Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Các trường hợp bất khả kháng trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 100 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

Lấ KIU TRANG

CáC TRƯờNG HợP BấT KHả KHáNG
TRONG HợP ĐồNG MUA BáN HàNG HóA QUèC TÕ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2015


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

Lấ KIU TRANG

CáC TRƯờNG HợP BấT KHả KHáNG
TRONG HợP ĐồNG MUA BáN HàNG HóA QUèC TÕ
Chuyên ngành: Luật Quốc tế
Mã số: 60 38 01 08

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. LÊ VĂN BÍNH

HÀ NỘI - 2015


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tơi.Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được cơng bố trong
bất kỳ cơng trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã
hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh tốn tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tơi có thể bảo vệ Luận văn.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

LÊ KIỀU TRANG


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ BẤT KHẢ KHÁNG VÀ TRƯỜNG
HỢP BẤT KHẢ KHÁNG TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN
HÀNG HÓA QUỐC TẾ ..................................................................... 7
1.1.

Một số vấn đề lý luận về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế ...... 7

1.1.1. Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế ................................... 7
1.1.2. Đặc điểm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế .................................. 12
1.1.3. Hình thức hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế ................................. 19

1.1.4. Nội dung Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế ................................. 22
1.1.5. Nguồn luật điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.............. 24
1.2.

Bất khả kháng và trường hợp bất khả kháng trong hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế ............................................................... 31

1.2.1. Khái niệm về bất khả kháng và trường hợp bất khả kháng trong
hợp đồng.............................................................................................. 31
1.2.2. Đặc điểm của bất khả kháng ............................................................... 35
1.2.3. Quy định của pháp luật về trường hợp bất khả kháng ........................ 36
1.2.4. Thủ tục thông báo khi xảy ra tình huống bất khả kháng .................... 43
1.2.5. Hậu quả của tình huống bất khả kháng ............................................... 44
1.2.6. Bất khả kháng – căn cứ miễn trách nhiệm của vi phạm hợp đồng .......... 47
Tiểu kết chương 1 .......................................................................................... 52


Chương 2: MỘT SỐ TÌNH HUỐNG THỰC TẾ VỀ TRƯỜNG HỢP
BẤT KHẢ KHÁNG VÀ CÁC KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN
THIỆN PHÁP LUẬT, XÂY DỰNG ĐIỀU KHOẢN BẤT KHẢ
KHÁNG TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HĨA
QUỐC TẾ .......................................................................................... 54
2.1.

Một số tình huống thực tế về trường hợp bất khả kháng trong
HĐMBHHQT .................................................................................... 54

2.1.1. Một số ví dụ về thực hiện tình huống bất khả kháng trong Hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế trên thế giới ..................................... 54
2.1.2. Một số ví dụ về thực hiện tình huống bất khả kháng trong Hợp

đồng mua bán hàng hóa quốc tế trong nước ....................................... 68
2.2.

Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật và xây dựng nội dung
điều khoản bất khả kháng trong hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế ................................................................................................ 74

2.2.1. Kiến nghị nhằm hồn thiện pháp luật ................................................. 74
2.2.2. Xây dựng nội dung điều khoản bất khả kháng trong hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế........................................................................... 84
Tiểu kết chương 2 ........................................................................................... 89
KẾT LUẬN .................................................................................................... 90
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 93


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta là phát triển kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở đầy mạnh cơng cuộc
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tăng cường hội nhập với quốc tế.
Thực tế nền kinh tế đất nước ta trong hơn một thập kỷ qua đã khẳng định
đường lối của Đảng là đúng đắn. Nó đã tạo ra cho đất nước có một nền kinh tế
vừa đa dạng phong phú, vừa kết hợp được sức mạnh bên trong, vừa phối hợp
với sự hỗ trợ bên ngoài.
Để thúc đẩy hơn nữa sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế đất nước,
tạo khả năng, tiềm lực và củng cố các điều kiện cần thiết cho quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế, chúng ta cần phát huy tổng hợp của tất cả các ngành,
lĩnh vực kinh tế, phát huy sức mạnh nội lực, tranh thủ nguồn lợi từ bên ngồi
thơng qua đầu tư, du lịch, chuyển giao công nghệ, buôn bán hàng hóa quốc tế.
Thực hiện chủ trương chủ động hội nhập quốc tế của Đảng và Nhà

nước, Việt Nam đã thực sự hội nhập vào cộng đồng quốc tế ngày càng sâu sắc
và toàn diện.Việt Nam đã là thành viên khối ASEAN, đã gia nhập WTO, đã
ký kết nhiều các điều ước, hiệp định công ước quốc tế trên nhiều lĩnh vực. Do
vậy, pháp luật về kinh tế và thương mại quốc tế đã và đang thực sự là một
công cụ hữu hiệu để các cá nhân, tổ chức cũng như các cơ quan Nhà nước có
điều kiện thực thi một cách có hiệu quả chủ trương đường lối đó.
Những thực thành tựu kinh tế của đất nước trong những năm vừa qua
đã có một phần đóng góp khơng nhỏ của kinh tế đối ngoại nói chung và mua
bán hàng hóa quốc tế, xuất nhập khẩu nói riêng. Tuy vậy, thực trạng pháp luật
Việt Nam hiện hành về các quy định thương mại, kinh tế nói chung và quy
định liên quan đến hợp đồng mua bán hàng hóa nói riêng vẫn còn nhiều bất

1


cập, hạn chế cần khắc phục. Đôi khi hoạt động này cịn bị cản trở và hạn chế
bởi chính các quy định pháp luật chưa rõ ràng, đưa đảm bảo quyền lợi cho các
bên tham gia, nhất là cho doanh nghiệp trong nước.
Việc giải quyết các vấn đề phát sinh liên quan đến hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác nhau cả về khách
quan và chủ quan. Một trong những yếu tố đó là: các chủ thể tham gia ký
kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế của Việt Nam chủ yếu là những
doanh nghiệp còn non trẻ, khả năng cạnh tranh cịn yếu kém, kinh nghiệm
trong mua bán hàng hóa quốc tế chưa nhiều, thiếu hiểu biết về pháp luật
cũng như tập quán thương mại quốc tế; việc vận dụng pháp luật còn non
kém trong khi phải đối mặt với các doanh nghiệp nước ngồi có bề dày về
kinh nghiệp và sắc sảo trong đàm phán ký kết hợp đồng.Vì vậy, thường các
doanh nghiệp Việt Nam bị yếu thế hơn trong mối quan hệ hợp đồng, từ đó
dẫn đến những rủi ro khơng đáng có.
Bên cạnh đó, các văn bản điều chỉnh mối quan hệ mua bán hàng hóa

quốc tế của Việt Nam vẫn chưa hồn thiện, thiếu tính nhất quán và chưa thật
sự phù hợp với pháp luật và thông lệ quốc tế, đặc biệt là các quy định về
trường hợp bất khả kháng – một vấn đề rất thường gặp khi giao kết các hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế nói chung. Vì vậy, việc nghiên cứu và hoàn
thiện các lĩnh vực pháp luật Việt Nam mà đặc biệt là pháp luật trong lĩnh vực
thương mại lại càng cấp thiết, trong đó một trong những vấn đề trọng tâm là
quy định về trường hợp bất khả kháng trong hợp đồng.
Luật Thương mại 2005 đã có hiệu lực hơn 10 năm, thực tiễn thi hành
đã bộc lộ nhiều chồng chéo và bất cập.Nhưng cho đến nay vẫn chưa có một
cơng trình chun khảo về vấn đề bất khả kháng trong hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế. Do đó việc nghiên cứu tồn diện và có hệ thống những vấn
đề lý luận cũng như thực tiễn các trường hợp bất khả kháng trong hợp đồng

2


mua bán hàng hóa quốc tế được quy định trong Luật Thương mại là một vấn
đề cấp thiết, có ý nghĩa quan trọng, nhằm bảo đảm tính vững chắc trong quan
hệ mua bán hàng hóa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các doanh nghiệp
Việt Nam trong quá trình giao kết hợp đồng.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề trường hợp bất khả kháng trong hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế đã được một số nhà luật học nước ta quan tâm nghiên cứu. Ví dụ:
“Bàn về bất khả kháng – Căn cứ miễn trách nhiệm do vi phạm nghĩa vụ trong
Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế” của tác giả Đặng Bá; “Bình luận về
miễn trách nhiệm do vi phạm hợp đồng tại Điều 294 Luật Thương mại 2005”
của Thạc sỹ Bùi Hưng Nguyên; “Sự kiện bất khả kháng và một vài lưu ý
trong thực tiễn áp dụng” của Luật sư Đỗ Minh Tuấn.
Tuy nhiên các nghiên cứu trên mới chỉ để cập đến từng khía cạnh hoặc
các góc độ khác nhau của đề tài. Ví dụ, bài viết “Bàn bề bất khả kháng – Căn

cứ miễn trách nhiệm do vi phạm nghĩa vụ trong Hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế” của tác giả Đặng Bá Kỹ chỉ bàn đề bất khả kháng trên khía cạnh đây
là trường hợp được coi là miễn trách nhiệm đối với việc vi phạm nghĩa vụ của
hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Hay như bài viết“Sự kiện bất khả kháng
và một vài lưu ý trong thực tiễn áp dụng” của Luật sư Đỗ Minh Tuấn cũng
chỉ nêu được nhưng khái quát chung về bất khả kháng và rút ra lưu ý trong
thực tiễn áp dụng, cũng chưa có kiến nghị đối với việc hồn thiện hệ thống
pháp luật liên quan.
Do vậy, việc nghiên cứu về trường hợp bất khả kháng trong hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế lại càng trở nên cấp thiết, từ đó đưa ra các giải
pháp hồn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam trong lĩnh vực này.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu luận văn
Làm sáng tỏ một cách có hệ thống về các trường hợp bất khả kháng
3


trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, đặc biệt khái niệm, hậu quả, các
quy định của hệ thống pháp luật Việt Nam cũng như hệ thống pháp luật quốc
tế về trường hợp bất khả kháng. Đồng thời, luận văn cũng đề cập đến các ví
dụ thực tiễn xảy ra trên thế giới cũng như tại Việt Nam về trường hợp bất khả
kháng trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, từ đó đưa ra bình luận và
rút kinh nghiệm. Cuối cùng luận văn thể hiện quan điểm và đề xuất các kiến
nghị nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về bất khả kháng trong
hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu luận văn
Với mục đích trên, luận văn có các nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, làm sáng tỏ khái niệm, đặc điểm và nội dụng của hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế.
Thứ hai, làm sáng tỏ khái niệm và đặc điểm đặc trưng, hậu quả,

nguồn luật quy định về bất khả kháng và bất khả kháng trong hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế. Đặc biệt, so sánh đối chiếu các quy định trong
nước và quy định quốc tế điều chỉnh về bất khả kháng trong hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế.
Thứ ba, đưa ra và phân tích các ví dụ thực tiễn về bất khả kháng trong
hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế đã xảy ra trên thế giới cũng như tại Việt
Nam.Từ đó đưa ra bình luận và bài học kinh nghiệm.
Thứ tư, đưa ra quan điểm và đề xuất trong việc hoàn thiện hệ thống
quy định pháp luật Việt Nam về bất khả kháng trong hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế.
3.3. Đối tượng nghiên cứu luận văn
Luận văn nghiên cứu trường hợp bất khả kháng trong hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế, cụ thể là: khái niệm bất khả kháng và bất khả kháng
trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế; các đặc điểm đặc trưng; hậu quả
4


của bất khả kháng; căn cứ miễn trách nhiệm trong bất khả kháng, nguồn luật
điều chỉnh bất khả kháng; các trường hợp vận dụng bất khả kháng trong hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế thực tiễn.
3.4. Phạm vi nghiên cứu luận văn
Trường hợp bất khả kháng được nghiên cứu trên cơ sở các quy định của
Bộ Luật dân sự 2005, Luật Thương mại 2005, Công ước Viên về mua bán
hàng hóa quốc tế năm 1980 (Sau đây gọi là Công ước Viên 1980), Bộ luật
thương mại thống nhất Hoa Kỳ - Uniform Commercial Code (Sau đây gọi tắt
là UCC) và có đối chiếu với quy định của một số nước trên thế giới, đồng thời
căn cứ vào thực tiễn áp dụng bất khả kháng trong hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế ở Việt Nam cũng như trên thế giới.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu luận văn
Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin, tư

tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về pháp luật.
Dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, luân văn đặc biệt coi trọng các phương pháp hệ thống,
lịch sử, logic, tổng hợp, phân tích, diễn giải, quy nạp, so sánh pháp luật.
5. Những đóng góp mới của luận văn
Thứ nhất, làm sáng tỏ mặt lý luận các khái niệm, đặc điểm, nội dung,
hình thức, hậu quả của trường hợp bất khả kháng trong hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế.
Thứ hai, phân tích, so sánh các quy định về bất khả kháng trong hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo pháp luật Việt Nam với các quy định
tương ứng trong Công ước Viên 1980 và pháp luật một số nước trên thế giới,
sau đó đưa ra các quan điểm và giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật về
mua bán hàng hóa quốc tế.
Thứ ba, nêu ra những điểm bất cập, chưa hợp lý của Luật Thương mại
2005 về bất khả kháng trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
5


Thứ tư, đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về
trường hợp bất khả kháng trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Những phân tích, đánh giá và kiến nghị trong luận văn có ý nghĩa thiết
thực về lý luận và thực tiễn trong hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế, góp
phần làm cơ sở khoa học cho việc hoàn thiện pháp luật Việt Nam về bất khả
kháng trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Luận văn cịn giúp cho các
doanh nghiệp Việt Nam hiểu rõ và vận dụng đúng trường hợp bất khả kháng
trong thực tiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong việc nghiên
cứu, giảng dạy về khoa học pháp lý nói chung.
7. Bố cục của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, mục lục,
luận văn gồm 2 chương:
Chương 1.

Tổng quan về bất khả kháng và trường hợp bất khả
kháng trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.

Chương 2.

Một số tình huống thực tế về trường hợp bất khả kháng và
các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật, xây dựng điều
khoản bất khả kháng trong Hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế.

6


Chương 1
TỔNG QUAN VỀ BẤT KHẢ KHÁNG VÀ TRƯỜNG HỢP
BẤT KHẢ KHÁNG TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN
HÀNG HÓA QUỐC TẾ
1.1. Một số vấn đề lý luận về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
1.1.1. Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Trước tiên, vấn đề cần đặt ra là, tại sao cần phải nghiên cứu làm rõ khái
niệm về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc? Bởi vì, khi nói đến vấn đề bất khả
kháng trong hợp đồng, thì vấn đề đầu tiên để làm cơ sở pháp lý cho việc xem
xét đó là chính hợp đồng. Nhưng thực tiễn về hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế cịn có nhiều tên gọi khác nhau và nằm rải rác ở các văn bản pháp luật
Việt Nam cũng như trên thế giới. Vì vậy, trong khuân khổ đề tài luận văn này,
tác giả đưa ra khái niệm về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế dựa trên sự

nghiên cứu và tham khảo của các khái niệm quen dùng.
Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là một loại hợp đồng phổ biến
trong thương mại quốc tế hiện nay, và được quy định không chỉ trong các văn
kiện quốc tế mà cả những văn bản pháp luật quốc gia. Về cơ bản, hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế có thể được hiểu là một dạng cụ thể của hợp đồng
mua bán hàng hóa nói chung, hay nó chính là dự thỏa thuận giữa các bên,
theo đó bên có nghĩa vụ giao hàng hóa cho bên mua và nhận tiền, cịn bên
mua có nghĩa vụ nhận hàng hóa và trả tiền cho bê bán với đặc trưng riêng biệt
mang tính chất quốc tế (có yếu tố nước ngồi). Để xác định được loại hợp
đồng này, các văn kiện quốc tế cũng như pháp luật các quốc gia đều dựa vào
việc xác định yếu tố đặc trưng này. Tuy nhiên, việc xác định thế nào là yếu tố
nước ngoài không giống nhau theo quan điểm của luật pháp từng quốc gia và
7


các văn kiện quốc tế khác nhau cũng có các quy định khác nhau.
Theo Công ước Lahaye 1964 về mua bán quốc tế các động sản hữu hình,
thì “hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là những hợp đồng mua bán hàng hóa
được ký kết giữa các bên có trụ sở thương mại đóng ở các nước khác nhau và
hàng hóa được chuyển từ nước ngồi bán sang nước người mua, hoặc việc ký
kết hợp đồng được diễn ra ở các nước khác nhau” [11, tr.100-101].
Theo Công ước này chúng ta thấy có ba tiêu chí để phân biệt hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế, đó là: thứ nhất - trụ sở thương mại của các bên
đóng ở các nước khác nhau; thứ hai - hàng hóa được vận chuyển từ nước
người bán sang nước người mua; thứ ba - hoặc việc ký kết hợp đồng được
diễn ra ở các nước khác nhau.
Thuật ngữ “hoặc” trong tiêu chí thứ ba được hiểu với nghĩa không bắt
buộc, tức là việc ký hợp đồng có thể diễn ra ở mọi địa điểm: có thể là ở nước
người bán, nước người mua hay ở một nước thứ ba do hai bên lựa chọn. Như
vậy, theo Cơng ước Lahaye, tiêu chí quan trọng nhất để xác định hợp đồng

mua bán hàng hóa quốc tế là tiêu chí trụ sở thương mại: các bên mua và bán
phải có trụ sở thương mại đóng ở các nước khác nhau. Công ước Lahaye
không đề cập tới vấn đề quốc tịch của các bên mua và bán, không quy định là
các bên (bên mua và bên bán) phải có quốc tịch khác nhau.
Cơng ước Viên về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế năm 1980 đã
đưa ra định nghĩa pháp lý của khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
là “hợp đồng mua bán hàng hóa giữa các bên có trụ sở thương mại đặt tại
các nước khác nhau” [12, tr.56-57]. Từ khái niệm này cho thấy, Công ước
Viên 1980 chỉ đưa ra một tiêu chí để xác định hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế, đó là các bên mua và bán phải có trụ sở thương mại đóng ở các nước
khác nhau. Quốc tịch các bên, tính chất dân sự hay thương mại của các bên
hoặc của hợp đồng không phải là tiêu chí để xác định hợp đồng mua bán hàng
8


hóa quốc tế.
Cụ thể hơn, Điều 10 Cơng ước quy định, nếu một bên có hơn một trụ
sở thương mại trở lên thì trụ sở thương mại của họ sẽ là trụ sở nào có mối
liên hệ chặt chẽ nhất đối với hợp đồng và đối với việc thực hiện hợp đồng
đó, có tính tới những tình huống mà các bên đều biết hoặc đều dự đoán
được vào bất kỳ lúc nào trước hoặc vào thời điểm hợp đồng. Trong trường
hợp các bên khơng có trụ sở thương mại thì sẽ lấy nơi cư trú thường xuyên
của họ làm căn cứ xác định.
Như vậy, cả Công ước Lahaye 1964 và Cơng ước Viên 1980 đều lấy
tiêu chí trụ sở thương mại của các bên đương sự làm tiêu chí quan trọng để
xác định hợp hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Nếu trụ sở của các bên
mua và bán đóng ở các nước khác nhau thì đó là hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế, cịn nếu trụ sở của các bên mua và bán đóng trong một nước thì đó
khơng phải là hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Yếu tố quốc tịch của các
bên mua và bán không được hai Công ước này đề cập tới.

Trên thực tế, hầu hết các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế được ký
kết giữa các bên có trụ sở đóng ở các nước khác nhau, đồng thời có quốc tịch
khác nhau, hàng hóa được chuyển từ nước người bán sang nước người mua
hoặc sang nước thức ba. Có một số lượng nhỏ hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế được ký kết giữa các bên có cùng quốc tịch, nhưng có trụ sở thương
mại đóng ở các nước khác nhau và hàng hóa được chuyển qua khỏi biên giới
nước người bán. Ví dụ, hợp đồng mua bán hàng hóa giữa thương nhân người
Anh đóng trụ sở tại Anh với chi nhánh của thương nhân người Anh đóng trụ
sở tại Hồng Kơng, hàng hóa được chuyển từ Hồng Kơng về Anh.
Khác với Công ước Lahaye năm 1864, Công ước viên năm 1980 khơng
đưa ra tiêu chí hàng hóa phải được chuyển qua biên giới của một nước để xác
định tính chất quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
9


Theo quan điểm của Pháp, khi xác định yếu tố quốc tế của hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế người ta căn cứ vào hai tiêu chuẩn kinh tế và pháp
lý. Theo các tiêu chuẩn kinh tế, một hợp đồng quốc tế là hợp đồng tạp nên sự
di chuyển qua lại biên giới các giá trị trao đổi tương ứng giữa hai nước, nói
cách khác, hợp đồng đó thể hiện quyền lợi của thương mại quốc tế. Theo tiêu
chuẩn pháp lý, một hợp đồng được coi là hợp đồng quốc tế nếu nó bị chi phối
bởi các tiêu chuẩn pháp lý của nhiều quốc gia như quốc tịch, nơi cư trú của
các bên, nơi thực hiện nghĩa vụ hợp đồng, nguồn vốn thanh toán.
Theo quan điểm của luật Việt Nam, Luật Thương mại 2005 khơng đưa
ra tiêu chí để xác định tính chất quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc
tế mà liệt kê những hoạt động được coi là mua bán hàng hóa quốc tế. Điều 27
nêu rõ: mua bán quốc tế thực hiện dưới các hình thức xuất khẩu, nhập khẩu,
tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập và chuyển khẩu. Sau khi liệt kê như vậy
Luật Thương mại 2005 đã xác định rõ thế nào là xuất khẩu, nhập khẩu, tạm
nhập tái xuất, như sau:

Xuất khẩu hàng hóa là việc hàng hóa được đưa ra khỏi lãnh thổ Việt
Nam hoặc đưa vào khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là
khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật [21, Điều 28, Khoản 1].
Nhập khẩu hàng hóa là việc hàng hóa được đưa vào lãnh thổ Việt Nam
từ nước ngoài hoặc từ khu vực đặc việt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi
là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật [21, Điều 28, Khoản 2].
Tạm nhập tái xuất hàng hóa là việc hàng hóa được đưa từ lãnh thổ
nước ngồi hoặc từ các khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi
là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật Việt Nam, có làm thủ
tục nhập khẩu vào Việt Nam và làm thủ tục xuất khẩu chính hàng hóa đó ra
khỏi Việt Nam [21, Điều 29, Khoản 1].
Tạm xuất tái nhập hàng hóa là việc hàng hóa được đưa ra nước ngoài
10


hoặc đưa vào các khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là
khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật, có làm thủ tục xuất khẩu
ra khỏi Việt Nam và làm thủ tục nhập khẩu lại chính hàng hóa đó vào Việt
Nam [21, Điều 29, Khoản 2].
Chuyển khẩu hàng hóa là việc mua hàng từ một nước, vùng lãnh thổ để
bán sang một nước, vùng lãnh thổ ngoài lãnh thổ Việt Nam mà không làm thủ
tục nhập khẩu vào Việt Nam và không làm thủ tục xuất khẩu ra khỏi Việt
Nam [21, Điều 30, Khoản 1].
Với năm khái niệm về xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập tái xuất, tạm
xuất tái nhập và chuyển khẩu nêu trên, có thể thấy Luật Thương mại Việt
Nam 2005 đã sử dụng tiêu chí hàng hóa phải là động sản, hàng có thể được di
chuyển qua biên giới của Việt Nam hoặc qua biên giới của một nước (vùng
lãnh thổ), hoặc di chuyển qua khu chế xuất, khu vực hải quan riêng, để xem
xét tính quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Vậy, nếu đối tượng
của hợp đồng mua bán là bất động sản thì hợp đồng đó khơng phải là hợp

đồng mua bán hàng hóa quốc tế cho dù bất động sản được bán cho người
nước ngoài. Mua bán bất động sản với người nước ngoài phải theo một cơ chế
pháp lý riêng.
Như vậy, từ việc tham khảo các khái niệm của văn bản quốc tế, cũng
như quy định của pháp luật Việt Nam, trong khuôn khổ luận văn này, tác giả
đưa ra định nghĩa về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế như sau:
Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là sự thống nhất về ý chí giữa các
bên trong quan hệ mua bán hàng hóa có yếu tố nước ngồi mà thơng qua đó,
thiếp lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa các chủ
thể đó với nhau. Yếu tố nước ngồi trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
được biểu hiện:
Một là, các bên tham gia giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
là các thương nhân có quốc tịch khác nhau và có trụ sở thương mại ở các
11


nước khác nhau;
Hai là, hàng hóa – đối tượng của hợp đồng được dịch chuyển qua biên
giới quốc gia hoặc giai đoạn chào hàng và chấp nhận chào hàng có thể được
thiết lập ở các nước khác nhau;
Ba là, nội dung của hợp đồng bao gồm các quyền và nghĩa vụ phát sinh
từ việc chuyển giao quyền sở hữu về hàng hóa từ người bán sang người mua ở
các nước khác nhau;
Bốn là, đồng tiền thanh toán trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
là ngoại tệ đối với ít nhất một bên trong quan hệ hợp đồng;
Năm là, luật điều chỉnh hợp đồng là luật quốc gia, điều ước quốc tế và
các tập quán quốc tế khác về thương mại và hàng hải.
1.1.2. Đặc điểm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
1.1.2.1. Đặc điểm chung của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Trước hết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế có đầy đủ những đặc

điểm của một hợp đồng mua bán hàng hóa nói chung. Những đặc điểm này
được thể hiện như sau:
Thứ nhất, hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên, thể hiện ý chí thống
nhất, tự nguyện của các bên (bên mua và bên bán), trong đó quy định quyền
và nghĩa vụ của các bên.
Thứ hai, đối tượng của hợp đồng là hàng hóa được phép lưu thơng trên
thị trường theo quy định của pháp luật.
Thứ ba, chủ thể của hợp đồng là bên bán và bên mua. Bên bán và bên
mua là những chủ thể có quyền thực hiện hành vi mua bán hàng hóa, ký kết
hợp đồng mua bán hàng hóa và là những chủ thể bình đẳng hồn tồn với
nhau trong quan hệ mua bán, khơng phụ thuộc vào quốc tịch, quy mơ của
doanh nghiệp, loại hình doanh nghiệp..v..v..
Thứ tư, hợp đồng mua bán hàng hóa là hợp đồng song vụ có tính đền
12


bù và là hợp đồng ưng thuận, cụ thể:
Một là, là hợp đồng ưng thuận, tức là nó được coi là giao kết tại thời
điểm các bên thỏa thuận xong các điều khoản cơ bản, thời điểm có hiệu lực
của Hợp đồng không phụ thuộc vào thời điểm bàn giao hàng hóa, việc bàn
giao hàng hóa chỉ được coi là hành động của bên bán nhằm thực hiện nghĩa
vụ của hợp đồng mua bán đã có hiệu lực;
Hai là, có tính đền bù: bên bán khi thực hiện nghĩa vụ giao hàng hóa
cho bên mua thì sẽ nhận được từ bên mua một lợi ích tương đương với giá trị
hàng hóa theo thỏa thuận dưới dạng khoản tiền thanh tốn;
Ba là, là hợp đồng song vụ, mỗi bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa
đều bị ràng buộc bởi nghĩa vụ đối với bên kia, đồng thời lại cũng là bên có
quyền địi hỏi bên kia thực hiện nghĩa vụ đối với mình. Trong hợp đồng mua
bán hàng hóa tồn tại hai nghĩa vụ chính mang tính chất qua lại và liên quan
mật thiệt với nhau, nghĩa vụ của bên bán phải bàn giao hàng hóa cho bên mua

và nghĩa vụ của bên mua phải thanh toán cho bên bán.
1.1.2.2. Đặc điểm đặc trưng của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Ngồi những đặc điểm chung của hợp đồng mua bán hàng hóa, hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế cịn có đặc điểm riêng mang tính đặc trưng.
Tính đặc trưng đó là căn cứ để xem xét, phân biệt với hợp đồng mua bán hàng
hóa trong nước. Đặc điểm mang tính đặc trưng đó là về chủ thể của hợp đồng.
Chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là các bên có trụ sở
thương mại đóng ở các nước khác nhau. Điều đó có nghĩa, bên bán, bên mua
phải có trụ sở thương mại đóng ở các nước khác nhau chứ khơng phải đóng
trong phạm vi một nước. Nếu bên mua và bên bán đều đóng trụ sở thương
mại ở cùng một nước mà ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa với nhau thì đó
là hợp đồng mua bán hàng hóa trong nước. Nhìn chung các doanh nghiệp
đóng trụ sở thương mại ở nước nào thì mang quốc tịch (là thương nhân) của
nước đó, chỉ có một ít doanh nghiệp đóng trụ sở một nước nhưng lại mang
13


quốc tịch nước khác (là thương nhân nước khác).
Chẳng hạn, đa số doanh nghiệp đóng trụ sở thương mại ở Pháp đều
mang quốc tịch Pháp, cịn số ít doanh nghiệp đóng trụ sở thương mại Pháp
nhưng mang quốc tịch nước ngoài. Hay ở Việt Nam hiện nay phần lớn các
doanh nghiệp đóng trụ sở thương mại ở Việt Nam mang quốc tịch Việt Nam,
chỉ một số ít mang quốc tịch nước ngồi. Vì vậy, trong phần lớn hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế chủ thể là các bên có quốc tịch khác nhau.
Đương nhiên không loại trừ trường hợp bên mua và bên bán có cùng
quốc tịch nhưng đó vẫn là hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Ví dụ, một
thương nhân Anh đón trụ sở thương mại tại Anh, mua hàng của một thương
nhân Anh đóng trụ sở thương mại tại Singapore, hàng hóa được chuyển từ
Singapore về Anh. Hay một ví dụ khác, một doanh nghiệp Hàn Quốc đóng trụ
sở thương mại tại Việt Nam, hoạt động kinh doanh tại Việt Nam, bán hàng

cho một thương nhân mang quốc tịch Hàn Quốc đóng trụ ở tại Hàn Quốc,
hàng hóa được vận chuyển từ Việt Nam sang Hàn Quốc.
Qua phân tích ở trên chúng ta thấy đặc điểm trụ sở thương mại của hai
bên (bên mua và bên bán) đóng ở các nước khác nhau là đặc điểm quan trọng
mang tính đặc trưng của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
1.1.2.3. Đặc điểm riêng của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Ngồi đặc điểm đặc trưng trên đây, hợp đồng mua bán hàng hóa quốc
tế cịn có một số đặc điểm riêng khác, nhưng đặc điểm riêng này khơng chỉ có
tính chất bắt buộc mà còn là điều kiện cần và đủ để các định đó là một hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Cụ thể như sau:
a) Về đối tượng của hợp đồng
Hàng hóa là đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là động
sản, tức là hàng có thể chuyển qua biên giới của nước người bán sang nước
người mua hoặc sang nước thứ ba. Vì hợp đồng mua bán hàng hóa được ký
14


kết giữa các bên có trụ sở thương mại đóng ở các nước khác nhau nên trong
đa số trường hợp, hàng hóa được chuyển từ nước người bán sang nước người
mua hoặc từ nước người bán sáng nước thứ ba (trong trường hợp người mua
hàng đó xuất hàng sang nước thứ ba). Song cũng có trường hợp hàng hóa
khơng chuyển qua biên giới nước người bán.
b) Về đồng tiền thanh toán
Tiền tệ dùng để thanh toán thường là nội tệ hoặc có thể là ngoại tệ đối
với các bên. Ví dụ: hợp đồng được giao kết giữa người bán Việt Nam và
người mua Hà Lan, hai bên thỏa thuận sử dụng đồng euro làm đồng tiền thanh
toán. Lúc này đồng euro là ngoại tệ đối với phía người bán Việt Nam nhưng
lại là nội tệ đối với người mua Hà Lan.
Tuy nhiên, cũng có trường hợp đồng tiền thanh tốn đều là nội tệ của cả
hai bên, như trường hợp các doanh nghiệp thuộc các nước trong cộng đồng

châu Câu sử dụng đồng euro làm đồng tiền chung.
c) Về ngôn ngữ của hợp đồng
Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế thường được ký kết bằng tiếng
nước ngoài đối với một trong hai bên hoặc cả hai bên, trong đó phần lớn là ký
bằng Tiếng Anh, điều này đòi hỏi các bên phải giỏi ngoại ngữ.
d) Về cơ quan giải quyết tranh chấp
Tranh chấp phát sinh từ việc giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế có thể do tịa án hoặc trọng tài nước ngồi, tùy theo sự thỏa
thuận của chủ thể.
e) Về luật áp dụng hợp đồng
Luật áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế mang tính chất
đa dạng và phức tạp. Điều này có nghĩa là hợp đồng mua bán hàng hóa quốc
tế có thể phải chịu sự điều chỉnh khơng phải chỉ của luật pháp nước đó mà cả
của luật nước ngoài (luật nước ngoài bán, luật nước ngoài mua, hoặc luật của
bất kỳ một nước thứ ba nào), thậm chí phải chịu sự điều chỉnh của điều ước
15


quốc tế, tập quán thương mại quốc tế hoặc cả án lệ để điều chỉnh hợp đồng.
Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế dù được giao kết hồn chỉnh, chi
tiết đến đâu, bản thân nó cũng khơng thể dự kiến, chứa đựng tất cả những vấn
đề, nhưng tình huống có thể phát sinh trong thực tế. Do đó, cần phải bổ sung
cho hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế một cơ sở pháp lý cụ thể bằng cách
lựa chọn luật áp dụng cho hợp đồng đó. Vì hợp đồng mua bán có tính chất
quốc tế nên luật điều chỉnh hợp đồng này sẽ là luật nước ngoài của một trong
hai bên hoặc cả hai bên. Nếu luật áp dụng là luật nước người mua thì luật này
là luật nước ngồi đối với người bán. Người bán phải có sự hiểu biết về nó,
trong đó ít ra người bán phải hiểu rõ được luật này có bảo vệ quyền lợi cho
người bán hay không. Và ngược lại, đối với người mua cũng vậy.
Như vậy, không chỉ người bán và người mua cần có sự hiểu biết để lựa

chọn, để tuân thủ luật áp dụng mà ngay cả cơ quan giải quyết tranh chấp (tòa
án, trọng tài) cũng phải nghiên cứu vấn đề luật áp dụng cho hợp đồng đó thì
mới có thể làm tốt được chức năng nhiệm vụ của mình.
Theo nguyên tắc chung của tư pháp quốc tế, trong mua bán hàng hóa
quốc tế, các bên có quyền tự do thỏa thuận chọn nguồn luật áp dụng cho quan
hệ hợp đồng của mình. Nguồn luật đó có thể là luật quốc gia, điều ước quốc tế
về thương mại hoặc tập quán thương mại quốc tế, thậm chí cả các án lệ. Tuy
nhiên, điều quan trọng ở đây là nên chọn nguồn luật áp dụng nào thích hợp
nhất để bảo vệ được quyền lợi của mình, cần lưu ý một số nguyên tắc sau:
Thứ nhất, lựa chọn luật quốc gia:
Có hai cách quy định về luật áp dụng, một là ngay từ giai đoạn đàm
phán, ký kết hợp đồng, bằng cách chỉ rõ trong hợp đồng rằng luật của một
nước nào đó sẽ được áp dụng cho hợp đồng. Trường hợp này gọi là các bên
đã quy định trong hợp đồng điều khoản luật áp dụng cho hợp đồng.
Cách thứ hai là các bên thỏa thuận lựa chọn quốc gia là luật áp dụng
16


cho hợp đồng sua khi ký kết hợp đồng, thậm chí khi tranh chấp phát sinh.
Cách này được các bên áp dụng khi trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
mà các bên đã ký trước đó khơng có điều khoản về luật áp dụng. Trong thực
tế, cách này rất khó áp dụng vì các bên khó có thể đạt được một sự nhất trí về
việc chọn luật áp dụng khi mà đã có tranh chấp xảy ra. Người hay người mua
cũng chỉ muốn áp dụng luật nước mình hoặc nước nào bảo vệ được quyền lợi
của mình nhiều nhất. Trong trường hợp này, hai bên chỉ đạt được sự thống
nhất khi luật được lựa chọn là luật không nghiêng quá về bảo vệ quyền lợi
cho bên nào, ví dụ như Cơng ước Viên 1980.
Khi trọng tài hoặc tịa án quyết định:
Điều 7 khoản 2 của Pháp lệnh Trọng tài Thương mại năm 2003 quy
định đối với vụ tranh chấp có yếu tố nước ngồi, Hội đồng Trọng tài áp dụng

pháp luật do các bên lựa chọn. Trong trường hợp các bên không lựa chọn
được pháp luật để giải quyết vụ tranh chấp thì Hội đồng Trọng tài quyết định.
Như vậy, Trọng tài thương mại Việt Nam sẽ có quyền chọn luật áp
dụng cho hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế phát sinh tranh chấp nếu các
bên khơng thể thỏa thuận được luật áp dụng.
Khi hợp đồng mẫu quy định:
Trong rất nhiều hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, để tiết kiệm thời
gian, các bên thường chỉ quy định những nội dung cơ bản liên quan đến đối
tượng mua bán và giá cả. Những nội dung còn lại các bên thường dẫn chiếu
đến hợp đồng mẫu. Hợp đồng mẫu thường được các tập đồn, cơng ty bn
bán lớn soạn thảo. Ví dụ, Hợp đồng mẫu của ITC về mua bán hàng hóa dễ
hỏng (The ITC Model Contract for the International Sale of Perishable
Goods) [10], Hợp đồng mẫu của ICC về hàng hóa được sản xuất để bán lại
(The ICC Model Internatinal Sale Contract on Manufactured Goods Intended
for Resale) [7] v.v... Những hợp đồng mẫu này chỉ có giá trị khi được các bên
17


tham chiếu bằng cách chỉ rõ trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Trong
trường hợp này, hợp đồng mẫu sẽ có giá trị bắt buộc giữa các bên và nếu
trong hợp đồng mẫu có quy định điều khoản luật áp dụng thì đương nhiên luật
áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế sẽ là luật áp dụng trong hợp
đồng mẫu này.
Như vậy, luật quốc gia của một nước có thể tác động đến mối quan hệ
của các bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế thông qua những cách
thức nêu trên. Mà những cách thức này đôi khi không được các bên chú ý.
Điều này cho thấy, để bảo vệ tốt quyền lợi của mình khi giao kết hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế, các doanh nghiệp Việt Nam cần nghiên cứu kỹ về
đặc điểm và các lưu ý của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
Thứ hai, lựa chọn tập quán quốc tế về thương mại:

Tập quán quốc tế về thương mại có thể là luật áp dụng cho hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế. Có thể hiểu tập quán quốc tế về thương mại là
những thói quen, phong tục về thương mại được nhiều nước áp dụng và áp
dụng một cách thường xuyên với nội dung rõ ràng để dựa vào đó các bên xác
định quyền và nghĩa vụ với nhau.
Thông thường, tập quán quốc tế về thương mại được chia thành ba
nhóm: các tập qn có tính chất nguyên tắc, các tập quán thương mại quốc tế
chung và các tập quán thương mại khu vực.
Vậy, câu hỏi đặt ra là, khi nào tập quán quốc tế về thương mại sẽ được
áp dụng?
Tập quán quốc tế về thương mại sẽ được áp dụng cho hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế khi:
Một, hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế quy định;
Hai, các điều ước quốc tế liên quan quy định;
Ba, luật thực chất (luật quốc gia) do các bên lựa chọn khơng có hoặc có
18


nhưng không đầy đủ.
Tập quán quốc tế về thương mại chỉ có giá trị bổ sung cho hợp đồng.
Vì vậy, nhưng vấn đề gì hợp đồng đã quy định thì tập qn quốc tế khơng áp
dụng, hay nói cách khác, hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế có giá trị pháp
lý cao hơn so với tập quán thương mại quốc tế. Khi áp dụng, cần chú ý là do
tập quán quốc tế về thương mại có nhiều loại nên để tránh sự nhầm lẫn hoặc
hiểu không thống nhất về một tập quán nào đó, cần phải quy định cụ thể tập
quán đó trong hợp đồng.
Khi áp dụng tập quán quán quốc tế về thương mại, các bên cần chứng
minh nội dung của tập quán đó. Do đó, nếu các bên biết trước nhưng thông tin
về tập quán thương mại quốc tế đó trước khi đàm phán sẽ rất thuận lợi. Các
thơng tin đó các bên có thể tìm hiểu thông qua sách báo, tài liệu hoặc ở các

văn bản của các Phòng Thương mại, các thương vụ Việt Nam ở nước ngoài.
Khi áp dụng tập quán thương mại quốc tế, cần phải tiến hành phân loại
tập quán quốc tế. Nếu có tập qn chung và tập qn riêng thì tập qn riêng
có giá trị trội hơn. Ví dụ, FOB Incoterms 2000 [8] là tập quán chung, FOB
cảng đến của Hoa Kỳ là tập quán riêng nên FOB của Hoa Kỳ sẽ được ưu tiên
áp dụng. Nếu có tập quán mặt hàng và tập quán ngành hàng thì tập quán mặt
hàng sẽ được ưu tiên áp dụng.
1.1.3. Hình thức hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Hình thức của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế cũng là vấn đề mà
các doanh nghiệp cần đặc biệt chú ý [3]. Khi nói đến hình thức của hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế thường có hai quan điểm:
Quan điểm thứ nhất:hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế có thể được ký
kết bằng lời nói, bằng văn bản, bằng hành vi hay bằng bất kỳ hình thức
nào khác do các bên tự thỏa thuận. Các nước theo quan điểm này hầu hết là
các nước có nền kinh tế thị trường phát triển như Anh, Pháp, Mỹ.
19


Quan điểm thứ hai: hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế phải được ký
kết dưới hình thức văn bản. Nhưng nước nêu ra quan điểm này là một số nước
có nền kinh tế đang chuyển đổi như Việt Nam. Điều 27 khoản 2 Luật Thương
mại Việt Nam 2005 quy định mua bán hàng hóa quốc tế phải được thực hiện
trên cơ sở hợp đồng bằng văn bản hoặc bằng các hình thức có giá trị pháp lý
tương đương. Các hình thức có giá trị pháp lý tương đương ở đây bao gồm
điện báo, telex, fax, thông điệp dữ liệu và các hình thức khác theo quy định
của pháp luật [21, Điều 3, Khoản 15].
Sự bất đồng này làm cho Công ước Viên năm 1980 về hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế phải lựa chọn sự dung hịa bằng cách đưa vào Công ước
những quy định theo hướng công nhận cả hai điều khoản liên quan đến hình
thức của hợp đồng. Điều 11 của Công ước quy định rằng: hợp đồng mua bán

hàng hóa quốc tế có thể được ký kết bằng lời nói và khơng cần thiết phải tuân
thủ bất kỳ yêu cầu nào khác về mặt hình thức của hợp đồng. Cịn Điều 96 thì
lại cho phép các quốc gia bảo lưu, không áp dụng Điều 11 trên nếu luật pháp
của quốc gia đó quy định hình thức văn bản là bắt buộc đối với hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế. Điều này có nghĩa là, nếu Việt Nam tham gia vào Cơng
ước Viên thì Việt Nam được quyền bảo lưu không áp dụng Điều 11 của Cơng
ước vì pháp luật Việt Nam quy định hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế phải
được ký kết bằng văn bản.
Lời khuyên cho các doanh nghiệp Việt Nam là mọi hợp đồng mua bán
ký với các đối tác nước ngoài phải được lập bằng văn bản. Ký bằng văn bản
sẽ giúp các bên có được cơ sở đảm bảo nhất khi giải quyết các tranh chấp phát
sinh. Ký bằng văn bản sẽ tạo điều kiện cho sự kiểm tra, giám sát thực hiện
hợp đồng có hiệu quả hơn.
Bên cạnh đó, khi nói đến hình thức hợp đồng mua bán ngoại thương,
cũng cần lưu ý đến cái gọi là “hình thức có giá trị pháp lý tương đương văn
20


×