Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Thỏa thuận lựa chọn tòa án giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 83 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

NGUYN TH LOAN

THỏA THUậN LựA CHọN TòA áN
GIảI QUYếT TRANH CHấP THƯƠNG MạI QUốC Tế
Chuyờn ngnh: Lut quc t
Mó s: 60 38 01 08

LUN VN THC S LUT HC

Cỏn b hng dn khoa hc: TS. NGUYN TIN VINH

H NI - 2015


MỤC LỤC

Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA THỎA THUẬN LỰA CHỌN
TÒA ÁN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƢƠNG MẠI
QUỐC TẾ ............................................................................................ 6
1.1.

Khái niệm giải quyết tranh chấp thƣơng mại quốc tế bằng tòa án ..... 6



1.1.1. Tranh chấp thương mại quốc tế ............................................................ 6
1.1.2. Giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng tòa án ...................... 10
1.2.

Các tiêu chí xác định thẩm quyền của tòa án giải quyết tranh
chấp thƣơng mại quốc tế .................................................................. 12

1.2.1. Tiêu chí quốc tịch của đương sự ......................................................... 12
1.2.2. Tiêu chí lãnh thổ ................................................................................. 13
1.2.3. Một số tiêu chí khác ............................................................................ 14
1.2.4. Tiêu chí sự thỏa thuận của các bên ..................................................... 17
1.3.

Quyền thỏa thuận của các bên với tƣ cách là tiêu chí xác định
thẩm quyền của tòa án...................................................................... 17

1.3.1. Cơ sở pháp lý của thỏa thuận lựa chọn tòa án giải quyết tranh chấp
thương mại quốc tế.............................................................................. 17
1.3.2. Khái niệm thỏa thuận lựa chọn tòa án ................................................ 19
1.3.3. Phân loại thỏa thuận lựa chọn tòa án .................................................. 23


1.3.4. Ý nghĩa của việc thừa nhận quyền thỏa thuận của các bên trong
xác định thẩm quyền của tòa án .......................................................... 28
Chƣơng 2: THỎA THUẬN LỰA CHỌN TÒA ÁN GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ THEO PHÁP
LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT NƢỚC NGOÀI ................... 30
2.1.


Hiệu lực của thỏa thuận lựa chọn tòa án ........................................ 30

2.1.1. Phạm vi thỏa thuận.............................................................................. 30
2.1.2. Hình thức thỏa thuận ........................................................................... 35
2.2.

Hệ quả của việc thừa nhận thỏa thuận lựa chọn Tòa án .............. 39

2.2.1. Hệ quả về mặt xác định thẩm quyền của Tòa án ................................ 39
2.2.2. Hệ quả về công nhận và thi hành phán quyết của Tòa án .................. 42
Chƣơng 3: THỎA THUẬN LỰA CHỌN TÒA ÁN GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ TẠI VIỆT NAM .... 49
3.1.

Thực trạng pháp luật và thực tiễn giải quyết về thỏa thuận lựa
chọn tòa án tại Việt Nam .................................................................. 49

3.1.1. Quyền thỏa thuận lựa chọn Tòa án theo quy định của pháp luật
Việt Nam ............................................................................................. 49
3.1.2. Thực tiễn giải quyết về thỏa thuận lựa chọn tòa án tại Việt Nam............ 53
3.2.

Một số giải pháp, kiến nghị hoàn thiện và tăng cƣờng thực thi
pháp luật ............................................................................................ 56

3.2.1. Phương hướng chung .......................................................................... 56
3.2.2. Thừa nhận Thỏa thuận chọn Tòa án trong Bộ luật tố tụng dân sự
và văn bản chuyên ngành .................................................................... 59
3.2.3. Xem xét việc gia nhập Công ước Lahay về thỏa thuận lựa chọn
tòa án 2005 .......................................................................................... 64

3.2.4. Một số kiến nghị về thực thi pháp luật đối với doanh nghiệp ............ 69
KẾT LUẬN .................................................................................................... 73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 75


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLDS:

Bộ luật dân sự

ECJ:

Tòa án công lý Châu Âu

(European Court of Justice)

EU:

Liên minh Châu Âu

(European Union)

TTDS:

Tố tụng dân sự

YTNN:

Yếu tố nước ngoài



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Xung đột pháp luật và xung đột thẩm quyền là hai vấn đề quan trọng
nhất trong tư pháp quốc tế. Trong các tranh chấp hợp đồng thương mại
quốc tế, hay còn gọi là hợp đồng có yếu tố nước ngoài, một trong những
vấn đề đầu tiên cần phải giải quyết là vấn đề xung đột thẩm quyền xét xử.
Việc xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp hợp đồng thương mại quốc
tế có ý nghĩa vô cùng quan trọng, có ảnh hưởng tới cả quá trình cũng như
kết quả giải quyết tranh chấp.
Nhằm kiểm soát rủi ro, các bên thường tìm cách thỏa thuận trước về
phương thức cũng như cơ quan giải quyết tranh chấp phát sinh từ giao dịch
giữa họ. Trong một số trường hợp, các bên sẽ đưa tranh chấp ra trọng tài.
Trong những trường hợp khác, các bên sẽ đồng ý khởi kiện tranh chấp trước
tòa án được các bên thỏa thuận. Xuất phát từ tính chất của quan hệ tư, trên thế
giới hiện nay, hầu hết các quốc gia đã cho phép các bên thỏa thuận lựa chọn
Tòa án phù hợp để giải quyết tranh chấp, miễn sao thỏa thuận đó phù hợp với
quy định của pháp luật nước được lựa chọn. Điều này đã trở nên quan trọng
và phổ biến trong các giao dịch thương mại quốc tế
Thỏa thuận lựa chọn tòa án có thể giúp các bên tránh được việc xét xử
tốn kém và tiết kiệm thời gian. Mặt khác, mỗi quốc gia lại có các quy định về
tố tụng tòa án khác nhau, dẫn đến quy trình tố tụng và kết quả giải quyết tranh
chấp cũng có thể khác nhau. Thỏa thuận lựa chọn tòa án cho phép các bên có
chiến lược lựa chọn tòa án với các quy định về thủ tục và chứng cứ thuận lợi
nhất cho mình nhất.
Liên hệ đến Việt Nam hiện nay, do thực tiễn hội nhập kinh tế, các

1



quan hệ thương mại quốc tế trở nên phổ biến và nhu cầu giải quyết tranh
chấp là điều tất yếu. Phương thức giải quyết tranh chấp bằng Tòa án cũng
cần được quy định linh hoạt, phù hợp với thực tiễn quan hệ thương mại và
đảm bảo quyền lợi nhất cho các bên. Tuy nhiên, Bộ luật tố tụng dân sự hiện
hành chưa có quy định nào cho phép các bên thỏa thuận về vấn đề này. Một
số văn bản pháp luật khác có những quy định đơn lẻ, mang tính nguyên tắc,
chưa thực sự rõ ràng.
Đến thời điểm hiện tại Việt Nam chưa gia nhập bất cứ điều ước quốc tế
đa phương nào về vấn đề xác định thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế mà chủ
yếu ký kết các Hiệp định tương trợ tư pháp song phương với các quốc gia.
Tuy nhiên, trong số các Hiệp định tương trợ tư pháp đã ký kết đến thời điểm
này chỉ có một số Hiệp định tương trợ tư pháp có quy định cho phép các bên
lựa chọn cơ quan giải quyết tranh chấp khác với Tòa án Việt Nam
Từ những cơ sở trên, việc nghiên cứu vấn đề “thỏa thuận lựa chọn tòa
án giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế” là rất cần thiết cho việc nghiên
cứu cũng như thực tiến đặt ra trong bối cảnh hiện nay, nhằm xây dựng một
chế định về thỏa thuận lựa chọn tòa án cho Việt Nam trong tương lai và việc
áp dụng nó vào thực tế.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu tổng quát
Luận văn nghiên cứu nhưng quy định về thỏa thuận lựa chọn Tòa án
trong các Công ước và pháp luật của một số quốc gia cũng như Việt Nam
trong mối tương quan so sánh, nhằm định hướng cho việc xây dựng và hoàn
thiện chế định thỏa thuận tòa án tại Việt Nam cũng như việc thực thi chế định
này trên thực tế.

2



2.2. Mục tiêu cụ thể
- Khái quát nhằm có một cái nhìn toàn diện về thỏa thuận lựa chọn tòa
án giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế;
- Nghiên cứu sâu các vấn đề cụ thể để hiểu rõ bản chất, cơ sở pháp lý,
nội dung, phạm vi, hệ quả của quyền thỏa thuận lựa chọn tòa án trong việc
giải quyết các tranh chấp thương mại quốc tế;
- Đề ra những đề xuất, giải pháp mang tính định hướng để hoàn thiện
hệ thống pháp luật Việt Nam về thỏa thuận lựa chọn tòa án đối với tranh chấp
thương mại quốc tế.
3. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Hiện nay, vẫn chưa có nghiên cứu nào bài bản, nghiên cứu một cách
chuyên sâu về đề tài này, các bài nghiên cứu đang có chỉ mới đề cập một cách
rất sơ khai. Do đó, luận văn sẽ khái quát hóa và nghiên cứu có hệ thống, đồng
thời chỉ ra những vấn đề quan trọng và đưa ra những giải pháp định hướng
liên quan đến vấn đề này cho pháp luật và thực tiễn tại Việt Nam.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu quy định pháp luật và thực tiễn về thỏa
thuận lựa chọn tòa án với tư cách là tiêu chí xác định thẩm quyền của tòa án
trong việc giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế mà chủ thể chủ yếu là các
doanh nghiệp.
Việc nghiên cứu tập trung vào những vấn đề cốt lõi của thỏa thuận lựa
chọn tòa án nằm trong phạm vi các quy định trong Công ước Lahay 2005 về
thỏa thuận lựa chọn tòa án, Quy chế Brussel I sửa đổi của Hội đồng Châu Âu,
quy định pháp luật và thực tiễn ở một số quốc gia như Pháp, Anh, Hoa Kỳ…
về thỏa thuận lựa chọn tòa án. Từ đó, so sánh với thực trạng pháp luật Việt
Nam hiện nay.
3


5. Tổng quan tình hình nghiên cứu

Thời điểm hiện tại, Việt Nam có một số nghiên cứu về cơ chế giải
quyết tranh chấp cũng như thẩm quyền của tòa án trong tư pháp quốc tế nói
chung và thẩm quyền của tòa án theo thỏa thuận lựa chọn tòa án của các bên
đương sự nói riêng.
Một số nghiên cứu liên quan đến những vấn đề chung về thẩm quyền
của tòa án trong đó một phần đề cập đến vấn đề về quyền thỏa thuận lựa chọn
tòa án, như Luận án tiến sĩ “Cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại quốc
tế” năm 2013 của tác giả Đồng Thị Kim Thoa, Luận văn thạc sỹ “Giải quyết
tranh chấp hợp đồng thương mại quốc tế bằng Tòa án” năm 2010 của
Nguyễn Thị Thoa, Luận văn thạc sỹ “Pháp luật quốc tế và pháp luật nước
ngoài về giải quyết tranh chấp dân sự có yếu tố nước ngoài bằng tòa án –
những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam” năm 2012 của Lê Quang Minh
Bên cạnh đó, có một số nghiên cứu nội dung chính liên quan đến vấn
đề thỏa thuận lựa chọn tòa án của các bên đương sự. Cụ thể, “Quyền thỏa
thuận lựa chọn tòa án giải quyết tranh chấp dân sự có yếu tố nước ngoài”
của Bành Quốc Tuấn trên Tạp chí Khoa học Đại học quốc gia Hà Nội, Luật
học 28 (2012), “Thỏa thuận lựa chọn tòa án trong giải quyết tranh chấp
thương mại quốc tế” của Trần Thị Thu Phương, Tạp chí luật học số 3/2015.
Tuy vậy, mặc dù các nghiên cứu trên đã phần nào hoặc có nội chính
phân tích về quyền thỏa thuận lựa chọn tòa án nhưng vẫn cần có những
nghiên cứu cụ thể và hệ thống hơn . Do vậy, Luận văn sẽ nghiên cứu phát
triển vấn đề này một cách khái quát hóa và chuyên sâu hơn.
6. Nội dung và phƣơng pháp nghiên cứu
6.1. Nội dung nghiên cứu
Dựa trên những mục tiêu ở trên, nội dung nghiên cứu bao gồm:

4


- Nghiên cứu một cách khái quát về Thỏa thuận lựa chọn tòa án như

khái niệm, phân loại thỏa thuận lựa chọn tòa án;
- Nghiên cứu về các vấn đề phạm vi, điều kiện hiệu lực và hệ quả của
việc thỏa thuận lựa chọn tòa án theo các Công ước cũng như pháp luật của
một số nước tiêu biểu;
- Nghiên cứu các quy định của pháp luật cũng như thực tiễn tại Việt Nam.
6.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu dựa trên phương pháp duy vật biện chứng và
phương pháp duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh. Đồng thời, việc nghiên cứu dựa trên đường lối chính sách của Đảng
về xây dựng nhà nước pháp quyền, thực hiện cải cách tư pháp, thúc đẩy hội
nhập quốc tế.
Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng các phương pháp phân tích, hệ
thống hóa, phương pháp so sánh, phương pháp tổng hợp, đánh giá để giải
quyết các vấn đề của đề tài đặt ra.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của thỏa thuận lựa chọn tòa án giải quyết
tranh chấp thương mại quốc tế.
Chương 2: Thỏa thuận lựa chọn tòa án giải quyết tranh chấp thương
mai quốc tế theo pháp luật nước ngoài và pháp luật quốc tế
Chương 3: Thỏa thuận lựa chọn tòa án giải quyết tranh chấp thương
mại quốc tế tại Việt Nam.

5


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA THỎA THUẬN LỰA CHỌN TÒA ÁN
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ

1.1. Khái niệm giải quyết tranh chấp thƣơng mại quốc tế bằng tòa án
1.1.1. Tranh chấp thương mại quốc tế
Có thể hiểu một cách khái quát, tranh chấp trong hoạt động thương mại
là những mâu thuẫn, bất đồng giữa các bên tham gia quan hệ thương mại mà
chủ yếu liên quan đến việc thực hiện hoặc không thực hiện các quyền và
nghĩa vụ theo hợp đồng.
Tranh chấp thương mại thường có các yếu tố sau: Có quan hệ thương
mại tồn tại giữa các bên tranh chấp; Có sự vi phạm (hoặc giả thiết vi phạm)
nghĩa vụ của một bên làm ảnh hưởng tới quyền và lợi ích của bên kia; Có sự
bất đồng quan điểm giữa các bên về sự vi phạm hoặc việc xử lý hậu quả phát
sinh từ sự vi phạm. Tranh chấp thương mại thường có yếu tố tài sản, gắn liền
với lợi ích của các bên tranh chấp và phát sinh trực tiếp từ quan hệ hợp đồng.
Do đó, các bên luôn có quyền định đoạt và giải quyết theo nguyên tắc bình
đẳng, thỏa thuận [7].
Hoạt động thương mại, theo khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại Việt
Nam 2005, là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa,
cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục
đích sinh lợi khác.
Hiểu theo nghĩa rộng như Luật mẫu UNCITRAL thì hoạt động
thương mại là việc thực hiện một hay nhiều hành vi thương mại của cá
nhân, tổ chức kinh doanh bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ,
phân phối, đại diện, đại lý thương mại, ký gửi, thuê, cho thuê, thuê mua,

6


xây dựng, tư vấn, kỹ thuật, li xăng, đầu tư, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm,
thăm dò, khai thác, liên doanh và các hình thức khác của hợp tác công
nghiệp hoặc kinh doanh, vận chuyển hàng hóa, hành khách bằng đường
hàng không, đường biển, đường sắt, đường bộ và cá hành vi thương mại

khác theo quy định của pháp luật [7].
Khoản 4 Điều 9 Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ quy định:
“Tranh chấp thương mại là tranh chấp phát sinh giữa các bên trong một giao
dịch thương mại”.
Xuất phát từ tính chất của quan hệ thương mại quốc tế là có liên quan
tới nhiều quốc gia. Giữa các bên tham gia hợp đồng thường có khoảng cách
về địa lý, truyền thống pháp lý và tập quán thương mại thường không giống
nhau. Điều kiện ngoại cảnh ở mỗi nước đều có thể gây ra cho mỗi bên những
khó khăn không lường trước được khi tham gia các quan hệ thương mại có
yếu tố nước ngoài. Do đó, các giao dịch thương mại quốc tế khó tránh khỏi
phát sinh các tranh chấp.
Đối với tranh chấp thương mại quốc tế, đặc điểm cho phép phân biệt
với tranh chấp thương mại trong nước là ở yếu tố “quốc tế”. Yếu tố “quốc tế”
trong quan hệ thương mại ở đây có thể hiểu là “yếu tố nước ngoài” (YTNN),
là một phần trong các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài.
Các nước trên thế giới có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm
“yếu tố nước ngoài” trong quan hệ dân sự nói chung và thương mại nói riêng,
nhưng nhìn chung, để xác định YTNN trong một quan hệ thương mại cụ thể
thường dựa vào một trong ba dấu hiệu. Thứ nhất, khi quan hệ có ít nhất một
bên là chủ thể nước ngoài (dấu hiệu chủ thể). Thứ hai, khách thể của quan hệ
đó là tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài. Thứ ba, sự kiện pháp lý
làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ đó xảy ra ở nước ngoài hoặc
theo pháp luật nước ngoài. Việc nhận diện YTNN trong quan hệ thương mại
7


là hết sức cần thiết. Xác định YTNN không đúng sẽ dẫn đến khó khăn trong
việc giải quyết các vấn đề phát sinh trong thực tiễn.
Công ước Viên 1980 về mua bán hàng hóa quốc tế coi yếu tố “quốc tế”
là trụ sở thương mại ở các nước khác nhau.

Công ước Lahay 1964 về mua bán quốc tế động sản hữu hình, yếu tố
“quốc tế” là chủ thể có trụ sở thương mại ở các nước khác nhau và đối tượng
là hàng hóa được chuyển qua biên giới hoặc việc trao đổi ý chí ký kết hợp
đồng giữa các bên được lập ở những nước khác nhau.
Luật thương mại Việt Nam 2005 không định nghĩa thế nào là một quan
hệ thương mại có YTNN, tuy nhiên, có liệt kê các hình thức của việc mua bán
hàng hóa quốc tế. Theo đó, mua bán hàng hóa quốc tế được thực hiện dưới
các hình thức xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập và
chuyển khẩu.
Theo Luật trọng tài thương mại 2010 “tranh chấp có yếu tố nước ngoài là
tranh chấp phát sinh trong quan hệ thương mại, quan hệ pháp luật khác có yếu
tố nước ngoài được quy định tại Bộ luật dân sự” [20, Điều 3, Khoản 4]. Dẫn
chiếu tới Bộ luật dân sự Việt Nam 2005 cũng có quy định về yếu tố nước
ngoài theo ba dấu hiệu chủ thể, khách thể và sự kiện pháp lý như trên.
Bên cạnh đó, Bộ Luật tố tụng dân sự Việt Nam (BLTTDS) 2004 cũng
có quy định:
Vụ việc dân sự có YTNN là vụ việc dân sự có ít nhất một
trong các bên là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước
ngoài hoặc các quan hệ dân sự giữa các đương sự là công dân, cơ
quan tổ chức Việt Nam nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt
quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài, phát sinh tại nước ngoài hoặc
tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài [15].

8


Đây là điều khá đặc biệt so với Tư pháp quốc tế của một số nước. Cộng
hòa Pháp có hệ thống Tư pháp quốc tế khá phát triển nhưng không có văn bản
nào định nghĩa về khái niệm “yếu tố nước ngoài”. Ba nước có Luật tư pháp
quốc tế ở Châu Âu là Thụy Sỹ, Bỉ, Ý nhưng cả ba bộ luật đều không có khái

niệm này. Riêng Nga là có định nghĩa này trong BLDS như ở Việt Nam.
Pháp luật Việt nam cũng như nhiều nước trên thế giới đều lấy dấu hiệu
quốc tịch để xác định phạm vi các quan hệ thuộc phạm trù điều chỉnh của tư
pháp quốc tế nước mình.
Bên cạnh dấu hiệu chủ thể, để xác định một quan hệ có YTNN cũng
cần xem xét đến dấu hiệu khách thể của quan hệ, cụ thể ở đây là tài sản. Khi
nói đến tài sản liên quan đến quan hệ ở nước ngoài, thường chú ý đến quy chế
pháp lý của tài sản, quyền của các bên đối với tài sản cụ thể đó. Điều này có
nghĩa rằng pháp luật nước ngoài cũng có thể được áp dụng để điều chỉnh quan
hệ liên quan đến tài sản.
Bên cạnh đó, sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ
thương mại cũng là dấu hiệu nhận biết quan hệ thương mại có YTNN. Có thể
hiểu một cách chung nhất, sự kiện pháp lý là những sự kiện thực tế mà sự
xuất hiện thay đổi, hay mất đi của chúng được pháp luật gắn với việc hình
thành thay đổi hay chấm dứt một quan hệ pháp luật. Sự kiện thực tế xuất hiện
sự kiện pháp lý chỉ khi nào pháp luật xác định rõ điều đó.
Đối với các sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt quan
hệ dân sự (trong đó có quan hệ thương mại) có YTNN được mỗi nước quy
định khác nhau, việc thừa nhận hay không thừa nhận một sự kiện thực tế nào
đó là sự kiện pháp lý đều xuất phát từ lợi ích của xã hội, của giai cấp cầm
quyền nước đó.
Hành vi của các chủ thể tham gia quan hệ dân sự (bao gồm cả quan hệ
9


thương mại) nhằm làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ trong
quan hệ bao gồm cả các quyết định của cơ quan có thẩm quyền và hành vi cụ
thể của các chủ thể tham gia quan hệ đó.
Ngoài ba yếu tố trên, cư trú của các bên đương sự cũng là một dấu hiệu
khá quan trọng để xác định quan hệ này.

1.1.2. Giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng tòa án
Giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng tòa án là một trong
những phương thức giải quyết tranh chấp phổ biến và “thường được coi như
là một giải pháp cuối cùng để giải quyết tranh chấp khi các phương thức
thương lượng, hòa giải không có hiệu quả và các bên không muốn sử dụng
phương thức trọng tài” [7].
Việc xác định thẩm quyền của tòa án để giải quyết tranh chấp thương
mại quốc tế là một phần trong tố tụng dân sự quốc tế. Giải quyết tranh chấp
thương mại quốc tế bằng tòa án được hiểu là trình tự, thủ tục giải quyết
một vụ án thương mại có yếu tố nước ngoài tại tòa án và việc đảm bảo thi
hành các bản án, quyết định của tòa án về các tranh chấp thương mại có
yếu tố nước ngoài.
Khi giải quyết tranh chấp thương mại có YTNN luôn làm nảy sinh
vấn đề xung đột về thẩm quyền tòa án giữa các quốc gia. Quá trình giải
quyết tranh chấp thương mại có YTNN chỉ cho phép tòa án áp dụng luật tố
tụng của nước mình ngoại trừ có thỏa thuận khác giữa các quốc gia trong
một giới hạn nhất định.
Trong cơ chế giải quyết tranh chấp bằng tòa án, việc xác định thẩm
quyền xét xử quốc tế của tòa án một quốc gia luôn luôn là vấn đề đầu tiên
được đặt ra và có ý nghĩa quan trọng đối với toàn bộ quá trình giải quyết tranh
chấp. Xuất phát từ nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia và
10


nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia, khi một tranh chấp có yếu tố nước
ngoài phát sinh thì tòa án của hai hay nhiều nước khác nhau có liên quan đến
tranh chấp đều có thể có thẩm quyền giải quyết. Do đó, trên thực tế có thể xảy
ra tình trạng cùng một tranh chấp nhưng tòa án của nhiều nước khác nhau có
liên quan cùng tuyên bố thẩm quyền giải quyết.
Tuy nhiên, một vụ tranh chấp có yếu tố nước ngoài không thể được giải

quyết bởi tòa án của nhiều quốc gia khác nhau. Vì vậy, khi một tranh chấp
được đưa ra tòa án thì điều đầu tiên là tòa án phải xác định vụ việc có thuộc
thẩm quyền của mình không. Sau khi xác định được thẩm quyền của mình,
tòa án mới tiến hành xác định luật áp dụng để giải quyết vụ việc.
Một đặc điểm cho phép phân biệt tố tụng dân sự quốc tế với tố tụng dân
sự trong nước là vấn đề xác định thẩm quyền. Trong khi xác định thẩm quyền
đối với một vụ việc trong nước là việc xác định thẩm quyền của tòa án cụ thể
của quốc gia để xét xử vụ án thì đối với tranh chấp thương mại có YTNN,
việc đầu tiên, chủ yếu và quan trọng nhất là xác định thẩm quyền của tòa án
của quốc gia nào nói chung có thẩm quyền xét xử vụ tranh chấp. Sau khi xác
định được thẩm quyền chung thuộc về tòa án của một quốc gia nhất định, tòa
án sẽ căn cứ vào các quy định của pháp luật tố tụng trong nước để xác định
thẩm quyền cụ thể thuộc tòa án cấp nào, địa phương nào trong việc xét xử vụ
việc. Thực chất đây là quá trình xác định thẩm quyền tư pháp của một quốc
gia đối với một tranh chấp nhất định có liên quan.
Sau khi vụ việc được giải quyết tại một tòa án của một quốc gia thì phát
sinh vấn đề bản án của tòa án đó cần được công nhận và thi hành tại lãnh thổ
của các gia khác thông qua tòa án của các quốc gia đó.
Như vậy, có thể thấy rằng, khi một vụ tranh chấp thương mại có yếu tố
nước ngoài được đưa ra tại tòa án của một quốc gia thì có hai vấn đề quan

11


trọng nhất cần phải giải quyết. Thứ nhất, Tòa án đó cần phải xác định mình có
thẩm quyền đối với vụ tranh chấp đó hay không. Thứ hai, việc đảm bảo thi
hành bản án, quyết định của Tòa án đó tại quốc gia khác.
1.2. Các tiêu chí xác định thẩm quyền của tòa án giải quyết tranh
chấp thƣơng mại quốc tế
Khi xác định thẩm quyền của mình đối với một tranh chấp thương mại

quốc tế, Tòa án của một quốc gia phải căn cứ vào các quy tắc nhất định do
pháp luật quốc gia đó thừa nhận hoặc các điều ước quốc tế mà quốc gia đó ký
kết hoặc tham gia về phân định thẩm quyền tư pháp của mỗi bên.
Nhìn chung, thẩm quyền xét xử của một tòa án thông thường căn cứ
vào các tiêu chí sau: Tiêu chí quốc tịch của đương sự, tiêu chí lãnh thổ, tiêu
chí thỏa thuận của các bên đương sự và một số tiêu chí khác.
1.2.1. Tiêu chí quốc tịch của đương sự
Quốc tịch là căn cứ đặc thù trong việc xác định thẩm quyền của tòa án
đối với vụ việc có yếu tố nước ngoài. Tòa án của một nước có thẩm quyền
giải quyết vụ việc nếu một hoặc các bên đương sự có quốc tịch nước đó.
Tiêu chí này đều được thừa nhận trong các Điều ước quốc tế có liên
quan cũng như pháp luật của các quốc gia, trong đó có Việt Nam.
Tại Pháp, Điều 14, 15 Bộ luật dân sự Pháp quy định trọng mọi trường
hợp, Tòa án đều có thẩm quyền xét xử vụ việc có yếu tố nước ngoài nếu công
dân Pháp tham gia vào vụ việc đó. Quy định này được áp dụng trong một thời
giam dài tại Pháp. Theo đó, tòa án Pháp sẽ không có thẩm quyền giải quyết
tranh chấp giữa các bên đều là người nước ngoài, pháp nhân nước ngoài dù
tranh chấp đó trên lãnh thổ Pháp. Hiện nay, quy tắc này vẫn được xem là quy
tắc cơ bản trong việc xác định thẩm quyền của tòa án Pháp đối với vụ việc có

12


yếu tố nước ngoài nhưng thực tế tòa án Pháp đã áp dụng mềm dẻo hơn và có
sự kết hợp với các quy tắc khác.
1.2.2. Tiêu chí lãnh thổ
Đây là tiêu chí cơ bản được hầu hết tất cả các quốc gia trên thế giới
thừa nhận. Thông thường, tòa án một nước cũng có thẩm quyền giải quyết
nếu vụ việc Tòa án của một nước có thẩm quyền giải quyết tranh chấp nếu vụ
việc đó có mối liên hệ nhất định với lãnh thổ quốc gia có tòa án đó như đương

sự cư trú, thường trú hoặc hiện diện trên lãnh thổ quốc gia đó, tài sản liên
quan đến tranh chấp tồn tại trên lãnh thổ quốc gia đó, hoặc sự kiện pháp lý
làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ tranh chấp xảy ra trên lãnh thổ
nước này. Quy định như vậy nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho sự thực thi quá
trình tố tụng cũng như khả năng thực thi bản án được tuyên.
Xác định thẩm quyền xét xử của tòa án quốc gia theo dấu hiệu nơi cư
trú của bị đơn được hầu hết các nước thừa nhận. Đặc biệt trong các tranh chấp
thương mại quốc tế, quy tắc này thường được áp dụng. Quy tắc này cũng
được thừa nhận trong các Điều ước quốc tế.
Ở một số nước như Đức hay các nước thuộc hệ thống thông luật, đây là
căn cư cơ bản để xác định thẩm quyền của tòa án. Căn cứ cho phép nguyên
đơn có quyền yêu cầu tòa án bất kỳ nước nào thụ lý vụ việc nếu bị đơn có tài
sản ở nước đó, cho dù tài sản đó không phải là đối tượng của vụ tranh chấp.
Ngoài ra, xác định thẩm quyền của tòa án theo nơi có tài sản tranh chấp được
áp dụng triệt để đối với các tranh chấp liên quan đến bất động sản được thừa
nhận hầu hết các quốc gia. Pháp luật các nước thường quy định tranh chấp
liên quan đến bất động sản thuộc thẩm quyền xét xử riêng biệt của tòa án nơi
có bất động sản.

13


1.2.3. Một số tiêu chí khác
1.2.3.1. Minimum contacts
Minimum contacts là một thuật ngữ được sử dụng trong pháp luật tố
tụng dân sự Hoa Kỳ. Cơ sở cho việc thực hiện thẩm quyền đối với bị đơn ở
ngoài một quốc gia, được gọi là quy định mở rộng thẩm quyền của một quốc
gia, tuyên bố trong hoàn cảnh nhất định, các tòa án của nước đó có thể thực
hiện thẩm quyền. Các yêu cho việc thiết lập theo quy định đó phải phù hợp
với các yêu cầu theo đúng thủ tục của hiến pháp. Yêu cầu này thường được

thực hiện nếu có “mối liên hệ tối thiểu” với quốc gia có tòa án.
Thẩm quyền này phải “không vi phạm các quan niệm truyền thống về
công bằng và công lý cơ bản”.
Hình thức truyền thống của việc thiết lập mối liên hệ tối thiểu bao gồm:
mục đích bán hàng hóa trong nước đó, duy trì một văn phòng hoặc cửa hàng
có vật chất tại nước đó, tham gia vào một hợp đồng với một bên ở trong nước
đó hay thực hiện một hành động có hại trong nước đó.
Trong một số trường hợp liên quan đến báo chí và các chương trình
phát sóng, phương tiện truyền thông khác, việc tạo thông tin có giá trị cho các
cư dân của các quốc gia khác thường không được coi là đủ để thiết lập yêu
cầu về mối liên hệ tối thiểu.
Mối liên hệ tối thiểu có thể được thiết lập bởi sự thỏa thuận khi các bên
ký kết hợp đồng với một điều khoản lựa chọn tòa án, đồng ý khởi kiện tại một
tòa án cụ thể.
Mối liên hệ tối thiểu có thể bao gồm cả mối liên hệ có tính chất hệ
thống và liên tục với tòa án (thẩm quyền chung), hoặc mối liên hệ không
thường xuyên với tới tòa án (thẩm quyền cụ thể)

14


1.2.3.2. Học thuyết Forum shopping
Pháp luật nhiều nước Châu Âu như Pháp, Đức, Hà Lan, Thụy Sĩ… áp
dụng thuyết thẩm quyền thích hợp và coi đây là một loại nguyên tắc thẩm
quyền. Nguyên tắc này cho phép nguyên đơn có thể bỏ qua tòa án nước
mình và đưa vụ kiện tại một hoặc các tòa án nước ngoài mà họ cho rằng sẽ
mang lai cho họ niềm tin hay lợi ích mà họ sẽ không có được nếu đưa vụ
kiện tại tòa án nước mình [24].
Nguyên đơn có thể chọn một tòa án theo các căn cứ sau:
- Tòa án không thuận tiện cho bị đơn hoặc nhân chứng của bị đơn. Có

thể có các vấn đề như về chi phí đi lại, thị thực hoặc giấy phép nhập cảnh.
- Các tòa án, thẩm phán, hoặc pháp luật có nhiều khả năng có lợi cho
vụ kiện của nguyên đơn.
1.2.3.3. Học thuyết Forum non convenien và Lis penden
Có hai học thuyết pháp lý trên cơ sở đó một tòa án có thể xem xét rằng
các tranh chấp cần được giải quyết tại một tòa án của nước khác.
Đầu tiên là học thuyết forum non convenien. Đây là một học thuyết áp
dụng chủ yếu ở các nước thuộc hệ thống thông luật. Sự hình thành của nó
thay đổi từ quốc gia này sang quốc gia khác nhưng nhìn chung học thuyết
này cho phép thẩm quyền của một tòa án đình chỉ hoặc từ chối giải quyết
tranh chấp, nếu xét thấy một tòa án khác sẽ là tòa án thích hợp hơn để giải
quyết vụ việc. Việc đình chỉ hoặc từ chối là tùy ý và liên quan đến việc cân
nhắc tất cả các yếu tố có liên quan trong các trường hợp cụ thể. Học thuyết
được áp dụng không phân biệt có hay không có thủ tục tố tụng đã được tiến
hành tại các tòa án khác.
Ví dụ, tranh chấp liên quan đến vụ nổ máy bay du lịch Ê Côt. Người lái

15


và 5 người du khách, tất đều là người Ê Côt, bị chết. Chủ sở hữu và nhà điều
hành máy bay đều là Ê Côt, nhưng nhà sản xuất máy bay và cánh quạt là hai
công ty Mỹ. Do đó, những người thừa kế của 5 du khách khởi kiện hai công
ty Mỹ tại tòa án Mỹ.
Theo pháp luật Mỹ, tòa án Mỹ có thẩm quyền vì hai công ty trên là bị
đơn và có trụ sở tại Mỹ. Tuy nhiên, theo tòa án liên bang tối cao Mỹ, tòa án
Mỹ phải khước từ thẩm quyền giải quyết tranh chấp cho tòa án Ê Côt, vì trong
vụ việc này, tòa án Ê Côt cũng có thẩm quyền do tại nạn xảy ra ở đó. Mặt
khác, tòa án Mỹ thấy rằng vụ việc sẽ được giải quyết một cách hợp lý hơn
trước tòa án Ê Côt, tòa án Ê Côt phù hợp hơn để giải quyết vụ việc [3].

Học thuyết này cũng được thừa nhận trong thực tiễn pháp lý của Anh,
Úc, Canada… [3].
Tuy nhiên, cũng có một số nước không chấp nhận học thuyết này.
Chẳng hạn, ở Đức, tòa phúc thẩm đã nhấn mạnh rằng học thuyết forum non
convenien không được thừa nhận trong pháp luật hiện hành của Đức. Theo
tòa phúc thẩm, những quy định của Bộ luật tố tụng dân sự Đức về thẩm quyền
của tòa án là bắt buộc với tòa án Đức [3].
Học thuyết thứ hai là của lis pendens. Học thuyết được áp dụng chủ yếu
ở các nước thuộc hệ thống dân luật, yêu cầu một tòa án từ chối hoặc đình chỉ
giải quyết vụ việc nếu một tòa án khác đã thụ lý vụ việc đầu tiên, liên quan
đến thủ tục tố tụng với cùng một nguyên nhân tố tụng của cùng các bên tranh
chấp. Học thuyết này không phải là tùy ý, không liên quan đến việc cân nhắc
các yếu tố có liên quan để xác định tòa án thích hợp hơn và chỉ áp dụng khi
thủ tục tố tụng đã được tiến hành tại các tòa án khác. Điều 29 của Quy chế
Brussels I sửa đổi, yêu cầu bất kỳ tòa án nào khác với các tòa án đầu tiên thụ
lý vụ việc phải đình chỉ thủ tục tố tụng đang tiến hành và từ chối thẩm quyền

16


nếu thẩm quyền của tòa án thụ lý đầu tiên được thiết lập, tất nhiên điều này
không được trái với thẩm quyền được xác lập theo thỏa thuận của các bên.
1.2.4. Tiêu chí sự thỏa thuận của các bên
Tòa án quốc gia có thẩm quyền giải quyết đối với những vụ việc mà
các bên đương sự thỏa thuận đưa tranh chấp ra giải quyết tại tòa án nước đó
mặc dù có thể không có mối liên hệ nào giữa quốc gia có tòa án và vụ tranh
chấp. Trong tư pháp quốc tế một số nước, quan điểm cho rằng, tòa án quốc
gia cần được mở rộng cho bất kì người nào sẽ có tác dụng khi các bên của
một hợp đồng quốc tế thỏa thuận trong hợp đồng về một tòa án thích hợp có
thẩm quyền giải quyết tranh chấp đã dẫn đến việc khuyến khích các bên chọn

một tòa án có lợi nhất [23].
Trên cơ sở nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của đường sự, hầu
hết pháp luật của các nước cho phép các bên được lựa chọn tòa án của một
quốc gia để giải quyết tranh chấp, nếu sự lựa chọn đó phù hợp với pháp luật.
Đây sẽ là căn cứ đầu tiên để xác định tòa án có thẩm quyền giải quyết. Thỏa
thuận sẽ loại trừ thẩm quyền của bất kì tòa án nào khác không được chỉ ra
trong thỏa thuận đó, trừ khi các bên có quy định khác.
1.3. Quyền thỏa thuận của các bên với tƣ cách là tiêu chí xác định
thẩm quyền của tòa án
1.3.1. Cơ sở pháp lý của thỏa thuận lựa chọn tòa án giải quyết tranh
chấp thương mại quốc tế
1.3.4.1. Điều ước quốc tế
Cùng với quan hệ thương mại quốc tế ngày càng phát triển, kéo theo
nhu cầu về hợp tác quốc tế giữa các quốc gia thông qua các Điều ước quốc để
tạo ra các quy tắc thống nhất giải quyết các vấn đề phát sinh giữa các chủ thể.

17


Trong xu thế đó, sự hợp tác trong việc xác định thẩm quyền của tòa án quốc
gia cũng như công nhận và thi hành bản án của tòa án nước ngoài là một phần
không thể thiếu trong lĩnh vực tư pháp.
Thỏa thuận lựa chọn tòa án như là một nguyên tắc để xác định thẩm
quyền đã được ghi nhận trong nhiều điều ước quốc tế đa phương quan trọng.
Điển hình là các Công ước sau:
- Công ước La Hay ngày 30 tháng 6 năm 2005 về thỏa thuận lựa chọn
tòa án được ban hành trong khuôn khổ Hội nghị La Hay về Tư pháp quốc tế
(sau đây gọi là Công ước Lahay 2005 hoặc Công ước);
- Công ước Brussels ngày 27/12/1968 về thẩm quyền của tòa án trong
việc giải quyết các vụ việc dân sự và thương mại có yếu tố nước ngoài và thi

hành phán quyết của tòa án về vấn đề dân sự, thương mại. Công ước được
thay thế bằng Quy định số 44/2001 ngày 22/12/2000 của Cộng đồng châu Âu
về thẩm quyền giải quyết của tòa án và vấn đề công nhận, cho thi hành phán
quyết về dân sự, thương mại được ban hành trong khuôn khổ Cộng đồng châu
Âu (Brussel I) (được sửa đổi năm 2012 bởi Quy định số 1215/2012 ngày
12/12/2012 - Brussel I sửa đổi).
1.3.4.2 Pháp luật quốc gia
a) Án lệ
Án lệ được hiều là việc nhà nước thừa nhận bản án, quyết định giải
quyết vụ việc của tòa án làm khuôn mẫu và căn cứ để đưa ra phán quyết cho
các vụ việc có tình tiết hay vấn đề tương tự trong tương lai.
Vấn đề thỏa thuận lựa chọn tòa án được pháp luật Hoa Kỳ và Anh thừa
nhận chủ yếu thông qua các bản án mà ít khi được ghi nhận trong các văn bản
pháp luật. Việt Nam chưa thừa nhận án lệ với tư cách là cơ sở cho việc thừa
nhận thỏa thuận lựa chọn tòa án.

18


b) Văn bản pháp luật
Văn bản pháp luật của quốc gia là một trong những cơ sở pháp lý quan
trọng trong việc xác định thẩm quyền của tòa án nói chung và thỏa thuận lựa
chọn tòa án nói riêng.
Nếu như pháp luật Hoa Kỳ và Anh chủ yếu áp dụng án lệ cho thỏa
thuận lựa chọn tòa án thì ở các nước như Pháp, Trung Quốc…lại thừa nhận
thỏa thuận lựa chọn tòa án trong các văn bản pháp luật. Tương tự, Việt Nam
cũng thừa nhận thỏa thuận lựa chọn tòa án qua một số luật chuyên ngành như
luật hàng hải 2005, luật hàng không dân dụng 2006, luật chuyển giao công
nghệ 2006.
1.3.2. Khái niệm thỏa thuận lựa chọn tòa án

Thỏa thuận lựa chọn tòa án được hiểu là thỏa thuận giữa các bên chủ
thể nhằm trao thẩm quyền giải quyết tranh chấp cho tòa án của một quốc gia
nhất định. Pháp luật quốc tế cũng như pháp luật của các quốc gia thường cho
phép các bên tham gia hợp đồng thương mại quốc tế được quyền thỏa thuận
về pháp luật điều chỉnh hợp đồng cũng như thẩm quyền giải quyết tranh chấp
liên quan tới hợp đồng.
Thực tiễn pháp lý cho thấy các bên tham gia quan hệ thương mại quốc
tế thường xuyên thỏa thuận lựa chọn một cơ quan giải quyết tranh chấp cụ thể
trong hợp đồng được ký kết giữa các bên. Các quốc gia có hệ thống pháp luật
tố tụng rõ ràng, hiệu quả thường là sự lựa chọn của các bên.
Trong nhiều trường hợp, các bên thỏa thuận trao quyền giải quyết tranh
chấp cho trọng tài vì đặc thù của phương thức này, thể hiện ở quy trình thực
hiện cũng như thẩm quyền của trọng tài trong việc lựa chọn luật áp dụng để
giải quyết tranh chấp. Trọng tài không bắc buộc phải lựa chọn pháp luật quốc

19


gia hoặc cơ sở pháp lý rõ ràng để giải quyết tranh chấp giữa các bên, trọng tài
có thể giải quyết tranh chấp không căn cứ trên các quy phạm pháp luật nếu
được các bên đồng ý [14].
Ngoài phương thức lựa chọn trọng tài, cũng có nhiều trường hợp các
bên thỏa thuận lựa chọn tòa án của một quốc gia có thẩm quyền giải quyết
tranh chấp thương mại giữa các bên.
Một thỏa thuận lựa chọn tòa án bao gồm một số yếu tố sau:
Thứ nhất, phải là một thỏa thuận, là sự thống nhất ý chí giữa các bên
trong việc xác lập thẩm quyền cho tòa án. Điều này tất nhiên đưa đến các vấn
đề có liên quan như khái niệm về một thỏa thuận và giá trị của nó như sự
đồng ý, năng lực ký kết, gian lận, cưỡng ép…
Thứ hai, thỏa thuận này phải liên quan tới tố tụng tòa án, không phải

trọng tài hoặc một số hình thức giải quyết tranh chấp thay thế. Trong quá khứ,
trọng tài đã được nhiều thương nhân xem như là một hình thức ưu tiên giải
quyết tranh chấp, nhất là vì nó được cho là tạo ra kết quả nhanh hơn. Tuy
nhiên, những lợi thế này hiện tại không phải lúc nào cũng đúng. Ít nhất trong
những trường hợp nhất định, tranh chấp ở tòa án hiệu quả và công bằng là giải
pháp được ưa chuộng.
Thứ ba, một yếu tố khác, liên quan đến các bên là người bị ràng buộc
bởi thỏa thuận. Các bên là người tạo nên thỏa thuận lựa chọn tòa án. Hoặc
một bên có thể là người ban đầu không đồng ý với thỏa thuận lựa chọn tòa án
nhưng vẫn bị ràng buộc bởi nó, có thể vì bên đó theo một cách thức nhất định
thay thế một trong các bên ban đầu.
Thứ tư là yếu tố có liên quan đến nội dung của thỏa thuận. Nói chung,
một thỏa thuận lựa chọn tòa án có thể có hai khía cạnh: nó có thể trao thẩm
20


quyền cho một tòa án mà sẽ không có thẩm quyền nếu không có thỏa thuận,
hoặc có thể làm mất đi thẩm quyền của tòa án mà sẽ có thẩm quyền nếu
không có thỏa thuận.
Bên cạnh thỏa thuận lựa chọn pháp luật, thì thỏa thuận lựa chọn tòa án
trong hợp đồng thương mại quốc tế cũng là thỏa thuận quan trọng. Thỏa thuận
thể hiện ý chí thống nhất của các bên trong việc trao thẩm quyền giải quyết
tranh chấp giữa họ cho tòa án mà họ thấy có lợi cho cả hai bên.
Tuy nhiên, thỏa thuận luật điều chỉnh hợp đồng và thỏa thuận giải
quyết tranh chấp bằng tòa án là hai thỏa thuận khác biệt và độc lập với
nhau. Việc thỏa thuận luật áp dụng cho hợp đồng không có nghĩa là các
bên lựa chọn tòa án của quốc gia có pháp luật đó điều chỉnh. Tương tự, các
bên thỏa thuận lựa chọn tòa án của một quốc gia có thẩm quyền giải quyết
tranh chấp cũng không có nghĩa các bên thỏa thuận áp dụng pháp luật của
của quốc gia có tòa án.

Xuất phát từ nguyên tắc tự định đoạt của tố tụng dân sự, tự do thỏa
thuận lựa chọn tòa án đã được pháp luật quốc tế và pháp luật hầu hết các quốc
gia thừa nhận là một trong những nguyên tắc cơ bản để xác định thẩm quyền
của tòa án giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế. Nguyên tắc này thể hiện
quyền tự quyết của các bên chủ thể trong việc lựa chọn phương thức bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Trong khuôn khổ Châu Âu, Điều 25 Quy định 1215/2012 của Hội đồng
Châu Âu quy định nếu các bên thỏa thuận một hoặc nhiều tòa án của quốc gia
thành viên có thẩm quyền giải quyết bất kỳ tranh chấp nào phát sinh hoặc có
thể phát sinh đối với một quan hệ pháp lý cụ thể thì một hoặc các tòa án mà
các bên đã thỏa thuận sẽ có thẩm quyền trừ khi thỏa thuận đó vô hiệu theo
luật của quốc gia thành viên đó.
21


×