ Đề cương văn hoá Việt Nam năm 1943 đến Đại hội Đảng lần thứ III
(1960), các nghị quyết của Đảng với phương châm cơ bản của nền văn hoá
mới vẫn là nền văn hoá mang tính chất dân tộc, khoa học, đại chúng. Đảng ta
đặt sự nghiệp xây dựng nền văn hoá mới vào quá trình liên tục của sự nghiệp
cách mạng, là một bộ phận khăng khít của cách mạng. Toàn bộ hoạt động văn
hoá nhằm vào mục tiêu xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa. Để thực
hiện mục tiêu đó, nền văn hoá xã hội chủ nghĩa của nước ta lúc này vừa xây
dựng thế giới quan của chủ nghĩa Mác - Lênin, vừa quan tâm phát huy các giá
trị truyền thống của văn hoá dân tộc và tinh hoa văn hoá nhân loại.
Tháng 1-1968, Đại hội văn nghệ toàn quốc lần thứ IV được triệu tập
dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ chính trị. Đại hội đã đánh giá cao thành tựu
sáng tạo của văn hoá, văn nghệ và vạch rõ nhiệm vụ của văn hoá, văn nghệ
trong giai đoạn mới. Tại Đại hội những quan điểm cơ bản về đường lối văn
hoá, văn nghệ của Đảng đã được đồng chí Trường Chinh khẳng định: Với chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, chúng ta xây dựng một nền văn hoá, văn
nghệ đẹp nhất của loài người. Cũng tại Đại hội, đồng chí Phạm Văn Đồng đã
khái quát chức năng văn học, nghệ thuật trong sự nghiệp cách mạng là “hiểu
biết, khám phá, sáng tạo” và chỉ ra “tầm quan trọng to lớn, sâu xa và ý nghĩa

18


bền vững vô cùng của văn học, nghệ thuật trong sự nghiệp cách mạng, cũng
như trong cả đời sống của cả một dân tộc” [24, tr.106].

Sau thắng lợi vĩ đại mùa Xuân năm 1975, đất nước hoàn toàn giải
phóng, cách mạng nước ta bước vào thời kỳ mới, cả nước bước vào xây dựng
đất nước và quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ văn hoá của thời kỳ này
là tiếp tục thực hiện đường lối văn hoá của Đảng: xây dựng nền văn hoá mới
xã hội chủ nghĩa. Nhưng xây dựng một nền văn hoá mới ở một nước vốn là
nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ là chủ yếu tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa cùng với biết bao tàn tích của quá khứ, những ảnh
hưởng độc hại của văn hoá thực dân cũ và mới, đồng thời khắc phục những
nhận thức lệch lạc, những quan điểm không đúng, những cách hiểu giản đơn,
những sự buông lỏng đối với công cuộc cải tạo và xây dựng nền văn hoá mới
là một nhiệm vụ hết sức nặng nề và có tầm quan trọng đặc biệt.
Tiếp tục sự nghiệp xây dựng nền văn hoá mới, Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IV của Đảng (12-1976) đề ra đường lối chung là: “Nắm vững
chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động,
đẩy mạnh ba cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng
khoa học - kỹ thuật, và cách mạng tư tưởng và văn hoá… là quá trình hình
thành từng bước chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, nền sản xuất lớn xã
hội chủ nghĩa, nền văn hoá mới và con người mới xã hội chủ nghĩa” [8, tr.1819]. Đại hội cũng đã đề ra mục tiêu và nhiệm vụ của văn hoá là: “Tạo ra cho
mọi người một cuộc sống tinh thần phong phú; là biến mọi giá trị văn hoá
thành tài sản của nhân dân và tạo mọi điều kiện để nhân dân trực tiếp sáng tạo
ra mọi giá trị văn hoá; là làm cho các quan hệ đối xử giữa người với người thể
hiện lẽ sống tốt đẹp: “Mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người”.
Nhằm mục đích ấy, cần ra sức xây dựng nền văn hoá mới, từng bước xây
dựng nước ta thành một xã hội văn hoá cao” [8, tr.23].

19


Nền văn hoá mới mà Đại hội lần thứ IV của Đảng đề ra là nền văn hoá
có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc. Đó là một nền văn hoá có

tính Đảng và tính nhân dân sâu sắc, thấm nhuần chủ nghĩa yêu nước và chủ
nghĩa quốc tế vô sản. Nền văn hoá đó được xây dựng trên cơ sở chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa; vừa hấp thu có
chọn lọc những thành quả của văn minh loài người, vừa kết tinh và nâng lên
một tầm cao mới những truyền thống tốt đẹp của văn hoá dân tộc Việt Nam.
Đó là truyền thống yêu nước, bất khuất kiên cường, đấu tranh anh dũng cho
độc lập tự do, là tinh thần lao động cần cù, sáng tạo, lạc quan yêu đời. Đó là
nền văn hoá kết hợp hài hoà những tinh hoa và phong cách riêng của các dân
tộc anh em trong đại gia đình dân tộc Việt Nam. Xây dựng nền văn hoá mới
là quá trình bồi đắp tư tưởng của giai cấp công nhân, đồng thời đấu tranh quét
sạch ảnh hưởng của văn hoá thực dân, phong kiến, tư bản và nhân tố lạc hậu
trong xã hội.
Tiếp tục sự nghiệp xây dựng nền văn hoá mới, Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ V của Đảng (1982) đánh giá những thành tựu và những điểm còn
hạn chế trong quá trình xây dựng nền văn hoá mới, con người mới, đồng thời
tiếp tục hoàn thiện những quan điểm về đường lối xây dựng nền văn hoá mới
và con người mới mà Đại hội lần thứ III và lần thứ IV của Đảng đã đề ra. Đại
hội xác định xây dựng nền văn hoá mới gắn liền với xây dựng con người mới
với nghĩa “mỗi người được phát triển đầy đủ nhân cách và năng khiếu của
mình” [9, tr.93], đồng thời đấu tranh chống văn hoá phản động, văn hoá đế
quốc, thực dân. Đại hội đã chỉ rõ: “Cuộc đấu tranh nhằm xây dựng con người
mới và nền văn hoá mới là một cuộc đấu tranh lâu dài phức tạp, đầy khó
khăn. Nó không thể tách rời cuộc đấu tranh kiên quyết, liên tục và sâu sắc
nhằm quét sạch những tàn dư tư tưởng và văn hoá lạc hậu, phản động, sản
phẩm của xã hội cũ” [9, tr.91-92]. Đại hội cũng đề cập đến mối quan hệ giữa
chính trị, kinh tế và văn hoá: “Chế độ mới và nền kinh tế mới có ảnh hưởng

20



quyết định đến sự hình thành nền văn hoá mới, con người mới. Ngược lại,
những thắng lợi của sự nghiệp xây dựng nền văn hoá mới, con người mới là
một động lực to lớn thúc đẩy tiến trình xây dựng chế độ mới và nền kinh tế
mới” [9, tr.93].
Đường lối văn hoá được thông qua tại Đại hội lần thứ IV và lần thứ V
của Đảng một lần nữa khẳng định nền văn hoá mà Đảng ta chủ trương xây
dựng là nền văn hoá mới mang nội dung xã hội chủ nghĩa và tính chất dân
tộc, có tính Đảng và tính nhân dân sâu sắc.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Đảng ta vừa sử
dụng văn hoá như một thứ vũ khí đấu tranh, vừa coi đó là mục tiêu trong công
cuộc xây dựng đất nước theo đường lối vừa xây, vừa chống. “Xây dựng nền
văn hoá với ba tính chất: dân tộc, khoa học và đại chúng”, “văn hoá cũng là
một mặt trận”, “kháng chiến hoá văn hoá, văn hoá hoá kháng chiến”, “xây
dựng một nền văn nghệ nhân dân”, “nền văn nghệ dân tộc hiện đại”, “xây
dựng nếp sống mới”, “xây dựng con người mới”… là những chủ trương đúng
đắn trong đường lối văn hoá của Đảng ta. Dưới ánh sáng đường lối văn hoá
của Đảng, nhiều tác phẩm văn học, nghệ thuật đã được xây dựng trên cơ sở
phát huy những tinh hoa trong vốn văn hoá của dân tộc, đồng thời tiếp thu có
chọn lọc cái hay, cái đẹp trong kho tàng văn hoá của nhân loại tiến bộ, nên đã
đáp ứng được nhu cầu tinh thần của quần chúng, yêu cầu của sự nghiệp đấu
tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước.
Có thể nói, trong lịch sử văn hoá của dân tộc vốn văn hoá của cha ông
ta được Đảng phát huy cao độ. Chủ nghĩa xã hội không những đã trả lại
nguyên vẹn những giá trị tinh thần của những vốn văn hoá đó, mà còn tô thắm
thêm, cách tân cho phù hợp với khiếu thẩm mỹ mới của xã hội Việt Nam.
Những thành công trong sự nghiệp văn hoá dưới sự lãnh đạo của Đảng là một
đóng góp đáng kể vào đời sống văn hoá của nhân loại tiến bộ. Văn hoá Việt
Nam đã trở thành một trong những nền văn hoá, nghệ thuật đi đầu trong cuộc

21



đấu tranh chống đế quốc, bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của dân tộc, bảo vệ
nền văn minh và phẩm giá của con người.
Hoạt động văn hoá, nghệ thuật dưới sự lãnh đạo của Đảng trong thời kỳ
đấu tranh giành độc lập dân tộc đã tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ của
nhân dân các nước, làm cho nhân loại tiến bộ trên thế giới hiểu biết về dân tộc
ta hơn, dành cho văn hóa nghệ thuật của ta một vị trí xứng đáng mà thực dân
Pháp và bọn xâm lược Mỹ đã tìm mọi cách hạ thấp, xoá bỏ. Hoạt động văn
hoá, nghệ thuật của ta ở bất cứ nước nào cũng đều gây được ảnh hưởng chính
trị tốt đẹp.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã giành thắng lợi trong hai
cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc, đánh thắng hai tên đế quốc to, giành
độc lập dân tộc. Đồng thời cũng thành công trong việc xây dựng một nền văn
hoá mới, cung cấp đủ năng lượng tinh thần cho hàng triệu con người Việt
Nam trở thành những chiến sỹ xả thân vì lý tưởng “ Không có gì quý hơn độc
lập tự do”. Nền văn hoá dân tộc “xứng đáng đứng vào hàng ngũ tiên phong
của những nền văn hoá, nghệ thuật chống đế quốc trong thời đại ngày nay”
[13, tr.121].
Trong thời kỳ tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, Đảng ta
đã đề ra nhiều biện pháp, chủ trương để hướng nền văn hoá dân tộc đến
những giá trị chân - thiện - mỹ, nhưng do hậu quả của chiến tranh kéo dài, lại
ít có điều kiện tiếp xúc với các thành tựu về lý luận và tinh hoa văn hoá thế
giới, nên “những văn kiện của Đảng về mặt lý luận còn quá ít và không đáp
ứng được yêu cầu của tình hình mới” [3, tr.204-205]. Vì thế, trong quá trình
hoạch định đường lối, chính sách văn hoá sau khi đất nước thống nhất còn có
những bất cập. Công tác quản lý văn hoá theo cơ chế hành chính, quan liêu
bao cấp cũng đã hạn chế sự sáng tạo của văn nghệ sĩ và các hoạt động văn
hoá. Những nhân tố văn hoá vốn được phát huy trong kháng chiến đã dần dần
bị lãng quên, hoặc không được khơi dậy với một tinh thần sáng tạo trong điều

kiện mới. Những hạn chế đó phần nào gây trở ngại cho sự phát triển nền văn

22


×