I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT
LC TH HNG
TộI LàM, TàNG TRữ, VậN CHUYểN, LƯU HàNH TIềN GIả,
NGÂN PHIếU GIả, CÔNG TRáI GIả THEO LUậT HìNH Sự VIệT NAM
(Trên cơ sở thực tiễn tại địa bàn tỉnh Hà Giang)
LUN VN THC S LUT HC
H NI - 2016
I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT
LC TH HNG
TộI LàM, TàNG TRữ, VậN CHUYểN, LƯU HàNH TIềN GIả,
NGÂN PHIếU GIả, CÔNG TRáI GIả THEO LUậT HìNH Sự VIệT NAM
(Trên cơ sở thực tiễn tại địa bàn tỉnh Hà Giang)
Chuyờn ngnh: Lut hỡnh s v t tng hỡnh s
Mó s: 60 38 01 04
LUN VN THC S LUT HC
Ngi hng dn khoa hc: PGS.TS TRNH QUC TON
H NI - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN
Lục Thế Hưng
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TỘI LÀM, TÀNG TRỮ, VẬN
CHUYỂN, LƯU HÀNH TIỀN GIẢ, NGÂN PHIẾU GIẢ, CÔNG
TRÁI GIẢ TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM................................. 9
1.1.
Khái niệm và đặc điểm của tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả ..... 9
1.1.1. Khái niệm tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả ................................. 9
1.1.2. Đặc điểm của tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả .......................... 11
1.2.
Khái niệm tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả,
ngân phiếu giả, công trái giả trong Luật hình sự Việt Nam và
tác hại của nó đối với chính trị, kinh tế - xã hội của đất nước ..... 13
1.3.
Khái quát lịch sử Luật hình sự Việt Nam quy định tội làm,
tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công
trái giả trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 ................. 17
1.3.1. Giai đoạn từ 1945 đến 1985 ................................................................ 17
1.3.2. Giai đoạn từ năm 1985 đến trƣớc khi ban hành Bộ luật hình sự
năm 1999 ............................................................................................. 19
1.4.
Tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu
giả, công trái giả trong luật hình sự một số nước .......................... 23
1.4.1. Pháp luật hình sự Cộng hòa liên bang Đức ......................................... 23
1.4.2. Pháp luật hình sự Liên bang Nga ........................................................ 26
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1................................................................................ 29
Chương 2: CÁC QUY ĐỊNH VỀ TỘI LÀM, TÀNG TRỮ, VẬN
CHUYỂN, LƯU HÀNH TIỀN GIẢ, NGÂN PHIẾU GIẢ,
CÔNG TRÁI GIẢ THEO BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999
VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG ............................................................ 30
2.1. Tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu
giả công trái giả theo Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 ........... 30
2.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu
hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả theo Bộ luật hình
sự năm 1999 và đường lối xử lý ....................................................... 35
2.2.1. Các dấu hiệu pháp lý của tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lƣu hành tiền
giả, ngân phiếu giả, công trái giả theo Bộ luật hình sự năm 1999 ........... 35
2.2.2. Đƣờng lối xử lý hình sự đối với tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lƣu
hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả ........................................ 40
2.3. Thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử tội làm, tàng trữ, vận
chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả trên
địa bàn tỉnh Hà Giang từ năm 2011 - 2015 ..................................... 45
2.3.1. Đặc điểm về địa lý dân cƣ, kinh tế - xã hội của tỉnh Hà Giang có
liên quan đến tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lƣu hành tiền giả,
ngân phiếu giả, công trái giả ............................................................... 45
2.3.2. Kết quả hoạt động điều tra .................................................................. 48
2.3.3. Kết quả hoạt động truy tố .................................................................... 52
2.3.4. Kết quả hoạt động xét xử .................................................................... 56
2.4. Những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn điều tra, truy tố,
xét xử tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân
phiếu giả, công trái giả trên địa bàn tỉnh Hà Giang và những
nguyên nhân của nó .......................................................................... 64
2.4.1. Những khó khăn, vƣớng mắc trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét
xử tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lƣu hành tiền giả, ngân phiếu
giả, công trái giả trên địa bàn tỉnh Hà Giang ...................................... 64
2.4.2. Nguyên nhân của những tồn tại, thiếu sót trong quá trình điều tra,
truy tố, xét xử về tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lƣu hành tiền giả,
ngân phiếu giả, công trái giả ............................................................... 68
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2................................................................................ 74
Chương 3: NHU CẦU VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC
QUY ĐỊNH VỀ TỘI LÀM, TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN, LƯU
HÀNH TIỀN GIẢ, NGÂN PHIẾU GIẢ, CÔNG TRÁI GIẢ
TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 VÀ NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG ĐIỀU TRA, TRUY TỐ, XÉT XỬ TỘI PHẠM NÀY ............ 75
3.1.
Nhu cầu hoàn thiện các quy định về tội làm, tàng trữ, vận
chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả
trong Bộ luật hình sự năm 1999 .................................................... 75
3.2.
Một số giải pháp hoàn thiện các quy định về tội làm, tàng trữ,
vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả
trong Bộ luật hình sự năm 1999 ....................................................... 78
Một số giải pháp nâng cao chất lượng điều tra, truy tố, xét xử
tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu
giả, công trái giả ................................................................................. 85
3.3.1. Nâng cao chất lƣợng hoạt động phát hiện điều tra tội làm, tàng
trữ, vận chuyển, lƣu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả ....... 85
3.3.2. Nâng cao chất lƣợng hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong việc phát hiện, xử lý, truy tố tội làm, tàng trữ, vận chuyển,
lƣu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả .................................. 88
3.3.3. Đổi mới hoạt động xét xử tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lƣu hành
tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả ................................................. 90
3.3.4. Tăng cƣờng phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong
điều tra, xử lý tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lƣu hành tiền giả,
ngân phiếu giả, công trái giả ............................................................... 92
3.3.5. Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục cho nhân dân tham gia phòng
chống tội phạm làm, tàng trữ, vận chuyển, lƣu hành tiền giả, ngân
phiếu giả, công trái giả ........................................................................ 93
KẾT LUẬN .................................................................................................... 95
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 96
3.3.
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS:
Bộ luật hình sự
CA:
Công an
CQĐT:
Cơ quan điều tra
TA:
Tòa án
TAND:
Tòa án nhân dân
VKS:
Viện kiểm sát
VKSND:
Viện kiểm sát nhân dân
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu bảng
Tên bảng
Trang
Bảng 2.1: Số vụ/số bị can phạm tội tàng trữ, vận chuyển, lƣu
hành tiền giả trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ năm 2011
đến năm 2015
49
Bảng 2.2: Kết quả khởi tố điều tra tội tàng trữ, vận chuyển, lƣu
hành tiền giả trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ năm 2011
đến năm 2015
50
Bảng 2.3: Kết quả truy tố tội phạm tàng trữ, vận chuyển, lƣu
hành tiền giả trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ năm 2011
đến năm 2015
53
Bảng 2.4: Số vụ án đã thụ lý, giải quyết từ năm 2011 đến năm
2015 của Tòa án tỉnh Hà Giang
57
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (năm 1986) với quyết định chuyển
đổi phát triển kinh tế đất nƣớc ta từ quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị
trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa với phát triển nhiều thành phần kinh tế
trong đó kinh tế nhà nƣớc giữ vai trò chủ đạo đã làm cho nền kinh tế chuyển
dịch rõ rệt. Bộ mặt đất nƣớc thay đổi từng ngày, kinh tế xã hội phát triển, đời
sống nhân dân đƣợc nâng cao, nƣớc ta đã mở rộng quan hệ với nhiều nƣớc
trên thế giới đây là lợi thế để phát triển đất nƣớc nhƣng mặt trái của sự phát
triển bao giờ cũng là những hiện tƣợng tiêu cực xã hội, tình hình tội phạm và
vi phạm pháp luật gia tăng. Tội phạm trong xã hội hiện đại là một hiện tƣợng
xã hội - pháp lý phức tạp với những biểu hiện khác nhau, công tác đấu tranh
phòng chống tội phạm cũng cần quyết liệt và khó khăn, gian khổ hơn. Tình
hình tội phạm diễn ra ngày càng phức tạp, nghiêm trọng và có xu hƣớng gia
tăng đột biến, có nhiều loại tội phạm phi truyền thống, tội phạm mới xuất hiện
với các thủ đoạn ngày càng tinh vi và xảo quyệt hơn, tính chất của tội phạm
ngày càng manh động, trong đó có tội phạm làm, tàng trữ, vận chuyển, lƣu
hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả để nhằm mục đích chiếm đoạt tài
sản và các mục đích khác xuất hiện ngày càng nhiều. Tội phạm làm, tàng trữ,
vận chuyển, lƣu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả đã tác động trực
tiếp và làm ảnh hƣởng đến nền kinh tế của đất nƣớc, phá hoại chính sách tiền
tệ. Ngƣời phạm tội thuộc nhiều thành phần khác nhau và thậm chí bao gồm cả
ngƣời nƣớc ngoài phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam. Tội phạm này không chỉ
xâm phạm trật tự quản lý kinh tế mà còn xâm phạm nhiều quan hệ xã hội,
nhiều trật tự quản lý khác, trong đó có trật tự quản lý hành chính. Tình hình
hoạt động của tội phạm này đã và đang là những vấn đề bức xúc trong toàn xã
1
hội. Chính vì vậy, Đảng, Nhà nƣớc đã đề ra nhiều chủ trƣơng chính sách để
ngăn chặn, phòng ngừa "Tội phạm" này và xác định đây là nhiệm vụ trọng
tâm, thƣờng xuyên, cấp bách và lâu dài đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân tích cực tham gia đấu tranh phòng, chống nhằm từng bƣớc ngăn chặn và
tiến tới đẩy lùi tội phạm. Do vậy, yêu cầu đặt ra với công tác xây dựng pháp
luật hình sự là phải xây dựng đƣợc một hệ thống pháp luật đồng bộ, hoàn
chỉnh, đảm bảo tính khả thi với việc quy định tội phạm và hình phạt để đủ chế
tài trừng trị và răn đe cũng nhƣ thực tiễn công tác xét xử, áp dụng pháp luật
nhằm đáp ứng yêu cầu bảo vệ pháp luật. Bên cạnh đó, yêu cầu xây dựng hệ
thống lý luận, pháp lý làm cơ sở cho việc hoàn thiện các quy định pháp luật
quy định về tội phạm làm, tàng trữ, vận chuyển, lƣu hành tiền giả, ngân phiếu
giả, công trái giả cũng đƣợc đặt ra.
Bộ luật hình sự (BLHS) năm 1999 (đã đƣợc sửa đổi, bổ sung theo
Luật số 37/2009/QH12 ngày 19/6/2009) đã dành một chƣơng quy định các
tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế - Chƣơng XVI, trong đó có tội làm,
tàng trữ, vận chuyển, lƣu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả đƣợc
quy định tại Điều 180.
Hà Giang là tỉnh vùng cao biên giới cực bắc của Tổ quốc, có vị trí
chiến lƣợc quan trọng về An ninh Quốc gia, nơi tập trung chủ yếu dân tộc
thiểu số sinh sống, có trên 277km đƣờng biên giới kéo dài trên 34xã/7huyện
biên giới; có một cặp cửa khẩu quốc tế Thanh Thủy (Việt Nam) - Thiên Bảo
(Trung Quốc) và nhiều cặp cửa khẩu phụ, lối mở, đƣờng mòn qua lại biên
giới. Đây là những điều kiện thuận lợi cho Hà Giang phát triển kinh tế - xã
hội nhƣng cũng chính nơi đây là môi trƣờng, điều kiện thuận lợi cho các loại
tội phạm lợi dụng hoạt động trong đó có tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu
hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả. Trƣớc tình hình diễn biến tội
phạm này ngày càng phức tạp trên địa bàn tỉnh, những năm qua dƣới sự lãnh
2
đạo trực tiếp của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh và sự nỗ lực của các ngành
nhƣ Công an (CA), Viện kiểm sát (VKS), Toà án (TA) trong công tác đấu
tranh phòng chống tội phạm trên đã đạt những thành tựu nhất định. Số vụ về
tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lƣu hành tiền giả, công trái giả tuy có giảm về
số lƣợng, nhƣng phƣơng thức và thủ đoạn phạm tội của bọn tội phạm ngày
càng tinh vi, áp dụng khoa học công nghệ tiến tiến, gây khó khăn cho công tác
đấu tranh phòng chống loại tội phạm này.
Để nhìn nhận và đánh giá đúng thực trạng, tìm ra những giải pháp hữu
hiệu khắc phục tình trạng tội phạm này xảy ra trên địa bàn tỉnh Hà Giang, tác
giả chọn đề tài: Tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân
phiếu giả, công trái giả theo luật hình sự Việt Nam (Trên cơ sở thực tiễn tại
địa bàn tỉnh Hà Giang) làm luận văn thạc sĩ luật học nhằm đáp ứng yêu cầu
cấp thiết về mặt lý luận và thực tiễn đang đặt ra ở tỉnh Hà Giang hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đấu tranh, phòng chống, xử lý tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh
tế nói chung và tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lƣu hành tiền giả, ngân phiếu
giả, công trái giả nói riêng đã đƣợc quy định trong BLHS và đƣợc một số nhà
Luật học đề cập một cách khái quát trong các bài giảng nhƣ: Giáo trình luật
hình sự Việt Nam (phần các tội phạm), của Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà
Nội, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2011; Giáo trình luật Hình sự Việt Nam,
tập II, của Trƣờng Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội,
2005; Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự 1999 (phần các tội phạm), của TS.
Phùng Thế Vắc, TS. Trần Văn Luyện, LS.ThS. Phạm Thanh Bình, TS.
Nguyễn Đức Mai, ThS. Nguyễn Sĩ Đại, ThS. Nguyễn Mai Bộ, Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội, 2001; Bình luận khoa học Bộ luật hình sự 1999 (phần các
tội phạm) của Thạc sĩ Đinh Văn Quế, Nxb thành phố Hồ Chí Minh, 2001;
Luận án tiến sĩ: “Công tác điều tra vụ án tiền Việt Nam đồng giả - những vấn
3
đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Châu Nam Long, Học viện An ninh nhân
dân, 2002; Đề tài khoa học cấp cơ sở: “Nâng cao hiệu quả điều tra các vụ án
làm, tàng trữ, lưu hành tiền giả”, Cục An ninh điều tra, Bộ Công an, 1996;
Đề tài "tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công
trái giả trong Bộ luật hình sự năm 1999. Nghiên cứu thực tiễn trên địa bàn
tỉnh Phú Thọ" của tác giả Hà Ngọc Quang, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa
luật - Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2014.
Ngoài ra, còn có nhiều bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành nhƣ:
Tạp chí Kiểm sát, tạp chí Tòa án, tạp chí Công an nhân dân, tạp chí Luật học...
Tuy nhiên, các công trình, đề tài nói trên mới chỉ nghiên cứu về mặt lý
luận, thực tiễn và đề xuất những giải pháp khoa học ở những cấp độ khác
nhau nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự và nâng cao biện pháp đấu
tranh phòng chống tội phạm này.
Kế thừa các kết quả nghiên cứu khoa học trƣớc, tác giả mạnh dạn tiếp
cận và nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn trong quá trình đấu
tranh, phòng chống: Tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả,
ngân phiếu giả, công trái giả theo luật hình sự Việt Nam (Trên cơ sở thực
tiễn tại địa bàn tỉnh Hà Giang). Tác giả mong muốn tìm ra giải pháp, đề
xuất một số kiến nghị để nâng cao chất lƣợng trong công tác đấu tranh
phòng chống tội phạm nhằm hạn chế mức thấp nhất về tội phạm này xảy ra
trên địa bàn tỉnh Hà Giang.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là nghiên cứu các quy định của pháp luật về tội
làm, tàng trữ, vận chuyển, lƣu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả
dƣới khía cạnh lập pháp hình sự và thực tiễn trong công tác xét xử tại địa
phƣơng, từ đó luận văn đƣa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định
4
về tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lƣu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái
giả trong luật hình sự Việt Nam, cũng nhƣ đề xuất những giải pháp nâng cao
hiệu quả trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt đƣợc mục đích nghiên cứu trên, luận văn tập trung giải quyết
các nhiệm vụ cụ thể sau đây:
- Nghiên cứu, phân tích một số vấn đề lý luận về tội làm, tàng trữ, vận
chuyển, lƣu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả hiện nay ở Việt Nam.
- Phân tích các quy định của BLHS về tội làm, tàng trữ, vận chuyển,
lƣu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả.
- Nghiên cứu tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lƣu hành tiền giả, ngân
phiếu giả, công trái giả ở một số nƣớc trên thế giới.
- Nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự đối
với tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lƣu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái
giả ở tỉnh Hà Giang, làm sáng tỏ thực tiễn áp dụng loại tội phạm này, nêu lên
những vƣớng mắc trong điều tra, truy tố, xét xử.
- Đƣa ra các kiến nghị hoàn thiện BLHS và giải pháp nâng cao hiệu quả
áp dụng các quy định của BLHS về tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lƣu hành
tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả góp phần nâng cao hiệu quả đấu tranh
phòng chống tội phạm.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài luận văn là những vấn đề lý luận
pháp lý và thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm làm, tàng trữ, vận
chuyển, lƣu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả ở Việt Nam hiện
nay, trực tiếp là hoạt động điều tra, truy tố, xét xử loại tội phạm này trên
địa bàn tỉnh Hà Giang.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn:
5
- Tập trung nghiên cứu tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lƣu hành tiền giả,
ngân phiếu giả, công trái giả theo Điều 180 Chƣơng XVI BLHS năm 1999
(sửa đổi, bổ sung năm 2009).
- Đồng thời, luận văn cũng đi sâu nghiên cứu hoạt động điều tra, truy
tố, xét xử tội phạm này trong vòng 5 năm từ năm 2011 đến năm 2015 trên địa
bàn tỉnh Hà Giang.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của luận văn là các quan điểm, đƣờng lối của Đảng Cộng
sản Việt Nam về tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lƣu hành tiền giả, ngân phiếu
giả, công trái giả theo luật hình sự Việt Nam, về đấu tranh phòng chống các
loại tội phạm, các quy định của pháp luật liên quan đến tội phạm làm, tàng
trữ, vận chuyển, lƣu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả theo luật hình
sự Việt Nam. Bên cạnh đó, các quan điểm, kết quả nghiên cứu lý luận và thực
tiễn về tình hình tội phạm làm, tàng trữ, vận chuyển, lƣu hành tiền giả, ngân
phiếu giả, công trái giả theo luật hình sự Việt Nam và công tác đấu tranh
phòng chống loại tội phạm này của các tác giả đi trƣớc cũng là cơ sở lý luận
quan trọng của luận văn.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn đƣợc thực hiện trên cơ sở phƣơng pháp luận chủ nghĩa duy
vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về xây dựng
Nhà nƣớc pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân và vì nhân dân và những quan điểm cơ bản của Đảng, Nhà nƣớc về đấu
tranh phòng chống tội phạm, bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự an
toàn xã hội.
Trong quá trình nghiên cứu luận văn, tác giả đã sử dụng các phƣơng
pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật hình sự nhƣ: phƣơng pháp phân tích
6
và tổng hợp; phƣơng pháp so sánh, đối chiếu; phƣơng pháp diễn dịch; phƣơng
pháp quy nạp; phƣơng pháp thống kê, điều tra xã hội học để tổng hợp các tri
thức khoa học luật hình sự và luận chứng các vấn đề tƣơng ứng đƣợc nghiên
cứu trong luận văn.
6. Những điểm mới và đóng góp của đề tài
Qua kết quả nghiên cứu và phân tích, đánh giá tình hình tội phạm đối
với tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lƣu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái
giả, tác giả đã chỉ ra những vƣớng mắc, bất cập, trong thực tiễn điều tra, truy
tố, xét xử loại tội phạm này. Đồng thời, đề xuất hệ thống các giải pháp có tính
khả thi nhằm nâng cao hiệu quả việc áp dụng những quy định của pháp luật
hình sự về tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lƣu hành tiền giả, ngân phiếu giả,
công trái giả.
Những kết quả đạt đƣợc của luận văn, các cơ quan chức năng tỉnh Hà
Giang có thể nghiên cứu vận dụng vào thực tiễn góp phần nâng cao hiệu quả
áp dụng những quy định của pháp luật hình sự hiện hành về tội làm, tàng
trữ, vận chuyển, lƣu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả. Thông qua
kết quả nghiên cứu và các đề xuất, tác giả mong muốn đóng góp phần nhỏ
bé của mình vào việc phát triển khoa học luật hình sự nói chung, hoàn thiện
về tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lƣu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái
giả nói riêng.
Luận văn đề cập các giải pháp phòng, chống có hiệu quả tội phạm
làm, tàng trữ, vận chuyển, lƣu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả để
các cơ quan lập pháp, hành pháp, tƣ pháp có thể tham khảo, hoàn thiện pháp
luật xây dựng kế hoạch tổ chức đấu tranh phòng, chống có hiệu quả đối với
loại tội phạm này.
Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích
dành cho không chỉ các nhà lập pháp, mà còn cho các nhà nghiên cứu, các cán
7
bộ giảng dạy pháp luật, các nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên
thuộc chuyên ngành Tƣ pháp hình sự tại các cơ sở đào tạo luật. Kết quả
nghiên cứu của luận văn còn phục vụ cho việc trang bị những kiến thức
chuyên sâu cho các cán bộ thực tiễn đang công tác tại các Cơ quan điều tra
(CQĐT), VKS, TA và cơ quan Thi hành án trong quá trình giải quyết vụ án
hình sự đƣợc khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của Luận văn gồm 03 chƣơng:
Chương 1: Một số vấn đề về tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lƣu hành
tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả trong luật hình sự Việt Nam.
Chương 2: Các quy định về tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lƣu hành tiền
giả, ngân phiếu giả, công trái giả theo Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 và
thực tiễn áp dụng.
Chương 3: Nhu cầu và một số giải pháp hoàn thiện các quy định về tội
làm, tàng trữ, vận chuyển, lƣu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả
trong Bộ luật hình sự năm 1999 và nâng cao hiệu quả điều tra, truy tố, xét xử
tội phạm này.
8
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TỘI LÀM, TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN,
LƯU HÀNH TIỀN GIẢ, NGÂN PHIẾU GIẢ, CÔNG TRÁI GIẢ
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm và đặc điểm của tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả
1.1.1. Khái niệm tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả
Tiền là: “Vật đúc bằng kim loại hay in bằng giấy do ngân hàng phát
hành, dùng làm đơn vị tiền tệ” [30, tr. 950]. Hiện nay chƣa có khái niệm nào
mang tính pháp lý về “tiền” mà chỉ có các khái niệm về “tiền tệ”. Tiền đƣợc
hiểu là một bộ phận của tiền tệ. Theo Mác, tiền tệ là một thứ hàng hóa đặc
biệt, đƣợc tách ra khỏi thế giới hàng hóa, đƣợc dùng để đo lƣờng và biểu hiện
giá trị của tất cả các loại hàng hóa khác. Nó trực tiếp thể hiện lao động xã hội
và biểu hiện quan hệ sản xuất giữa những ngƣời sản xuất hàng hóa. Theo các
nhà kinh tế học hiện đại tiền là bất cứ cái gì đƣợc chấp nhận chung trong việc
thanh toán để nhận hàng hóa, dịch vụ hoặc để trả nợ.
Căn cứ vào các quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 thì tiền là một
loại tài sản phổ biến trong giao lƣu dân sự, nó thực hiện các chức năng thanh
toán thông dụng nhất và tiền chỉ do Ngân hàng Nhà nƣớc phát hành. Hiện
nay, tiền đƣợc lƣu hành trên lãnh thổ Việt Nam là tiền giấy, đơn vị tính là
Việt Nam đồng, đƣợc cấu tạo dƣới dạng hợp chất polyme không thấm nƣớc
và khó bị nhàu nát nhƣ tiền giấy trƣớc đây [63, tr.24-25].
Ngân phiếu là: “Phiếu có ghi số tiền, dùng làm căn cứ nhận tiền tại
ngân hàng hoặc nhận tiền gửi qua bưu điện” [30, tr.65]. Đó là một dạng
phiếu dùng để thay thế tiền mặt, có in mệnh giá và thời hạn lƣu hành. Trên
thực tế thì ngân phiếu, đặc biệt là ngân phiếu nhà nƣớc có tác dụng tích cực.
Nó làm giảm khối lƣợng tiền mặt trong quá trình lƣu thông tiền tệ, giúp đối
9
phó với một số thời điểm khó khăn do hệ thống ngân hàng thiếu tiền mặt tức
thời trong thanh toán. Ở Việt Nam thì ngân phiếu đƣợc giao cho Ngân hàng
nhà nƣớc Việt Nam phát hành.
Công trái là: “Hình thức nhà nước vay vốn của các tầng lớp nhân dân,
người cho vay được quyền thu lại vốn và hưởng lãi theo quy định” [69]. Công
trái đƣợc Nhà nƣớc phát hành bằng một giấy tờ gọi là phiếu công trái.
“Giả” theo từ điển tiếng Việt là “không phải là thật mà là được làm ra với
vẻ bề ngoài giống như cái thật” [30, tr.369]. Theo Nghị quyết số 02/2003/NQHĐTP ngày 17 tháng 4 năm 2003 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao hƣớng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS thì: “Tiền giả bao gồm tiền
Việt Nam đồng giả và ngoại tệ giả; ngân phiếu giả, công trái giả bao gồm ngân
phiếu, công trái giả ngân phiếu, công trái của Việt Nam hoặc của nước ngoài
phát hành nhưng có giá trị thanh toán tại Việt Nam” [31, tr.2].
Đến nay vẫn chƣa có một tài liệu khoa học nào đƣa ra định nghĩa thế
nào là tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả mặc dù tiền giả có một lịch sử tồn
tại khá lâu đời, ngay từ khi xuất hiện một loại tài sản làm cơ sở để giao dịch
thông thƣơng là tiền thì cũng có sự xuất hiện của tiền giả.
Theo định nghĩa tại Bách khoa toàn thƣ mở Wikipedia thì “Tiền giả là
tiền được sản xuất mà không có chế tài pháp lý của nhà nước hoặc chính
phủ”. Tại quyết định số 130/QĐ - TTg ngày 30/6/2003 của Thủ tƣớng Chính
phủ về bảo vệ tiền Việt Nam thì tiền giả đƣợc hiểu là “tiền được làm giống
như tiền Việt Nam nhưng không phải do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tổ
chức in, đúc, phát hành” [52, tr.1].
Đối với một số nƣớc trên thế giới, tiền giả đƣợc giải thích cụ thể hơn,
đó là: tiền giả là bất cứ vật gì không phải là tiền thật (tiền giấy, tiền xu) mà
đƣợc làm giống hay cố tình làm giống hoặc làm cho đƣợc chấp nhận nhƣ là
một đồng tiền thật; hoặc tiền giả là tiền thật nhƣng bị sửa đổi bằng cách can
dán, cạo sửa hoặc in lại.
10
Định nghĩa trên cũng chƣa thể hiện đƣợc tính đầy đủ về bản chất của
tiền giả theo pháp luật hình sự Việt Nam bởi ngoài tiền của Nhà nƣớc Việt
Nam phát hành thì còn có các đối tƣợng tiền giả là tiền của nƣớc ngoài nhƣng
có giá trị thanh toán tại Việt Nam.
Từ những phân tích trên đây, có thể đƣa ra định nghĩa khoa học về tiền
giả, ngân phiếu giả và công trái giả nhƣ sau:“Tiền giả” là vật đúc bằng kim
loại hay in bằng giấy không phải do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát
hành hoặc nước ngoài phát hành nhưng có giá trị thanh toán tại Việt Nam;
“Ngân phiếu giả” là phiếu có ghi số tiền dùng làm căn cứ nhận tiền tại ngân
hàng hoặc nhận tiền gửi qua bưu điện không phải do Ngân hàng nhà nước
Việt Nam phát hành mà là được làm giả với vẻ bề ngoài giống như cái thật;
“Công trái giả” là phiếu công trái không phải do các cơ quan chức năng
phát hành mà là được giả với vẻ bề ngoài giống như cái thật.
1.1.2. Đặc điểm của tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả
Đối với Tiền giả có đặc điểm nhƣ sau: Về mặt hình thức có thể là tiền
giấy hoặc kim loại tuỳ theo loại mà đối tƣợng làm giả hƣớng tới, có hình dáng
hoa văn tƣơng đối giống với loại tiền thật tƣơng ứng, có khả năng làm cho
ngƣời tiếp nhận, trao đổi nhầm lẫn với tiền thật.
Về nguồn gốc tiền giả đƣợc làm ra từ những cơ sở bất hợp pháp, do đó
về bản chất nó không đƣợc phép lƣu hành.
Một số đặc điểm nhận biết tiền Việt Nam giả:
Trƣớc hết, với yếu tố giấy in tiền, tờ tiền giả đƣợc in bằng giấy in thông
thƣờng, không phải là giấy Polymer. Có thể nhận biết điều này qua quan sát hoặc
xé nhẹ bằng tay ở mép tờ tiền; nếu thấy tờ tiền có các vết rách ở mép thì cần kiểm
tra cẩn thận vì hiện tƣợng này ít xảy ra đối với tiền in trên giấy Polymer.
Trên tờ tiền giả có cắt dán các hình cửa sổ lớn và cửa sổ nhỏ bằng cách
khoét thủng hình hai cửa sổ và dùng màng mỏng nilon trong suốt dán lên.
11
Trong cửa sổ nhỏ không có hình bông hoa sen chìm và khi nhìn dƣới ánh
sáng đèn đỏ sẽ không có ánh ngũ sắc nhƣ ở tiền thật. Trên cửa sổ lớn có dập
số 50.000, 100.000, 200.000 v.v những nét thô và không rõ nhƣ trên tờ tiền
thật. Nhìn bằng mắt thƣờng có thể nhận ra vết dán quanh mép hình cửa sổ.
Hình bóng chìm chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh và chữ Việt Nam
(nằm dưới vị trí bóng chìm hình chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh) trong tờ
tiền giả đậm hơn nền giấy, không kỹ thuật và rõ nét nhƣ tiền thật; không sáng
trắng khi soi tờ tiền trƣớc nguồn sáng nhƣ trên tờ tiền thật.
Về màu sắc của tờ tiền giả, nhìn tổng thể có màu sắc gần giống nhƣ
màu của tờ tiền thật.
Các yếu tố phát quang, tờ tiền giả không có yếu tố mực phát quang khi
soi dƣới ánh sáng đèn cực tím. Cụ thể: mặt trƣớc tờ tiền giả không có cụm số
ghi mệnh giá, không màu phát quang dƣới ánh sáng đèn cực tím; các chi tiết
màu vàng cam xung quanh chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh (mặt trước) và
màu vàng cam ở hình định vị (mặt sau) của tờ tiền giả không phát quang màu
vàng dƣới ánh sáng đèn cực tím; dòng số seri dọc màu đỏ (kiểu số đều nhau)
trên tờ tiền giả không phát quang màu da cam khi soi dƣới ánh sáng đèn cực
tím; dòng số seri ngang màu đen (kiểu số từ nhỏ đến lớn) trên tờ tiền giả
không phát quang màu xanh lơ khi soi dƣới ánh sáng đèn cực tím.
Yếu tố in nét nổi và định vị: Mặt trƣớc của tờ tiền giả không có yếu tố
in lõm nên không có độ nổi của nét in ở các vị trí: dòng chữ Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh, chữ và số mệnh giá.
Có thể kiểm tra bằng cách vuốt nhẹ tay lên các yếu tố này. Hình định vị trên
tờ tiền giả không khớp khít giữa hai mặt nhƣ tờ tiền thật.
Để phân biệt tiền giả khi không có điều kiện kiểm tra kỹ, thì cách đơn
giản nhất là: (1) xé nhẹ ở mép, nếu dễ bị rách thì có khả năng là tiền giả, nên
kiểm tra kỹ hơn; (2) soi cửa sổ nhỏ trƣớc nguồn sáng đỏ (bóng đèn tròn, ngọn
12
nến, que diêm cháy sáng), nếu không xuất hiện chữ Việt Nam đối xứng màu
ngũ sắc thì đó là tiền giả.
Nhìn tổng thể các yếu tố giấy in, các kỹ thuật bảo an, nhất là các yếu
tố nhƣ cửa sổ trong suốt có hình dập nổi, hình bóng chìm, chữ Việt Nam
sáng trắng, các loại mực phát quang, hình ẩn nổi trên tờ tiền giả không giống
hoặc không có nhƣ trên tờ tiền thật; đặc biệt nếu quan sát kỹ 2 cửa sổ của tờ
tiền thì có thể nhận biết loại tiền giả này dễ dàng. Tuy nhiên, nếu sơ xuất do
tâm lý chủ quan là chƣa có tiền giả loại Polymer nên tờ tiền giả này bị trà
trộn trong số lƣợng lớn tiền thật, nhất là trong điều kiện trời tối thì cũng có
thể bị nhầm lẫn [32, tr.12-14].
Đối với ngân phiếu giả, công trái giả có đặc điểm sau:
- Đƣợc làm giả giống có vẻ bề ngoài giống y cái thật, nhìn bằng mắt
thƣờng rất khó phân biệt với ngân phiếu thật, công trái thật rất dễ bị nhầm lẫn.
- Không phải do cơ quan chức năng phát hành nhƣ: Chính Phủ, Ngân hàng.
- Cũng giống nhƣ tiền giả, ngân phiếu giả, công trái đƣợc làm giả từ những
cơ sở bất hợp pháp, do đó về bản chất nó cũng không đƣợc phép lƣu hành.
1.2. Khái niệm tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả,
ngân phiếu giả, công trái giả trong Luật hình sự Việt Nam và tác hại của
nó đối với chính trị, kinh tế - xã hội của đất nước
Tội phạm theo quy định tại khoản 1 Điều 8, BLHS năm 1999 (sửa đổi,
bổ sung năm 2009) định nghĩa nhƣ sau:
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội đƣợc quy định
trong Bộ luật hình sự, do ngƣời có năng lực trách nhiệm hình sự
thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị,
chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng an ninh, trật tự an toàn xã
hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức
13
khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp
pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự
pháp luật xã hội chủ nghĩa [45, tr.43-44].
Định nghĩa tội phạm trên đây có tính khoa học thể hiện quan điểm của
Nhà nƣớc ta về tội phạm. Định nghĩa này là cơ sở khoa học thống nhất cho
việc xác định những loại tội phạm cụ thể quy định trong BLHS. Đồng thời là
cơ sở cho việc nhận thức và áp dụng đúng đắn điều luật quy định cho từng tội
phạm cụ thể.
Tiền giả xuất hiện từ rất lâu đời từ khi xuất hiện tiền trong lƣu thông
tiền tệ. Ngay từ khi nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa giành đƣợc độc lập năm
1945, song song với các vấn nạn, tệ nạn xã hội thì nạn tiền giả đã xuất hiện
nhiều và Chính phủ đã phải xây dựng chính sách hình sự về loại tội phạm này.
Trong BLHS Việt Nam, tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lƣu hành tiền
giả, ngân phiếu giả, công trái giả đƣợc quy định tại Điều 180 BLHS năm 1999
(sửa đổi, bổ sung năm 2009). Điều đó nói lên rằng nó có hành vi nguy hiểm
cho xã hội mà luật hình sự Việt Nam đã quy định là tội phạm. Loại tội phạm
này xâm hại đến một trong số các khách thể mà BLHS Việt Nam bảo vệ. Tội
phạm quy định về tiền giả tại Điều 180 thuộc Chƣơng XVI các tội phạm xâm
phạm trật tự quản lý kinh tế. Tuy nhiên, khái niệm về làm, tàng trữ, vận
chuyển, lƣu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả chƣa có một văn bản
pháp lý nào đƣa ra khái niệm về những hành vi này.
Theo từ điển tiếng Việt “làm” có nghĩa là: dùng công sức tạo ra cái
trƣớc đó không có [30, tr.518]; “Tàng trữ” có nghĩa là: cất giữ một khối
lƣợng [30, tr.858]; “Vận chuyển” có nghĩa là: Mang chuyển đồ vật từ nơi này
đến nơi khác, bằng phƣơng tiện hoặc bằng sức [30, tr.1067]; “Lƣu hành” có
nghĩa là: Đƣa ra sử dụng rộng rãi từ ngƣời này, nơi này qua ngƣời khác, nơi
khác trong xã hội [30, tr.580]. Theo thạc sĩ Đinh Văn Quế thì: “Làm, tàng trữ,
14
vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả là hành vi làm
ra, cất giữ, vận chuyển, sử dụng, trao đổi, mua bán các loại tiền giả, ngân
phiếu giả và công trái giả” [41, tr.212].
Từ các khái niệm và quan điểm trên đây, có thể đƣa ra một định nghĩa
khoa học về: "Tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu
giả, công trái giả” là hành vi làm ra, cất giữ, vận chuyển, sử dụng, trao đổi,
mua bán các loại tiền giả, ngân phiếu giả và công trái giả không phải do cơ
quan, Nhà nước Việt Nam phát hành hoặc nước ngoài phát hành có giá trị
thanh toán tại Việt Nam”.
Hiện nay, tình hình hoạt động của tội phạm về tiền giả và các giấy tờ có
giá trị thanh toán giả khác (các loại séc, thẻ tín dụng, ngân phiếu, công trái...
giả) đang diễn ra hết sức phức tạp và có chiều hƣớng ngày càng gia tăng.
Trong 5 năm, từ năm 2010 - 2014 số lƣợng tiền giả mà Ngân hàng Nhà
nƣớc thu đƣợc là hơn 10.000 tờ các loại mệnh giá tiền với trị giá gần 15 tỷ.
Trong đó, mệnh giá 200 nghìn đồng chiếm 50,36% về số lƣợng tờ, giá trị
chiếm 66%. Số liệu thống kê mới nhất trong năm 2014 của Ngân hàng Nhà
nƣớc, mệnh giá 200 nghìn đồng làm giả chiếm 61% [66].
Tiền giả trong thực tế đã có một quá khứ tồn tại khá lâu đời. Nhiều
ngƣời nói: “Tiền là căn nguyên của mọi tội ác” và tất nhiên là tiền giả không
nằm ngoài điều ám chỉ ấy.
Ở nƣớc ta, song song với việc làm giả tiền Việt Nam đồng, thì các loại
ngoại tệ, séc, thẻ tín dụng giả xuất hiện ngày càng nhiều. Thực tế cho thấy,
tiền Việt Nam đồng giả đƣợc in chủ yếu ở nƣớc ngoài. Tiền đƣợc làm giả chủ
yếu theo phƣơng pháp thủ công nhƣ vẽ, khắc và in lƣới. Chúng tách đôi tờ
tiền thật rồi dán từng mặt vào một tờ giấy khác. Tờ giấy này đƣợc phun màu
điện tử giống y chang tiền thật. Cách làm giả này chủ yếu đƣợc các đối tƣợng
trong nƣớc sử dụng. Còn các tổ chức làm bạc giả ở nƣớc ngoài lại “ƣa thích”
15
phƣơng pháp in offset hoặc photo màu. Sản phẩm đƣợc tạo ra từ cách làm này
có độ tinh xảo rất cao, mắt thƣờng khó phát hiện đƣợc đâu là tiền giả. Đặc
biệt với loại mệnh giá 100.000 đồng, chúng đã vô hiệu hóa tác dụng của máy
kiểm tra tiền.
Theo thống kê của Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam, thì số lƣợng tiền
giả ngày một tăng, mỗi năm ngân hàng thu vào hàng chục tỷ tiền Việt Nam
đồng giả, chủ yếu là các loại có mệnh giá cao. Đây là số tiền giả do các ngân
hàng, kho bạc phát hiện và thu giữ. Tuy nhiên, theo các chuyên gia, thì trên
thực tế, số lƣợng tiền giả đang lƣu hành trên thị trƣờng còn lớn hơn rất nhiều.
Ngoài 2 loại tiền giả phổ biến có mệnh giá 50.000 đồng và 100.000 đồng, các
đối tƣợng buôn bán tiền giả đang “đầu tư” vào loại 20.000 đồng.
Tội phạm làm, tàng trữ, vận chuyển, lƣu hành tiền giả, ngân phiếu giả,
công trái giả (sau đây gọi tắt là “tội phạm về tiền giả”) là loại tội phạm xâm
phạm trật tự quản lý kinh tế, tính chất mức độ của nó gây ra không những ảnh
hƣởng đến chính sách tiền tệ của Nhà nƣớc ta, trực tiếp phá hoại nền kinh tế
của đất nƣớc mà còn gây tâm lý hoang mang, lo lắng trong quần chúng nhân
dân. Thời gian qua, do có lợi nhuận cao, dễ thực hiện nên loại tội phạm này
không ngừng gia tăng với thủ đoạn ngày càng tinh vi, đa dạng hơn gây không
ít khó khăn cho công tác phòng chống tội phạm này. Tội phạm về tiền giả
không chỉ xảy ra ở khu vực thành phố, thị xã, mà bọn tội phạm còn lợi dụng
các địa bàn nhƣ vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc, các chợ buôn bán
tiền ở vùng biên giới để thực hiện tội phạm. Đặc biệt, bọn tội phạm đã lợi
dụng một số ngƣời không có công việc làm, những ngƣời nghèo, ngƣời già,
trẻ em tham gia vào hoạt động phạm tội để kiếm sống làm cho tình hình tội
phạm về tiền giả diễn biến ngày càng phức tạp. Trong khi đó, quan hệ phối
hợp phòng, chống tội phạm về tiền giả giữa các quốc gia còn nhiều hạn chế,
bất cập, cho nên cuộc đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này sẽ gặp nhiều
khó khăn [56, tr.28].
16
Càng ngày thì bọn tội phạm càng biết áp dụng những công nghệ hiện
đại để làm ra tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả (tội phạm về tiền giả)
khiến cho Chính phủ phải vất vả ngăn chặn. Hậu quả của việc đƣa tiền giả lƣu
thông ngoài thị trƣờng làm cho nền kinh tế bị lũng đoạn, số lƣợng tiền giả lƣu
thông trôi nổi nằm ngoài tầm kiểm soát của Nhà nƣớc, tạo ra số lƣợng ảo về
giá trị đồng tiền, gây tâm lý hoang mang cho ngƣời dân khi đang sử dụng và
tích luỹ vốn bằng tiền Việt Nam; tiền giả ảnh hƣởng đến nền an ninh tài
chính, tiền tệ quốc gia, gây mất ổn định chính trị, gây thiệt hại trực tiếp cho
chủ sở hữu. Nó làm băng hoại đạo đức xã hội vì lợi nhuận của tiền giả mang
lại mà kẻ buôn nó, ngƣời tiêu thụ nó bất chấp tất cả.
1.3. Khái quát lịch sử Luật hình sự Việt Nam quy định tội làm,
tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả
trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999
1.3.1. Giai đoạn từ 1945 đến 1985
Từ sau Cách mạng tháng 8/1945 đã mở ra thời kỳ mới cho đất nƣớc
Việt Nam, xóa bỏ hoàn toàn chế độ nửa thuộc địa phong kiến, lập nên Nhà
nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa, Nhà nƣớc của nhân dân lao động do Đảng
công sản lãnh đạo. Cùng với việc củng cố, bảo vệ chính quyền non trẻ, Đảng
và Nhà nƣớc ta đã quan tâm đặc biệt đến việc xây dựng và áp dụng pháp luật
để bảo vệ Tổ quốc. Do chƣa thể có ngay các văn bản pháp luật để điều chỉnh
các quan hệ xã hội ở đất nƣớc mới đƣợc độc lập, Chính phủ nƣớc Việt Nam
dân chủ cộng hòa đã ban hành Sắc lệnh số 47 ngày 10 tháng 10 năm 1945 về
việc tạm thời sử dụng luật lệ cũ với điều kiện không đƣợc trái với nguyên tắc
độc lập của nƣớc Việt Nam và chính thể dân chủ cộng hòa. Sắc lệnh này là
biện pháp hết sức kịp thời nhằm hạn chế đến mức thấp nhất những xáo trộn
trong cuộc sống của nhân dân, đồng thời đảm bảo duy trì trật tự xã hội, không
phƣơng hại đến nền độc lập và nền dân chủ cộng hòa của đất nƣớc mới giành
17