Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Ngôn ngữ trào phúng của Vũ Trọng Phụng trong tiểu thuyết Số đỏ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.52 KB, 10 trang )

MỤC LỤC
Mở đầu
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.

Lý do chọn đề tài...................................................................................2
Lịch sử nghiên cứu vấn đề....................................................................3
Mục đích nghiên cứu vấn đề.................................................................8
Đối tượng, phạm vi nghiên cứu vấn đề ................................................8
Phương pháp nghiên cứu.......................................................................8
Đóng góp nghiên cứu của đề tài............................................................9
Kết cấu của đề tài..................................................................................9

Nội dung
Chương 1. Những vấn đề khái quát chung
Chương 2. Sự trào phúng trong lời văn của Vũ Trọng Phụng trong tiểu
thuyết Số đỏ
Chương 3. Đặc sắc của ngôn ngữ trào phúng
Tài liệu tham khảo

1


MỞ ĐẦU
1.


Lý do chọn đề tài
1.1.
Lý do khách quan
Mỗi loại hình nghệ thuật có một phương tiện diễn đạt đặc thù. Với hội
họa là màu sắc, đường nét, với âm nhạc là âm thanh, tiết tấu, với điêu
khăc là hình khối...Còn phương tiện diễn đạt của văn học là ngôn ngữ.
Nhà văn muốn sáng tạo nên tác phẩm văn học thì phải dùng ngôn ngữ.
Không có ngôn ngữ thì không có văn học. Ngôn ngữ là một trong những
yếu tố quan trọng góp phần làm lên thành công cho một tác phẩm. Chính
cách thức tổ chức, sử dụng ngôn ngữ sẽ góp phần bộc lộ tính cách và tài
năng sáng tạo của mỗi tác giả. Ngoài ra mỗi tác giả có một cách thức sử
dụng ngôn ngữ riêng biệt không ai giống ai, nếu văn chương không là cái
có sẵn và đem đi sao chép thì ngôn ngữ trong văn học cũng không là cái
vay mượn. Cái riêng của mỗi tác giả nằm ở phong cách ngôn ngữ mà họ
sử dụng. Và một trong những tác giả ngay khi vừa xuất hiện đã trở thành
một hiện tượng mới, gây xôn xao dư luận về cách thức thể hiện ngôn ngữ
mang phong cách vừa lạ vừa độc đáo như Vũ Trọng Phụng, người mà về
sau được mệnh danh là “ông vua phóng sự đất Bắc” thì quả là hiếm hoi.
Ông đã có những đóng góp không hề nhỏ cho nền văn học Việt Nam hiện
đại, nhất là về mặt ngôn ngữ. Trong những cuốn tiểu thuyết của ông để
lại cho nền văn học Việt Nam thì "Số đỏ" được xem là cuốn tiểu thuyết
đặc sắc không chỉ thành công về mặt nội dung mà còn thành công về
bình diện nghệ thuật trong đó ngôn ngữ mang tính trào phúng được xem
là một trong những yếu tố góp phần làm lên sự thành công cho tác phẩm.
Với giọng điệu hài hước, đùa giỡn, bỡn cợt, Vũ Trọng Phụng đã phơi bày
mặt trái của xã hội đương thời với những thói hư tật xấu không gì là
không có, qua đó ta thấy được ông đã xây dựng tính cách nhân vật một
cách độc đáo và không kém phần tinh tế. Vũ Trọng Phụng đã thay đổi
một số quan niệm văn học từ trước đó với tư tưởng và đường lối mới,
ngày đầu tiên có thể chỉ riêng ông đi trên con đường ấy nhưng đến cuối

cùng những lỗ lực mà ông mang đến cho văn học Việt Nam hiện đại đã
được chấp nhận và ủng hộ rất nhiều. Chính Vũ Trọng Phụng đã từng nói
“các ông muốn tiểu thuyết cứ là tiểu thuyết. Tôi và các nhà văn cùng chí
hướng với tôi muốn tiểu thuyết là sự thật ở đời”. Chính vì thế ngôn ngữ
trào phúng trong tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng luôn là đề tài nhận
được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu, các nhà phê bình văn học.
1.2.

Lý do chủ quan
2


2.

Trong chương trình học THPT thì tác giả Vũ Trọng Phụng cũng là
một trong các nhà văn nhà thơ lớn trong nền văn học Việt Nam được đưa
vào chương trình giảng dạy. Qua đó ta thấy được trong chương trình lớp
11 qua tác phẩm “ Hạnh Phúc Của Một Tang Gia ” trích trong tác phẩm “
Số đỏ ” . Một phần nào đã cho ta thấy sự quan trọng của ông trong nền
văn học Việt Nam. Cũng từ đó, việc nghiên cứu về tác phẩm Số đỏ của
ông trở nên ngày càng nhiều.
Khi đó lựa chọn đề tài này nhằm bổ sung kiến thức học tập và mở
rộng sự hiểu biết của mình về Vũ Trọng Phụng . Và tiếp theo là cũng gần
gủi với nghành mình theo học.
Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nhắc đến Vũ Trọng Phụng người ta nghĩ ngay tới một nhà văn tài hoa
nhưng bạc mệnh. Có năng khiếu nghệ thuật từ nhỏ, ông sáng tác từ rất sớm và
thử nghiệm mình trên nhiều thể loại: viết báo, viết kịch, sáng tác truyện ngắn,
truyện vừa, tiểu thuyết, phê bình văn học… Nhưng có thể nói, tiểu thuyết và
phóng sự là hai thể loại thành công nhất của nhà văn tài hoa này. Vũ Trọng

Phụng được báo giới thời bấy giờ mệnh danh là “ông vua phóng sự đất Bắc”, là
“nhà tiểu thuyết trác việt”.
Với giọng văn sắc sảo, mang đậm chất châm biếm, trào phúng và nội dung
tư tưởng sâu sắc, các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng đều hướng tới chủ đề hiện
thực, tố cáo và vạch trần xã hội Việt Nam trước cách mạng tháng 8 - một xã hội
bê bối với những tấn trò đời bi kịch. Đọc những trang văn của ông, người ta
không khỏi ngậm ngùi, chua chát. Vũ Trọng Phụng để lại trong làng văn và
trong lòng độc giả một chỗ trống không dễ gì khỏa lấp. Cho nên đã thu hút
được nhiều nhà phê bình văn học nghiên cứu và đánh giá về ông :
Có thể thấy rõ, từ Dứt tình tới Số đỏ giọng kể đã hoàn toàn thay đổi.
Trong Số đỏ, ngôn ngữ kể chuyện cũng như ngôn ngữ nhân vật đậm chất khẩu
ngữ (Khẩu ngữ tự nhiên là một hiện tượng ngôn ngữ luôn trở đi trở lại trong
ngôn ngữ thường ngày). Bằng việc sử dụng điêu luyện khẩu ngữ tự nhiên, Vũ
Trọng Phụng đã khiến Số đỏ “tươi rói một thứ ngôn ngữ của đời sống” (9). Điều
này khiến cho thế giới phi lý của Số đỏ có vẻ mang bóng dáng đời thường hợp
lý.
Như vậy, có thể thấy rằng với trí tưởng tượng đặc sắc và năng lực bố cục
bậc thầy ở mọi cấp độ, Vũ Trọng Phụng đã khiến nhiều bạn đọc dao động giữa
các chiều kích của hiện thực. Số đỏ là sự kết hợp nhuần nhuyễn đáng kinh ngạc
giữa thực và hư, giữa hợp lý và phi lý, giữa cái bình thường và cái dị thường…
Người đọc có cảm tưởng rằng, câu chuyện hài hước khó tin này được thôi ra từ
đời sống thường ngày, từ một thực tại mà họ đang trải nghiệm từng giây, từng
3


phút và đồng thời cũng có lúc ngờ ngợ nó tràn ngập “bịa đặt, dựng truyện”.
Xem ra, định dạng hiện thực trong Số đỏ không hề đơn giản. Sau gần một thế
kỷ, hiện thực trong tác phẩm trào phúng này vẫn là một thách thức đối với bạn
đọc cũng như các nhà nghiên cứu phê bình. [ trang 307 ]
Số đỏ, ta cũng nhận thấy tuyệt tác trào phúng này tràn ngập những chi tiết

ngoại lệ và tác giả của Số đỏ cũng luôn chọn những tình huống hiện thực hiếm
hoi và đặt nhân vật của mình vào trong những tình huống khách quan tâm lý rất
khác thường. Đó là giây phút bà Phó Đoan gật gù vì mình đã hư hỏng một cách
khoa học, là cuộc tranh cãi của lang Tỳ và lang Phế, là cái ham muốn được
người khác đấm vào mặt của cố Hồng… Tóm lại là những hành động và ý nghĩ
bất thường của hầu như tất cả các nhân vật trong Số đỏ. Rõ ràng là thế giới
trong Số đỏ mang sắc thái phi lý. Vậy thì lý do gì độc giả của Số đỏ luôn có
những “ảo tưởng” về tính hiện thực đậm nét của nó?
Lý do quan trọng nhất, như đã được đề cập ở phần trên, đó là sự tích hợp,
bố cục tài tình những tình tiết “ngoại lệ” dày đặc. Nó đã phần nào làm mờ đi sắc
thái phi lý của Số đỏ. Có thể thấy, Vũ Trọng Phụng là một nhà văn bậc thầy về
bố cục. Chỉ cần đọc một loạt những tên chương của ông cũng có thể nhận ra. Từ
chương I đến chương XX, các tên chương gồm có 3 tiêu đề không ăn nhập với
nhau. Chẳng hạn tên của chương V:
Bài học tiến bộ của Xuân tóc đỏ
Quan điểm về gia đình và xã hội
Vâng, tôi là một người chồng mọc sừng
Hay là chương XIX:
Ôi nhân tình thế thái
Người bạn gái trung thành
Chết, quan đốc Xuân nổi giận
Nếu đọc liền một mạch tên của hai mươi chương chúng ta có thể thấy rõ
dụng ý của tác giả. Từ những tiêu đề khác thường này độc giả có thể hình dung
ra ngay đây là một tác phẩm trào phúng. Chúng tạo nên một mạch ngầm xuyên
suốt cuốn tiểu thuyết. Mạch ngầm này giống như một cái trục mà toàn bộ cấu
trúc của tác phẩm có thể xoay trên đó. Nó góp phần quan trọng để Số đỏcó một
bố cục chặt chẽ. Đương nhiên, ở đây bố cục không chỉ ở cấp độ vĩ mô, mà ở
từng cấp độ nhỏ hơn ông cũng xử lý rất chắc tay. Nếu để ý kỹ, ta sẽ nhận thấy
những câu văn lộn xộn của mỗi tên chương tuy không ăn nhập với nhau về nội
dung nhưng khi đọc lên nghe rất thuận tai, thậm chí là giòn giã. Diễn ngôn trực

tiếp đan xen diễn ngôn gián tiếp và gián tiếp tự do tạo nên một lối hành ngôn
khấp khểnh nhưng rất khơi gợi và cuốn hút. Những sắp đặt này không thể do vô
4


tình, nói một cách khác, đó là dụng ý của của tác giả. Trên đây, chúng tôi chỉ
phân tích tên các chương trong Số đỏ như là một ví dụ về năng lực bố cục. Còn
rất nhiều yếu tố khác bộc lộ tính bố cục chặt chẽ, hoàn hảo trong tác phẩm: phát
triển nội dung cốt truyện, tần suất xuất hiện hợp lý của các nhân vật chính, phụ,
sự phát triển hợp logic nội tại ở mỗi nhân vật… và đặc biệt là ở giọng kể đặc
biệt của Số đỏ. Giọng kể này được tạo dựng bằng lối hành ngôn bình dân, suồng
sã đậm chất uymua. Đây cũng là một lý do quan trọng khiến cho bạn đọc có “ảo
tưởng” về tính hiện thực đậm nét của Số đỏ…
Thực ra xét đến cùng, sử dụng ngôn ngữ cũng không nằm ngoài thao tác
bố cục: sắp xếp các từ trong một câu, sắp xếp các câu trong một đoạn văn, sắp
xếp các đoạn văn trong một chương… Nhưng vì ngôn ngữ trong Số đỏ là một
hiện tượng đặc biệt nên chúng tôi xin dành riêng một phần để bàn luận. Nhà
nghiên cứu Đỗ Đức Hiểu có lý khi cho rằng “ngôn từ của Vũ Trọng Phụng vẽ ra
trước mặt mọi người một vùng hoang tưởng khủng khiếp”, nhưng cũng cần phải
nói thêm rằng, chính nghệ thuật sử dụng ngôn từ của tác giả đã khoác cho Số
đỏ một lớp áo hiện thực tuy mong manh nhưng cũng đủ làm cho thế giới phi lý
của nó mờ nhạt đi phần nào. Sau đây, chúng ta sẽ khảo sát một đoạn đối thoại
giữa lang Tỳ và lang Phế. Tất cả có 17 lời thoại bắt đầu từ câu “Cụ lang Phế
cũng nói ra ý bóng gió” đến “sao anh không cho sạch mấy nốt ghẻ ở mình cô
Tuyết đi”. Trong đó, trong 9 lời là của lang Phế và 8 lời của lang Tỳ. Tác giả đã
thực sự tạo ra được một cuộc tranh cãi tương tài tương sức giữa hai ông lang bất
tài và ngoa ngoắt. Ý đối ý chan chát, nếu bớt đi lời dẫn chuyện của tác giả xen
vào kiểu như: “Cụ Phế giơ hai tay phân bua với mọi người” hay “Nhưng cụ Tỳ
thản nhiên ngồi xuống ghế, đủng đỉnh nói” thì đoạn đối thoại giống hệt đối
thoại trong kịch. Chỉ cần thêm tên của nhân vật ở đầu câu chúng ta sẽ có đoạn

đối thoại đạt tiêu chuẩn đối thoại trong kịch bản.
Lang Tỳ: Lang băm? Có lẽ! Nhưng không làm đọa thai người nào thì thôi.
Lang Phế: À! Anh to gan nhỉ? Nói nữa ? Nói nữa đi xem nào?
Lang Tỳ: Chứ lại sợ à? Nói tại Sở Liêm phóng cho mà xem!
Lang Phế: Này không phải dọa! Chưa chắc đâu! Hỏi cái đứa nào đánh
mộng mà đến nỗi lòi con ngươi người ta ra, nó đây kia! Nó đây kia!
Lang Tỳ: Số nó mù thì anh bảo sao? Anh muốn tôi nhắc đến cái thằng bé
sài suyễn mà anh chữa bằng lá ô nhĩ mãi không?
Lang Phế: Sao không nói đến bệnh chẩn kinh của Phó Đoan mà anh cứ
kêu là có chửa?
Lang Tỳ: Anh là thằng khốn nạn nhé! Thế cô Nga đây kia hôi nách mà anh
chữa bằng dầu bạc hà trong sáu tháng giời không khỏi thì sao?
5


Lang Phế: Sáu tháng? Thế trong ba năm giời sao anh không cho sạch mấy
nốt ghẻ ở mình cô Tuyết kia đi?
Chỉ cần đọc một phần trong cuộc tranh cãi của lang Tỳ, lang Phế ta đã thấy
đoạn đối thoại này đầy ắp hành động (full of action). Ở đây, từ hành động được
dùng như một thuật ngữ sân khấu. Có thể hiểu rộng ra đó là cơ hội để diễn xuất
(một trong những nghĩa chính của động từ act trong tiếng Anh là diễn xuất). Có
thể thấy lời nói - diễn ngôn trực tiếp của hai thầy lang trên tạo ra rất nhiều đất
diễn cho diễn viên nếu như cuốn tiểu thuyết này được chuyển thể thành kịch.
Một vở kịch full of action là một vở kịch diễn viên có thể diễn xuất thuận lợi từ
đầu đến cuối. Nó liên tục tạo ra xung đột (conflict) khiến cho vở kịch có một
sức lôi cuốn rất đặc trưng của sân khấu. Từ conflict ở đây không nên hiểu theo ý
độ căng của cốt truyện, cái mà định hình hay thúc đẩy sự vận động của cốt
truyện. Nó đơn giản chỉ là sự bất đồng, va chạm giữa các ý kiến. Tóm lại, có thể
hiểu vắn tắt, xung đột ở đây chính là sự va đập liên tục giữa nhũng phát ngôn
của các nhân vật. Phát ngôn của nhân vật thứ nhất phải là cái cớ để phát ngôn

của nhân vật thứ hai ra đời, rồi sau đó phát ngôn của nhân vật thứ hai phải được
tạo ra sao cho trở thành cái cớ để nhân vật thứ nhất bật lại tiếp. Sự bật qua bật
lại này là không thể thiếu được trong đối thoại kịch bản. Như vậy là đoạn đối
thoại giữa lang Tỳ và lang Phế không chỉ là những lời cãi cọ đốp chát điêu
ngoa. Xem xét kỹ hơn, ta thấy nó đã được kịch hóa. Trong Số đỏ có nhiều đoạn
đối thoại được kịch hóa như thế này, chẳng hạn giữa Xuân và Tăng Phú, Xuân
và cô hàng mía… nhưng có lẽ dài hơi nhất vẫn là cuộc tranh cãi về “y thuật”
của hai thầy lang vườn. Nếu Số đỏ được dựng thành kịch theo tinh thần bám sát
nguyên tác, khả năng đoạn tranh cãi này sẽ tạo được nhiều sự hứng thú cho
khán giả nhất. Bên cạnh tiểu thuyết và truyện ngắn, Vũ Trọng Phụng có viết
một số kịch bản như Không một tiếng vang, Phân bua, Cái chết bí mật của
người trúng số độc đắc… Kịch bản là một lĩnh vực sáng tác có nhiều khác biệt
so với tiểu thuyết. Tính bố cục được đặt lên hàng đầu vì đặc trưng của kịch là
chỉ trình diễn một lần, sau đó khán giả sẽ ra về, còn tiểu thuyết thì có thể đọc đi
đọc nhiều lần. Nếu kịch bản bố cục yếu thì khi dựng thành kịch sẽ gây khó hiểu
hoặc hiểu nhầm cho người xem. Vũ Trọng Phụng đã từng thử sức ở lĩnh vực
kịch bản nên không có gì khó hiểu khi Số đỏ được ông viết chắc tay đến như
vậy. Trong quãng thời gian làm báo Vũ Trọng Phụng đã từng cho ra mắt một bài
viết có nhan đề Cái đặc tính của kịch lãng mạn. Trong đó, ông so sánh sự giống
và khác nhau giữa kịch lãng mạn và cổ điển. [ trang 579 ]

6


Có lẽ, Nguyễn Huy Thiệp là một trong số ít bạn đọc không bị “mắc lừa”
tác giả của Số đỏ. Ông nhận ra tuyệt tác trào phúng này mang đầy màu sắc “bịa
đặt”, “dựng chuyện” , đó là sản phẩm của một trí tưởng tượng đặc biệt phong
phú.
Số đỏ được xếp vào dòng văn học hiện thực phê phán, nhưng nội dung của
nó thật khác biệt so với những tác phẩm Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Ngô

Tất Tố… Cả tính hiện thực cũng như phê phán của Số đỏ xem chừng mong
manh hơn so với những tác phẩm hiện thực phê phán cùng thời. Thực ra, kể cả
khi xếp Số đỏ vào bên cạnh những tác phẩm hiện thực cổ điển thì tính hiện thực
của nó dường như cũng mong manh. Khai thác tính hiện thực của Số đỏ là một
thách thức đối với những nhà nghiên cứu phê bình. Liệu có phải nó được viết ra
với mục đích lên án xã hội thượng lưu thuộc địa nửa phong kiến hay không?
Nếu có, tại sao những nhân vật “nhố nhăng” của tác giả lại không khiến người
ta ác cảm. Phải chăng, tiếng cười đặc sắc xuyên suốt tác phẩm đã góp phần xóa
nhòa ranh giới giữa thiện - ác, chánh - tà?
Có thể thấy rằng, hiện thực trong Số đỏ là một ẩn số. Nhà nghiên cứu Đỗ
Đức Hiểu đã từng có nhận xét tinh tường về Số đỏ, ông cho rằng “ngôn từ của
Vũ Trọng Phụng vẽ ra trước mặt mọi người một vùng hoang tưởng khủng
khiếp” . [ trang 117 ].
Qua đấy ta có thể thấy được ngôn từ của Vủ Trọng Phụng thật sự rất phong
phú và đa dạng, tạo nên một nét độc đáo riêng trong phong cách ngôn ngữ của
ông đó là giọng văn trào phúng châm biếm xã hội của mình.
Tuy rằng có nhiều công trình nghiên cứu về Vủ Trọng Phụng dưới nhiều
góc độ khác nhau nhưng về giọng điệu văn chương Vủ Trọng Phụng thì chưa có
một công trình nghiên cứu nào là cụ thể và chuyên sâu. Vủ Trọng Phụng viết
nhiều và viết hay, cho ta cái nhìn sâu sắc và cụ thể về nội dung yêu nước thời
bấy giờ thông qua những trào phúng châm biếm xã hội cho nên người nghiên
cứu hy vọng thông qua đề tài này có thể đem đến cho người đọc một cái nhìn cụ
thể hơn về “ngôn ngữ trào phúng của Vủ Trọng Phụng ”.

3.

Mục đích nghiên cứu

7



4.

5.

Nghiên cứu đề tài “ Ngôn ngữ trào phúng của Vũ Trọng Phụng trong tiểu
thuyết Số đỏ ” thì người nghiên cứu nhằm hướng đến những mục tiêu sau:
Thứ nhất, là đề tài giúp người nghiên cứu hiểu rỏ hơn về ngôn ngữ trào
phúng của nhà văn Vũ Trọng Phụng trong tiểu thuyết Số đỏ, phê phán cái xã
hội thối nát trước cách mạng tháng Tám đồng thời cũng lên án cái hiện thực mà
xã hội của ông đang sống lúc bấy giờ.
Thứ hai, việc nghiên cứu đề tài này nhằm bổ sung kiến thức cho bản thân
trong quá trình học tập ngoài ra còn giúp cho tôi làm tốt hơn về kỷ năng phân
tích, tổng hợp, đánh giá, các tác phẩm và nhất là trong việc nghiên cứu đề tài.
Thứ ba, người nghiên cứu muốn góp một phần nhỏ vào việc nghiên cứu
giá trị của ngôn ngữ trào phúng của nhà Vũ Trọng Phụng. Đồng thời, việc
nghiên cứu đề tài giúp người nghiên cứu tích lũy thêm kiến thức sâu hơn, toàn
diện hơn về tác giả mà mình yêu thích, và tạo điều kiện thuận lợi cho công tác
giảng dạy về nhà văn Vũ Trọng Phụng sau này.
Thông qua những mục đích đó để xác định các cơ sở lý thuyết, thực tiễn về
đối tượng nghiên cứu của cả đề tài là “ ngôn ngữ trào phúng của Vũ Trọng
Phụng trong tiểu thuyết Số đỏ ”.
Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1.
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu trong đề tài này là ngôn ngữ trào phúng của
Vủ Trọng Phụng qua tiểu tuyết Số đỏ.
4.2.
Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi đề tài, người nghiên cứu sẽ khảo sát tìm hiểu và đưa ra

những phạm vi thuộc tiểu thuyết thuyết Số đỏ của Vũ Trọng Phụng chúng
ta đi sâu tập trung lời văn của tác giả trong tác phẩm, đặc biệt chú trọng
vào các lời thoại của các nhân văn có tính trào phúng trong tác phẩm.
Phương pháp nghiên cứu
Đầu tiên, đây là một đề tài mà chúng ta nghiên cứu về ngôn ngữ trào
phúng của Vũ Trọng Phụng qua tác phẩm Số đỏ, nên người nghiên cứu cần tìm
đọc những tài liệu có liên quan đến tác phẩm đặc biệt những tài liệu nói đến
ngôn ngữ trào phúng của nhà văn. Chúng ta sử dụng phương pháp thu thập, và
xử lý thông tin liên quan đến đề tài của người nghiên cứu.
Sau đó thống kê những luận điểm, luận cứ làm nổi bật và cụ thể hóa phạm
vi mà đề tài nói đến.
Tiếp theo, sau khi đã khảo sát, thống kê thì người nghiên cứu sẽ dùng
phương pháp phân tích, chứng minh nhằm làm rõ những luận điểm, luận cứ đã
được nêu trên.

8


6.

7.

Cuối cùng, người nghiên cứu dùng phương pháp so sánh để so sánh đặc
điểm của ngôn ngữ trào phúng của Vũ Trọng Phụng với ngôn ngữ trào phúng
của các nhà văn khác.
Đóng góp của đề tài
Khi nghiên cứu đề tài này người nghiên cứu hy vọng sẽ có những đóng
góp sau:
 Về lí luận :
Trên cơ sở đi khảo sát về các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng,

người nghiên cứu nhận thấy về ngôn ngữ của ông trong sáng tác thì
rất là đa dạng. Đề tài đã chỉ ra những điểm đa dạng ấy để từ đó giúp
giáo viên cũng như học sinh hiểu thêm về ngôn ngữ trong tác phẩm
của Vủ Trọng Phụng.
Đề tài cũng chỉ ra những nét đặc sắc về mặt nghệ thuật đã chi
phối tới ngôn ngữ trào phúng của nhà văn Vũ Trọng Phụng.
 Về thực tiển :
Đồng thời, thông qua đề tài thì người nghiên cứu cũng muốn
khẳng định sự đóng góp quan trọng của nhà văn Vũ Trọng Phụng
trong nền văn học Việt Nam giai đoạn thế kỷ XX, đặc biệt là về
giọng điệu trào phúng của nhà văn Vũ Trọng Phụng. Kết quả của đề
tài nghiên cứu này cũng sẽ giúp người nghiên cứu rất nhiều trong
quá trình học tập cũng như trong quá trình giảng dạy sau này.
Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chính của đề tài bao gồm:
Chương 1: Những vấn đề khái quát chung
Chương 2: Yếu tố trào phúng trong lời văn của Vũ Trọng Phụng trong
tiểu thuyết Số đỏ
Chương 3: Đặc sắc của ngôn ngữ trào phúng
Cuối cùng là phần phụ lục, tài liệu tham khảo.

9


1.

2.
3.

Tài liệu tham khảo

Nguyễn Hoài Thanh, Chất khẩu ngữ trong lời văn phóng sự của Vũ Trọng
Phụng, Bản sắc hiện đại trong tác phẩm của Vũ Trọng Phụng, Nxb. Văn
học, H., 2003, tr. 307.
Xem Cái đặc tính của kịch lãng mạn, Vũ Trọng Phụng toàn tập, quyển 1,
Nxb. Văn học, H., 2004, tr. 579.
Đỗ Đức Hiểu, Những lớp sóng ngôn từ trong Số đỏ, Vũ Trọng Phụng tài
năng và sự thật, Nxb. Văn học, H., 1997, tr. 117.

10



×