Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (993.55 KB, 83 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN PHÚ BIỀN

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ CHỦ THỂ CHỊU TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN PHÚ BIỀN

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ CHỦ THỂ CHỊU TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

Chuyên ngành
Mã số

: Luật hình sự và tố tụng hình sự
: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Lê Thị Sơn



HÀ NỘI – 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới
sự hướng dẫn của PGS.TS. Lê Thị Sơn. Các kết quả nêu trong Luận văn
chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi
đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài
chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................... 1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHỦ THỂ CHỊU TRÁCH
NHIỆM HÌNH SỰ ............................................................................................ 6
1.1. Khái niệm chủ thể chịu trách nhiệm hình sự .......................................... 6
1.2. Lịch sử quy định về chủ thể chịu trách nhiệm hình sự trong luật hình
sự Việt Nam ................................................................................................. 10
1.2.1. Từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trƣớc khi Bộ luật hình
sự năm 1985 có hiệu lực ........................................................................... 10
1.2.2. Từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến trƣớc khi Bộ luật
hình sự năm 1999 có hiệu lực ................................................................... 12

1.3. Quy định của Bộ luật hình sự một số nƣớc về chủ thể chịu trách nhiệm
hình sự .......................................................................................................... 14
1.3.1. Quy định về chủ thể chịu trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự
Liên bang Nga ........................................................................................... 14
1.3.2. Quy định về chủ thể chịu trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ................................................................ 16
1.3.3. Quy định về chủ thể chịu trách nhiệm hình sự trong pháp luật hình
sự Nhật Bản............................................................................................... 19
1.3.4. Quy định trong về chủ thể chịu trách nhiệm hình sự trong Bộ luật
hình sự Cộng hòa Liên bang Đức ............................................................. 20
Chƣơng 2: THỰC TIỄN QUY ĐỊNH VỀ CHỦ THỂ CHỊU TRÁCH NHIỆM
HÌNH SỰ TRONG BLHS VIỆT NAM HIỆN HÀNH ................................... 23
2.1. Các dấu hiệu chung của chủ thể chịu trách nhiệm hình sự................... 23


2.1.1. Năng lực trách nhiệm hình sự ......................................................... 23
2.1.2. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự ........................................................ 26
2.2. Dấu hiệu đặc biệt của chủ thể chịu trách nhiệm hình sự. ..................... 29
Chƣơng 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH VỀ CHỦ THỂ CHỊU
TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT,
NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG NHỮNG QUY ĐỊNH NÀY .............. 40
3.1. Thực tiễn áp dụng quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về chủ thể
chịu trách nhiệm hình sự .............................................................................. 40
3.1.1. Thực tiễn áp dụng quy định về tình trạng không có năng lực chịu
TNHS ........................................................................................................ 40
3.1.2. Thực tiễn áp dụng quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự ....... 44
3.1.3 Thực tiễn áp dụng quy định về dấu hiệu đặc biệt của chủ thể chịu
trách nhiệm hình sự. .................................................................................. 50
3.2. Phƣơng hƣớng hoàn thiện quy định của BLHS về chủ thể chịu trách
nhiệm hình sự. .............................................................................................. 56

3.2.1 Vấn đề trách nhiệm hình sự của pháp nhân và loại tội pháp nhân
chịu trách nhiệm hình sự:.......................................................................... 57
3.2.2 Các quy định về tuổi chịu TNHS:.................................................... 62
3.3.3 Phƣơng hƣớng hoàn thiện quy định về dấu hiệu đặc biệt của chủ thể
chịu trách nhiệm hình sự. .......................................................................... 65
3.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về chủ thể
chịu trách nhiệm hình sự. ............................................................................. 67
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 71
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 74


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLHS

BLHS

CQĐT

Cơ quan điều tra

TA

Toà án

TAND

Toà án nhân dân

TNHS


Trách nhiệm hình sự

VKS

Viện kiểm sát

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Một trong những vấn đề quan trọng của luật hình sự là vấn đề chủ thể
chịu TNHS. Xác định đúng chủ thể chịu TNHS có ý nghĩa quan trọng không
chỉ trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động tố tụng, mà còn trong việc bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của ngƣời dân. Đây không chỉ là vấn đề luôn đòi hỏi
các cơ quan tƣ pháp có thẩm quyền phải giải quyết trong việc điều tra, xác
định tội phạm, xử lý ngƣời phạm tội mà việc giải quyết vấn đề này còn có ý
nghĩa to lớn về mặt lý luận và trong thực tiễn áp dụng Luật Hình sự, trong
việc phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm nói chung.
BLHS năm 1999, kế thừa và phát triển BLHS năm 1985, là bƣớc phát
triển mới trong quy định về chủ thể chịu TNHS trong luật hình sự nƣớc ta.
Nhiều quy định liên quan đến TNHS và chủ thể chịu TNHS đã đƣợc sửa đổi,
bổ sung cho phù hợp với thực tiễn, tạo điều kiện cho các cơ quan áp dụng
pháp luật đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm có hiệu quả. So với BLHS
năm 1985 thì BLHS năm 1999 có nhiều điểm mới trong quy định về chủ thể
chịu TNHS, đặc biệt thể hiện ở quy định về tuổi chịu TNHS.
Tuy nhiên, từ khi BLHS năm 1999 có hiệu lực đến nay vẫn còn nhiều

quan điểm khác nhau trong nhận thức, đánh giá cả về mặt lý luận và thực tiễn
áp dụng các quy định về chủ thể chịu TNHS. Mặt khác, bản thân các quy định
về vấn đề này trong BLHS năm 1999 đã bộc lộ những hạn chế, bất cập, đặc
biệt là so với yêu cầu đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm trong giai
đoạn hiện nay và việc áp dụng các quy định này cũng còn có những vƣớng
mắc nhất định. Các vấn đề nổi cộm đƣợc đặt ra nhƣ: Có nên quy định pháp
nhân là chủ thể chịu TNHS hay không? Có cần sửa đổi quy định về tuổi chịu

1


TNHS của ngƣời phạm tội theo hƣớng thấp hơn để phù hợp với trình độ dân
trí ngày càng phát triển cao hay không …?
Vì vậy, việc nghiên cứu một cách sâu sắc để làm sáng tỏ về mặt lý luận
các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về chủ thể chịu TNHS, đánh giá
thực tiễn áp dụng các quy định này, qua đó đƣa ra những đề xuất nhằm hoàn
thiện hơn nữa các quy định về chủ thể chịu TNHS là cần thiết và có ý nghĩa
quan trọng về mặt lý luận và thực tiễn. Từ những lý do trên, tác giả đã chọn
đề tài “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ thể chịu TNHS theo luật
hình sự Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Chủ thể chịu TNHS là một trong những vấn đề cơ bản quan trọng và
phức tạp của luật hình sự. Cho đến nay đã có những công trình nghiên cứu
của các tác giả có liên quan đến vấn đề này nhƣ:
- Ở khía cạnh nghiên cứu về chủ thể chịu TNHS theo hƣớng là chủ thể
của tội phạm nói chung có thể kể đến các công trình nghiên cứu nhƣ các bài
viết của tác giả Hồ Sỹ Sơn: “Chủ thể của tội phạm qua so sánh pháp luật hình
sự của một số nƣớc thuộc hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa”, Tạp chí Nhà
nƣớc và Pháp luật 2/2008 và “Chủ thể của tội phạm qua so sánh pháp luật một
số nƣớc trên thế giới”, Tạp chí Nhà nƣớc và Pháp luật số 3/2013.

- Nghiên cứu cụ thể về các dấu hiệu của chủ thể chịu TNHS nhƣ tuổi,
năng lực chịu TNHS có thể kể đến các công trình nhƣ: “Vấn đề năng lực
TNHS - từ lí thuyết đến sự thể hiện trong BLHS Việt Nam” của GS.TS
Nguyễn Ngọc Hòa, Tạp chí luật học số 4/2014; “Thực thi công ước quyền trẻ
em ở Việt Nam: Tuổi chịu trách nhiệm hình sự và chế tài đối với người chưa
thành niên phạm tội”của tác giả Phạm Thị Thanh Nga, Tạp chí Nghiên cứu
lập pháp, Số 8/2014. “Tuổi chịu trách nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt
Nam”, của tác giả Phạm Văn Báu, Tạp chí Luật học số 10/2014.; “Năng lực

2


trách nhiệm hình sự nhìn từ góc độ so sánh pháp luật một số quốc gia trên thế
giới”, của PGS.TS. Hồ Sĩ Sơn, Tạp chí Nhà nƣớc và pháp luật số 2/2011.
- Nghiên cứu về dạng chủ thể chịu TNHS là tổ chức hoặc pháp nhân
trong luật hình sự thì hiện nay có tƣơng đối nhiều công trình nghiên cứu về
vấn đề này nhƣ: “TNHS của pháp nhân: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”
của GS.TSKH. Lê Văn Cảm, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 3/2000; “Pháp
nhân có phải là chủ thể của tội phạm không”, của PGS.TS. Phạm Hồng Hải,
Tạp chí Luật học 6/1999; “Về vấn đề TNHS của pháp nhân”, của tác giả
Nguyễn Công Quý, Tạp chí Nhà nƣớc và Pháp luật 10/2010; “Các học thuyết
về cơ sở TNHS của pháp nhân” của PGS.TS. Trần Văn Độ, Tạp chí Nhà nƣớc
và pháp luật 6/2011; “Trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong pháp luật
hình sự” của PGS.TS. Trịnh Quốc Toản, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia,
năm 2011; “Sự cần thiết của việc quy định TNHS đối với pháp nhân ở Việt
Nam hiện nay” của PGS.TS. Cao Thị Oanh, Tạp chí luật học 12/2011;
“Trách nhiệm hình sự của chủ thể là tổ chức và vấn đề sửa đổi Bộ luật hình
sự Việt Nam” của GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa, Tạp chí Luật học, số 12/2014...
Các công trình nghiên cứu khoa học trên đã đƣa ra bàn luận và giải
quyết nhiều vấn đề bức xúc mà lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự

đặt ra. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu của các công trình này cũng cho thấy,
các quy định về chủ thể chịu TNHS mặc dù là một trong những nội dung cơ
bản, quan trọng nhất của luật hình sự nhƣng cũng là một trong những nội
dung còn nhiều vấn đề còn có nhiều quan điểm khác nhau của các nhà nghiên
cứu luật học. Cho đến nay vẫn chƣa có một công trình nào nghiên cứu một
cách toàn diện về chủ thể chịu TNHS trong luật hình sự Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và các quy định về chủ thể chịu
TNHS trong luật hình sự Việt Nam, đồng thời luận văn cũng nghiên cứu thực tiễn

3


áp dụng các quy định về chủ thể chịu TNHS trong luật hình sự Việt Nam và trên
cơ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện quy định hiện hành về chủ thể chịu TNHS
và các biện pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định này trong thực tiễn.
- Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu một số khía cạnh cơ bản nhất về mặt lý
luận và thực trạng quy định về chủ thể chịu TNHS theo quy định của BLHS
năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009. Ngoài ra, đề tài còn nghiên cứu thực
tiễn áp dụng quy định của BLHS hiện hành về chủ thể chịu TNHS thông qua
nghiên cứu các bản án hình sự đã xét xử.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là đề xuất giải pháp hoàn thiện quy
định của BLHS hiện hành về chủ thể chịu TNHS và nâng cao hiệu quả áp
dụng các quy định này.
- Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt đƣợc mục đích nghiên cứu nêu trên, các nhiệm vụ nghiên cứu

đặt ra là:
+ Phân tích, làm rõ những vấn đề chung về chủ thể chịu TNHS.
+ Phân tích, đánh giá các quy định của BLHS hiện hành về chủ thể
chịu TNHS.
+ Đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định của BLHS hiện hành về chủ
thể chịu TNHS.
+ Đề xuất kiến nghị hoàn thiện các quy định của BLHS hiện hành về
chủ thể chịu TNHS và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định này.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu:
Trên cơ sở phƣơng pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, luận văn sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể
nhƣ phƣơng pháp lịch sử, phân tích, tổng hợp và so sánh.

4


6. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn
Luận văn hoàn thành là công trình nghiên cứu có tính hệ thống và toàn
diện những vấn đề lý luận và thực tiễn của các quy định về chủ thể chịu
TNHS trong BLHS hiện hành, trên cơ sở đó đƣa ra giải pháp hoàn thiện các
quy định này và nâng cao hiệu quả áp dụng trong thực tiễn. Kết quả nghiên
cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong thực tiễn áp dụng của
các cán bộ thực tiễn, làm tài liệu tham khảo trong quá trình nghiên cứu của
các học gia, học viên và sinh viên chuyên ngành luật.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo luận văn
gồm 3 chƣơng
Chương 1: Những vấn đề chung về chủ thể chịu trách nhiệm hình sự
Chương 2: Thực tiễn quy định về chủ thể chịu trách nhiệm hình sự
trong Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành

Chương 3: Thực tiễn áp dụng quy định về chủ thể chịu trách nhiệm
hình sự và giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả áp dụng những
quy định này

5


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHỦ THỂ CHỊU TRÁCH NHIỆM
HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm chủ thể chịu trách nhiệm hình sự
Khái niệm chủ thể chịu TNHS là một khái niệm tƣơng đối phức tạp
trong luật hình sự. Khái niệm này đƣợc quan niệm xuất phát từ khái niệm chủ
thể của tội phạm. Trong khoa học pháp lý, khái niệm chủ thể của tội phạm đã
đƣợc nghiên cứu tƣơng đối đầy đủ ở các khía cạnh khác nhau. Chủ thể của tội
phạm đƣợc coi là một trong bốn yếu tố cấu thành tội phạm, là yếu tố không
thể thiếu trong việc xác định tội phạm.
Hiện nay trên thế giới quan niệm truyền thống và phổ biến cho rằng chủ
thể của tội phạm hay nói cách khác là chủ thể chịu TNHS là cá nhân con ngƣời
cụ thể. Tuy nhiên, bên cạnh quan điểm đó còn quan điểm khác khi cho rằng chủ
thể của tội phạm hoặc chủ thể chịu TNHS không những chỉ là cá nhân mà còn có
thể là tổ chức (có thể là pháp nhân hoặc loại hình tổ chức khác không phải là
pháp nhân). Quan điểm thứ hai này đang ngày càng đƣợc thừa nhận rộng rãi và
đƣợc thể hiện trong BLHS của nhiều quốc gia trên thế giới.
Quan niệm cho rằng chủ thể chịu TNHS chỉ có thể là các cá nhân, con
ngƣời cụ thể đã tồn tại rất lâu trong lịch sử của khoa học luật hình sự. Xuất
phát điểm của quan niệm này là việc coi tội phạm theo nghĩa truyền thống chỉ
có thể do con ngƣời cụ thể thực hiện. Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự trƣớc
tiên phải là chủ thể của tội phạm. Mà theo khoa học luật hình sự thì "Chủ thể
của tội phạm là ngƣời có năng lực TNHS, đạt độ tuổi luật định và đã thực

hiện hành vi phạm tội cụ thể” [11, tr122]. Nhƣ vậy, cũng nhƣ chủ thể của tội
phạm, một ngƣời trở thành chủ thể chịu trách nhiệm hình sự khi thỏa mãn
những điều kiện nhất định. Thông thƣờng, về cơ bản là các điều kiện nhƣ là

6


ngƣời thực hiện hành vi đƣợc luật hình sự quy định là tội phạm, có năng lực
TNHS và đạt độ tuổi chịu TNHS.
Năng lực trách nhiệm hình sự là một điều kiện của chủ thể chịu TNHS.
Ngƣời cụ thể có năng lực TNHS mới có thể là chủ thể của tội phạm và mới có
thể phải chịu TNHS. Năng lực TNHS là khả năng nhận thức (ý nghĩa xã hội
của hành vi) và khả năng điều khiển hành vi của cá nhân khi thực hiện hành
vi nguy hiểm cho xã hội. Đó là khả năng tâm lý của con ngƣời, không phụ
thuộc vào quy định của pháp luật.
Điều kiện thứ hai của chủ thể chịu TNHS là đạt độ tuổi chịu TNHS. Lý
luận về tuổi chịu TNHS dựa trên sự nhận thức rằng không phải tất cả mọi
ngƣời đƣợc sinh ra là đã trở thành ngƣời có đủ khả năng nhận thức và khả
năng điều khiển hành vi, tức là đã có năng lực TNHS. Một ngƣời từ khi đƣợc
sinh ra muốn có đủ khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi phải
trải qua một quá trình sinh sống nhất định phù hợp với quá trình trƣởng thành
và phát triển của trạng thái cơ thể cũng nhƣ trạng thái tâm lý. Có nghĩa là phải
trải qua những năm tháng nhất định và đạt độ tuổi nhất định thì con ngƣời
mới có đủ năng lực TNHS. Tuổi chịu TNHS đƣợc xác định bằng một mốc
thời gian nhất định, mà cá nhân đó đạt đƣợc.
Từ sự phân tích về các điều kiện của chủ thể chịu TNHS là cá nhân có
thể đƣa ra định nghĩa về chủ thể chịu trách nhiệm hình sự nhƣ sau: Chủ thể
chịu TNHS theo là người cụ thể phải chịu những hậu quả pháp lý bất lợi do đã
thực hiện hành vi phạm tội được quy định trong luật hình sự khi có năng lực
TNHS và đạt độ tuổi chịu TNHS. Diễn đạt một cách khác có thể quan niệm chủ

thể chịu TNHS là ngƣời cụ thể khi thỏa mãn các điều kiện nhất định.
Bên cạnh quan niệm truyền thống cho rằng chủ thể chịu TNHS là cá
nhân con ngƣời cụ thể là quan điểm mở rộng phạm vi chủ thể chịu TNHS khi
cho rằng chủ thể chịu TNHS không chỉ là cá nhân mà còn có thể là tổ chức.

7


Xuất phát điểm của quan niệm này là từ việc xác định tổ chức là một thực
thể độc lập, đƣợc thành lập bởi các cá nhân theo trình tự, thủ tục luật định, hoạt
động của tổ chức đƣợc thực hiện bởi bộ máy vận hành là sự tập hợp của nhiều
ngƣời, tổ chức chỉ theo đuổi những mục tiêu đặt ra trong văn kiện sáng lập ra nó.
Tổ chức hoàn toàn có ý riêng của mình, bởi vì nó sinh ra và tồn tại bằng sự gặp
gỡ với những ý chí cá nhân của các thành viên của mình. Những ngƣời theo
quan điểm đồng ý thiết lập trách nhiệm hình sự của tổ chức cho rằng pháp nhân
là một thực thể có thực (giống nhƣ thể nhân), có ý thức và có thể thực hiện hành
vi của mình; và khi thực hiện hành vi thì nó cũng sẽ có thể có lỗi.
Nhƣ vậy, tổ chức có thể tự quyết định một cách tự do và hoạt động theo
những mục tiêu cụ thể của mình và độc lập với những lợi ích của các cá nhân tạo
nên pháp nhân đó. Tổ chức đƣợc thành lập, hoạt động, tồn tại và phát triển bằng
sự gặp gỡ giữa các ý chí cá nhân của các thành viên của mình. Tổ chức có ý thức,
ý chí, mong muốn riêng của mình, đƣợc xử sự tự do và hƣởng quyền tự chủ của
chủ thể có thể so sánh với quyền tự chủ của cá nhân và vì vậy, có năng lực thực
hiện tội phạm một cách có lỗi và đƣơng nhiên có thể bị xử lý về hình sự. Trƣờng
hợp áp dụng hình phạt đối với tổ chức thì thay cho hình phạt tử hình hoặc các hình
phạt tƣớc hoặc hạn chế quyền tự do thân thể không thể áp dụng với tổ chức phạm
tội, những loại hình phạt khác đƣợc xây dựng trong luật hình sự tƣơng hợp hoàn
toàn với bản chất các tổ chức phạm tội với mục đích làm cho nó phải chịu hình
phạt về những gì tổ chức đã gây ra. Từ những lập luận trên, quan điểm ủng hộ tổ
chức có thể là chủ thể chịu TNHS đã và đang ngày càng phát triển ở các nƣớc trên

thế giới. Hiện nay trên thế giới, nhiều quốc gia đã quy định trong luật hình sự tổ
chức là chủ thể chịu TNHS.
Việc thừa nhận tổ chức cũng là chủ thể chịu TNHS luôn đƣợc gắn với
những điều kiện nhất định. Một tổ chức phải thỏa mãn các điều kiện nhất định
mới có thể trở thành chủ thể chịu TNHS. Thông thƣờng là các điều kiện sau:

8


Thứ nhất, tổ chức phải thuộc phạm vi tổ chức là chủ thể của TNHS;
Không phải tất cả các tổ chức đều có thể trở thành chủ thể chịu TNHS mà chỉ
phạm vi tổ chức nhất định, có những đặc điểm nhất định mới đƣợc thừa nhận
có thể là chủ thể chịu TNHS. Các quốc gia khác nhau thừa nhận phạm vi các
tổ chức khác nhau có thể là chủ thể chịu TNHS. Trong khi Trung quốc xác
định công ty, xí nghiệp, tổ chức, đoàn thể thuộc phạm vi tổ chức chịu TNHS
[8, Điều 30] thì một loạt các quốc gia khác lại xác định phạm vi tổ chức khác
trong đó có pháp nhân thuộc chủ thể chịu TNHS. Ví dụ, theo Pháp là các pháp
nhân (trừ Nhà nƣớc); theo Áo là pháp nhân, các công ty hợp danh, các hiệp
hội vì lợi ích kinh tế châu âu và theo Thụy Sĩ là pháp nhân theo luật tƣ, pháp
nhân theo luật công, các công ty, các doanh nghiệp tƣ nhân [33, tr82]
Thứ hai, tổ chức phải thuộc phạm vi chủ thể của các tội danh mà tổ
chức có thể phải chịu TNHS. Các quốc gia thừa nhận TNHS của tổ chức cũng
xác định phạm vi các tội danh khác nhau mà chủ thể phải chịu TNHS. Ví dụ
nhƣ Trung Quốc giới hạn tổ chức chỉ phải chịu TNHS về một số tội phạm
đƣợc xác định rõ trong từng điều luật. Trong khi nhiều quốc gia khác lại
không giới hạn mà xác định tổ chức có thể phải chịu TNHS về mọi tội phạm.
Thứ ba, tổ chức phải thỏa mãn các điều kiện chịu TNHS. Tổ chức phải
chịu TNHS về các tội phạm khi có đủ các điều kiện nhất định. Các điều kiện
này thƣờng là: Tội phạm đƣợc thực hiện nhân danh tổ chức và tội phạm đƣợc
thực hiện vì lợi ích của tổ chức.

Nhƣ vậy, tổ chức là chủ thể chịu TNHS đối với tội phạm đƣợc xác định
tổ chức là chủ thể của tội phạm và đƣợc thực hiện nhân danh tổ chức, vì lợi
ích của tổ chức.
Từ những phân tích trên có thể rút ra định nghĩa chung về chủ thể chịu
TNHS nhƣ sau: Chủ thể chịu TNHS gồm người có năng lực TNHS, đạt độ
tuổi chịu TNHS hoặc tổ chức khi thỏa mãn các điều kiện luật định thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội một cách có lỗi, bị luật hình sự cấm.

9


1.2. Lịch sử quy định về chủ thể chịu trách nhiệm hình sự trong luật
hình sự Việt Nam
1.2.1. Từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước khi Bộ luật hình
sự năm 1985 có hiệu lực
Sau Cách mạng tháng 8/1945, cùng với việc hình thành và phát triển
đất nƣớc, hệ thống pháp luật hình sự cũng đƣợc hình thành và trải qua quá
trình phát triển phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nƣớc,
đáp ứng yêu cầu thực tiễn cách mạng đặt ra trong từng giai đoạn lịch sử.
Nguồn luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1985 chịu ảnh hƣởng sâu
sắc bởi các điều kiện lịch sử của đất nƣớc trong giai đoạn này. Giai đoạn này
nƣớc ta chƣa có một đạo luật hình sự thống nhất, các quy phạm pháp luật hình
sự đƣợc quy định trong nhiều văn bản khác nhau nhƣng chƣa có văn bản nào
quy định về khái niệm TNHS hay chủ thể chịu TNHS. Trong những giai đoạn
này, vấn đề xác định chủ thể chịu TNHS đã đƣợc ghi nhận trong các văn bản
của Nhà nƣớc. Điều này tạo điều kiện thuận lợi trong việc quản lý, duy trì trật
tự xã hội, bảo vệ thành công của cuộc cách mạng cũng nhƣ bảo vệ chính
quyền nhân dân còn non trẻ.
Trong những ngày đầu mới thành lập, Nhà nƣớc Việt Nam dân chủ
Cộng hoà vừa phải đối phó với thù trong giặc ngoài, vừa phải từng bƣớc xây

dựng xã hội mới. Ngày 10/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 47SL cho phép áp dụng tạm thời các luật lệ hiện hành của thực dân Pháp nếu xét
thấy không trái với những mục tiêu cơ bản của Nhà nƣớc Việt Nam dân chủ
cộng hoà. Nhƣ vậy, giai đoạn này có đặc điểm là sự áp dụng pháp luật của đế
quốc và phong kiến theo tinh thần mới. Ở Bắc kỳ vẫn áp dụng luật phong kiến
là hình luật An Nam, ở Trung kỳ vẫn áp dụng Hoàng Việt hình luật, còn ở
Nam kỳ thì áp dụng Hình luật Pháp tu chính, các TA đã căn cứ vào chính sách
của Đảng và Chính phủ để xét xử. Việc áp dụng pháp luật của ba miền khác

10


nhau nên dẫn đến nhiều bất cập trong xử lý tội phạm. Chính vì vậy, ngày
30/6/1955, Bộ trƣởng Bộ tƣ pháp đã ban hành Thông tƣ số 19 yêu cầu Tòa án
không nên áp dụng luật lệ của đế quốc và phong kiến. Nhƣng phải đến năm
1959 thì Tòa án nhân dân tối cao mới ban hành đƣợc Chỉ thị số 772 về vấn đề
đình chỉ áp dụng pháp luật của đế quốc và phong kiến, từng bƣớc ban hành và
áp dụng văn bản pháp luật mới.
Trong quá trình đó, Nhà nƣớc ta đã ban hành một số văn bản pháp luật
hình sự nhƣ: Sắc lệnh 13/SL do Bộ trƣởng Bộ tƣ pháp ký ngày 14/1/1946 về
tổ chức và ngạch thẩm phán của nƣớc ta, Sắc lệnh số 223 ngày 27/1/1946 về
“Truy tố các tội hối lộ, phù lạm, biển thủ công quỹ”, Sắc lệnh số 163 ngày
14/4/1948 “Về trừng trị tội đánh bạc”, Sắc lệnh số 180 ngày 20/12/1950 “Về
trừng trị các hành vi xâm phạm hệ thống tiền tệ”, Sắc lệnh số 133 ngày
20/11/1953 “Về trừng trị những tội phạm đến an toàn nhà nƣớc, đối nội và đối
ngoại”... phục vụ cho việc quản lý và đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Ngoài ra, từ trƣớc những năm 1960 đến trƣớc khi ban hành BLHS năm
1985, Nhà nƣớc ta đã ban hành một số văn bản pháp luật hình sự nhằm đấu
tranh, trấn áp tội phạm. Ví dụ nhƣ Pháp lệnh ngày 30/7/1967 Về trừng trị các
tội phản cách mạng, Pháp lệnh ngày 20/5/1981 Về trừng trị tội hối lộ, Pháp
lệnh ngày 30/6/1982 về trừng trị các tội đầu cơ, làm hàng giả và kinh doanh

trái phép... Qua các kỳ hội nghị tổng kết hàng năm và qua các văn bản hƣớng
dẫn, Tòa án nhân dân tối cao đã hƣớng dẫn xác định độ tuổi của ngƣời phải
chịu TNHS nhƣ sau:
- Về nguyên tắc, từ 14 tuổi tròn trở lên coi là có TNHS;
- Nói chung đối với lứa tuổi từ 14 đến 16 thì chỉ nên truy tố, xét xử
trong những trƣờng hợp phạm các tội nghiêm trọng nhƣ giết ngƣời, cƣớp của,
hiếp dâm... Riêng hiếp dâm nói chung vẫn chủ yếu là giáo dục và cũng chỉ
nên truy tố, xét xử trong trƣờng hợp nghiêm trọng;

11


- Đối với lứa tuổi từ 16 đến 18, nếu hành vi phạm pháp có tính chất
tƣơng đối nghiêm trọng, nói chung cần xét xử, nhƣng so với ngƣời lớn, cần
xét xử nhẹ hơn [35, tr 13,14].
Nhƣ vậy, trong thời kỳ này một nội dung quan trọng của chủ thể chịu
TNHS là tuổi chịu TNHS chƣa đƣợc quy định chính thức trong một văn bản
luật hình sự mà đƣợc hƣớng dẫn xác định trong một văn bản hƣớng dẫn xét
xử của TANHTC. Tuy nhiên, các nội dung hƣớng dẫn này đã tạo nền móng
cho các quy định sau này về tuổi chịu TNHS trong BLHS năm 1985.
1.2.2. Từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến trước khi Bộ luật
hình sự năm 1999 có hiệu lực
BLHS năm 1985 đã kế thừa và phát triển những thành tựu của luật hình sự
nƣớc ta từ năm 1945 đến thời điểm ban hành, đây là sự tổng kết những kinh
nghiệm lập pháp, tổng kết những tri thức lý luận của khoa học luật hình sự, đồng
thời là sự tổng kết kinh nghiệm đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm ở nƣớc
ta trong nhiều năm qua. Trong suốt quá trình áp dụng, BLHS năm 1985 đã qua
bốn lần sửa đổi, bổ sung vào các năm 1989, 1991, 1992, 1997. Nhìn chung, BLHS
năm 1985 có sự xắp xếp các phần chung và phần các tội phạm một cách chặt chẽ,
logic. Nhiều khái niệm và chế định lần đầu tiên đƣợc quy định cụ thể trong BLHS,

trong đó có “Khái niệm tội phạm”; “khái niệm hình phạt”; “Cơ sở của TNHS”;
“Tình trạng không có năng lực TNHS”; “Tuổi chịu TNHS”...
Cơ sở của TNHS đƣợc quy định tại Điều 2 nhƣ sau: “Chỉ người nào
phạm một tội đã được Luật hình sự quy định mới phải chịu TNHS. Hình phạt
phải do TA quyết định”. Trách nhiệm phải chịu hậu quả pháp lý bất lợi của
ngƣời phạm tội có thể đƣợc thể hiện thông qua hình phạt do Tòa án tuyên.
Về độ tuổi chịu TNHS, Điều 58 quy định: “1- Người từ 14 tuổi trở lên
nhưng chưa đủ 16 tuổi phải TNHS về những tội phạm nghiêm trọng do cố ý.
2- Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu TNHS về mọi tội phạm”.

12


Về tội phạm nghiêm trọng, khoản 2 Điều 8 có quy định: “2- Tội phạm
nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của
khung hình phạt đối với tội ấy là trên năm năm tù, tù chung thân hoặc tử
hình. Những tội phạm khác là tội phạm ít nghiêm trọng”. Nhƣ vậy, BLHS
năm 1985 mới chỉ phân loại thành 2 loại tội phạm là tội phạm nghiêm trọng
và tội phạm ít nghiêm trọng.
Nhƣ vậy, BLHS năm 1985 đã xác định hai mức độ tuổi chịu TNHS là
ngƣời từ đủ 14 đến dƣới 16 tuổi phải chịu TNHS về những tội phạm nghiêm trọng
do cố ý, tức là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung
hình phạt đối với tội ấy là trên năm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình. Do đó, đối
với những trƣờng hợp phạm tội ít nghiêm trọng và hoặc tội nghiêm trọng do vô ý
thì không phải chịu TNHS. So sánh với BLHS hiện hành thấy rằng BLHS 1985
quy định tƣơng đối khác so với BLHS năm 1999 bởi lẽ, cách phân loại tội phạm
trong BLHS năm 1985 là chỉ phân loại thành hai loại tội phạm là ít nghiêm trọng
và nghiêm trọng, còn BLHS năm 1999 thì chia tội phạm thành bốn loại là ít
nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng.
Thứ hai, độ tuổi chịu TNHS đối với mọi loại tội phạm là từ đủ 16 tuổi

trở lên. Về cơ bản BLHS năm 1999 vẫn giữ nguyên quy định là ngƣời từ đủ
16 tuổi phải chịu TNHS đối với mọi tội phạm.
Về năng lực TNHS, BLHS năm 1985 chƣa có điều luật nào quy định rõ
vấn đề này mà chỉ có quy định về tình trạng không có năng lực TNHS tại Điều 12:
“1- Người thực hiện một hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang
mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc
khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu TNHS. Đối với
người này sẽ áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh.
2- Người phạm tội trong khi có năng lực TNHS, nhưng đã lâm vào tình
trạng nói ở khoản 1 Điều này trước khi bị kết án, thì cũng được áp dụng biện
pháp bắt buộc chữa bệnh. Sau khi khỏi bệnh người đó có thể phải chịu TNHS.

13


3- Người phạm tội do say rượu hoặc do dùng chất kích thích mạnh
khác thì không được miễn TNHS”.
Nhƣ vậy, BLHS năm 1985 cũng nhƣ BLHS năm 1999 chƣa có điều luật cụ
thể quy định về tình trạng có năng lực trách nhiệm hình sự mà chỉ quy định về tình
trạng không có năng lực TNHS trong các điều kiện của chủ thể chịu TNHS.
BLHS năm 1999 về cơ bản đã giữ nguyên quy định về tình trạng không có năng
lực TNHS trong Điều 12 BLHS năm 1985. Tuy có thay đổi một số câu chữ trong
điều luật nhƣng nội dung cơ bản vẫn đƣợc giữ nguyên. Theo Điều 12 BLHS năm
1985 thì ngƣời không có năng lực trách nhiệm hình sự khi thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội là ngƣời đang mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả
năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình. Điều này này có
nghĩa là về y học họ đang trong tình trạng mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm
mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi, còn về mặt tâm lý –
pháp lý họ bị mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình,
tức là họ không nhận thức đƣợc mặt thực tế và cả mặt pháp lý của hành vi do

mình thực hiện. Những trƣờng hợp này không phải chịu TNHS mà chỉ phải bị áp
dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh.
Nhƣ vậy, điều luật quy định tình trạng không có năng lực TNHS là tình
trạng mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi do đang mắc
bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác.
1.3. Quy định của Bộ luật hình sự một số nước về chủ thể chịu trách
nhiệm hình sự
1.3.1. Quy định về chủ thể chịu trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự
Liên bang Nga
Theo quy định tại Điều 14 BLHS Liên bang Nga thì tội phạm là hành vi
có lỗi gây nguy hiểm cho xã hội, bị cấm bởi BLHS này và phải chịu hình
phạt. BLHS của Liên bang Nga cũng phân loại tội phạm thành tội phạm ít

14


nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm
đặc biệt nghiêm trọng.
Về chủ thể chịu TNHS, BLHS Liên bang Nga dành hẳn một chƣơng
(Chƣơng 4) quy định về những ngƣời phải chịu TNHS. Điều 19 của chƣơng
này quy định chỉ cá nhân có năng lực TNHS và đạt độ tuổi theo quy định thì
mới phải chịu TNHS. BLHS Việt Nam và BLHS Liên bang Nga có chung
quy định về chủ thể chịu TNHS chỉ là cá nhân ngƣời phạm tội. Các điều kiện
của chủ thể chịu TNHS theo BLHS Liên bang Nga cũng tƣơng tự nhƣ quy
định trong BLHS Việt Nam ở chỗ, chủ thể chịu TNHS phải đạt đủ hai điều
kiện về năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS.
Về năng lực TNHS: Theo quy định tại Điều 21 BLHS Liên bang Nga
thì một ngƣời không có năng lực TNHS vào đúng thời điểm thực hiện tội
phạm thì không phải chịu TNHS. Để không phải chịu TNHS thì ngƣời đó
phải không thể nhận thức đƣợc tính chất thực tế và mức độ nguy hiểm do

hành vi của mình gây ra hoặc không thể điều khiển hành vi của mình do tâm
thần kinh niên, rối loạn thần kinh tạm thời, thiểu năng hoặc mắc một bệnh
khác về thần kinh. Mặc dù ngƣời không có năng lực TNHS không phải chịu
TNHS khi thực hiện hành vi phạm tội, nhƣng ngƣời đó vẫn phải chịu áp dụng
các biện pháp y tế bắt buộc quy định trong Bộ luật này và do Toà án chỉ định.
BLHS Liên bang Nga cũng quy định các trƣờng hợp ngƣời có năng lực
TNHS bị rối loạn thần kinh và ngƣời có năng lực TNHS đang trong tình trạng
say đều phải chịu TNHS khi thực hiện hành vi phạm tội.
Về độ tuổi: Ngƣời phạm tội phải là ngƣời đạt đến độ tuổi nhất định thì
mới phải chịu TNHS. Cụ thể đƣợc quy định tại Điều 20 nhƣ sau:
“1. Ngƣời đủ 16 tuổi trƣớc thời điểm thực hiện tội phạm phải chịu trách
nhiệm hình sự.

15


2. Những ngƣời đủ 14 tuổi trƣớc thời điểm thực hiện tội phạm phải
chịu trách nhiệm hình sự do thực hiện các tội sau: Tội giết ngƣời (Điều 105),
tội cố ý gây thƣơng tích rất nặng cho sức khỏe ngƣời khác (Điều 111); .. tội
cƣỡng dâm (Điều 132); .. tội cƣớp (Điều 161), tội cƣớp giật (Điều 162); .. tội
khủng bố (Điều 205) .. tội chiếm đoạt hoặc cƣỡng đoạt các chất ma tuý và
hƣớng thần (Điều 229) ...”[5, Điều 20]
Ngoài ra, BLHS Liên bang Nga cũng còn quy định trƣờng hợp ngƣời
chƣa thành niên trong độ tuổi nêu trên nhƣng do thần kinh chậm phát triển mà
không liên quan tới bệnh tâm thần vào đúng thời điểm thực hiện tội phạm
không thể nhận thức đầy đủ tính chất thực tế và mức độ nguy hiểm do hành vi
gây ra hoặc không điều khiển đƣợc hành vi của mình thì không phải chịu
TNHS (Khoản 3 Điều 20).
Nhƣ vậy, luật hình sự của Liên bang Nga có những quy định cụ thể về
điều kiện chung của chủ thể chịu TNHS và các trƣờng hợp không phải chịu

TNHS do không có năng lực TNHS và do thần kinh chậm phát triển tuy đạt
độ tuổi luật định khi thực hiện hành vi phạm tội. Về mặt kỹ thuật lập pháp và
về nội dung quy định BLHS Việt Nam có những điểm tƣơng đồng so với
BLHS Liên bang Nga. Tuy nhiên cũng có một số vấn đề khác biệt nhƣ: BLHS
Nga đã có xác định cụ thể những tội danh mà ngƣời từ đủ 14 đến dƣới 16 phải
chịu TNHS trong điều 20 của BLHS. Mà không giống nhƣ BLHS Việt Nam
xác định TNHS của những ngƣời từ đủ 14 tuổi đến dƣới 16 tuổi theo loại tội
phạm và theo lỗi của ngƣời phạm tội. Cách xác định của mỗi quốc gia cũng
có những ƣu điểm và nhƣợc điểm nhất định.
1.3.2. Quy định về chủ thể chịu trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa
Bộ luật hình sự Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là một trong số BLHS
có quy định về TNHS của tổ chức.

16


Theo quy định của BLHS Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thì cơ sở của
TNHS đƣợc quy định tại Điều 3 nhƣ sau: “Chỉ những hành vi nào mà pháp
luật quy định rõ là hành vi phạm tội thì mới bị kết án và xử phạt; còn những
hành vi nào mà pháp luật không quy định rõ là hành vi phạm tội thì không bị
kết án hoặc xử phạt” [8, Điều 3]. Nhƣ vậy, cũng nhƣ BLHS Việt Nam cơ sở
của TNHS chính là việc thực hiện hành vi mà pháp luật quy định là tội phạm.
Chủ thể chịu TNHS theo BLHS Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đƣợc
chia thành hai loại chủ thể: Chủ thể chịu TNHS là cá nhân và chủ thể chịu
TNHS là tổ chức.
Về chủ thể chịu TNHS là cá nhân, về cơ bản BLHS Cộng hòa Nhân
dân Trung Hoa BLHS Việt Nam đều quy định hai điều kiện để một ngƣời
phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội đã thực hiện là có năng lực
TNHS và đạt độ tuổi luật định.

Tuổi chịu trách nhiệm hình sự đƣợc quy định tại Điều 17 BLHS Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa nhƣ sau: “Người đủ 16 tuổi phạm tội phải chịu trách
nhiệm hình sự.
Người từ đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 16 tuổi thì phải chịu TNHS về tội
giết người hoặc cố ý gây thương tích dẫn đến thương tích nặng hoặc chết
người, hiếp dâm, cướp giật, mua bán chất ma túy, đốt nhà, đặt bom, đầu
độc.”[8, Điều 17]
Về năng lực trách nhiệm hình sự: Điều 18 BLHS Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa quy định nhƣ sau:
“Người mắc bệnh tâm thần gây hậu quả nguy hiểm trong khi mất khả
năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, sau khi được xác
nhận thông qua các thủ tục pháp lý thì không phải chịu trách nhiệm hình sự.
Nhưng người nhà hoặc người bảo lãnh có nghĩa vụ phải tăng cường giám sát

17


nghiêm ngặt và chữa bệnh cho họ. Trong trường hợp cần thiết chính quyền có
thể cưỡng chế chữa bệnh.
Người mắc bệnh tâm thần gián đoạn mà phạm tội khi thần kinh đang
bình thường thì phải chịu trách nhiệm hình sự.
Người mắc bệnh tâm thần phạm tội vào thời điểm chưa hoàn toàn mất
hết khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi của mình phải chịu trách
nhiệm hình sự nhưng có thể được giảm nhẹ hình phạt.
Người phạm tội do say rượu phải chịu trách nhiệm hình sự.”
Nhƣ vậy, cũng tƣơng tự nhƣ BLHS Việt Nam, thì BLHS Cộng hòa
Nhân dân Trung Hoa cũng xác định ngƣời gây hậu quả nguy hiểm trong tình
trạng mắc bệnh tâm thần mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển
hành vi của mình thì không phải chịu TNHS và những trƣờng hợp này nếu
cần thiết có thể bắt buộc chữa bệnh.

Về chủ thể chịu TNHS là tổ chức thì Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là
một trong số các quốc gia có quy định về TNHS của tổ chức. Theo Điều 30
BLHS Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thì: “Công ty, xí nghiệp, cơ quan, tổ
chức, đoàn thể thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, pháp luật coi là đơn
vị phạm tội và phải chịu trách nhiệm hình sự” [8, Điều 18].
Nhƣ vậy, chủ thể là tổ chức phải chịu TNHS không chỉ dừng lại ở các
chủ thể là các tổ chức kinh tế nhƣ một số quốc gia khác mà BLHS Cộng hòa
Nhân dân Trung Hoa xác định cả những cơ quan, tổ chức, đoàn thể cũng có
thể phải chịu TNHS nếu thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Cách xác
định phạm vi nhƣ vậy là tƣơng đối rộng bởi lẽ phần đông các quốc gia khác
đều loại trừ cơ quan, tổ chức nhà nƣớc ra khỏi phạm vi tổ chức phải chịu
TNHS [36, tr20]. Cũng theo Điều 30 BLHS của nƣớc Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa thì các tổ chức nêu trên chỉ phải chịu TNHS về những tội phạm
đƣợc xác định rõ trong từng điều luật. Các tội phạm này chủ yếu tập trung vào

18


các tội phạm của chƣơng III BLHS “Các tội xâm phạm trật tự kinh tế thị
trƣờng xã hội chủ nghĩa”
1.3.3. Quy định về chủ thể chịu trách nhiệm hình sự trong pháp luật hình
sự Nhật Bản
BLHS của Nhật Bản không quy định rõ về TNHS hay chủ thể chịu
TNHS trong một điều luật cụ thể. Nhƣng có quy định về trƣờng hợp mất năng
lực nhận thức và giảm năng lực nhận thức tại Điều 39, quy định về độ tuổi
chịu TNHS tại Điều 41.
Quy định về mất năng lực nhận thức và giảm năng lực nhận thức trong
BLHS của Nhật Bản có sự khác biệt so với quy định về trƣờng hợp mất khả
năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi trong BLHS Việt Nam. Điều
39 BLHS Nhật Bản quy định “1. Không xử phạt hành vi của người mất năng

lực nhận thức. 2. Giảm nhẹ hình phạt đối với hành vi của người giảm năng
lực nhận thức”. Nhƣ vậy, điều luật quy định về trƣờng hợp giảm nhẹ hình
phạt, cùng với đó là giảm nhẹ TNHS cho ngƣời thực hiện hành vi phạm tội.
Cũng tƣơng tự nhƣ BLHS của Việt Nam và của một số quốc gia khác, BLHS
Nhật Bản không xác định rõ ràng thế nào là tình trạng có năng lực trách
nhiệm hình sự mà chỉ xác định không xử phạt đối với ngƣời mất năng lực
nhận thức, tức không đặt ra vấn đề TNHS đối với những ngƣời bị mất năng
lực nhận thức. Tuy nhiên, BLHS Nhật Bản lại không có quy định cụ thể thế
nào là ngƣời bị mất năng lực nhận thức nhƣ trong BLHS của Việt Nam và
Liên bang Nga.
Về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, Điều 41 BLHS Nhật bản quy
định: “Không xử phạt hành vi của người chưa đủ 14 tuổi”. Nhƣ vậy, tuổi chịu
TNHS theo quy định của BLHS Nhật Bản là từ 14 tuổi trở lên. Cũng tƣơng tự
nhƣ BLHS một số quốc gia khác trên thế giới, BLHS chỉ xác định một mức

19


×