Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

Cơ hội và thách thức của ngành dệt may khi gia nhập TPP 05.2016

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (394.06 KB, 34 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA SAU ĐẠI HỌC
------***------

MÔN KINH TẾ QUỐC TẾ
Tiểu luận: CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA NGÀNH DỆT MAY
VIỆT NAM KHI GIA NHẬP HIỆP HỘI ĐỐI TÁC KINH TẾ CHIẾN
LƯỢC XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG (TPP)

Giảng viên hướng dẫn: PGS.TS Từ Thúy Anh
Lớp
: Cao học TCNH 22A
Nhóm thực hiện
: 01. Dương Hoàng Anh – STT: 03
02. Dương Lê Hồng Giang – STT:
16
03. Đoàn Thu Hằng – STT: 22

Hà Nội, tháng 5 năm 2016


TÓM TẮT NỘI DUNG
Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP) được ký
với mục tiêu thiết lập một mặt bằng thương mại tự do chung cho các nước khu vực
Châu Á-Thái Bình Dương. Đầu năm 2009, Việt Nam tham gia với tư cách thành viên
liên kết. Sau nhiều vòng đàm phán, hiệp định TPP chính thức đạt được những thỏa
thuận cuối cùng vào ngày 5/10/2015. Theo đó, hiệp định TPP gồm có 30 chương điều
chỉnh thương mại và các vấn đề liên quan đến thương mại.
Hiệp định TPP được kí kết mang lại cho Việt Nam rất nhiều cơ hội “vàng” để
phát triển nền kinh tế trong những năm tới như: Đẩy mạnh xuất khẩu, thúc đẩy thu hút
vốn đầu tư, tái cơ cấu nền kinh tế, nâng cao sức cạnh tranh và vị thế đất nước đặc biệt


trong ngành dệt may. Đồng thời, Việt Nam cũng đứng trước những thách thức lớn như:
sức ép cạnh tranh, hoàn thiện khuôn khổ pháp luật, khoảng cách về trình độ phát triển,
… và đáp ứng các quy định chặt chẽ trong TPP.
Trong nhiều năm trở lại đây, dệt may được lựa chọn là ngành kinh tế mũi nhọn
trong xuất khẩu ở Việt Nam. Trong đàm phán các nội dung cốt lõi của Hiệp định TPP,
lần đầu tiên, dệt may được tách thành một chương riêng với những quy định chặt chẽ
về: Thuế nhập khẩu, nguyên tắc Tối huệ quốc, hợp tác trong lĩnh vực hải quan.
Hiệp định TPP được ký kết và có hiệu lực từ ngày 02/05/2016, dệt may được
đánh giá là một trong những ngành được hưởng lợi nhiều nhất. Với việc được hưởng
thuế suất 0%, ngành dệt may được kỳ vọng sẽ tăng trưởng mạnh, thúc đẩy đầu tư
nguyên liệu, gia tăng số lượng và chất lượng lao động. Bên cạnh đó, những khó khăn
mà ngành dệt may phải đối mặt đó là: Thực hiện đúng nguyên tắc xuất xứ “từ sợi trở
đi”, sức ép cạnh tranh từ các doanh nghiệp nước ngoài, năng suất lao động thấp, các
thủ tục hành chính còn phức tạp.
Để có thể tranh thủ những cơ hội mà Hiệp định TPP mang lại, một số giải pháp
được đưa ra như: Đẩy mạnh việc phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ; tăng được
quy mô xuất khẩu bằng việc đổi mới công nghệ, nâng cao hình thức và chất lượng sản
phẩm; tăng cường liên kết trong ngành, giữa các ngành; phát triển bền vững thông qua
bảo vệ môi trường, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; xử lý nghiêm các vấn đề gian
lận thương mại; đổi mới tư duy hội nhập,...

MỤC LỤC


LỜI MỞ ĐẦU


LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay, hợp tác kinh tế quốc tế đang trở thành xu hướng chủ đạo của đời sống
kinh tế thế giới. Với mỗi quốc gia, việc thúc đẩy các quan hệ kinh tế quốc tế có vai trò

vô cùng quan trọng trong chính sách phát triển kinh tế của quốc gia đó. Hầu hết các
nước đều nỗ lực tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế khu vực hoặc ký kết các hiệp
định thương mại song phương, đa phương nhằm tận dụng các quan hệ kinh tế này để
thúc đẩy các lợi ích và giá trị mà nó mang lại. Không nằm ngoài xu hướng đó, trong
hơn 20 năm qua, Việt Nam đã tích cực đàm phán tham gia và trở thành thành viên của
nhiều định chế kinh tế lớn trên thế giới; đồng thời ký kết một số Hiệp định kinh tế thương mại có sự tham gia của nhiều nền kinh tế hàng đầu thế giới. Điều này đã khẳng
định chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong tiến trình hội nhập quốc
tế, cũng như đóng góp quan trọng vào mục tiêu phát triển kinh tế của Việt Nam.
Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific
Strategic Economic Partnership Agreement – TPP) được coi như hiệp định thương mại
tự do “thế hệ mới” đầy tham vọng và tiêu chuẩn cao; là một thỏa thuận khu vực mở
rộng, linh hoạt và toàn diện. TPP cam kết mở cửa thị trường mạnh mẽ và tham gia sâu
của các bên, loại bỏ hoàn toàn nhiều dòng thuế nhập khẩu, mở cửa dịch vụ và các yêu
cầu cao về môi trường và lao động… Vì thế, tham gia TPP được đánh giá là một cơ
hội không thể bỏ qua đối với các nền kinh tế, đặc biệt là với các nền kinh tế đang phát
triển trong đó có Việt Nam. Việc tham gia TPP dự kiến sẽ mang lại những lợi ích to
lớn cho Việt Nam với cam kết mở cửa thị trường mạnh mẽ từ các nền kinh tế thành
viên trên hầu hết các lĩnh vực, gia tăng xuất khẩu, đẩy mạnh tái cơ cấu kinh tế... Tuy
nhiên, bên cạnh những triển vọng mà TPP có thể mang lại, Việt Nam cũng sẽ gặp phải
những thách thức không nhỏ đòi hỏi phải có những bước đi thận trọng và đúng hướng.
Trong số những lĩnh vực của nền kinh tế Việt Nam, dệt may là một trong những
ngành nghề chịu tác động lớn nhất từ Hiệp định TPP. Việc gia nhập TPP sẽ mở ra
những thuận lợi, triển vọng tăng trưởng chưa từng có cho hàng dệt may Việt Nam. Tuy
nhiên, cùng với đó sẽ là những thách thức lớn từ đối thủ cạnh tranh hay những yêu cầu
đổi mới từ trong nước, đòi hỏi các doanh nghiệp trong ngành này phải có chiến lược
và định hướng chính sách kịp thời, phù hợp.
Để có được một cái nhìn cụ thể và thực tế hơn về vấn đề và vận dụng những
kiến thức trong môn học Kinh tế Quốc tế do PGS.TS Từ Thúy Anh giảng dạy, nhóm



nghiên cứu quyết định chọn đề tài “Cơ hội và thách thức của ngành dệt may Việt
nam khi gia nhập Hiệp hội đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương
(TPP)”” làm đề tài Tiểu luận của nhóm.
Trong khuôn khổ một bài tiểu luận, nhóm nghiên cứu xin đi vào tìm hiểu và
phân tích 03 phần chính như sau:
Chương I: Tổng quan về hiệp định TPP và tác động của TPP đến tổng thể nền
kinh tế Việt Nam.
Chương II: Thực trạng ngành dệt may Việt Nam khi tham gia TPP.
Chương III: Cơ hội, thách thức của ngành dệt may Việ Nam khi gia nhập TPP.
Vì thời gian, kiến thức và phạm vi nghiên cứu còn nhiều hạn chế, trong quá
trình nghiên cứu không thể tránh khỏi thiếu sót, Nhóm nghiên cứu kính mong cô góp ý
kiến để nhóm nghiên cứu có thể hoàn thiện tiểu luận tốt hợn.
Nhóm nghiên cứu xin chân thành cảm ơn!


Tiểu luận môn Kinh tế Quốc tế - Giảng viên hướng dẫn PGS.TS Từ Thúy Anh

CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ HIỆP ĐỊNH TPP VÀ TÁC ĐỘNG CỦA TPP
ĐẾN TỔNG THỂ NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
1.1. Tổng quan về Hiệp định TPP và tác động của TPP đến tổng thể nền kinh tế
Việt Nam
1.1.1. Định nghĩa về Hiệp định TPP
Hiệp định TPP (tên tiếng anh là Trans-Pacific Strategic Economic Partnership
Agreement) tạm dịch là Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình
Dương. Đây là một hiệp định thương mại tự do nhiều bên, được ký với mục tiêu thiết
lập một mặt bằng thương mại tự do chung cho các nước khu vực Châu Á-Thái Bình
Dương. TPP hiện tại có 12 thành viên bao gồm: Australia, Brunei, Chile, Malaysia,
Mexico, New Zealand, Canada, Peru, Singapore, Mỹ, Nhật Bản và Việt Nam.
Mục tiêu chính của TPP là xóa bỏ các loại thuế và rào cản cho hàng hóa, dịch
vụ xuất nhập khẩu giữa các nước thành viên nhằm tăng cường trao đổi hàng hóa, dịch

vụ giữa các nước này, thắt chặt hơn mối quan hệ kinh tế. Sau 19 phiên đàm phán chính
thức và nhiều phiên giữa kỳ, TPP được kỳ vọng là mô hình mới về hợp tác kinh tế khu
vực châu Á – Thái Bình Dương, tạo thuận lợi tối đa cho thương mại, đầu tư.
1.1.2. Sơ lược quá trình hình thành và phát triển Hiệp định TPP
Năm 2002, TPP bắt đầu hình thành với 3 nước đầu tiên là Singapore, New
Zeland và Chile bàn thảo Pacific Three Closer Economic Partnership (P3-CEP).
Tháng 4/2004, Brunei tham gia và thỏa thuận được đổi tên thành Hiệp định Đối
tác Kinh tế Chiến lược Xuyên Thái Bình Dương hay còn gọi là P4. Hiệp định này
được ký kết bởi 4 thành viên vào ngày 3/6/2005 và có hiệu lực từ ngày 28/5/2006.
Đầu năm 2009, Việt Nam quyết định tham gia TPP với tư cách thành viên liên
kết. Tuy nhiên, đàm phán TPP mới đã bị trì hoãn đến tận cuối năm 2009 do phải chờ
đợi Hoa Kỳ hoàn thành kỳ bầu cử Tổng thống và Chính quyền mới của Tổng thống
Obama tham vấn và xem xét lại việc tham gia đàm phán TPP. Tháng 12/2009, Văn
phòng Đại diện thương mại Hoa Kỳ (USTR) thông báo quyết định của Tổng thống
Obama về việc Hoa Kỳ tiếp tục tham gia TPP. Chỉ lúc này đàm phán TPP mới được
chính thức khởi động.
Ngày 5/10/2015, sau nhiều vòng đàm phán tại Atlanta, hiệp định TPP chính
6


Tiểu luận môn Kinh tế Quốc tế - Giảng viên hướng dẫn PGS.TS Từ Thúy Anh
thức đạt được những thỏa thuận cuối cùng với 12 nước thành viên.
1.1.3. Nội dung chính của TPP
Theo nội dung tóm tắt Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), Bộ
Công thương 2015, hiệp định TPP gồm có 30 chương điều chỉnh bắt đầu từ thương
mại hàng hóa và tiếp tục với hải quan và thuận lợi hóa thương mại; vệ sinh kiểm dịch
động thực vật; hàng rào kỹ thuật đối với thương mại; đầu tư; dịch vụ; thương mại điện
tử; sở hữu trí tuệ; lao động; môi trường;… Trong tiểu luận này, nhóm nghiên cứu chỉ
đưa ra nội dung chính của hiệp định TPP về ngành dệt may và các nội dung có liên
quan. Các nội dung khác có thể đọc trong nội dung tóm tắt hiệp định TPP do Bộ Công

thương phát hành.
 Về dệt may

Các bên tham gia TPP nhất trí xóa bỏ thuế quan đối với hàng dệt may - ngành
công nghiệp. Hầu hết thuế quan sẽ được xóa bỏ ngay lập tức, mặt dù thuế quan đối với
một số mặt hàng nhạy cảm sẽ được xóa bỏ với lộ trình dài hơn do các bên thống nhất.
Chương dệt may cũng bao gồm các quy tắc xuất xứ cụ thể yêu cầu việc sử dụng
sợi và vải từ khu vực TPP. Điều này sẽ thúc đẩy việc thiết lập các chuỗi cung ứng và
đầu tư khu vực trong lĩnh vực này, cùng với cơ chế “nguồn cung thiếu hụt” cho phép
việc sử dụng một số loại sợi và vải nhất định không có sẵn trong khu vực.
Chương này còn đề cập đến cam kết về hợp tác và thực thi hải quan nhằm ngăn
chặn việc trốn thuế, buôn lậu và gian lận cũng như cơ chế tự vệ đặc biệt đối với dệt
may để đối phó với thiệt hại nghiêm trọng hoặc nguy cơ bị thiệt hại nghiêm trọng đối
với ngành sản xuất trong nước trong trường hợp có sự gia tăng đột biến về nhập khẩu.
 Về quy tắc xuất xứ

Về nguyên tắc xuất xứ, 12 nước thành viên TPP đã thống nhất về một bộ quy
tắc xuất xứ chung để xác định một hàng hóa cụ thể “có xuất xứ” và do vậy được
hưởng thuế quan ưu đãi trong TPP. Ngoài ra, các bên nhất trí không áp dụng các hạn
chế xuất khẩu, nhập khẩu và các loại thuế không phù hợp với WTO, bao gồm cả hàng
tân trang - việc này được cho là sẽ thúc đẩy việc tái chế tất cả các bộ phận để chuyển
thành các sản phẩm mới.
 Về quản lý hải quan và thuận lợi hóa thương mại

Các nước nhất trí về các quy định liên quan tới xử phạt hải quan để bảo đảm các
7


Tiểu luận môn Kinh tế Quốc tế - Giảng viên hướng dẫn PGS.TS Từ Thúy Anh
hình thức xử phạt này được thực hiện một cách công bằng và minh bạch. Bên cạnh đó,

vì tầm quan trọng của chuyển phát nhanh đối với các lĩnh vực kinh doanh, trong đó có
các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các nước TPP đã nhất trí về các quy định hải quan đối
với chuyển phát nhanh. Để hỗ trợ chống buôn lậu và trốn thuế, các nước tham gia TPP
nhất trí cung cấp thông tin khi được yêu cầu để hỗ trợ lẫn nhau trong việc thực thi luật
hải quan.
 Đối với hàng rào kỹ thuật đối với thương mại (TBT)

Các thành viên TPP đã nhất trí về các nguyên tắc minh bạch và không phân biệt
đối xử khi xây dựng các quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật và quy trình đánh giá sự phù
hợp. Nhất trí các quy định giúp xóa bỏ các quy trình kiểm tra và chứng nhận trùng lắp
đối với các sản phẩm, thiết lập quy trình dễ dàng hơn giúp các doanh nghiệp cắt giảm
chi phí, tiếp cận nhanh với thị trường các nước TPP.
 Phòng vệ thương mại trong Hiệp định TPP

Cho phép một thành viên thực hiện một biện pháp tự vệ tạm thời trong một
khoảng thời gian cụ thể nếu việc nhập khẩu tăng đột biến do kết quả của việc cắt giảm
thuế được thực hiện theo hiệp định TPP đủ để gây ra thiệt hại nghiêm trọng đối với
ngành sản xuất trong nước.
1.2. Tác động của Hiệp định TPP đến tổng thể nền kinh tế Việt Nam
1.2.1. Cơ hội
Cho đến nay, hầu hết các phân tích đều có xu hướng đồng tình rằng Việt Nam sẽ
được hưởng lợi đáng kể từ TPP. Ví dụ, các chuyên gia của Ngân hàng Thế giới ước
tính đến năm 2030 TPP sẽ giúp GDP của Việt Nam tăng khoảng 8% (Voice of America,
2015). Trong khi đó, hãng nghiên cứu Eurasia Group tuyên bố rằng đến năm 2025
GDP của Việt Nam sẽ tăng thêm 11%, tương đương 36 tỷ USD, so với khi không có
hiệp định thương mại này (Eurasia Group, 2015, tr. 8). Dựa trên phân tích của các
“chuyên gia kinh tế độc lập,” Bộ Công Thương cũng tuyên bố rằng TPP có thể giúp
GDP của Việt Nam tăng thêm 33,5 tỷ USD và xuất khẩu tăng thêm 68 tỷ USD trong
vòng một thập niên (Bộ Công Thương, 2015).
 Thứ nhất: Cơ hội đẩy mạnh xuất khẩu


8


Tiểu luận môn Kinh tế Quốc tế - Giảng viên hướng dẫn PGS.TS Từ Thúy Anh
Bằng cách dỡ bỏ hoặc cắt giảm 18.000 hàng rào thuế quan đối với các sản phẩm
công nghiệp cũng như nông nghiệp, TPP sẽ giúp cho giá cả các mặt hàng xuất khẩu
của Việt Nam trở nên rẻ tương đối so với mặt hàng các nước khác, cho phép Việt Nam
thâm nhập thị trường tốt hơn, từ đó kim ngạch xuất khẩu sẽ được cải thiện. Theo báo
cáo của WB, TPP sẽ bổ sung 17% giá trị kim ngạch xuất khẩu cho Việt Nam trong
vòng 20 năm tới. Vậy nên tăng kim ngạch xuất khẩu được xem là một trong lợi ích lớn
nhất mà TPP mang lại cho Việt Nam.
 Thứ hai: Hội nhập sâu hơn vào thị trường tài chính thế giới và cơ hội mở rộng

đầu tư
Mức độ mở cửa của thị trường tài chính Việt Nam hiện còn thấp. Tham gia TPP
sẽ giúp Việt Nam hội nhập sâu hơn vào thị trường tài chính thế giới. Các luồng vốn
đầu tư quốc tế vào Việt Nam cũng sẽ tăng mạnh, tạo thuận lợi cho hệ thống ngân hàng
tăng cường thanh khoản và tiếp cận các nguồn vốn quốc tế với chi phí thấp hơn.
Việt Nam cũng có thể thu hút dòng vốn từ các nước thành viên TPP nhờ vào tư
cách là thành viên các tổ chức kinh tế khu vực như AFTA (Khu vực mậu dịch tự do
ASEAN), ACFTA (Khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc). Các nhà đầu tư
nước ngoài từ không phải là thành viên của TPP như Trung Quốc, ASEAN sẽ tăng
cường đầu tư vào Việt Nam để tận dụng ưu thế thành viên TPP của Việt Nam. Dòng
vốn từ nhiều nước thành viên TPP có trình độ phát triển cao có thể mang lại những lợi
ích lan tỏa đáng kể về công nghệ và kỹ năng quản lý, hay các lĩnh vực dịch vụ có giá
trị gia tăng cao hơn.
 Thứ ba: Thúc đẩy cải cách thể chế, tái cơ cấu, nâng cao sức cạnh tranh của nền

Kinh tế

TPP tạo ra thách thức, sức ép cũng như động lực để Việt Nam đẩy mạnh cải
cách thể chế, môi trường kinh doanh, khu vực Doanh nghiệp Nhà nước, điều chỉnh,
hoàn thiện các bộ luật. Các cải cách này trong ngắn hạn sẽ giúp Việt Nam có đủ điều
kiện để tham gia TPP nhưng trong dài hạn sẽ cho phép nền kinh tế phát triển mạnh
hơn, Việt Nam sẽ thay đổi thể chế và cơ cấu kinh tế một cách sâu rộng và toàn diện
hơn. Chính phủ gần đây đã tăng cường những nỗ lực này và thực hiện nhiều biện pháp
khác nhau, như mở cửa cho cạnh tranh trong một số ngành trước nay được độc quyền
bởi các doanh nghiệp nhà nước (ví dụ như phân phối than, điện, và xăng dầu); nới
9


Tiểu luận môn Kinh tế Quốc tế - Giảng viên hướng dẫn PGS.TS Từ Thúy Anh
rộng room sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài trong các doanh nghiệp cổ phần hóa; và
kỷ luật những cán bộ quản lý không đáp ứng tiến độ cổ phần hóa được đặt ra. Những
bước phát triển này cho thấy chính phủ Việt Nam đang điều chỉnh chính sách doanh
nghiệp nhà nước của mình theo hướng các cam kết TPP, điều có thể giúp cải thiện hiệu
suất của các doanh nghiệp nhà nước cũng như của cả nền kinh tế trong dài hạn
Không chỉ vậy, thông qua TPP, Việt Nam sẽ có cơ hội được hợp tác với những
cường quốc trong lĩnh vực công nghệ, giáo dục, thương mại… từ đó giúp Việt Nam cải
thiện được những lĩnh vực này một cách hiệu quả hơn.
 Thứ tư: Đẩy mạnh hội nhập quốc tế và nâng cao vị thế đất nước

Hiệp định TPP đã giúp Việt Nam tăng cường quan hệ nhiều mặt với các đối tác
quốc tế trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có nhiều đối tác quan
trọng của Việt Nam nói riêng, của ASEAN nói chung như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc…
Việc tham gia TPP với nhiều điều khoản yêu cầu cao về tự do hóa thương mại, thị
trường sản phẩm, dịch vụ, môi trường… cũng chứng tỏ quyết tâm và cam kết cải cách
của Việt Nam. Qua đó tăng sức hấp dẫn của thị trường và uy tín của Việt Nam đối với
các nhà đầu tư, cộng đồng quốc tế, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam.
 Thứ năm: Bảo hộ sở hữu trí tuệ và bảo vệ môi trường


TPP có tiêu chuẩn cao về bảo hộ sở hữu trí tuệ, bao gồm quy định phải thực
hiện thủ tục tố tụng và chế tài hình sự đối với hành vi xâm phạm tài sản trí tuệ quy mô
thương mại, điều được coi là nghiêm ngặt hơn các quy định trong khuôn khổ WTO.
Trong dài hạn, việc bảo hộ tài sản trí tuệ tốt hơn được kỳ vọng là sẽ giúp các doanh
nghiệp có động lực mạnh mẽ hơn để đầu tư vào các ngành công nghiệp sáng tạo mà
Việt Nam đang tìm cách phát triển.
1.2.2. Thách thức
 Thứ nhất: Gia tăng sức ép về mở cửa thị trường, cạnh tranh

Trong bối cảnh hiện nay, phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam nhìn chung năng
lực cạnh tranh còn yếu, khả năng quản lý còn nhiều bất cập. Ngược lại, các doanh
nghiệp FDI đã tận dụng tốt các lợi thế này để mở rộng thị trường, đẩy lùi thị phần của
các doanh nghiệp Việt Nam ngay tại thị trường trong nước. Chính vì thế, mặc dù lộ
trình cắt giảm thuế của Việt Nam sau khi gia nhập TPP sẽ chậm hơn một chút do là
nước đang phát triển nhưng Việt Nam vẫn phải đối mặt với 2 bất lợi trực tiếp: Giảm
10


Tiểu luận môn Kinh tế Quốc tế - Giảng viên hướng dẫn PGS.TS Từ Thúy Anh
nguồn thu ngân sách từ thuế nhập khẩu và Cạnh tranh trong nước gay gắt hơn. Theo
phân tích cơ cấu xuất khẩu của các nước TPP, có thể thấy những ngành sản xuất của
Việt Nam thực sự gặp khó khăn sẽ là công nghiệp ô tô, các ngành nông nghiệp đặc biệt
là chăn nuôi vốn chủ yếu là sản xuất nhỏ,manh mún sẽ không có khả năng cạnh tranh
trước các đối thủ có kinh nghiệm và truyền thống sản xuất lớn. Thế nên, TPP có thể
gây ra các hệ quả xã hội tiêu cực cho Việt Nam như tình trạng phá sản và thất nghiệp ở
các doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh yếu. Cùng với đó, các thị trường dịch vụ, lao
động, khoa học công nghệ, hệ thống tài chính… còn chưa phát triển toàn diện sẽ
khiến Việt Nam phải đối mặt với đòi hỏi từ các nước TPP về việc mở rộng cửa hơn
cho các nhà đầu tư nước ngoài ở các lĩnh vực này.

 Thứ hai: Khó khăn về xuất khẩu các mặt hàng chủ lực

Bên cạnh cơ hội giảm thuế, những rào cản dưới dạng quy định kỹ thuật, vệ sinh
dịch tễ hay phòng vệ thương mại với quy chế nền kinh tế phi thị trường mà Hoa Kỳ
thực hiện, rất có thể sẽ vô hiệu hóa lợi ích từ việc giảm thuế quan đối với hàng hóa
Việt Nam. Chẳng hạn, những quy định của TPP về quy tắc xuất xứ, môi trường…sẽ
gây khó khăn cho một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như: dệt may, thủy
hải sản… Điển hình ở quy tắc xuất xứ, yêu cầu các sản phẩm xuất khẩu từ một thành
viên của TPP sang các thành viên khác phải có xuất xứ “nội khối”, không sử dụng các
nguyên liệu của nước thứ ba ngoài thành viên TPP mới được hưởng ưu đãi thuế suất
0%. Đây là khó khăn đối với doanh nghiệp sản xuất của Việt Nam, đặc biệt là ngành
xuất khẩu hàng may mặc và da giầy. Việt Nam hiện chỉ chủ động được 20 - 40%
nguyên liệu sản xuất ở các khâu, riêng da (gồm da thuộc và da nhân tạo) vẫn phải nhập
khẩu tới 70%.
 Thứ ba: Sức ép hoàn thiện khuôn khổ pháp luật

Việc cam kết thực hiện các cam kết sâu và rộng trong khuôn khổ TPP sẽ đòi hỏi
Việt Nam phải thay đổi và hoàn thiện bộ luật, các chỉ tiêu về chất lượng sản phẩm, môi
trường, xã hội…một cách nhanh chóng. Trong khi đó, hệ thống pháp luật của Việt
Nam còn rất nhiều kẽ hở và kém phát triển hơn nhiều so với các nước thành viên khác
trong TPP. Các bộ chi tiêu đánh giá chất lượng sản phẩm còn khác biệt lớn so với
thông lệ quốc tế cả về chất lượng lẫn phương thức tính toán. Chính vì thế, việc điều
chỉnh bộ luật, các chỉ tiêu chất lượng về thương mại, đầu tư, sở hữu trí tuệ… sẽ là một
11


Tiểu luận môn Kinh tế Quốc tế - Giảng viên hướng dẫn PGS.TS Từ Thúy Anh
trong những thách thức lớn đối với Việt Nam.
 Thứ tư: Khoảng cách quá lớn về trình độ phát triển


Thách thức lớn nhất đối với Việt Nam là Việt Nam hiện có khoảng cách quá lớn
về trình độ phát triển so với tất cả các nước thành viên TPP. Bên cạnh đó Việt Nam
còn có những khác biệt lớn với các nước đối tác trong TPP trên một số điểm:
-

Việt Nam chưa có kinh tế thị trường đúng nghĩa. Mỹ là đối tác lớn nhất trong TPP hiện
cũng vẫn cho rằng Việt Nam là một nền “kinh tế phi thị trường” và áp đặt các hạn chế
đối với ngành dệt may, thuỷ sản… của Việt Nam.

-

Việt Nam vẫn gặp nhiều chỉ trích về các tiêu chuẩn lao động, sở hữu trí tuệ và vấn đề
tham nhũng.

-

Về quan hệ thương mại giữa Việt Nam với các đối tác trong TPP chủ yếu là quan hệ
“hàng dọc”, nghĩa là xuất khẩu nguyên liệu thô, sản phẩm gia công; nhập khẩu công
nghệ, máy móc…
Kết luận: TPP là một cột mốc quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc
tế của Việt Nam. Sự tham gia của Việt Nam vào hiệp định được thúc đẩy bởi nhiều cân
nhắc kinh tế, chính trị và chiến lược. Về mặt kinh tế, hiệp định được kỳ vọng là sẽ
giúp nước này đạt được tốc độ tăng trưởng GDP lớn hơn, mở rộng xuất khẩu, và thu
hút nhiều đầu tư nước ngoài hơn. Tuy nhiên, do là thành viên kém phát triển nhất của
TPP, Việt Nam cần giải quyết nhiều thách thức để cải thiện khả năng cạnh tranh và tối
đa hóa lợi ích tiềm năng mà hiệp định mang lại.
Danh mục tài liệu tham khảo
Minh Nguyệt, 6 cơ hội và 5 thách thức đối với Việt Nam khi vào TPP, 2016,
/>PGS.TS Phạm Thị Thanh Bình, TPP - Cơ hội và thách thức đối với Việt Nam, 2016,
/>Bộ công thương, Toàn văn nội dung Hiệp định TPP, , 2016.

World Bank, Voice of America, 2015.

12


Tiểu luận môn Kinh tế Quốc tế - Giảng viên hướng dẫn PGS.TS Từ Thúy Anh

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM KHI THAM
GIA TPP

2.1. Thông tin ngành dệt may trong nước và quốc tế
2.1.1. Thông tin ngành dệt may quốc tế
Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới (World Bank, 2016), tháng 4 năm 2016
Trung Quốc tăng giá hàng may mặc sẽ mang lại nhiều lợi ích cho các nước Đông Nam
Á. Theo Báo cáo, sự gia tăng 10% về giá của Trung Quốc sẽ làm tăng lượng Xuất khẩu
của các nước trong khu vực Đông Nam Á sang Hoa Kỳ từ 37% tới 51%. Trong khi
xuất khẩu của các nước Nam Á sẽ tăng từ 13% tới 25% do các rào cản về xuất khẩu
sợi nhân tạo và chi phí vận chuyển phục vụ Xuất khẩu giảm. Trong nhóm các nước
Nam Á thì Việt Nam và Campuchia được xếp hạng cao hơn về chất lượng, thời gian
giao hàng và tuân thủ trách nhiệm xã hội cao hơn các nước Nam Á như Bangladesh và
Ấn Độ.
Sản lượng bông toàn cầu niên vụ 2015 – 2016 giảm: Theo ước tính của Bộ
nông nghiệp Hoa Kỳ, 2016 – 2016, sản lượng bông toàn cầu được dự báo đạt 99,8
triệu kiện, giảm 16% so với niên vụ trước (118,8 triệu kiện). Năm 2016 sẽ là năm thứ
4 liên tiếp sản lượng cũng như giá bông thế giới giảm, diện tích thu hoạch được dự báo
ở mức 30,9 triệu ha, sản lượng trung bình mức 702 kg/ha, thấp nhất kể từ niên vụ
2009 – 2010. Tiêu thụ bông trong niên vụ 2015 – 2016 ước tính đạt 109,6 triệu kiện,
giảm 1% so với niên vụ trước. Đây là lần đàu tiên cầu vượt cung bông kể từ niên vụ
2009 – 2010.
EU thông báo cấm NPE trong hàng dệt may từ năm 2021: Theo Công báo chính

thức của EU, cấm các chất nonylphenol ethoxylates (NPEs) được tìm thấy trong nhiều
loại hàng may mặc do nó có “rủi ro không thể chấp nhận” tới môi trường. Công báo sẽ
có hiệu lực từ ngày 02/02/2016 và các công ty có 5 năm để loại bó hóa chất ra khỏi sản
phẩm và chuỗi cung cấp của họ, tức là sẽ không có NPEs ra thị trường EU sau ngày
03/02/2021.
Thông tin dệt may quốc tế đã cho thấy những cơ hội và thách thức đối với
ngành dệt may trong nước trong năm 2016 và các năm sau đó để có thể xuất khẩu
13


Tiểu luận môn Kinh tế Quốc tế - Giảng viên hướng dẫn PGS.TS Từ Thúy Anh
hàng dệt mang của Việt Nam sang các thị trường khó tính như Hoa Kỳ và EU.
2.1.2. Thông tin ngành dệt may trong nước
Cuối tháng 4 năm 2016, các công ty dệt may trong nước đều tiến hành họp đại
hội cổ đông. Theo các báo cáo Đại hội cổ đông thường niên năm 2016 của các công ty:
Tổng công ty cổ phần Dệt may Hà Nội (Hanosimex), Tổng công ty cổ phần May Việt
Tiến, Tổng công ty cổ phần Dệt may Nam Định (Natexco), Công ty cổ phần Dệt Vĩnh
Phú (Vifutex),… phương hướng năm 2015 là thúc đẩy sản xuất nguyên liệu ngành sợi
dệt, đầu tư cho nguồn nhân lực, kỹ thuật để chuẩn bị cho việc TPP có hiệu lực từ ngày
02/05/2016.
Cũng trong tháng 4 năm 2016, Tổng công ty Dệt may Việt Nam (Vinatex) đã ra
mắt Tổng công ty Dệt may miền Bắc và Tổng công ty Dệt may Việt Nam, góp phần
hoàn thiệu chuỗi cung ứng đón đầu các hiệp định thương mại đã được ký kết được đầu
tư các dây chuyền tiên tiến và hiện đại để sản xuất các loại sản phẩm phục vụ công
nghiệp dệt may và đáp ứng các điều kiện khắt khe của Mỹ và EU khi TTP có hiệu lực.
Từ các thay đổi chiến lược cũng như kế hoạch kinh doanh của các doanh
nghiệp trong ngành dệt may trong nước có thể thấy, năm 2016 là năm ngành dệt may
tập trung nguồn lực, dồn vốn cho chủ đầu tư mở rộng sản xuất, tận dụng thị trường
Xuất khẩu từ các Hiệp định thương mại đã ký kết,…. đây cũng sẽ là chiến lớn hàng
đầu của nhiều doanh nghiệp dệt may trong năm 2016.

2.2. Thực trạng xuất nhập khẩu trong ngành dệt may Việt Nam
2.2.1. Tình hình tăng trưởng ngành dệt may việt Nam
Trong nhiều năm trở lại đây, ngành dệt may luôn là ngành kinh tế mũi nhọn
trong xuất khẩu ở Việt Nam, được nhiều chính sách ưu tiên của Nhà nước, đóng góp
phần không nhỏ cho ngân sách nhà nước và nền kinh tế. Kể từ sau khi gia nhập tổ
chức thương mại thế giới (WTO), ngành dệt may Việt Nam có nhiều cơ hội tiếp cận
công nghệ, thông tin, các dịch vụ cũng như có kinh nghiệp quán lý tốt hơn, và được
bình đẳng về thuế giữa các nước thành viên.
Theo bản tin Kinh tế - Dệt may số 03/2016, Hiệp hội dệt may Việt Nam 2015,
tỷ lệ tăng trưởng bình quân 15%/năm với kim ngạch xuất khẩu đóng góp từ 10% đến
15% GDP hàng năm. Việt Nam hiện là một trong 5 nước xuất khẩu dệt may hàng đầu
14


Tiểu luận môn Kinh tế Quốc tế - Giảng viên hướng dẫn PGS.TS Từ Thúy Anh
thế giới với thị phần 4% đến 5%. Thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam là Mỹ, EU
và Nhật Bản (chiếm trên 75% kim ngạch xuất khẩu hàng năm), các sản phẩm may mặc
chủ yếu là các sản phẩm từ bông và sợi tổng hợp.

Nguồn: Hiệp hội dệt may Việt Nam (Vitas), năm 2016
Theo thống kê Tập đoàn dệt may Việt Nam, Vinatex 2016, hiện Việt Nam có
khoảng 6000 công ty dệt may với lực lượng lao động chiếm hơn 20% lao động trong
khu vực công nghiệp và gần 5% tổng lực lượng lao động toàn quốc. Trong đó các công
ty may chiếm tỷ trọng lớn nhất (70%), còn lại là các công ty dệt (17%), kéo sợi (6%),
nuộm (4%) và ngành công nghiệp dệt hỗ trợ (3%) tập trung chủ yếu tại miền Nam
(62%) và miền Bắc (30%). Quy hoạch phát triển ngành công nhiệp dệt may đến năm
2020, tầm nhìn năm 2030 của Bộ Công thương, mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu sẽ đạt
khoảng từ 10% đến 12%/năm.
Xuất khẩu dệt may của Việt Nam qua các năm


Nguồn: Bản tin Kinh tế - Dệt May số 05/2016, Hiệp hội dệt may Việt Nam
Từ khi gia nhập WTO, ngành Dệt may của Việt Nam đã có mức tăng trưởng
nhanh và ổn định. Dự báo trong năm 2016 khi mà Hiệp định TPP chính thức có hiệu
lực (02/2016), tăng trưởng trong xuất khẩu của ngành dệt may Việt Nam được kỳ vọng
tăng 12% (cao hơn so với tăng trưởng năm 2015 là 9,43%), thị trường xuất khẩu tăng
trưởng chủ yếu trong năm được hướng tới là thị trường Dệt may tại Mỹ.
2.2.2. Chuỗi giá trị của ngành dệt may Việt Nam
Ngành dệt may Việt Nam hiện nay chỉ tham gia vào phần thứ 3 trong chuỗi
15


Tiểu luận môn Kinh tế Quốc tế - Giảng viên hướng dẫn PGS.TS Từ Thúy Anh
cung ứng dệt may toàn cầu, đó là cắt và may, sản xuất theo phương thức gia công đơn
giản. Dệt may Việt Nam phụ thuộc n;hiều vào nguyên phụ liệu nhập khẩu (khoảng
70%), chủ yếu là nhập khẩu nguyên phụ liệu từ Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc. Tuy
nhiên trong hai năm trở lại đây Việt Nam đã xuất khẩu phụ liệu dệt may, khẳng định
bước đầu cho sự phát triển ổn định trong ngành dệt may và giảm bớt phụ thuộc từ
nguyên liệu nước ngoài.
Chuỗi giá trị của ngành dệt may Việt Nam

Nguồn: Hiệp hội dệt may Việt Nam, Vitas 2015.
Về khâu cung ứng nguyên phụ liệu: Dệt may Việt Nam có tính gia công lớn,
công nghiệp phụ trợ chậm phát triển. Theo số liệu thống kê của Hiệp hội dệt may Việt
Nam, Vitas 2015, hơn 70% nguyên phụ liệu dệt may (bông tự nhiên, sơ xợi các loại,
vải,…) vẫn phải nhập khẩu.

Nguồn: Hiệp hội dệt may Việt Nam, Vitas 2015
Về khâu nghiên cứu thiết kế: Đây là khâu mang lại lợi nhuận ao nhất kéo theo
16



Tiểu luận môn Kinh tế Quốc tế - Giảng viên hướng dẫn PGS.TS Từ Thúy Anh
đó là nâng cao giá trị các mặt hàng dệt may xuất khẩu. Tuy nhiên đây lại là khâu yếu
nhất của các doanh nghiệp dệt may tại Việt Nam.
Về giá bán: Giá hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam thường cao hơn 15% đến
30% so với giá thế giới do chi phí nguyên phụ liệu và chi phí vận chuyển ngày càng
tăng cao.
Về hoạt động Marketing và phân phối: Đây cũng là khâu yếu nhất của các
doanh nghiệp dệt may Việt Nam. Các doanh nghiệp dệt may trong nước hiện nay vẫn
chưa có hệ thống phân phối rộng lớn đến tay người tiêu dùng trên thị trường quốc tế,
hoạt động xuất khẩu phụ thuộc vào các nhà buôn nước ngoài. Do đó các doanh nghiệp
dệt may Việt Nam thường không nắm bắt kịp thời nhu cầu và thị hiếu của người tiêu
dùng, điều này dẫn đến có ít các sản phẩm và mặt hàng được đón nhận và mang
thương hiệu của riêng mình.
2.2.3. Tình hình xuất khẩu dệt may Việt Nam vào các nước TPP
Hiệp định TPP có sự tham gia của 12 nước thành viên là Úc, Brunei, Canada,
Chile, Nhật Bản, Malaysia, Mexico, Newzealand, Peru, Singapore, Hoa Kỳ và Việt
Nam. Năm 2015, giá trị xuất khẩu của ngành dệt may Việt Nam sang thị trường các
nước thành viên trong TPP tăng 69,66% so với năm 2014. Chủ yếu là tại thị trường
Mỹ và Nhật Bản. Cụ thể:


Tại thị trường Hoa Kỳ: Xuất khẩu sang Hoa Kỳ đạt giá trị lớn nhất, với 4,050 tỷ USD,





chiếm gần 50% trong khối thị trường các nước TPP, tăng 53% so với năm 2014.
Xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản đạt giá trị 1,005 tỷ USD, chiếm 12,3%.

Thị trường Canada: Đạt 207 triệu USD, tăng nhẹ 6% so với năm 2015.
Còn lại, xuất khẩu sang thị trường Australia là 55 triệu USD, thị trường Chile là 43
triệu USD, thị trường Mexico là 33,7 triệu USD và thị trường Malaysia là 25,8 triệu
USD.
Cùng với những ưu đãi thuế trong Hiệp định TPP, dệt may có thể dành thêm
nhiều thị phần nhập khẩu từ Trung Quốc, nhà xuất khẩu số một hàng dệt may, da giầy
vào thị trường Mỹ và Nhật Bản.
2.3. Nhận xét ngành dệt may Việt Nam sau khi hội nhập WTO và trước thềm TPP
Hội nhập WTO là bước đi quan trọng sau khi Việt Nam ký kết hiệp định BTA
trong tiến trình hội nhập và mở rộng thì trường của ngành Dệt may Việt Nam vào thì
17


Tiểu luận môn Kinh tế Quốc tế - Giảng viên hướng dẫn PGS.TS Từ Thúy Anh
trường thế giới, đặc biệt là Mỹ và EU. Lợi ích lớn nhất mang lại cho dệt may Việt Nam
đó là thoát khỏi hạn ngạch xuất khẩu. Tuy nhiên, khi gia nhập WTO, Việt Nam vẫn
chịu sự giám sát nhập khẩu và nguy cơ điều tra chống bán phá giá tại thị trường Hoa
Kỳ, đây là chị trường xuất khẩu lớn của dệt may Việt Nam và luôn đòi hỏi những điều
kiện khắt khe.Vì thế, hiệp định TPP sẽ là một bước hội nhập theo chiều sâu với những
cơ hội và ưu đãi lớn cho ngành dệt may xuất khẩu ra thị trường các nước trong TPP, và
mục tiêu chính ở đây là thị trường Hoa Kỳ và Nhật Bản.
TPP và WTO không đơn thuần mang lại cơ hội tốt cho Việt Nam khi được
hưởng mức thuế nhập khẩu 0% đối với hàng dệt may. Trong đàm phán các nội dung cố
lõi của Hiệp định TPP, lần đầu tiên dệt may được tách thành một chương với những
quy định chặt chẽ. Tạo điều kiện cho các nước trong TPP thống nhất hợp tác chặt chẽ,
sâu rộng hơn về nhiều mặt. Tuy nhiên để có thể được áp dụng mức thuế trên thì ngành
dệt may Việt Nam phải tuân thủ theo những nguyên tắc nghiêm ngặt.
Nhìn chung, gia nhập TPP là sự hội nhập theo chiều sau với những ưu đãi lớn
kèm theo những quy định chặt chẽ và khắt khe hơn so với WTO. TPP đã được mở
rộng hơn cả về thương mại hàng hóa nói chung và ngành dệt may nói riêng. TPP mang

tính kế thừa và phát triển hơn so với WTO nên những cam kết trong TPP sẽ toàn diện
hơn, thị trường các nước trong hiệp định sẽ được hợp tác một cách quy củ và chặt chẽ
hơn.

18


Tiểu luận môn Kinh tế Quốc tế - Giảng viên hướng dẫn PGS.TS Từ Thúy Anh
Tài liệu tham khảo
Hiệp hội Dệt may Việt Nam, Bản tin Kinh tế - Dệt may, năm 2015 và năm 2016.
Tổng công ty cổ phần Dệt may Hà Nội (Hanosimex), Tổng công ty cổ phần May Việt
Tiến, Tổng công ty cổ phần Dệt may Nam Định (Natexco), Công ty cổ phần Dệt
Vĩnh Phú (Vifutex),…, Báo cáo đại hội đồng cổ đông thường niên, 2016.
Ngân hàng Thế giới, Báo cáo đánh giá triển vọng kinh tế thế giới, 2016.
Tập đoàn dệt may Việt Nam, , 2016.

19


Tiểu luận môn Kinh tế Quốc tế - Giảng viên hướng dẫn PGS.TS Từ Thúy Anh

CHƯƠNG 3: CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA NGÀNH DỆT MAY
VIỆT NAM KHI GIA NHẬP TPP
3.1. Cơ hội của ngành Dệt may Việt Nam khi gia nhập TPP
Ngành Dệt may là ngành được quan tâm nhiều nhất trong TPP khi toàn bộ 12
nước tham gia đồng ý dành hẳn một chương riêng, tách ra khỏi đàm phán về mở cửa
thị trường đối với hàng hóa nói chung. Khi bắt đầu có hiệu lực, TPP sẽ tạo ra cú hích
lớn và mang đến động lực quan trọng cho sự phát triển của dệt may Việt Nam, góp
phần đưa dệt may Việt Nam lên tầm cao hơn trong tương lai gần.
3.1.1. Đẩy mạnh xuất khẩu

12 nước tham gia Hiệp định TPP chiếm 40% tổng kim ngạch xuất khẩu toàn thế
giới, hứa hẹn khi tham gia Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội đẩy mạnh xuất khẩu nói chung
và đối với ngành dệt may nói riêng. Dự báo TPP có thể giúp ngành Dệt may đạt kim
ngạch xuất khẩu tới 165 tỷ vào năm 2025. Trong trường hợp không có TPP, con số này
dự báo chỉ vào khoảng 113 tỷ. TPP giúp tiết kiệm tới 1,1 tỷ USD tiền thuế xuất khẩu.
Đối tác quan trọng của Việt Nam trong xuất khẩu dệt may chính là Hoa Kỳ, kim
ngạch xuất khẩu sang Hoa Kỳ đang chiếm tỷ trọng lớn nhất, - 42% tổng kim ngạch
xuất khẩu toàn ngành và chiếm gần 50% trong khối TPP. Khi hiệp định TPP chính
thức có hiệu lực, thuế xuất khẩu hàng dệt may sang Hoa Kỳ sẽ giảm dần xuống 0%
thay vì 17% như hiện nay. Không chỉ nhận ưu đãi vào thị trường Mỹ, ngành dệt may
Việt Nam sẽ có cơ hội gia nhập sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu với dung lượng
hấp thụ thị trường lớn, cụ thể Hoa Kỳ là 110 tỷ USD, EU là 100 tỷ USD và Nhật Bản
là 42 tỷ USD.
3.1.2. Thu hút đầu tư nước ngoài
TPP là một hiệp định thương mại tự do kiểu mẫu của thế kỷ 21 với mức độ ảnh
hưởng và tác động sâu rộng hơn WTO trên các lĩnh vực cắt giảm thuế, tăng độ mở cửa
của dịch vụ, tăng cường quy định liên quan tới đầu tư nước ngoài và bảo vệ nhà đầu
tư, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, tăng cường tính minh bạch trong cạnh tranh và các vấn
đề về lao động… Chính vì thế, khi gia nhập TPP, quan hệ thương mại giữa Việt Nam
và các nước trong khối sẽ phát triển mạnh mẽ trong tương lai, kéo theo dòng vốn đầu
20


Tiểu luận môn Kinh tế Quốc tế - Giảng viên hướng dẫn PGS.TS Từ Thúy Anh
tư vào Việt Nam từ các nước thành viên và các nước ngoài khối nhằm hưởng lợi về ưu
đãi thuế quan.
Theo dự báo, đầu tư từ hai đối tác lớn là Nhật và Mỹ sẽ tăng mạnh vì đây là hai
quốc gia có tiềm lực về công nghệ và kỹ thuật hiện đại. Bên cạnh đó, nhiều tập đoàn
lớn của Mỹ cũng đã có kế hoạch sẽ mở rộng đầu tư sang Việt Nam khi hiệp định được
ký kết.

Sau khi Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) được ký kết, từ đầu
năm 2016 đến nay, dòng vốn mới đầu tư nước ngoài (FDI) tiếp tục gia tăng và đổ dồn
vào ngành dệt may, đặc biệt là ở tỉnh Bình Dương, chiếm ưu thế cả trong sản xuất và
về thị phần. Cụ thể số lượng doanh nghiệp FDI dệt may tại đây chiếm thị phần áp đảo.
Trong hơn 560 doanh nghiệp dệt may hoạt động thì chỉ có hơn 100 doanh nghiệp trong
nước, còn lại toàn bộ là doanh nghiệp FDI. Đây là tín hiệu tích cực bù đắp vào phần
thiếu sót của ngành dệt may trong nước, tạo cơ sở để đạt được tiêu chuẩn về “quy tắc
xuất xứ từ sợi trở đi” giúp doanh nghiệp cầm chắc được mức thuế quan xuất khẩu 0%
khi xuất ra các thị trường trong khối.
3.1.3. Giải quyết được vấn đề lao động
Việt Nam tham gia TPP, cơ hội việc làm cho người lao động nói chung và
người lao động của ngành Dệt may nói riêng sẽ tăng lên, thị trường lao động trong
ngành dệt may cũng sẽ ảnh hưởng theo chiều hướng tích cực. Khi thuế suất bằng 0%,
hàng hóa xuất khẩu sang các nước TPP sẽ tăng lên nhiều, điều này đồng nghĩa với việc
thị trường lao động trong nước sẽ có nhiều thay đổi. Lực lượng lao động tham gia vào
ngành dệt may sẽ cao hơn kéo theo chất lượng lao động sẽ cao hơn. Theo như dự kiến,
trong điều kiện mọi yếu tố đều thuận lợi, xuất khẩu của Việt Nam sẽ tăng 68 tỉ đô la
vào năm 2026 nhờ TPP. Riêng về xuất khẩu dệt may, một tỉ đô la xuất khẩu hàng năm
sẽ tạo ra khoảng 250.000 việc làm.
3.1.4. Thúc đẩy tăng trưởng mạnh nội bộ ngành và tác động tích cực với kinh tế
trong nước
Hiện nay, xuất khẩu hàng dệt may chiếm hơn 15% tổng doanh số xuất khẩu của
cả nước. Dự kiến tới năm 2025, với sự gia nhập TPP, doanh số xuất khẩu ngành dệt
may có thể tăng lên đến 30 tỷ USD nếu toàn ngành phát triển ổn định theo đúng chiến
lược được vạch ra.
21


Tiểu luận môn Kinh tế Quốc tế - Giảng viên hướng dẫn PGS.TS Từ Thúy Anh
Theo dự báo của Ngân hàng Thế giới, sau khi ra nhập TPP, đến năm 2020, sản

lượng ngành dệt may sẽ tăng khoảng 21%, tốc độ tăng trưởng chung toàn ngành đạt
khoảng 41% tương ứng với giá trị xuất khẩu tăng lên 11,5 tỷ USD, trong đó tốc độ
xuất khẩu vào thị trường Mỹ có thể đạt kỷ lục 90%.
Dưới tác động của TPP, nếu ngành chú trọng hơn vào đầu tư và phát triển tốt về
thị trường nguyên vật liệu thì các chỉ tiêu về xuất siêu, giá trị gia tăng và tỷ lệ nội địa
hóa của ngành được tăng cao. Dự kiến ngành sẽ đạt tỷ lệ nội địa hóa là 70% vào năm
2020.
3.1.5. Tăng cường cải cách thể chế, tạo môi trường cạnh tranh hiệu quả minh
bạch hơn
Tham gia TPP sẽ là cơ hội để Việt Nam tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đổi mới mô hình tăng trưởng gắn với tái cơ cấu
nền kinh tế hỗ trợ cho tiến trình đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế
nói chung, cơ cấu lại ngành dệt may nói riêng , đồng thời giúp ngành dệt may có thêm
cơ hội để hoàn thiện môi trường kinh doanh theo hướng thông thoáng, minh bạch và
dễ dự đoán hơn, tạo đà thúc đẩy cả đầu tư trong nước lẫn đầu tư nước ngoài, nâng cao
năng lực cạnh tranh sản phẩm, doanh nghiệp và nền kinh tế nói chung và sản phẩm,
doanh nghiệp ngành dệt may nói riêng. Ngoài ra, việc cải thiện môi trường đầu tư sẽ
góp phần thu hút nhiều dòng vốn đầu tư nước ngoài đổ vào ngành.
3.2. Thách thức của ngành Dệt may Việt Nam khi gia nhập TPP
3.2.1. Quy tắc xuất xứ “Từ sợi trở đi” (Yarn Forward)
Quy tắc này được hiểu là: Một sản phẩm dệt may muốn được hưởng ưu đãi
thuế quan theo TPP thì tất cả các nguyên liệu, bắt đầu từ sợi trở đi phải được sản xuất
tại các nước TPP.
Trên thực tế, mặc dù là một trong những quốc gia xuất khẩu hàng dệt may hàng
đầu thế giới, song Việt Nam vẫn nhập khẩu khoảng 88% nguyên phụ liệu dệt may từ
những nước chưa ký kết TPP như Trung Quốc và Hàn Quốc. Một số nguyên liệu như
bông phải nhập khẩu 99% từ thị trường các nước; vải phải nhập khẩu 6 tỷ mét trên
tổng số nhu cầu là 6,8 tỷ mét; nguyên liệu xơ phải nhập 50%. Các nhà máy sản xuất tại
Việt Nam chỉ phụ trách cắt và may vải ở giai đoạn cuối cùng. Điều này sẽ tạo ra một
thách thức lớn khiến ngành dệt may Việt Nam gặp khó khăn trong quá trình hội nhập

22


Tiểu luận môn Kinh tế Quốc tế - Giảng viên hướng dẫn PGS.TS Từ Thúy Anh
TPP, đòi hỏi các doanh nghiệp dệt may Việt Nam phải đầu tư nguồn vốn và công nghệ
để có thể sản xuất nguyên phụ liệu dệt may trong nước.
Chính vì ngành dệt may trong nước đang phải phụ thuộc quá nhiều vào nguồn
nguyên liệu nhập khẩu nên Việt Nam đang thu hút nhiều vốn FDI đầu tư vào lĩnh vực
này. Theo thống kê, năm 2014, đã có gần 20 dự án FDI mới đầu tư vào lĩnh vực dệt
may, trong đó phần lớn là các doanh nghiệp đến từ Trung Quốc, Đài Loan và Hong
Kong. Riêng đối với các doanh nghiệp Trung Quốc, quyết định chuyển hướng đầu tư
này được coi là một bước đi khôn ngoan, bởi điều này sẽ giúp các doanh nghiệp nước
này có được giấy chứng nhận hàng hóa "Made in Vietnam", từ đó được hưởng mức
thuế suất cực kỳ ưu đãi thay vì mức thuế suất 37% khi vào thị trường Mỹ mà hàng
"Made in China" hiện đang phải gánh chịu. Điều này đồng nghĩa với việc sẽ khiến các
doanh nghiệp trong nước của Việt Nam gặp khó khăn lớn bởi các sản phẩm có thương
hiệu từ Việt Nam "thật" sẽ không thể cạnh tranh về giá so với các doanh nghiệp Trung
Quốc khi xuất khẩu.
3.2.2. Vấn đề người lao động
a. Năng suất lao động

Với việc gia nhập TPP, dệt may Việt Nam hướng đến tiến sâu vào thị trường
khó tính trên thế giới như Mỹ và Nhật. Do đó các yêu cầu về chất lượng lao động, tay
nghề kỹ thuật cũng như năng suất lao động cũng cần được xem xét để đảm bảo được
yếu tố chất lượng, số lượng và giá thành của đầu ra sản phẩm.
Hiện nay, năng suất lao động của Việt Nam đang bị xem là thấp, trong khi tiền
lương tối thiểu liên tục tăng, thời gian cho phép làm thêm giờ quá ít đã đẩy nhiều
doanh nghiệp vào nguy cơ đóng cửa nhà máy.
Năng suất lao động của Việt Nam thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực
cũng như các nước trên toàn cầu, cụ thể chỉ xét riêng trong khu vực Đông Nam Á,

năng suất lao động của chúng ta chỉ bằng 30% của Malaysia và 40% của Thái Lan,
năng suất lao động bình quân ngành dệt may (tính trên giá gia công) tuy có cao hơn so
với bình quân chung của cả nước nhưng cũng mới chỉ đạt 1,5 USD/ giờ (bằng 50%
năng suất bình quân ngành may Thái Lan và Indonesia). Người lao động làm ra 312
USD/ tháng, nếu trừ các chi phí trong sản xuất, quản lý, bảo hiểm xã hội, kinh phí
công đoàn, phí lưu thông… thì chỉ còn khoảng 52% để trả lương cho người lao động,
tương đương khoảng 3,4 triệu đồng/tháng. Bên cạnh đó, chỉ số năng suất lao động của
23


Tiểu luận môn Kinh tế Quốc tế - Giảng viên hướng dẫn PGS.TS Từ Thúy Anh
Việt Nam chỉ bằng 2.4, trong khi đó năng suất lao động ở các quốc gia dệt may lớn
như Trung Quốc là 6.9 và Indonesia là 5.2.
Năng suất lao động là yếu tố quyết định tới giá thành sản phẩm nên năng suất
lao động trong ngành thấp sẽ đẩy giá thành của sản phẩm lên cao, giảm sức cạnh tranh
so với các sản phẩm cùng loại khác trên thị trường.
b. Vấn đề trong quan hệ lao động

Cùng thách thức trên, các điều khoản về lao động trong TPP cũng dẫn tới những
thay đổi trong quan hệ lao động và sự thay đổi này được dự báo sẽ tạo thêm sức ép đối
với doanh nghiệp dệt may.
Theo Bà Virginia Foote, Chủ tịch Phòng Thương mại Hoa Kỳ tại Việt Nam,
thay đổi lớn nhất trong quan hệ lao động khi Việt Nam chính thức gia nhập TPP là
quyền tự do liên kết và thỏa ước lao động tập thể. Cụ thể, việc người lao động được tự
do thành lập tổ chức và được phép hoạt động ngay sau khi hoàn thành thủ tục đăng ký
với cơ quan nhà nước cùng với việc chủ sử dụng lao động không được phép can thiệp
vào hoạt động của tổ chức tự chủ này có thể tạo nên sự phức tạp trong quản lý, dẫn tới
những hậu quả rất lớn nếu chủ doanh nghiệp và nhà quản lý có bước đi sai lầm.
Xét trên thực tế, dệt may là một trong những ngành thâm dụng lao động, nên lo
ngại về giải quyết các tranh chấp trong quan hệ lao động càng lớn.

Từ góc nhìn của doanh nghiệp, nếu một doanh nghiệp có nhiều tổ chức đại diện
cho người lao động, thì người sử dụng lao động sẽ không biết đàm phán với tổ chức
nào khi xảy ra tranh chấp. Cùng với đó, số tiền đóng cho các tổ chức công đoàn có thể
tăng lên. Nếu thành lập thêm nhiều tổ chức công đoàn, thì sức ép chi trả phí hoạt động
cho bộ máy này có tiếp tục dồn lên vai doanh nghiệp trong khi tính hiệu quả khi hoạt
động song song nhiều bộ máy còn chưa có gì đảm bảo.
Ngoài ra, sức ép đến từ việc các điều kiện lao động, như lương tối thiểu, giờ
làm việc, an toàn lao động… cũng sẽ được quản lý chặt chẽ hơn khi tham gia TPP.
3.2.3. Vấn đề cạnh tranh với các nhà đầu tư nước ngoài
Một trong những thách thức rất lớn của Việt Nam khi gia nhập TPP chính là
vấn đề cạnh tranh với các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt trong bối cảnh đầu tư FDI
tăng cao sau khi Hiệp định được ký kết nhằm tận dụng các ưu đãi về thuế xuất của các
doanh nghiệp nước ngoài.
Doanh nghiệp trong nước đã và đang phải đối mặt ngày càng gay gắt hơn về
24


Tiểu luận môn Kinh tế Quốc tế - Giảng viên hướng dẫn PGS.TS Từ Thúy Anh
vấn đề cạnh tranh với doanh nghiệp nước ngoài, với đặc biệt là về trình độ quản trị
doanh nghiệp, về công nghệ và kỹ thuật tiên tiến (là 2 yếu tố có tác động gần như
quyết định đến năng suất lao động). Ngoài ra, doanh nghiệp còn gặp thách thức khi thị
trường lao động hoạt động mạnh hơn khiến biến động lao động cũng lớn hơn. Đây
chính là vấn đề có tác động không tốt đến sự ổn định của doanh nghiệp cũng như việc
nâng cao năng suất của doanh nghiệp, làm ảnh hưởng đến thu nhập của một bộ phận
người lao động.
Hai thách thức mà doanh nghiệp FDI đang đè nặng lên sân chơi không cân sức
với các doanh nghiệp nội địa chính là: Một là, họ có thế mạnh về vốn nên chiếm thị
phần sản xuất rất lớn và Hai là, việc mở rộng hoặc xây dựng thêm nhà máy mới sẽ
làm chuyển dịch thị trường lao động. Trong khi đó, doanh nghiệp trong nước vừa hạn
chế vốn, chưa chủ động trong đào tạo nguồn lao động nên càng thêm khó khăn.

Những thách thức này sẽ đẩy các doanh nghiệp trong nước phải làm gia công hoặc đi
làm thuê lại cho các doanh nghiệp FDI.
Trong khi các doanh nghiệp Việt đang vẫn chưa gắn kết được thành một chuỗi
kín trong sản xuất và cung ứng sản phẩm dệt may lành mạnh đủ sức cạnh trang sòng
phẳng với các doanh nghiệp FDI thì ngay khi Hiệp định TPP có hiệu lực, hàng trăm
doanh nghiệp FDI đã nhanh chân đi trước, chiếm được ưu thế và sẽ hưởng lợi ngay
trên sân nhà của chúng ta.
3.2.4. Vấn đề thủ tục và hàng rào phi thuế
Thủ tục hành chính, hải quan; chi phí không chính thức…, theo yêu cầu TPP,
còn rườm rà và lớn hơn cả phần thuế được cắt giảm trong TPP. Song, năng lực quản lý
yếu kém, thiếu hụt lao động, năng suất lao động thấp, thiếu vốn đầu tư và công
nghệ… cũng là một trong những yếu tố kìm hãm việc tăng năng lực sản suất cũng như
xuất khẩu của doanh nghiệp VN trong khuôn khổ TPP. Môi trường cũng là vấn đề
nhức nhối đối với những ngành sản xuất gây ô nhiễm có liên quan đến dệt may (như
ngành nhuộm). Ngoài ra, khả năng các nước nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam đưa ra
các hàng rào kỹ thuật và thương mại phi thuế quan…để cản trở xuất khẩu dệt may của
Việt Nam là khó tránh khỏi.
3.3. Một số khuyến nghị, đề xuất phát triển ngành dệt may trong thời gian tới
Để có thể tận dụng triệt để những cơ hội mà Hiệp định TPP mang lại, đồng thời
25


×