Tải bản đầy đủ (.doc) (56 trang)

THI PHÁP HỌC HIỆN ĐẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (383.18 KB, 56 trang )

THI PHÁP HỌC HIỆN ĐẠI
(
Nguồn:
Giang
Nam
hệ: - Posted by: giangnamlangtu on: 02.08.2011



lãng

tử.

Liên

In: Giáo trình văn học
Comment!

THI PHÁP HỌC HIỆN ĐẠI
Phùng Hoài Ngọc- Đề cương bài giảng
Lưu hành nội bộ
ĐẠI HỌC AN GIANG 2006
——————————————
GS Trần Đình Sử ngồi
hàng đầu, thứ 3 từ trái sang,
đeo kính, tóc bạc.
Phùng Hoài Ngọc hàng sau
cùng, góc trái, đứng ngay
dưới ngôi sao vàng.
LỜI NÓI ĐẦU
“Thi pháp học hiện đại” là bộ môn


nghiên cứu văn học mới được xây
dựng tương đối hoàn chỉnh ở thế kỉ XX. Đây là hướng nghiên cứu mới rất cần thiết để nâng cao năng
lực chiếm lĩnh các giá trị văn học cho người đọc, nhất là giáo viên văn học và học sinh.
Nghiên cứu lí luận phê bình văn học là lĩnh vực phức tạp khó khăn, ít khi đạt được sự nhất trí cao.
Công việc dạy văn học văn cũng có tình trạng tương tự. Hy vọng bộ môn thi pháp hoc hiện đại với sức
mạnh khoa học của nó sẽ góp phần giải quyết được mâu thuẫn nói trên.
Trong chuyên đề này, phần lý thuyết được rút gọn, tăng cường phân tích tác phẩm văn học có trong
chương trình phổ thông và một số tác phẩm quen thuộc khác. Nó chỉ gợi ý, góp phần mở rộng chân
trời cảm thụ tác phẩm, chiếm lĩnh đặc trưng bản chất nghệ thuật, giúp sinh viên nâng cao tiềm lực, trau
dồi cản nhận văn học. Người đọc chiếm lĩnh tác phẩm bằng cảm nhận có ý thức, có lí chứ không phải
tuỳ hứng tuỳ tiện. Thi pháp học hiện đại cố gắng giúp người đọc văn chương thấy ngay những “hướng
tiếp cận ” đơn giản để sau đó cảm nhận, tinh tế hơn, sâu sắc hơn.
Cấu trúc tài liệu
1


MỞ ĐẦU: THI PHÁP VÀ THI PHÁP HỌC
1. Khái niệm thi pháp và thi pháp học
2. Ba đặc điểm của tác phẩm văn học
3. Bốn khái niệm cơ bản của thi pháp học
TÁM KIỂU THI PHÁP CƠ BẢN TRONG SÁNG TẠO VĂN HỌC
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.


Thi pháp nhân vật
Thi pháp không gian nghệ thuật
Thi pháp thời gian nghệ thuật
Thi pháp chi tiết nghệ thuật
Thi pháp cốt truyện
Thi pháp kết cấu
Thi pháp lời văn nghệ thuật
Thi pháp hình tượng tác giả

Kết luận
Thực hành- luyện tập
Biên giả
Đại học An Giang 7.2006
PHẦN MỞ ĐẦU
THI PHÁP VÀ THI PHÁP HỌC
I. Dẫn nhập
Cho đến nay từ “thi pháp” đã khá quen thuộc với những người học tập nghiên cứu hoặc quan tâm đến
văn học. Trên sách báo văn nghệ, người ta nhắc đến nhiều thi pháp tác phẩm, thi pháp tác giả, thi pháp
thể loại, thi pháp thời kì…
Thi pháp là gì ?
Có nhiều cách hiểu khác nhau. Chung quy có hai cách:
Một là: coi thi pháp là nguyên tắc, biện pháp chung tạo ra tác phẩm nghệ thuật.
Thông thường gọi là “phương pháp làm thơ, làm văn”. Lí thuyết mang tính cổ điển, được lưu truyền
nhằm bồi dưỡng nhà văn .
2


Hai là: hiểu thi pháp là nguyên tắc, biện pháp sáng tạo cụ thể, tạo thành đặc sắc nghệ thuật của một tác
giả, tác phẩm, trào lưu, thể loại.v.v..
Cách thứ 1 gần với mĩ học, lý thuyết văn học, cách thứ 2 gần với phê bình thưởng thức tiếp nhận

những hiện tượng văn học nghệ thuật.
Nghiên cứu thi pháp gọi là thi pháp học.
Hai kiểu thi pháp học nói trên đều có mục đích khám phá nguyên tắc phổ biến hoặc cụ thể lịch sử đã
tạo ra nghệ thuật. Tóm lại: Thi pháp học hiện đại là môn chuyên nghiên cứu các hệ thống nghệ thuật
cụ thể. Thi pháp học là một khoa học ứng dụng trong văn học, gần gũi với phân tích phê bình và
nghiên cứu văn học.
Thi pháp học gần gũi với lí luận văn học nhưng vẫn khác, thử so sánh:




Lí luận văn học thiên về nghiên cứu các quy luật chung của hiện tượng văn học. còn thi pháp
học thiên về nghiên cứu các tác phẩm, thể loại, tác giả, phong cách, trào lưu, ngôn ngữ, nguyên
tắc đặc thù tạo thành hiện tượng văn học cụ thể mà thôi.
Thi pháp học gần gũi với phê bình văn học nhưng cũng khác:

Phê bình văn học có thể đi từ những góc độ khác nhau mà phát hiện khám phá nội dung và đánh
giá chúng. Còn thi pháp học thiên về phát hiện, khám phá các quy luật hình thức nghệ thuật.
Nhìn chung, thi pháp học là một bộ phận chuyên biệt của NGHIÊN CỨU VĂN HỌC, chuyện nghiên
cứu tính đặc thù và nguyên tắc nghệ thụât của văn học.
Những đặc tính của thi pháp học nói trên bắt đầu từ thời cổ đại Hy Lạp, qua phương Tây đến Nga rồi
đến Việt Nam. Viện sĩ Khravchenko (Nga) phân loại :
+Thi pháp học lí thuyết cố gắng nghiên cứu cấu trúc, hình thức của tác phẩm văn học.
+Thi pháp học lịch sử nghiên cứu sự tiến hoá của phương thức phương tiện chiếm lĩnh thế giới bằng
hình tượng và nghiên cứu sự hoạt động của chức năng thẩm mĩ của chúng và số phận lịch sử của các
khám phá nghệ thuật.
II. THI PHÁP HỌC TỪ CỔ ĐIỂN ĐẾN HIỆN ĐẠI
Ban đầu (thời cổ Hi Lạp), người ta nghiên cứu thi pháp nhằm mục đích tổng kết kinh nghiệm sáng tác,
truyền dạy các phép tắc làm văn làm thơ, dành cho nhà văn. (Gọi là thi pháp học cổ điển, thuộc phạm
vì thi pháp học lí thuyết ).

Về sau, thi pháp học chuyển sang nghiên cứu cách đọc, cách khám phá tác phẩm nhằm phục vụ người
đọc văn chương, giúp họ chiếm lĩnh giá trị nghệ thuật một cách khoa học. (Gọi là thi pháp học hiện đạ,
thuộc phạm vi thi pháp học lịch sử ).
Định nghĩa về thi pháp và thi pháp học hiện đại
3


“Thi pháp là một hệ thống các phương tiện và phương thức thể hiện cuộc sống bằng nghệ thuật, khám
phá cuộc sống bằng hình tượng”.
Nói cách khác, thi pháp là ý thức nhà văn khi sáng tạo ra hình thức nghệ thuật. Hình thức nghệ thuật
có hai mặt:
Mặt cụ thể, cảm tính (chất liệu tác phẩm, không gian, thời gian, chi tiết, tình tiết, nhân vật, sự
kiện, mâu thuẫn, xung đột …)
-

Mặt quan niệm (lí lẽ, nhận thức, triết lí, tư tưởng, tình cảm…)

Thi pháp học là công việc tìm ra cái hình thức mang quan niệm, tức là cái phương thức tư duy nghệ
thuật của nhà văn nghệ sĩ đã ngưng kết thành cái hình thức nghệ thuật của tác phẩm văn nghệ. Nói
đơn giản : Thi pháp học nghiên cứu cái thi pháp
Thi pháp của Aristote xuất hiện cách đây hơn hai ngàn năm là điển hình của loại “thi pháp học sáng
tác”. Ông coi sáng tác là một thứ kĩ thuật và ông hy vọng cuốn sách “Poetika” của ông là cuốn cẩm
nang cho những ai muốn sáng tác bi kịch… Ông viết: “nhiệm vụ của nhà thơ không phải là tả những
sự việc đã xảy ra mà là miêu tả những việc có thể xảy ra… Cũng như hoạ sĩ, nhà thơ là một người mô
phỏng”.
Sau Aristote, nhà thơ Horace viết cuốn “Nghệ thuật thơ” cũng dạy cách sáng tác thơ. Ông khuyên “khi
miêu tả đề tài, tốt nhất là hãy mượn của sử thi Illiade”.
Nhà phê bình Boileau (Pháp thế kỉ XVII) trong cuốn “Bàn về nghệ thuật thơ” đã viết: “Anh phải yêu lí
tính, phải làm sao cho mọi sáng tác của anh toả ra ánh sáng giá trị của lí tính”.
Lessing nhà văn Ánh sáng Đức trong cuốn “Laoken” cũng bỏ công đi tìm tòi quy luật sáng tác.

Lưu Hiệp nhà phê bình văn học Trung Quốc thời Nam Bắc triều viết cuốn “Văn tâm điêu long” đã đúc
rút ra những quy tắc sáng tác. Hàng trăm cuốn “thi thoại” (nói chuyện làm thơ) từ đời Tống đến đời
Thanh cũng thiên về tìm tòi quy tắc sáng tác. Nghiêm Vũ trong cuốn “Thương lang thi thoại” đã dạy :
“Kẻ học làm thơ phải lấy kiến thức làm chủ, vào phải chính, lập chí phải cao, lấy Hán, Nguỵ, Tấn và
Thịnh Đường làm thầy”. Viên Mai trong cuốn “Tuỳ viên thi thoại” nhắc nhở: “Thơ có cành mà không
có hoa là cành củi khô, có thịt mà không có xương là loài sâu bọ, có người mà không có cái “tôi” là bù
nhìn, có thẳng mà không có cong là cái ống cất rượu”.
Việt Nam cũng có những nhà văn chú ý bàn chuyện sáng tác, tiêu biểu như Chế Lan Viên bàn việc
thơ, Nam Cao bàn chuyện làm văn. . . Chế Lan Viên trong bài thơ “Nghĩ về nghề, nghĩ về thơ, nghĩ…”
đã tâm đắc viết:
“Hình thức cũng là vũ khí
Săc đẹp câu thơ cũng phải đấu tranh cho chân lí
Anh nghe cái mặn của đời đang độ kế tinh
4


Nó chưa thành hình, anh làm nó thành hình
Chưa thành hạt, anh làm cho nó thành hạt
Rồi trả tận tay người cùng với máu anh.”
Nhà thơ Nguyễn Đình Thi viết: “Đụng chạm với hành động hàng ngày, tâm hồn tự nảy lên bao nhiêu
hình ảnh như những tia lửa loé lên… Người làm thơ lượm những tia lửa ấy kết nên một bó sáng – đó
là hình ảnh thơ” (Mấy vấn đề văn học).
Nhà văn Nam Cao tâm sự trong truyện ngắn “Đời thừa”: “Một tác phẩm thật giá trị…phải chứa đựng
được một cái gì lớn lao mạnh mẽ, vừa đau đớn vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự
công bình…Nó làm cho người gần người hơn”.
Do nối tiếp truyền thống thi học cổ điển, bộ môn lí luận văn học ở nước ta trong mấy chục năm qua lại
càng đi sâu vào lĩnh vực lí thuyết sáng tác. Chẳng hạn: họ bàn về cách chọn đề tài, dùng nguyên mẫu,
học tập ngôn ngữ nhân dân, chọn chi tiết, phương pháp điển hình hoá, phương pháp sáng tác,…với
những lời khuyến cáo, dặn dò, yêu cầu người sáng tác “nên, hãy, cần phải” .v.v..
Văn học theo nghĩa rộng rãi đầy đủ không phải chỉ sáng tác. Còn tiếp nhận, thưởng thức, phê bình nữa

mới đủ nội hàm “lí luận về văn học” hoặc “lí thuyết về đời sống văn học”.
Khác với thi pháp học truyền thống, thi pháp học hiện đại phát triển về phiá sự tiếp nhận văn học. Tiếp
nhận gắn liền với sự thức tỉnh của ý thức người đọc. Thi pháp học hiện đại có thể được gọi là “thi học
tiếp nhận”, thực ra đã manh nha từ di sản thi học Ấn Độ, Trung Hoa, Hi Lạp. Cả phương Đông và
phương Tây đều có truyền thống chú giải, cắt nghĩa tác phẩm ngữ văn tuy còn chưa đến mức độ thi
pháp nghệ thuật. Đời nhà Minh, ý thức “đọc” được đẩy mạnh với Kim Thánh Thán và Mao Tôn
Cương khi họ phê bình tiểu thuyết, kịch và thơ. Đời Thanh có nhiều công trình thi học nghiên cứu
thường thức thơ Đỗ Phủ…Ở phương Tây, thi pháp đọc được chú trọng khi giải thích tác phẩm của
Shakespeare (sau trở thành khoa Shakespeare học). Thời hiện đại Trung Quốc hình thành Hồng lâu
mộng học. Ở Nga ngày nay có môn Sholokhov học. Đây là lúc thi học đã hoàn chỉnh hơn trước rất
nhiều.
Tuy vậy phải đến nửa sau thế kỉ XX vấn đề đọc tác phẩm mới dần dần trở thành một khoa học. Ngày
xưa dẫu sao cách cảm nhận, tiếp nhận vẫn nặng về chủ quan, cảm tính ấn tượng hoặc ngược lại theo
quan điểm giáo điều, đạo đức, chính trị…, cách đây chưa lâu người ta còn tiếp nhận theo lối khách
quan xã hội học. Nghĩa là đi từ bên ngoài, đi từ hiện thực hoặc ý muốn chủ quan tìm cách thâm nhập
và đánh giá tác phẩm và tác giả.
Thi pháp học hiện đại (tiếp nhận, cảm nhận) bắt đầu sôi sục lên từ trường phái “Phê bình mới”
trong văn học Mỹ. Khởi đầu, trường phái này tỏ ra phản ứng với:
-

Lối phê bình ấn tượng chủ nghĩa (chỉ chú ý tới ấn tượng chủ quan gợi lên từ tác phẩm)

-

Lối phê bình tâm lí chỉ chú ý tiểu sử tác giả
5


-


Lối phê bình lịch sử – xã hội chỉ chú ý ảnh hưởng của hoàn cảnh lịch sử -xã hội.

Cả ba lối trên đều không chú ý thích đáng tới yếu tố sáng tạo nghệ thuật của tác phẩm văn học. “Phê
bình mới” yêu cầu xem tác phẩm nghệ thuật như một hiện tượng nghệ thuật. Các nhà phê bình Mỹ có
những quan niệm khác nhau về tác phẩm nghệ thuật:
-

Tác phẩm văn học là một biểu hiện (Spingard)

-

Tác phẩm là một cấu trúc ngôn ngữ (Hium)

-

Tác phẩm là một cảm quan toàn vẹn về thế giới (Eliot)

-

Tác phẩm là một thế giới độc lập, tự trị (Richard, Empson, Brooks, Waren)

Tóm lại, “Phê bình mới” Mỹ đã khắc phục quan niệm nhị phân hình thức và nội dung. Họ khẳng định:
hình thức tức là nội dung và cũng là biểu hiện.
Thi pháp học hiện đại Pháp lại phát triển trên cơ sở “chủ nghĩa cấu trúc” và “kí hiệu học”. Họ coi cách
viết là lập mã, cái nghệ thuật là cái có giá trị nhất.
Thi học Anh có Roman Jacobson duy trì quan niệm coi nghệ thuật là thủ pháp, ông nghiên cứu chức
năng thơ ca trên lập trường ngôn ngữ học.
Thi pháp học Nga những năm đầu thế kỉ cũng trỗi dậy như ở Anh, Mỹ. Họ kiên quyết đòi hỏi phải coi
tác phẩm văn học như một hiện tượng nghệ thuật (Girmuaski). Còn A.Veselovski xây dựng “Thi pháp
học lịch sử” nhằm nghiên cứu sự vận động của nội dung văn học và bản thân hình thức văn học.

Hình thức văn học là hình thức chiếm lĩnh đời sống, nghĩa là nó bày tỏ cách nhìn, cách cảm nhận đời
sống của nhà văn. Nhà văn sáng tạo hình tượng là để nhìn tận mắt mọi bề sâu của đời sống, để cảm, để
hiểu cho rõ hết các ý nghĩa, giá trị của nó. Lịch sử văn học chính là lịch sử tiến hoá của hình thức cảm
nhận và biểu hiện đó. Nhà nghiên cứu Bakhtin (Nga) trong công trình “Những vần đề thi pháp
Dostoievski” đã viết: “Không hiểu đúng hình thức mới của cái nhìn thì không thể hiểu đúng những
điều nhận thấy ở cuộc sống”. Ở nước Nga đã có hàng chục công trình lớn về thi pháp.
Thi pháp học đang hướng tới bạn đọc. Ngày nay nhu cầu tiếp nhận văn học hiện đại, văn học quá khứ
của dân tộc và nhân loại ngày càng trở nên bức thiết. Người đọc cần phải có “chìa khoá” để mở ra tất
cả kho tàng văn học đó. Mặt khác, văn học hiện đại theo xu hướng cá tính hoá ngày càng mạnh, văn
học ít khi lặp lại mà thường nảy sinh nhiều cái mới.
Riêng trong phạm vi nhà trường, một thời gian dài bộ môn lí luận văn học vốn là sản phẩm của “thi
pháp học cổ điển” tức là “thi pháp học sáng tác” đã từng đòi hỏi học sinh xem tác phẩm dưới con mắt
nhà sáng tác. Nhưng nhu cầu về văn học chủ yếu lại là nhu cầu tiếp nhận văn học. Nhà giáo dạy văn
cần có ý thức sử dụng Thi pháp học tiếp nhận – cảm nhận (hiện đại) để hướng dẫn học sinh tiếp nhận
văn học một cách khoa học.
III – BA ĐẶC ĐIỂM CỦA HÌNH THỨC NGHỆ THUẬT
6


– Tính hệ thống
– Tính quan niệm
– Tính tinh thần
1. Hình thức nghệ thuật có tính hệ thống
Nghiên cứu văn học lâu nay ít quan tâm đến tính hệ thống mà chỉ chú ý khai thác các bộ phận riêng lẻ
rời rạc tuỳ hứng nên dẫn đến chủ quan, phiến diện và sai lầm.
Theo GS Trần Đình Sử nghiên cứu thi pháp Tryện Kiều
khi bình giảng câu thơ
“Sẵn thây vô chủ bên sông/đem vào để đó lộn sòng ai hay” (Truyện Kiều)
có nhà nghiên cứu cho rằng câu thơ đã phản ánh thời kì loạn lạc, nơi đâu cũng có (sẵn) xác chết. Khi
chúng ta tìm hiểu tất cả những chữ “sẵn” đã dùng vài lần trong Truyện Kiều thì thấy :

-

Sẵn tay khăn gấm quạt quỳ/ Với cành thoa ấy thì đổi trao (Kiều và Kim Trọng)

-

Sẵn dao tay áo tức thì giở ra (Kiều phản kháng Tú bà)

-

Phật tiền sẵn có mọi đồ kim ngân (Quan Âm các trong vườn nhà Hoạn Thư)

Dưới đèn sẵn bức tiên hoa/ Một thiên tuyệt bút gọi là để sau (Trên sông Tiền Đường, Kiều viết
thư tuyệt mệnh trước khi nhảy xuống sông)
Ta nhận thấy chữ “sẵn” trong tất cả các trường hợp trên không có nghĩa là “nhiều”. Đó chỉ là lời
thuật chuyện vắn tắt, tránh rườm rà, cốt sao cho sự kiện đi đúng hướng đã định, khỏi tản mạn vì những
chi tiết không cần thiết, đặc biệt vì Truyện Kiều là truyện bằng thơ cần ngắn gọn. Như vậy chữ “sẵn”
đã lặp đi lặp lại nhiều lần cùng một nghĩa – tức là đã tạo ra một hệ thống hình thức. Vây ý nghĩa của
câu thơ “sẵn thấy vô chủ bên sông…” phải được hiểu theo ý nghĩa hệ thống chữ “sẵn” mà Nguyễn Du
thường dùng: Bọn Khuyển Ưng, Khuyển Phệ đã chuẩn bị một cái xác chết (nhà thơ không cần thiết kể
về việc đi tìm cái xác) để vào ngôi nhà Kiều rồi phóng hoả. Nhà phê bình kể trên chỉ căn cứ vào một
chữ “sẵn” riêng lẻ mà không quan tâm tới “hệ thống chữ sẵn” trong cả Truyện Kiều, ông ta chỉ dựa
vào bối cảnh thời phong kiến suy tàn có nhiều loạn lạc mà suy ra ý nghĩa câu thơ một cách áp đặt sai
lầm.
Ví dụ khác: Cách gọi tên “anh Dậu, chị Dậu” của nhà văn Ngô Tất Tố trong truyện ngắn “Tắt đèn”
nghe qua không thấy ý nghĩa gì. Nếu ta đặt cách gọi nhân vật trong hệ thống cách gọi tên nhân vật
trong nền văn học Việt Nam 1930 – 1945 thì cách gọi của Ngô Tất Tố có ý nghĩa đáng kể. Thời ấy các
nhà văn thường gọi nhân vật bình dân là “y, thị, hắn, gã, thằng, mụ…” (Nhất Linh, Khái Hưng…Nam
Cao). Điều này cho thấy nhà văn Ngô Tất Tố đã có cách nhìn và đánh giá người bình dân trân trọng
hơn, vì sao ? Vì Ngô Tất Tố đứng từ góc độ nhà báo dân chủ . . .

7


2. Hình thức mang tính quan niệm
Hình thức nghệ thuật không đơn giản chỉ là những phương tiện, chất liệu và thủ pháp ngẫu nhiên
vô tình mà những cái ấy đều thể hiện quan niệm rõ rệt của tác giả.
Hình thức nghệ thuật có hai mặt:
-

Một là hình thức cụ thể cảm tính (lời văn, cảnh vật, nhân vật…)

Hai là hình thức quan niệm (cái lí của hình thức: Vì sao tác giả lại chọn hình thức ấy mà không
là cái khác ?)
Chẳng hạn trong Truyện Kiều, Nguyễn Du viết:
+ Thoắt mua về, thoắt bán đi
+ Buổi ngày chơi mả Đạm Tiên
Nhắp đi thoắt thấy ứng liền chiêm bao
Những chữ “thoắt” biểu hiện tình trạng đảo điên đột ngột gấp gáp, gợi ra những cảnh đời bất trắc, bất
ổn, đổ vỡ, vùi dập…
Trong thời thế ấy, Thuý Kiều phải chạy đua với số mệnh (gót sen thoăn thoắt dạo ngay mái tường).
Một số ví dụ khác: thơ Bà Huyện Thanh Quan thường miêu tả cảnh chiều hôm, chiều tà, bóng xế…
vắng vẻ. Không – thời gian này biểu lộ quan niệm của nhà thơ về hồi suy tàn của chế độ phong kiến.
Thơ bà còn dùng nhiều từ Hán Việt thể hiện sự hoài cổ, long trọng khi nói về quá khứ đẹp đẽ. Trái lại
thơ Hồ Xuân Hương có nhiều từ ngữ nôm na, thậm chí gần như thô tục, trần trụi nhằm phê phán cái
trần tục của người đời và biểu lộ cách sống ưa xúc cảm tinh tế tao nhã của mình.
3. Hình thức nghệ thuật mang tính tinh thần
Tác phẩm nghệ thuật chỉ tồn tại trong tinh thần. Nó chẳng phải là tập giấy (văn thơ), khối gỗ đá
(bức tượng) mà là một thế giới nghệ thuật sống trong tinh thần của ta khi ta thưởng thức nó (tựa như
người đọc mộng du khi đọc sách – nghĩa là thoát ra khỏi đời sống vật chất và đi lạc vào thế giới khác –
thế giới tinh thần, thế giới đó sẽ tạm chấm dứt khi ta thôi đọc sách).

Tuỳ theo người đọc, mỗi người có một “tác phẩm riêng” lưu lại trong cách đọc của mình mặc dù
đều bắt đầu từ một tác phẩm cụ thể nào đó.
Tóm lại: Chúng ta cần nắm vững ba tính chất kể trên của hình thức nghệ thuật, để từ đó mà xác định
nội dung. Như thế gọi là giải mã hình thức để chiếm lĩnh nội dung.
BÀI TẬP THỰC HÀNH
8


1. Ý nghĩa của những tựa đề thơ Tố Hữu thường gặp là “bài ca / tiếng hát” sau năm 1954 là gì?
(xem các tập thơ Gió lộng, Ra trận của Tố Hữu, thống kê những tên bài tương tự)
2. Bản chất của tác phẩm Hòn Đất của Anh Đức là gì? (tiểu thuyết hay thơ/ trường ca hay bản hợp
xướng anh hùng ca )
IV. BỐN KHÁI NIỆM CƠ BẢN CỦA THI PHÁP HỌC
Do thiên về vần đề sáng tác, lí luận thi cổ điển thường nêu ra quá trình văn học sau:
Cuộc sống à Nhà văn à Tác phẩm
Thi pháp học hiện đại nhìn theo hướng ngược lại:
Người đọc à Tác phẩm à Nhà văn à Thế giới hiện thực
Quá trình đó là : Khám phá tác phẩm hoặc toàn bộ tác phẩm trong tính toàn vẹn của nó để thâm nhập
vào tâm hồn tác giả và thế giới, cuộc sống chung.
Muốn thực hiện quá trình đó, chúng ta cần xác định mấy khái niệm cơ bản sau đây:
1. Tác phẩm văn học là một thế giới ý nghĩa
Văn học không sao chép đơn giản các hiện tượng đời sống mà nhằm nắm bắt các ý nghĩa giá trị của
hiện thực bằng những hình tượng sáng tạo. Ý nghĩa và giá trị trong cuộc sống thực tế thì rời rạc, tản
mạn, hỗn độn. Ý nghĩa và giá trị trong tác phẩm nghệ thuật thì tập trung, nổi bật lên, tạo nên một thế
giới đặc biệt. Do đó, các hiện tượng trong tác phẩm nghệ thuật mang ý nghĩa không đồng nhất với các
hiện tượng tương tự trong đời sống. Ví dụ: bài thơ “Bánh trôi nước” của Hồ Xuân Hương không nhằm
giới thiêu một món ăn dân tộc. Nó được viết ra để nói một tấm lòng hiền dịu thuỷ chung và cam chịu
gian khổ của người phụ nữ. Trong Truyện Kiều, Thuý Kiều thực tế đang ở “lầu xanh” nhưng trong
cảnh Từ Hải gặp gỡ Thuý Kiều, nhà thơ Nguyễn Du lại kể:
Thiếp danh đưa đến lầu hồng

Hai bên cùng liếc hai lòng cùng ưa
Nhà thơ không nhầm lẫn khi nói vậy. Trong tình cảm của ông, Thuý Kiều chẳng phải cô gái bán hoa,
nàng vẫn là tiểu thư khuê các, là giai nhân sang trọng chốn lầu hồng.
Tóm lại: Mọi hiên tượng đời sống khi nhập vào thế giới nghệ thuật sẽ mang ý nghĩa mà tác giả phú
cho nó, có thể sẽ khác xa tình trạng vốn có. Điều đó không có nghĩa tác giả bôi bác hay tô hồng cuộc
sống hoặc cố ý làm nó biến dạng.
Đến đây có hai vần đề cần được tiếp tục xem xét:
-

Các phạm trù ý nghĩa của tác phẩm nghệ thuật
9


-

Các phương diện hình thức biểu hiện những ý nghĩa đó.

2. Hai cặp phạm trù ý nghĩa của tác phẩm văn học
2.1. Ý nghĩa khách quan và ý nghĩa chủ quan
Tác phẩm văn học chứa đựng một thế giới nhân sinh mà người đọc có thể nhận ra. Đó là con người, sự
vật, xung đột, thể tài, chủ đề, tính cách, số phận… mang ý nghĩa khách quan của tác phẩm văn học.
Nhưng còn một ý nghĩa khác quan trọng hơn: ý nghĩa chủ quan. Qua những hiện tượng và vấn đề của
đời sống mà mọi người đều biết, tác phẩm còn có những ý nghĩa đặc biệt do bạn đọc khám phá ra.
Ngay các thi sĩ miêu tả trăng nhưng chẳng ai giống ai. Vây là có nhiều ánh trăng khác nhau tuỳ theo sự
cảm nhận của thi sĩ (và cảm nhận của bạn đọc cũng khác), điều này giúp người ta cảm nhận thế giới và
cuộc sống con người thật phong phú, mạnh mẽ hơn, sâu sắc hơn. Ý nghĩa chủ quan này được biểu hiện
bằng hình tượng liên tưởng, liên kết gợi ra một trường cảm nhận. Ví dụ: Bài thơ “Ca tụng”của Xuân
Diệu:
Trăng, vú mộng của muôn đời thi sĩ
Giơ hai tay mơn trớn vẻ tròn đầy

…Trăng, võng rượu khiến đêm mờ chếnh choáng
…Hỡi trăng đẹp, người là trăng náo nức
Người hãy khóc, người không cần sự thực
Nhớ thương luôn nên mắt có quầng viền.
Còn đây là trăng của Lý Bạch (Tĩnh dạ tư):
Đầu giường ánh trăng rọi
(ý nói trăng đi theo tìm nhà thơ)
và Bạch Cư Dị:
Thuyền mấy lá đông tây lặng ngắt
Một vầng trăng trong vắt lòng sông
(Tì bà hành)
Ánh trăng trở thành kẻ tri âm của Bạch Cư Dị, là bạn cũ thuở thiếu thời của Lý Bạch và là người tình
của Xuân Diệu vậy.

10


Nhà thơ đã thổi cái ý nghĩa chủ quan của mình vào một hiện tượng chung của thế giới, kí thác một ý
nghĩa mới vào trong ý nghĩa khách quan thông thường của tác phẩm.
2.2 Ý nghĩa bộ phận, ý nghĩa toàn thể
Khi tiếp nhận tác phẩm văn học, người ta phải hiểu từng chữ từng câu, chi tiết, tình tiết, nhân vật, sự
kiện, tức là từng bộ phận hợp thành tác phẩm. Nhưng cuối cùng, ý nghĩa toàn thể của tác phẩm chẳng
phải là tổng số giản đơn các ý nghĩa bộ phận. Ý nghĩa chỉnh thể (toàn thể) là tích hợp của các ý nghĩa
bộ phận, là cảm hứng chủ đạo chi phối toàn bộ tác phẩm, là quan niệm chung quyết định sự lựa chọn
và tổ chức nên tác phẩm. Ý nghĩa chỉnh thể là ý nghĩa tổng quát, triết lí nhân sinh. Ở phương Đông,
các nhà hiền triết thường đòi hỏi “văn dĩ tải đạo”, “văn dĩ minh đạo”… Ý nghĩa chỉnh thể là thế giới
quan và nhân sinh quan của tác giả. Vậy là, chúng ta phải xem xét quan niệm của tác giả về thế giới,
con người, không gian, thời gian, lẽ sống. Ý nghĩa chỉnh thể của tác phẩm nghệ thuât là giới hạn tối
cao mà người đọc muốn tìm đến, muốn cảm nhận khi tiếp cận một tác phẩm nghệ thuật.
1. 3.


Hình thức nghệ thuật văn chương là hình thức mang ý nghĩa

Người ta thường cho rằng ý nghĩa thì giấu kín ở bên trong (nội dung), còn hình thức chỉ lá cái
vỏ, cái bình đựng rượu chẳng có ý nghĩa gì ( !? ) Điều đó thật sai lầm !
Hình thức là cái bề ngoài. Với văn học, hình thức là văn bản bao gồm ngôn từ, câu chữ, nhịp
điệu, vần luật, cách gọi nhân vật… cấu trúc, bố cục, ngoại cảnh, nội tâm v.v.. Đó là những hình thức
của một cái nhìn nghệ thuật cũng gắn liền và biểu hiện nội dung.
Hình thức nghệ thuật không chỉ là chất liệu thủ pháp mà còn là hình thức cảm thấy sự vật, hình
thức chiếm lĩnh ý nghĩa giá trị của thế giới. Hình thức đó thể hiện tính tích cực của nghệ sĩ. Nhờ đó,
tác phẩm không phải là đồ vật mà là sự sống trong tâm thức người đọc.
Mỗi thời đại, mỗi thể loại, mỗi tác giả… chỉ nhìn thấy một lớp đời sống nào đó, tuỳ thuộc vào
quan niệm nghệ thuật về con người, không gian, thời gian, ngôn ngữ, cốt truyện, nhịp điệu…
Hãy xem Nguyễn Du tả Thuý Vân:
Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da
Thuý Vân mang những vẻ đẹp của thiên nhiên vũ trụ (trăng, tằm, hoa, ngọc, mây, tuyết) thiếu vẻ
đẹp trần tục, không có dấu ấn nghệ sĩ như Kiều.
Đến thời hiện đại, trong dòng Thơ Mới, thi sĩ Xuân Diệu nhìn trăng đẹp như nhìn người con gái
đẹp, lãng mạn, náo nức.
11


Hình thức nghệ thuật vừa lặp lại vừa độc đáo ở một nghệ sĩ. Muốn nghiên cứu thi pháp của văn
chương, chúng ta cần phát hiện ra những yếu tố lặp lại ấy.
1. 4.

Tính chất lịch sử cụ thể của hình thức nghệ thuật


Sáng tác văn học là một sản phẩm của lịch sử. Nó phụ thuộc vào tác giả mà tác giả lại phụ thuộc vào
trình độ văn hoá, trình độ tư duy của xã hội và các hình thái ý thức khác (như triết học tôn giáo, chính
trị..) . Sáng tác văn học cũng phụ thuộc cả mối quan hệ giao lưu văn hoá với nước ngoài.. . Lịch sử trôi
đi, mỗi giai đoạn có diện mạo riêng không lặp lại. Hình thức nghệ thuật là một hiện tượng cụ thể lịch
sử cũng không lặp lại.
Thi pháp học lịch sử sẽ nghiên cứu sự vận động của các hình thức nghệ thuật. Lịch sử thi pháp sẽ chỉ
ra sự tiến bộ của năng lực sáng tạo nghệ thuật của con người – đồng thời cũng tương ứng với trình độ
văn minh của nhân loại.
Sự tiếp nhận thi pháp của văn chương cũng mang tính lịch sử cụ thế.
PHẦN HAI
8 KIỂU THI PHÁP CƠ BẢN TRONG SÁNG TẠO VĂN HỌC
CHƯƠNG I. THI PHÁP NHÂN VẬT
(Quan niệm nghệ thuật về con người

Nghệ thuật xây dựng nhân vật)

I- KHÁI NIỆM
Nhân vật và sự miêu tả nhân vật
Con người là đối tượng miêu tả chủ yếu của văn học trong các phương thức trữ tình, tự sự và kịch dù
trực tiếp hay gián tiếp. Nhân vật có tên Kiều hoặc Kim Trọng hoặc không có tên như mụ dì ghẻ, tiểu
đồng, ông quán. Nhân vật được sáng tạo, hư cấu để khái quát và biểu hiện tư tưởng, thái độ đối với
cuộc sống. Ca ngợi nhân vật là ca ngợi cuộc đời, lên án nhân vật là phê phán đời. Xót xa cho nhân vật
là xót xa đời. Tìm hiểu nhân vật là tìm hiểu về cuộc đời và con người, tìm hiểu tư tưởng tình cảm của
tác giả đối với con người.
Trong thơ trữ tình, có nhân vật trữ tình: con người tự bộc lộ nỗi niềm trước cuộc sống. Trong kịch,
con người tự bộc lộ qua hành động ngôn ngữ của mình.
Trong tác phẩm tự sự (truyện, kí ) nhân vật là con người được kể, tả ra bằng lời của nhà văn.
Nói chung, nhân vật được miêu tả bằng các phương tiện văn học, tức bằng ngôn từ. Miêu tả bao gồm
tả cảnh ngụ tình, diễn tả cảm xúc, tường thuật, kể sự việc… gọi chung là hình thức của văn học.


12


Miêu tả trong văn học khác với miêu tả trong các khoa học khác thường chỉ cần đạt sự chính xác,
khách quan. Ở đây miêu tả nhằm hai mục đích: gợi ra hiện tượng cuộc sống và gợi ra sự cảm thụ và
bộc lộ cái nhìn của tác giả. Từ đó nhà văn thể hiện quan niệm nghệ thuật về con người.
2. Quan niệm nghệ thuật về con người
Thực tế có hai quan niệm về con người:
Một là: Con người như một phạm trù tư tưởng, chính trị, đạo đức xã hội.
Hai là: Con người như một phạm trù thẩm mĩ.
Quan niệm thứ hai chủ yếu là quan niệm của văn nghệ sĩ.
Nàng Kiều là nhân vật có nội tâm phong phú nhưng nàng chỉ biết nhớ người thân trong hiện tại, không
ưa sống trong hồi tưởng và sống với quá khứ như các nhân vật tiểu thuyết hiện đại sau này. Đó là do
quan niệm nghệ thuật về con người của Nguyễn Du chưa đạt tới như thời hiện đại.
Triết lí về con người có quan hệ mật thiết với quan niệm nghệ thuật về con người. Quan niệm nghệ
thuật không ngừng được mở rộng thì nhà văn càng có khả năng miêu tả chiều sâu và sự phong phú của
nhân vật, cũng gọi là khả năng cảm nhận về con người của nhà văn.
Nghiên cứu thi pháp nhân vật khác với công việc phân tích nhân vật. Phân tích nhân vật là chỉ ra các
nội dung đựơc thể hiện trong nhân vật như tính cách, ngoại hình, phẩm chất, niềm vui, nỗi buồn, lí
tưởng… Trái lại khi nghiên cứu thi pháp nhân vật, ta phải khám phá cách cảm nhận con người qua
việc miêu tả nhân vật. Tất nhiên, khi ta đã tìm hiểu thi pháp nhân vật thì việc phân tích nhân vật sẽ sâu
sắc hơn, toàn diện hơn.
Phạm trù “quan niệm nghệ thuật về con người” là ý thức của văn học và hiện diện trong ý thức hoặc
vô thức của tác giả. Nhiều nhà văn lớn đã có ý thức sáng tạo ra quan niệm nghệ thuật mới mẻ về con
người.
II – NGHIÊN CỨU MỘT SỐ KIỂU THI PHÁP NHÂN VẬT
1.Truyện Thánh Gióng
Truyện này có nhiều yếu tố truyền thuyết đặt trong một thời kì xa xưa – thời kì huyền thoại: đời vua
Hùng thứ VI ở làng Gióng. Cốt truyện mang màu sắc sử thi anh hùng được kể qua năm chi tiết:

-

Sự sinh đẻ kì diệu do người mẹ giẫm lên dấu chân lạ mà thụ thai

-

Sự lớn lên kì lạ

-

Việc rèn đúc vũ khí đặc biệt: ngựa sắt, roi sắt

-

Một mình đánh tan quân giặc
13


-

Cưỡi ngựa bay về trời

Truyện này có chất cổ tích pha lẫn thần thoại. Thần thoại miêu tả các anh hùng văn hoá cổ sơ như Ông
Trụ Trời, ông tát bể, ông kể sao, thì đây “ông đánh giặc”. Ông sinh ra không làm trẻ con (nằm yên,
không cười nói, không ngồi) ông chờ sứ mệnh. Khi đánh giặc xong không còn việc gì làm ở trần gian
thì ông về trời. Ông là một vị thần. Vậy Ông Gióng thuộc loại nhân vật chức năng đánh giặc.
2.Truyện họ Hồng Bàng (Lạc Long Quân và Âu Cơ)
Truyện thần thoại bộc lộ quan niệm cổ sơ về dân tộc gọi là truyện gia hệ khởi nguồn cho dân tộc Việt.
Lạc và Âu là chị em chú bác ruột (cha của hai người là anh em cùng cha khác mẹ). Âu Cơ giống tiên,
Lạc Long Quân theo họ mẹ thuộc giống rồng – mẫu hệ. Chàng là nhân vật anh hùng khai sinh văn hoá

– khai sáng, dạy dân nhiều nghề và xuất hiện ờ mọi nơi, có tài biến hoá. Chức năng chủ yếu của Lạc
Long Quân là cưới Âu Cơ sinh trăm trứng, khai sinh nòi giống (ca hát đánh trống để quyến rũ Âu Cơ,
rồi đem giấu vợ một nơi kín đáo). Là nhân vật thần thoại, Lạc chưa có sự thống nhật nội tại, hành động
chưa nhất quán. Khi dân chúng khổ sở vì nạn phương Bắc quấy nhiễu, họ gọi “bố ở đâu mà để dân
phương Bắc xâm hại dân ta” thì Lạc đột nhiên hiện về nhưng việc đầu tiên là say mê Âu Cơ… Vậy
Lạc Long Quân là nhân vật chức năng (sinh đẻ). Thần Kim Quy cũng là nhân vật chức năng.
3.Truyện cổ tích Tấm Cám
Các nhân vật chính vẫn là nhân vật chức năng – chức năng thể hiện những nguyên lí của thế giới “ở
hiền gặp lành, ác giả ác báo”. Chia ra hai loại nhân vật: thiện và ác. Họ chỉ hành động, không thể hiện
cảm giác, phản ứng, lí trí như người bình thường. Tấm chẳng hề nghi ngờ mẹ ghẻ chặt cậy hại mình,
lại tin lời mẹ là đuổi kiến. Vua thấy Tấm chết, chẳng có hành động đối phó, chỉ lặng lẽ buồn. Khi có
chim vàng anh, vua quên Tấm. Nhìn chung các nhân vật không có nội tâm, chỉ có cái ác và cái thiện
thể hiện chức năng của nó. Vua chỉ làm một chức năng là ban thưởng cho Tấm người hiền. Trước đó
bụt làm chức năng hành thiện, Bụt cho Tấm quần áo mới và đôi hài đẹp, cho đàn chim nhặt thóc, để
cho nàng kịp trẩy hội xuân. Khi Tấm trở thành hoàng hậu, Bụt không xuất hiện nữa vì đã có nhà vua
trẻ.
4.Truyện người thiếu phụ Nam Xương
(Truyện cổ tích trung đại, do Nguyễn Dữ kể lại bằng chữ Hán)
Một số phận bi kịch của người phụ nữ trong một gia đình phong kiến trong thời buổi đất nước loạn lạc.
Nhà văn vẫn chưa miêu tả nội tâm nhân vật trong những tình huống chia ly, ngóng đọi, bị oan uổng…
mà chỉ nói qua vài điều bằng lời nói của nhân vật. Lời nói của các nhân vật đều chung một giọng điệu
như nhau. (Văn 9 tập 1). Vũ Nương đã được giải thoát bằng cái chết trên dòng sông, sống vui vẻ dưới
thuỷ cung với Linh Phi nhưng nàng vẫn đòi hỏi cái thế giới cũ và người chồng phải giải oan cho nàng
(cũng như Linh Phi đã đền ơn cho Phan Lang).
Người xưa rất coi trọng danh tiết, chết rồi vẫn mong giữ vẹn danh tiết. Vũ Nương không đoàn tụ gia
đình nhưng ngậm cười, yên dạ nơi cõi âm. Đó là quan niệm nghệ thuật về “con người danh tiết” thời
phong kiến.
14



5.Con người trong Truyện Kiều
Đây là vần đề lớn và phức tạp trong một kiệt tác văn học. Ở đây nêu một số quan niệm khái quát:
Con người so sánh với thiên nhiên vũ trụ, khát khao tự do cùng thiên nhiên
Những vẻ đẹp của chị em Kiểu đều so sánh với thiên nhiên, ngay cả Từ Hải cũng vậy:
Râu
hùm,
hàm
Đội trời đạp đất, chọc trời khuấy nước

én,

mày

ngài

Kim Trọng khóc Kiều: Vật mình vẫy gió tuôn mưa
Kiều
làm
thơ:
Tay
tiên
gió
táp
mưa
sa
Vương
Quan
thi
đỗ
:

Cửa
trời
rộng
mở
đường
mây
hoa
chào
ngõ
hạnh
hương
bay
dặm
phần
Từ Hải ra đi lập nghiệp:
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương
Kiều
tiễn đưa ngóng đợi Từ Hải:
Cánh hồng bay bổng tuyệt vời
đã mòn con mắt chân trời đăm đăm
Họ là những con người khát khao vũ trụ với đặc trưng: tỏ lòng, tỏ chí, đó là nhu cầu bày tỏ tâm
hồn để hiểu nhau. Kể cả Vũ Nương cũng chỉ muốn tỏ lòng trung trinh của mình. Thuý Kiều muốn
chứng tỏ mình giữ lời thề đã phải nhờ em gái thay mình lấy chàng Kim, để mình được tỏ lòng hiếu
thảo với cha.
Nhà thơ Nguyễn Du cảm thấy con người thời này đã bắt đầu có ý thức về “cái tôi” cá nhân, con người
cảm thấy thích cô đơn (Kiều thích ngồi một mình để sống với hồi tưởng riêng). Kiều bắt đầu dám vượt
qua khỏi khuôn sáo của lễ giáo phong kiến “trung, hiếu, tiết, nghĩa”. Nàng không giấu những ham
muốn bình thường của con người.
Nhà thơ Nguyễn Du đã nhìn thấy con ngưởi phức tạp chứ không phải giản đơn, con người nhiều
chiều. Nhà thơ đã nhìn nhân vật từ bên trong.

Nhân vật sống trong đời thực nhưng cảm thấy mình sống theo số mệnh quy định

bởi ông Trời.

Con người ấy phi nhân tính, bị tha hoá. Đó là khám phá của Nguyễn Công Hoan.
6.Con người trong “Lão Hạc”
Tác phẩm Nam Cao là đỉnh cao của chủ nghĩa hiện thực. Nơi đây nhà văn miêu tả con người như
chính họ trong cuộc sống.
-

Về mặt quan niệm xã hội, Lão Hạc cần được coi là con người “đáng kính, đáng thương”.

Về mặt nghệ thuật, Lão Hạc được miêu tả là con người tâm lí – sống nội tâm. Nghĩa là lão tự
dằn vặt mình, sống với mình – một bước phát triển cao của con người.
15


Nam Cao đã phát hiện thấy sự chênh lệch giữa vẻ bề ngoài và nội tâm của con người.
Nghĩ về bà vợ của “ông giáo”, Nam Cao viết: “Chao ôi! Đối với những người sống quanh ta, nếu ta
không cố mà tìm hiểu họ thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi, toàn những cái cớ
để ta tàn nhẫn, không bao giờ ta thương họ”. Với Lão Hạc, nhà văn đã miêu tả một con người có nội
tâm sâu sắc, cao thượng bên trong một vẻ bề ngoài tầm thường: lão có con mắt thờ ơ, hời hợt, chẳng
mấy ai hiểu lão. Lão Hạc có tâm hồn ngay thẳng, trong sạch và đau đớn. Lão nói chuyện về con chó
nhiều lần mà chưa dám bán. Lão thương con Vàng nhưng làm bộ ghét nó. Lão cười như mếu (buồn mà
cố vui vẻ), đôi mắt ầng ậng nước. Lão phải giả bộ gian xảo để xin Binh Tư ít bả chó (nói dối đi bẫy
chó) nhưng dùng thuốc để tự sát. Lão chết dữ dội nhưng dân làng chẳng ai biết sự thật ngoại trừ ông
giáo. Đã vậy Binh Tư và dân làng còn hiểu lầm lão.
Cũng với cái nhìn con người như thế, nhà văn miêu tả Chí Phèo. Y thực là một con người bình thường
và đáng thương dưới cái vẻ “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”.
Tóm lại: Quan niệm nghệ thuật về con người là nguyên tắc cảm nhận thẩm mĩ khi xây dựng nhân vật.

Quan niệm đó chi phối nhà văn khi miêu tả nhân vật và các bộ phận khác của tác phẩm (kể cả lời dẫn
truyện.v.v..). Đây là kiểu thi pháp cơ bản nhất của văn học nghệ thuật.
CHƯƠNG II . THI PHÁP KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT
I. Khái niệm
Không gian nghệ thuật thuộc phạm trù hình thức nghệ thuật, là phương thức tồn tại, triển khai thế giới
nghệ thuật. Không gian nghệ thuật là trường nhìn được mở ra từ một điểm nhìn, cách nhìn. Mỗi tác
phầm có một không gian do tác giả lựa chọn và miêu tả
Ai đem ta tới chốn này
Bên kia là núi, bên này là sông (ca dao)
Gió lùa can gác xép
Đời tàn trong ngõ hẹp (Vũ Hoàng Chương)
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim (Tố Hữu)
Từ lúc yêu nhau hoa nở mãi
Trong vườn thơm ngát của hồn tôi. (Xuân Diệu)
Trong mỗi câu thơ trên có một không gian riêng, vốn dĩ là gian vật chất. Nhưng trong văn học nghệ
thuật, không gian thuộc thế giới tinh thần, nó trở thành ngôn ngữ và biểu tượng nghệ thuật.
16


Là một hiện tượng nghệ thuật, không gian nghệ thuật mang tính ước lệ giàu ý nghĩa cảm xúc. Trong
ngôn ngữ dân tộc, không gian đã được mã hoá thành ý nghĩa đời sống, chẳng hạn “cao cả, thấp hèn,
nông cạn, sâu sắc, thiên vị, chính trực, ngay thẳng, quanh co, đại lượng, hẹp hòi…”. Người ta đã mượn
ý niệm về không gian để miêu tả con người. Đó là không gian nghệ thuật chung của mọi người. Mỗi
nhà văn nhà thơ lại chọn hoặc sáng tạo cho mình một không gian riêng.
Không gian có ba chiều, nhưng có thể thêm một chiều nữa là “thời gian”, chẳng hạn: hồi ấy, dạo ấy…
Vậy thời gian là chiều thứ 4 của không gian.
II – KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT TRONG MỘT SỐ TÁC PHẨM
1. KGNT trong Tấm Cám
Nói chung không gian cổ tích có một đặc tính chung là: không có vật cản đối với hành động và vận

động của con người. Tấm, Cám, Bụt, chim sẻ, cá bống, khung cửi, cây thị… đều có chung tiếng nói và
hiểu nhau được hết. Không miêu tả không gian lễ hội, cung vua… chỉ có một không gian làng quê làm
nền chung cho mọi không gian, và không gian mờ nhạt này tạm đủ gây ấn tượng cho người đọc.
Người ta chỉ thuật lại hành động tuần tự diễn ra.
2. KGNT trong Chinh phụ ngâm
Không gian biệt li chiếm phần lớn khung cảnh thơ:
Mọi cảnh tượng vật chất vật thể, màu sắc, âm thanh…như bị xoá nhoà:
Ngòi đầu cầu nước trong như lọc
đường bên cầu cỏ mọc còn non
Đó là chốn nào ? Có vẻ một nơi vô định, mơ hồ ! Toàn bộ khúc ngâm dài của người chinh phụ có
nhiều cảnh mơ hồ, mù mịt như thế. Đó là những phong cảnh nặng trĩu tâm trạng buồn bã thất vọng của
người vợ vắng chồng. Chỉ biết nhớ người, còn cảnh vật chẳng có ý nghĩa gì với nhân vật trữ tình.
Không gian ở đây đã trở thành một ngôn ngữ đặc biệt nói giùm cái tâm trạng nhân vật. Nhà thơ đã
giao cho không gian nhiệm vụ nghệ thuật ấy.
3. KGNT trong Truyện Kiều
Có khá nhiều không gian trong truyện :
-

Không gian cô đơn suốt 15 năm

-

Không gian giang hồ mênh mông vô định

-

Những cảnh vật thờ ơ vô tình với Kiều

-


Những đêm trăng vây bủa nàng Kiều
17


- Những không gian ảo giác
- Những con đường vườn khuya, lối mòn, dặm cát, vó câu, bánh xe…theo
sát cuộc đời Kiều
- Những không gian tù hãm cuộc đời nàng .v.v..

(BÀI TẬP: sinh viên hãy tìm đủ những câu thơ miêu tả các không gian kể trên trong Truyện Kiều)
Nhìn chung cuộc đời Kiều gặp bao trở ngại vì không gian (ngoài nguyên nhân chính là vì những kẻ ác
trong xã hội). Đó là sự thật nhưng cũng là KGNT mà nhà thơ đã chọn để xây dựng nhân vật.
Đặc sắc nổi bật của nghệ thuật Truyện Kiều chính là nghệ thuật tả không gian, cùng với nhiều biện
pháp nghệ thuật khác (Khi đưa Truỵên Kiều lên sân khấu, người ta bất lực vì không thể tạo được
những không gian như Nguyễn Du đã tả bằng lời thơ. Nghĩa là cái không gian nghệ thuật của Nguyễn
Du rất riêng biệt – khó mà chuyển thể được)
4. Không gian nghệ thuật trong hai bài thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi
Trại đầu xuân độ 寨寨寨寨

Độ đầu xuân thảo lục như yên
Xuân vũ thiêm lai thủy phách thiên
Dã kính hoang lương hành khách thiểu
Cô chu trấn nhật các sa miên
寨寨寨寨寨寨寨
寨寨寨寨寨寨寨
寨寨寨寨寨寨寨
寨寨寨寨寨寨寨
Bến đò xuân đầu trại

18



Cỏ xuân đầu bến biếc như mây
Thêm lại mưa xuân trời nước đầy
đường nội vắng teo hành khách ít
thuyền côi gác bãi ngủ thâu ngàyĐầu bến, cỏ xuân xanh lục như khói
lại thêm mưa xuân nước vỗ ngang trời
Đường ngoài nội vắng teo ít người đi
thuyền đơn côi suốt ngày gác đầu lên bãi ngủ
Ức Trai thi tập (Đào Duy Anh dịch)

Mộ xuân tức sự 寨寨寨寨

Nhàn trung tận nhật bế thư trai
Môn ngoại toàn vô tục khách lai
đỗ vũ thanh trung xuân hướng lão
nhất đình sơ vũ luyện hoa khai
o
Cảm tác cuối xuân
Thong thả trọn ngày đóng cửa phòng sách
Ngoài cửa không hề có khách tục đến
Trong tiếng đỗ quyên kêu nghe xuân đã về già
cả sân hoa xoan nở dưới mưa phùn.dịch thơ
Trọn ngày thong thả khép phòng văn
19


khách tục bên ngoài chẳng bén chân
Khắc khoài quyên kêu xuân đã muộn
Hoa xoan mưa nhẹ nở đầy sân

Mỗi bài thơ có hai không gian tương phản.
Một không gian sinh hoạt của con người: không hoạt động, tĩnh lặng (hai câu đầu bài Cuối xuân tức
sự và hai câu cuối bài Bến đò xuân đầu trại).
Một không gian thiên nhiên vũ trụ tươi đẹp, nổi lên tràn đầy sức sống (những câu còn lại). Nhà thơ
sống trong khung cảnh tĩnh lặng, ông lắng nghe, hoà mình vào trong cảnh vật, để cho tâm hồn hoà
điệu với thiên nhiên, hầu gạt bỏ mọi ưu phiền bận bịu của cuộc sống xã hội, để rồi lấy thêm sức mạnh
của thiên nhiên chờ ngày trở lại phò vua giúp nước.
5. Không gian trong bài “Thu điếu” của Nguyễn Khuyến
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Sóng nước theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo
Ông già câu cá không chú ý tới cá, ông chỉ nhìn ngắm, lắng nghe và cảm nhận mùa thu với tâm trạng
siêu thoát. Người ta bảo ông đi “câu” mùa thu chứ không câu cá . Đến hai câu chót ông mới choảng
tỉnh trở lại với thực tại.
6. Không gian trong “Ngắm trăng” (Vọng nguyệt – Hồ Chí Minh)

Ngục trung vô tửu diệc vô hoa
Đối thử lương tiêu nhược nại hạ ?
20


Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt
Nguyệt tòng song khích khán thi giaTrong tù không rượu cũng không hoa
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ

Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ
Hai câu đầu là một không gian nội tâm. Hai câu sau là không gian thực tại được nhìn như một bức
tranh. Nhà thơ tự ngắm mình và ngắm trăng hạn chế qua khe cửa. Cái bức tường nhà tù chẳng thể cản
trở, chỉ buồn còn thiếu “rượu và hoa”. Nhưng thôi đã có ánh trăng làm bạn, an ủi lẫn nhau.
CHƯƠNG III. THI PHÁP THỜI GIAN NGHỆ THUẬT
I – KHÁI NIỆM
Cùng với không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật là phạm trù của hình thức nghệ thuật. Thế giới
tồn tại và xác định trong không gian và thời gian. Thời gian nghệ thuật và không gian nghệ thuật
không tách rời nhau nhưng trong một tác phẩm nhà văn có thể chú ý sử dụng cả hai hoặc chỉ một trong
hai.
Thời gian khách quan vật chất có các tính chất sau:
-

Có độ dài, có hướng vận động, có nhịp điệu

-

Có 3 thời: quá khứ, hiện tại, tương lai và vận động một chiều

Thời gian được tái tạo lại trong tác phẩm (nên gọi là thời gian nghệ thuật) luôn luôn mang quan niệm,
cảm xúc và ý nghĩa nhân sinh có tính chủ quan. Vậy: thời gian nghệ thuật là một hình tượng được
sáng tạo trong tác phẩm nghệ thuật.
Thời gian nghệ thuật có thể tự do đảo ngược, rong ruổi ngược xuôi, co giãn, đồng hiện (chồng chất hai
thời gian khác nhau).v.v..
II THỜI GIAN NGHỆ THUẬT THAY ĐỔI THEO DÒNG LỊCH SỬ
1. Thời gian nghệ thuật trong thần thoại
Thời gian hoà lẫn với không gian thành một yếu tố “không – thời” mờ nhạt, tĩnh tại,
không đầu,
không cuối, không trật tự, chẳng hạn “ngày xửa ngày xưa ở vùng núi non trùng điệp phương Nam…”
(truyện Lạc Long Quân và Âu Cơ). Tư duy cổ sơ của người xưa chưa thể nhận thức được thời gian,

chưa xác định đo đếm được thời gian.
2. Thời gian trong sử thi, truyền thuyết
21


Đó là thời gian quá khứ tuyệt đối khép kín. Sử thi tồn tại trong một quá khứ tách rời hẳn với hiện tại
chẳng có mối liên hệ nào. Thời gian ấy mang tính không gian trôi đi không còn dấu vết. Hồi ấy con
người vẫn phải chờ đợi nhưng là chờ đợi vượt qua vật cản không gian chứ không màng thời gian.
Chẳng hạn Odyssee phải trải qua 20 năm phiêu bạt nhưng cái ngă trở chính là đại dương Địa Trung
Hải nhiều bến bờ mênh mông xa lạ (10 năm đánh thành Troie và 10 năm trở về – sử thi Hi Lạp)
3. Thời gian cổ tích
Thời gian đo bằng sự kiện, chưa có thời gian tâm lí mong chờ, khắc khoải. Nhân vật không biết hồi
tưỏng (không có ý niệm về quá khứ và hiện tại), không biết ước mơ (không có ý niệm về tương lai).
Nhân vật không biết hồi tưởng và không biết ước mơ, như vậy nghĩa là cũng không xác định được
hiện tại, không gắn với lịch sử đang trôi chảy.
4. Thời gian trong văn học trung cổ
Thời gian tuần hoàn có tình chu kì theo vận động của tuấn trăng, sao, mặt trời, thời tiết, mùa vụ trồng
trọt hay săn bắt:
Sen tàn cúc lại nở hoa
Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân.
Dẫu sao, thời gian tuần hoàn cũng đã là một bước tiến bộ so với thời gian cổ tích.
5. Thời gian trong văn học cận hiện đại
Ý thức thời gian ngày càng phong phú hơn, đa dạng hơn như: thời gian tâm lí, thời gian sinh hoạt, thời
gian, lịch sử…
Nếu ở các “truyện tình trung cổ” như Truyện Kiều, truyện anh hùng Tam quốc diễn nghĩa chưa có thời
gian sinh hoạt như chiều hôm ấy, đêm hôm ấy, khuya… giữa trưa. Thì đến Hồng Lâu Mộng, tiểu
thuyết giáp ranh hiện tại, Những người khốn khổ, Miếng da lừa, Sống mòn… tràn đầy những thời gian
sinh hoạt. Đây là cống hiến quan trong, bước tiến dài của tiểu thuyết thế kỉ XIX nối sang XX hiện đại.
Thời gian lịch sử được bộc lộ rõ nhất trong nến văn học hiện thực Xã Hội Chủ Nghĩa, đặc biệt là ý
thức về thời gian tương lai. Thời gian gắn liền với những cuộc cách mạng và biến thiên của lịch sử loài

người ngày nay.
III – MỘT SỐ KIỂU THỜI GIAN NGHỆ THUẬT
1. Thời gian có hai lớp
- Thời gian trần thuật (thời gian tác giả phát ngôn, đây là trọng tâm)
- Thời gian được trần thuật (ví dụ 15 năm Kiều lưu lạc)
22


Giữa hai lớp thời gian này có một khoảng cách, có thể rất lớn (truyện cổ tích: ngày xửa ngày xưa)
nhưng có khi bằng 0/không (truyện Lão Hạc – hai lớp thời gian này trùng nhau: ông giáo vừa kể
chuyện, cuộc đời lão Hạc diễn ra cùng lúc).
Thời gian trần thuật bao gồm nhiều loại:
Thời gian nhân vật rất quan trọng, nó làm cho công chúng nhận ra sự tồn tại của nhân vật.
Chẳng hạn, trong tiểu thuyết “Vỡ bờ”, nhân vật Khắc chết ngay từ đầu. Anh tiểu biểu cho lớp chiến sĩ
hi sinh trước khi cách mạng thành công. Nhân vật này có tính tổng hợp, đại biểu cho một giai đoạn
cách mạng.
-

Thời gian nội tâm nhân vật hay thời gian tâm lí.

Thời gian sự kiện là thời gian năng động, biến hoá nhất trong tác phẩm. Nó đối lập với thời gian
miêu tả. Thời gian sự kiện có tính gấp khúc, đột biến, dồn dập hoặc gối lên nhau, hoặc giãn ra.
-

Thời gian miêu tả: tĩnh tại. Nếu miêu tả nhiều thì nhịp điệu dòng sự kiện trôi chậm và ngược lại.

-

Thời gian đối thoại gọi là thời gian kịch.


Thời gian lịch sử được coi trọng đặc biệt trong văn học hiện thực Xã Hội Chủ Nghĩa. Nó dùng
để miêu tả tương quan giữa con người và lịch sử, giữa cũ và mới. Nhân vật hành động theo dòng lịch
sử và theo sự phát triền xủa cách mạng.
2. Thời gian 3 đoạn
1. 1.

Quá khứ

Có nhiều cách để thể hiện quá khứ. Chẳng hạn quá khứ cư ngụ trong nhân vật cụ già Mết (Rừng xà nu
của Nguyên Ngọc).
Phương tiện “hồi tưởng” được dùng phổ biến nhất với nhiều hình thức khác nhau. Đây là một bước
tiến của văn học cận hiện đại (từ thế kỉ XIX).
1. 2.

Tương lai

Báo hiệu một viễn cảnh, phương hướng phát triển của cuộc sống nhân vật.
Phương tiện có thể là “giấc mơ”, “dự cảm”. Hình tượng trẻ thơ cũng được dùng: chẳng hạn truyện “Số
phận con người” của Sholokhov, cậu bé Vania thực ra đang dẫn người lính Sokolov đi tới (Văn 12 tập
II). Người phụ nữ có thai cũng báo hiệu một tương lai (Tiết Bảo Thoa trong Hồng Lâu Mộng – cái thai
báo hiệu dòng họ Giả còn hi vọng phục hồi và phục hưng, nhà văn Cao Ngạc không nỡ để cho những
người quý tộc thân yêu của ông phải tuyệt tự. Kiều không sinh nở nữa mà nhường cho Thuý Vân, nàng
không nghĩ tới tương lai nữa. Thị Nở cúi nhìn bụng, rùng mình nghĩ tới cái thai cảnh báo nỗi sợ hãi
một thằng quỷ dữ con của làng Vũ Đại!). Còn trong truyện ngắn “Thuốc” của Lỗ Tấn, hai gia đình họ
Hạ và họ Hoa đều mất đứa con duy nhất, báo hiệu gia đình họ mất tương lai.
23


1. 3.


Hiện tại

Văn học hiện đại có nhiều cách thể hiện nhất với thì hiện tại. Trong đó, cảm nhận về sự tồn tại thường
xuyên vĩnh viễn của những giá trị cao quý bất chấp thời gian – đó là tính lí tưởng cách mạng, là những
giá trị truyền thống của văn hoá dân tộc “bốn mươi thế kỉ cùng ra trận”. Thời gian nghệ thuật trong bài
“Cảnh rừng Việt Bắc” là một thời gian hiện tại nhưng hoàn toàn vĩnh viễn (đứng yên, lúc ấy đang thời
gian kháng chiến).
“Người đi tìm hình của nước”, nhà thơ Chế Lan Viên đứng ở thời điểm 1960 mà đẩy lùi thời gian hiện
tại về quá khứ đầu thề kỉ 20 để dõi theo bước chân của lãnh tụ; đối chiếu hai quá khứ của Bác Hồ và
nhà thơ và đối chiếu với hiện tại.
Thực hành
1. Lạc Long Quân, thần Kim Quy, Thánh Gióng
Thời gian thần thoại chỉ có “khởi đầu”, sau đó đứt đoạn, không gắn liền với thời gian lịch sử và cũng
không có độ dài.
2.Truyện Tấm Cám
Thời gian cổ tích cũng không gắn lịch sử. Nó không có quá khứ và tương lai. Nó là thì quá khứ hoàn
thành gọn trong quá khứ. Thời gian được đo bằng chuỗi sự kiện, sự cố mà thôi.
3. Từ Thức gặp tiên
Chuyện ở cuối thế kỉ 14 đầu 15. Thời gian cốt truyện là 1 năm, nhưng trong 3 ngày ở cõi tiên với
Giáng Hương, Từ Thức đã cảm thấy dài bằng năm. Chàng nhớ quê năn nỉ xin về. Rồi chàng bỏ đi đâu
mất tích. Xuất hiện “thời gian quan niệm” – quan niệm về cõi tiên vĩnh hằng và cõi trần ngắn ngủi.
4.Chinh phụ ngâm
Thời gian của nỗi nhớ mong triền miên dằng dặc hướng về tương lai. Cảm xúc thời gian đậm đặc, gay
gắt, cồn cào trong tâm hồn chinh phụ. Suốt tác phẩm là một thời gian tâm trạng đã tượng hình. Không
gian tuy có ần hiện trong tác phẩm nhưng đã bị chuyển hoá thành ý niệm thời gian rồi. Thời gian ấy
kéo dài không dứt, đồng nhất với nỗi đau khổ khôn nguôi, không lối thoát của người chinh phụ.
5. Thề non nước
Một thời gian tuần hoàn theo truyền thống trung cổ:
Nước đi chưa lại non còn đứng trông
Non cao những ngóng cùng trông

Nước đi ra bể lại mưa về nguồn
24


Thời gian mang lại một niềm tin, niềm an ủi tâm hồn (nó đi rồi nó lại trở về, không mất đâu).
6. Thời gian hồi tưởng trong “Nhớ rừng”
Nỗi nhớ tiếc khôn nguôi một thời oanh liệt và những giá trị đẹp cũ nay còn đâu! Thời gian phản ứng
với những cảnh tù túng giả tạp tầm thường của thời gian hiện tại.
Hồi tưởng đối chiếu với thời hiện tại là một thi pháp hiện đại. Thế Lữ mới chỉ đánh thức quá khứ chứ
chưa nhập nó vào hiện tại:
Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan
Đâu những bình minh cây xanh nắng gội
Đâu những chiều lênh láng máu trong rừng (bữa tiệc)
Nỗi đau đớn ở đây là “thời gian quá khứ” đã mất đi không trở lại.
7. “Vội vàng” của Xuân Diệu
Thời gian là sự tiêu hao, làm mòn mỏi tiêu tan hương sắc tuổi trẻ, nó rơi rụng tàn phai. Giá trị cuộc
sống không tái lập lại. Nhà thơ khao khát sống, tích cực, mãnh liệt hơn, chạy đua với thời gian.
8. “Ý xuân” của Tố Hữu
Thời gian nghĩa là đổi mới, giải phóng, tươi trẻ yêu đời. Hình ảnh “xuân” tràn ngập thơ ông như một
sức mạnh mới:
Xuân bước nhẹ trên nhành non lá mới
Bạn đời ơi vui chút với trời hồng
Hết lạnh rồi, gió bấc với mưa giông
Đây nắng tới với chim ca lanh lảnh
Càng về sau thơ ông càng lạc quan, hứng khởi. Thời gian trong thơ Tố Hữu chỉ có một tương quan:
hôm nay và ngày mai đang đến.
9. Thời gian trong “Chí Phèo”
Nhìn chung, thời gian nghệ thuật trong truyện ngắn và tiểu thuyết phong phú đa dạng hơn hẳn thơ. Số
phận Chí Phèo thể hiện trong một thời gian tuần hoàn – Năm Thọ lặp lại Binh Chức, Chí Phèo lặp lại

Năm Thọ. Khi Chí Phèo chết, Thị Nở cúi nhìn nhanh xuống bụng và lo sợ Chí Phèo luân hồi trong cái
làng Vũ Đại nhỏ hẹp này.
25


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×