Tải bản đầy đủ (.pdf) (119 trang)

Quy trình tố tụng theo quy chế của ICC và kinh nghiệm cho việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.58 MB, 119 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRẦN THỊ XUÂN

QUY TR×NH Tè TôNG THEO QUY CHÕ CñA ICC
Vµ KINH NGHIÖM CHO VIÖT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hµ néi - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRẦN THỊ XUÂN

QUY TR×NH Tè TôNG THEO QUY CHÕ CñA ICC
Vµ KINH NGHIÖM CHO VIÖT NAM
Chuyên ngành: Luật quốc tế
Mã số: 60 38 01 08

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN BÁ DIẾN

Hµ néi - 2015


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của
riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin
cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn
chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Trần Thị Xuân


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Bảng ký hiệu các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
́
Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNGVỀ TOÀ ÁN HÌ NH SỰ QUỐC TÊ
(ICC)
.........6
1.1.

Lịch sử hình thành ICC ..............................................................................6

1.1.1.

Giai đoạn trước Hội nghị ngoại giao 1998 thành lập ICC ............................6

1.1.2.


Giai đoạn từ Hội nghị ngoại giao 1998 thành lập ICC đến nay ....................8

1.2.

Đặc điểm, vai trò , thẩ m quyề n , cơ cấ u tổ chức của Tòa án Hin
̀ h
sư ̣ quố c tế theo quy chế Rome ..................................................................12

1.2.1.

Đặc điểm của Tòa án hình sự quốc tế theo quy chế Rome .........................12

1.2.2.

Vai trò, ý nghĩa của Tòa án Hình sự quốc tế ...............................................14

1.2.3.

Thẩ m quyề n của ICC ...................................................................................18

1.2.4.

Cơ cấ u tổ chức của ICC...............................................................................25

1.3.

Định nghĩa về quy trình tố tụng và vai trò của quy trình tố tụng
của ICC .......................................................................................................31

1.3.1.


Đinh
̣ nghiã về quy trình tố tụng ..................................................................31

1.3.2.

Vai trò của các quy trình tố tu ̣ng của ICC ...................................................32

1.4.

Cơ sở pháp lý về quy trình tố tụng của ICC ...........................................36

Chương 2: CÁC GIAI ĐOẠN TỐ TỤNG CỦA ICC THEO QUY CHẾ ROME
.......38
2.1.

Giai đoa ̣n điề u tra, truy tố ........................................................................38

2.1.1.

Thẩ m quyề n điề u tra, truy tố .......................................................................38

2.1.2.

Thủ tục điều tra và truy tố ...........................................................................45

2.2.

Giai đoa ̣n xét xử.........................................................................................51


2.2.1.

Thẩ m quyề n xét xử sơ thẩ m theo quy đinh
̣ của Quy chế Rome .................51

2.2.2.

Quyề n của bi ̣cáo , người bi ̣ha ̣i, nhân chứng ...............................................52


2.2.3.

Thủ tục phiên tòa Sơ thẩm ..........................................................................54

2.3.

Giai đoa ̣n Phúc thẩ m và xét la ̣i bản ản ...................................................61

2.3.1.

Phúc thẩm ....................................................................................................61

2.3.2.

Xét lại bản án ...............................................................................................69

2.4.

Giai đoa ̣n thi hành án................................................................................72


2.4.1.

Cơ quan thi hành án .....................................................................................72

2.4.2.

Thủ tục thi hành án ......................................................................................75

Chương 3: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG CÁC QUY ĐINH
PHÁP LUẬT VỀ
̣
́N
QUY TRÌ NH TỐ TỤNG CỦ A ICC VÀ KIÊNGHỊ
HOÀN THIỆN......... 80
3.1.

Thư ̣c tra ̣ng áp du ̣ng Quy chế Rome trong hoa ̣t đô ̣ng tố tu ̣ng của ICC
.......80

3.1.1.

Những kết quả đạt được trong hoạt động tố tụng của ICC .........................80

3.1.2.

Những khó khăn, thách thức đối với ICC trong hoa ̣t đô ̣ng tố tu ̣ng .............94

3.1.3.

Kiến nghị khắc phục những tồn tại của Quy chế Rome về ICC .................95


3.2.

Quy trình tố tụng của ICC, tương quan so sánh với Việt Nam ............96

3.3.

Kiến nghị hoàn thiện pháp lu ật tố tu ̣ng hình s ự của Việt Nam
trên cơ sở kế thừa thành tựu của ICC .....................................................98

3.3.1.

Hoàn thiện các quy định pháp luật về quy trình tố tu ̣ng .............................98

3.3.2.

Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tố tụng của Việt Nam.......103

KẾT LUẬN ............................................................................................................106
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................107


BẢNG KÝ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS

Bộ luật hình sự

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự


ICC

International Criminal Court

LHQ

Liên hợp quốc


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Tòa án hình sự quốc tế (ICC) là cơ quan tư pháp quốc tế thường trực được
các quốc gia thành lập theo quy chế Rome để truy tố và xét xử những cá nhân phạm
các tội ác quốc tế nghiêm trọng nhất, ảnh hưởng đến toàn bộ cộng đồng quốc tế,
như tội diệt chủng, tội chống nhân loại, tội ác chiến tranh và tội xâm lược. Mục tiêu
của ICC là hạn chế tình trạng bỏ lọt tội phạm, ngăn ngừa tội phạm trong tương lai
và góp phần tăng cường hòa bình, an ninh trên thế giới. ICC không thay thế mà chỉ
là sự bổ sung cho hệ thống tư pháp quốc gia. ICC có tư cách pháp lý quốc tế và
năng lực pháp lý để thực hiện các chức năng và mục tiêu nêu trên.
Quy chế Rome có hiệu lực từ 01/7/2002 và đến nay đã có khoảng 123 quốc
gia phê chuẩn. Là bộ quy chế hoàn chỉnh nhất, tiến bộ nhất, văn minh nhất trong
lĩnh vực hình sự và tố tụng hình sự quốc tế từ trước đến nay. Việt Nam cũng như
nhiều quốc gia khác cũng đang nghiên cứu, xem xét gia nhập quy chế này. Trong
điều kiện thế giới đang đứng trước các thời cơ và thách thức, nền chính trị quốc tế
còn nhiều yếu tố không ổn định, mỗi quốc gia, mỗi dân tộc phải có những đóng góp
vào việc chống lại các tội ác nghiêm trọng, ngăn ngừa và giảm thiểu các tác động
tiêu cực của chiến tranh và xung đột vũ trang.
Hơn nữa, pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam đang bộc lộ một số quy định
chưa thực sự đồng nhất với pháp luật tố tụng hình sự quốc tế, điều đó làm cho nhiều

quốc gia, nhiều chuyên gia, nhiều luật gia có uy tín trên thế giới cũng như trong
nước còn quan ngại và có nhiều quan điểm khác nhau trong việc nhìn nhận về vấn
đề đảm bảo quyền con người trong hoạt động tố tụng hình sự tại Việt Nam, ví dụ
như vấn đề quyền được im lặng của bị can, bị cáo; hay nguyên tắc suy đoán vô tội
trong tố tụng hình sự,… là những vấn đề đang được thảo luận sôi nổi tại các phiên
họp của Chính phủ và các diễn đàn pháp luật hiện nay.
Do đó việc nghiên cứu đánh giá một cách toàn diện và khoa học về quy trình
tố tụng theo quy chế của ICC là cần thiết từ đó rút ra kinh nghiệm cho Việt Nam

1


trong việc xây dựng và thực thi trình tự, thủ tục tố tụng hình sự thuộc thẩm quyền
tài phán quốc gia, góp phần làm cho pháp luật Việt Nam phù hợp với pháp luật
quốc tế và vẫn đảm bảo được yếu tố chủ quyền quốc gia trong hoạt động tố tụng
hình sự, có ý nghĩa quan trọng vào việc xác định sự thật khách quan của vụ án, đảm
bảo cho việc giải quyết vụ án hình sự được chính xác, khách quan, toàn diện, xét xử
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Vì các lý do trên tác giả đã chọn đề tài: “Quy trình tố tụng theo quy chế của
ICC và kinh nghiệm cho Việt Nam” làm luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong phạm vi quốc tế, đã có nhiều công trình, đề tài khoa học nghiên cứu về
Quy chế Rome và Tòa án hình sự quốc tế, mỗi công trình, mỗi đề tài đều có một cách
tiếp cận ở các góc độ khác nhau. Có thể kể tên một số công trình khoa học như:
+ Douglass Casel “Tại sao chúng ta lại cần Tòa án hình sự quốc tế - Tòa án
Liên hợp quốc xét xử tội ác chống lại loài người”;
+ Anna Rosen và Veronica Jormeus Gruner, "Các hiệp định theo Điều 98 Hợp pháp hay không hợp pháp”;
+ Ruth Wedgwood "Các vấn đề đặt ra từ Hội nghị Roma”;
+ Michael P. Scharf; “Quyền tài phán của Tòa án hình sự quốc tế đối với
công dân của quốc gia không phải là thành viên - Phê bình quan điểm của Hoa Kỳ”

….
Ở Việt Nam, các cơ quan có thẩm quyền đang tích cực nghiên cứu Quy chế
Rome một cách toàn diện nhằm xem xét khả năng gia nhập của Việt Nam vào quy
chế này. Giới nghiên cứu luật học của Việt Nam cũng rất quan tâm đến Quy chế
Rome. Đã có nhiều hội thảo khoa học liên quan đến Tòa án hình sự quốc tế được tổ
chức thành công như:
+ Hội thảo “Giới và Tòa án hình sự quốc tế” của Trung tâm nghiên cứu giới
và phát triển thuộc Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Đại học Quốc gia Hà Nội,
tháng 3 năm 2002;
+ Hội thảo “Những văn kiện pháp lý về Tòa án Hình sự quốc tế” và “Những vấn
đề cơ bản về Tòa án Hình sự quốc tế” của Hội luật gia Việt Nam tháng 3 năm 2006;
2


+ Hội thảo “Tòa án Hình sự quốc tế và việc gia nhập của Việt Nam” của
Trung tâm Luật biển và hàng hải quốc tế - Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội
tháng 10 năm 2006.
+ Hội thảo “Thực tiễn hoạt động xét xử của Tòa án hình sự quốc tế và kinh
nghiệm của một số nước khu vực ASEAN trong việc gia nhập quy chế Rome” của
Bộ tư pháp, tháng 07 năm 2012.
Bên cạnh các hội thảo, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Tạp chí Tòa án nhân
dân, Tạp chí Viện kiểm sát nhân dân, Tạp chí Luật học còn cho đăng nhiều bài
nghiên cứu, giới thiệu về Quy chế Rome và ICC của TS. Lê Mai Anh, TS. Dương
Tuyết Miên; Ths. Nguyễn Tuyết Mai…
Gần đây, có công trình đáng chú ý của Phạm Bá Quyền “Một số vấn đề pháp
lý về Tòa án hình sự quốc tế và việc gia nhập của Việt Nam” (năm 2010); Nguyễn
Thị Xuân Sơn: “Thẩm quyền của Tòa án hình sự quốc tế và vấn đề gia nhập của
Việt Nam” (năm 2013), …
Đây là những tài liệu vô cùng quý giá giúp các luật gia, các nhà nghiên cứu
tìm hiểu thêm về ICC cũng như Quy chế Rome.

Tuy nhiên với một Điều ước quốc tế chứa đựng nhiều nội dung pháp lý quan
trọng và có chuyên môn cao như Quy chế Rome thì những hoạt động nghiên cứu
nêu trên còn khá khiêm tốn. Điều này đòi hỏi phải có nhiều công trình nghiên cứu
hơn nữa những công trình nghiên cứu công phu về Quy chế Rome và ICC, để không
chỉ giúp cho việc đánh giá một cách toàn diện những vấn đề pháp lý cơ bản về quy
chế này mà còn tạo nền tảng lý luận cơ bản cho việc tiếp cận với Quy chế Rome và
ICC ở Việt Nam.
3. Mục tiêu nghiên cứu
3.1. Mục tiêu tổng quát
Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn hoạt động xét xử của Tòa án hình sự quốc
tế theo quy chế Rome. Từ đó đưa ra quan điểm nhận định, đánh giá về hiệu quả hoạt
động của Tòa án hình sự quốc tế trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm quốc tế.
Trên cơ sở đó phát hiện những điểm hạn chế còn tồn tại của quy chế Rome về Tòa án
hình sự quốc tế để kiến nghị hoàn thiện, đặc biệt là về quy trình tố tụng.

3


Kiến nghị hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam trên cơ sở tiếp thu có
chọn lọc những ưu điểm và khắc phục được những hạn chế của quy chế Rome về Tòa
án hình sự quốc tế; loại bỏ những quy định tố tụng không còn phù hợp nhằm hoàn
thiện pháp luật tố tụng Việt Nam tương thích với pháp luật quốc tế, tạo cơ sở thuận lợi
cho cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam trong việc xem xét gia nhập quy chế Rome.
3.2. Mục tiêu cụ thể
Để đạt được mục tiêu tổng quát đề cập trên, cần thực hiện các mục tiêu cụ thể sau:
Nghiên cứu những vấn đề lý luận chung, khát quát chung về quy trình tố
tụng của ICC: nghiên cứu về sự ra đời của ICC, nguyên tắc tố tụng, cơ cấu tổ chức
ICC, thẩm quyền tố tụng và các bước trong quy trình tố tụng theo quy chế của ICC.
Phân tích và đánh giá các quy định liên quan của ICC về quy trình tố tụng.
Từ đó rút ra một số ưu điểm, nhược điểm và kiến nghị hoàn thiện.

Phân tích quy trình tố tụng hình sự của pháp luật Việt Nam, so sánh với quy
trình tố tụng của ICC, qua đó tìm ra những điểm bất cập, chưa hợp lý, thiếu tính
khoa học để làm cơ sở cho các kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật Việt
Nam về vấn đề này.
4. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Luận văn là công trình nghiên cứu có tính hệ thống những vấn đề liên quan
đến Quy trình tố tụng theo quy chế của ICC và kinh nghiệm cho Việt Nam, thể hiện
ở các nội dung cơ bản sau đây:
Đưa ra định nghĩa về quy trình tố tụng theo quy chế của ICC;
Khái quát về Quy trình tố tụng theo quy chế của ICC;
Phân tích và giải thích về mặt lý luận nội dung, quy phạm thực định và thực
tiễn áp dụng quy trình tố tụng trong việc giải quyết các vụ án hình sự quốc tế.
Phân tích và đánh giá đúng thực trạng và hiệu quả cách thức áp dụng quy
định tố tụng hình sự theo pháp luật Việt Nam hiện hành.
Đề xuất được những giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật tố tụng hình
sự Việt Nam trên cơ sở vận dụng những ưu điểm của quy trình tố tụng của ICC.
Luận văn có ý nghĩa góp phần đưa ra cái nhìn toàn diện về quy trình tố tụng
của ICC, tăng cường hiệu quả của công tác tuyên truyền pháp luật, đưa ra các kiến

4


nghị, đề xuất nhằm hoàn thiện pháp luật, hướng dẫn thi hành các quy định của luật
tố tụng hình sự Việt Nam.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là trình tự, thủ tục tố tụng theo quy chế của
ICC; Trình tự, thủ tục tố tụng hình sự theo pháp luật Việt Nam. Tương quan so sánh
để phát hiện điểm bất cập, hạn chế và đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ
thống pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam.
Nội dung nghiên cứu đề tài bao gồm nhiều vấn đề khác nhau. Tuy vậy, do

giới hạn của một luận văn thạc sĩ, việc nghiên cứu chỉ tập trung vào những vấn đề
cơ bản nhất thuộc nội dung đề tài như khái quát chung về sự ra đời của ICC, tập
chung nghiên cứu sâu về một số nguyên tắc cơ bản trong tố tụng; trình tự, thủ tục tố
tụng trong việc thu thập chứng cứ; các quy định liên quan đến điều tra, truy tố, xét
xử và bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự.
6. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật lịch sử
và chủ nghĩa duy vật biện chứng mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và
pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng nhà nước pháp quyền,
về chính sách tố tụng hình sự, về vấn đề cải cách tư pháp. Trong quá trình nghiên
cứu đề tài sử dụng các phương pháp cụ thể và đặc thù của khoa học pháp lý như:
phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp
diễn dịch; phương pháp quy nạp; phương pháp thống kê, điều tra xã hội học để tổng
hợp các tri thức khoa học pháp lý và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên
cứu trong luận văn.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài Lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết
cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về Tòa án Hình sự Quốc tế (ICC)
Chương 2: Các giai đoạn tố tụng theo quy chế Rome của ICC
Chương 3: Thực trạng áp dụng các quy định pháp luật về quy trình tố tụng
của ICC và kiến nghị hoàn thiện

5


Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TOÀ ÁN HÌNH SỰ QUỐC TẾ (ICC)
1.1. Lịch sử hình thành ICC
1.1.1. Giai đoạn trước Hội nghị ngoại giao 1998 thành lập ICC

Khi chiến tranh thế giới hai kết thúc, năm 1945 “Thỏa thuận London” thiết
lập Tòa án quốc tế dưới tên gọi Tòa án Nuremberg nhằm xét xử các thành viên của
Đức Quốc xã và đến năm 1946 quân đồng minh phê chuẩn Hiến chương thiết lập
Tòa án Tokyo xét xử tội phạm chiến tranh quốc tế cho vùng Viễn Đông nhằm truy
tố tội phạm chiến tranh người Nhật [79], sự phát triển của ý tưởng thành lập tòa án
quốc tế để giải quyết vấn đề tội ác chống lại con người đã được thúc đẩy xuất phát
từ những hành động mà Đức Quốc xã và Nhật Bản đã gây ra. Những tòa án đó
chứng tỏ rằng cấu trúc pháp luật quốc tế đang tồn tại lúc đó không có cơ quan
thường trực theo đúng nghĩa hay không có cơ quan tòa án có thẩm quyền để xét xử
loại tội phạm này [7, tr.83].
Năm 1947, Hiệp định của Đại hội đồng LHQ về ngăn ngừa và trừng trị tội
phạm diệt chủng đã được thông qua. Trong một Nghị quyết tương tự, Đại hội đồng
LHQ yêu cầu Hội đồng Luật gia quốc tế “nghiên cứu nguyện vọng và khả năng thành
lập một cơ quan tòa án để xét xử những cá nhân liên quan đến tội diệt chủng” [79].
Năm 1949 - 1954, ủy ban Pháp luật quốc tế (ILC - International Law Commission) đã
chuẩn bị một số dự thảo quy chế cho ICC theo yêu cầu của Đại hội đồng LHQ, nhưng
sự khác biệt về ý kiến đã ngăn không cho dự án này tiến xa hơn [9, tr.84].
Năm 1989, nhằm đáp lại yêu cầu của Trinidad and Tobago, Đại hội đồng
LHQ đã yêu cầu ủy ban Pháp luật quốc tế tiếp tục việc thiết lập Tòa án quốc tế đồng
thời có thẩm quyền xét xử tội phạm buôn bán ma túy [79].
Năm 1993, HĐBA LHQ đã thiết lập Tòa án quốc tế đặc biệt dành cho cựu
nhân viên của Chính quyền Nam Tư cũ, nhằm luận tội các cá nhân có liên quan đến
các hành động tàn bạo đã thực hiện được biết đến như là một phần của cuộc “thanh
lọc sắc tộc” [79].

6


Năm 1994, Đại hội đồng LHQ quyết định theo đuổi việc thành lập một tòa án
hình sự quốc tế và lấy dự thảo quy chế Tòa án hình sự quốc tế của Ủy ban Pháp luật

quốc tế làm tài liệu cơ sở [39]. Đại hội đồng LHQ đã quyết định thành lập ủy ban ad
hoc (ad hoc Committee) để xem xét các vấn đề liên quan đến ICC [27, tr. 12-13]. Các
cuộc thảo luận tại ủy ban ad hoc về dự thảo Quy chế ICC cho thấy những khác biệt
sâu sắc trong quan điểm của các quốc gia về mô hình tòa án tương lai. Dự thảo của
ủy ban Pháp luật quốc tế đã dựng lên một tòa án gần giống với các Tòa án hình sự
ad hoc ICTY và ICTR. Trong khuôn khổ thảo luận của ủy ban ad hoc, một khái
niệm mới Nguyên tắ c b ổ sung được đưa ra, theo đó ICC chỉ có quyền tài phán khi
các tòa án quốc gia không muốn, hoặc không thể truy tố kẻ phạm tội [52]. Ủy ban
ad hoc cũng khẳng định các quyền tài phán của ICC cần phải được định nghĩa chi
tiết, chứ không chỉ nêu tên như trong dự thảo của ủy ban Pháp luật quốc tế [52]. Ủy
ban ad hoc không muốn để nội dung dự thảo Quy chế của ICC lệ thuộc vào kết quả
của ủy ban Pháp luật quốc tế, do đó đã cố gắng đưa vào dự thảo Quy chế ICC
những quy định chi tiết về các tội phạm, cũng như các nguyên tắc chung của pháp
luật và các nội dung thực chất khác, ủy ban ad hoc đã kết luận rằng tòa án mới cần
tuân theo những nguyên tắc và quy định có thể đảm bảo những chuẩn mực công lý
cao nhất và những vấn đề này cần được thể hiện đầy đủ trong Quy chế [60, tr.7].
Năm 1995, Đại hội đồng LHQ thành lập một ủy ban trù bị (Preparatory
Committee) với sự tham gia của các quốc gia thành viên LHQ, các tổ chức quốc tế
và các tổ chức phi chính phủ. Nhiệm vụ của ủy ban trù bị này là xây dựng một văn
bản pháp lý hoàn chỉnh, được chấp nhận rộng rãi, chuẩn bị cho Hội nghị ngoại giao
thông qua Quy chế ICC [27, tr.14]. Ủy ban trù bị đã họp hai phiên trong năm 1996
đưa ra một báo cáo dày với những đề xu ất sửa đổi dự thảo của Ủy ban Pháp lu ật
quốc tế [54]. Ủy ban trù bị cũng họp ba phiên nữa trong năm 1997 và nhiều phiên
họp không chính thức giữa các kỳ khác, quan trọng nhất là phiên họp Zutphen tại
Hà Lan vào tháng 01 năm 1998. Dự thảo Quy chế ICC được thông qua tại Zutphen
đã kết hợp được các ý kiến khác nhau vào một văn bản tương đối hoàn chỉnh [70].
Dự thảo này sau đó đã được chỉnh sửa tại phiên họp cuối cùng của ủy ban trù bị để

7



trình lên Hội nghị ngoại giao các Đại diện toàn quyền của các quốc gia [54]. Hầu
hết các điều khoản trong bản dự thảo cuối cùng đều có nhiều phương án lựa chọn
khác nhau, thể hiện kết quả của một quá trình đàm phán căng thẳng với nhiều ý kiến
bất đồng [50, tr.379]. Một số vấn đề quan trọng như nguyên tắc bổ sung đã được
giải quyết gần xong trong các cuộc thảo luận của ủy ban trù bị. Thách thức đặt ra
cho các đại biểu Hội nghị ngoại giao là phải làm sao ghi nhận được kết quả này.
Những vấn đề khác, chẳng hạn như hình phạt tử hình đã được các quốc gia cố tình
né tránh trong các phiên thảo luận của ủy ban trù bị và đã đi đến bế tắc trong các
cuộc đàm phán cuối cùng.
1.1.2. Giai đoạn từ Hội nghị ngoại giao 1998 thành lập ICC đến nay
Ngày 15 tháng 6 năm 1998, Hội nghị ngoại giao về thành lập Tòa án hình sự
quốc tế (ICC - International Criminal Court) đã được khai mạc tại Roma (Italy).
Hơn 160 quốc gia đã cử đại biểu tham gia Hội nghị, cùng với sự có mặt của đại diện
nhiều tổ chức quốc tế và hơn 100 tổ chức phi chính phủ. Tất cả các đoàn đại biểu
đều bày tỏ sự ủng hộ việc thành lập một tòa án hình sự quốc tế thường trực, chuyên
xét xử và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các cá nhân phạm các tội ác nghiêm
trọng theo pháp luật quốc tế [67, tr.15].
Hội nghị ngoại giao năm 1998 nhằm hoàn chỉnh thông qua dự thảo Quy chế
ICC. Các nhóm làm việc chịu trách nhiệm về từng cụm vấn đề nội dung trong dự
thảo Quy chế được thành lập. Lần lượt các quy định của Quy chế được các nhóm
làm việc thông qua với sự nhất trí chung. Tuy nhiên, các quốc gia hầu như không
tìm được tiếng nói chung về những vấn đề quan trọng thuộc trách nhiệm của ủy ban
toàn thể, như quyền tài phán của ICC đối với công dân của quốc gia không thành
viên, cơ chế khởi kiện, danh mục tội phạm. Điều đó khiến cho dự thảo Quy chế
dường như khó có thể đạt được sự ủng hộ của 2/3 các quốc gia tham dự Hội nghị
trong trường hợp phải biểu quyết [67, tr.15].
Ngày 17 tháng 7 năm 1998 là ngày cuối cùng của Hội nghị, Ủy ban toàn thể
đưa ra một bản dự thảo như là một “Thỏa hiệp cả gói” (Package deal). Nhiều nước đã
bày tỏ sự ủng hộ đối với dự thảo cả gói này và phản đối bất kỳ cố gắng nào nhằm


8


thay đổi hoặc điều chỉnh nó, vì quan ngại rằng điều đó có thể làm hỏng toàn bộ kết
quả thỏa hiệp [67, tr.15]. Phái đoàn Hoa Kỳ đã cố gắng tập hợp các nước có cùng
quan điểm phản đối việc thông qua bản dự thảo cả gói này, nhưng đã không thành
công. Cuối cùng, dự thảo được thông qua với 120 phiếu thuận, 21 phiếu trắng và 07
phiếu chống [64]. Hoa Kỳ, Israen và Trung Quốc đã bày tỏ quan điểm phản đối [63].
Ngoài việc thông qua Quy chế Rome, Hội nghị ngoại giao cũng thông qua
Văn kiện cuối cùng quyết định thành lập một ủy ban trù bị để soạn thảo các văn bản
phụ trợ phục vụ cho việc thành lập và hoạt động của Tòa án [56]. Cho đến nay,
những văn bản này đều đã được thông qua, gồm Quy tắc và thủ tục chứng cứ (Rules
of Procedure and Evidence), Các yếu tố cấu thành tội phạm (Elements of Crimes),
Hiệp định ưu đãi miễn trừ của ICC (Agreement on the Priviledges and Immunities
of the International Criminal Court) [48].
Quy chế Rome cần có 60 quốc gia phê chuẩn để có hiệu lực. Thời điểm có
hiệu lực sẽ rất quan trọng vì ICC không thể truy tố những tội phạm xảy ra trước thời
điểm đó. Đây là thời điểm để tiến hành các bước cụ thể cho việc thành lập Tòa án,
như bầu các Thẩm phán và Trưởng Công tố [27, tr.16].
Sau khi Quy chế Rome được thông qua, EU và các tổ chức phi chính phủ đã
ráo riết vận động các nước sớm ký và phê chuẩn Quy chế này. Đến cuối năm 2000,
đã có 139 quốc gia ký Quy chế [47]. Ngay cả các quốc gia đã bỏ phiếu chống tại
Hội nghị Rome, như Hoa Kỳ và Israen, cuối cùng cũng ký Quy chế Rome. Trong số
các nước ASEAN, Thái Lan, Lào, Cambodia và Philippine đã ký Quy chế. Những
quốc gia chưa ký Quy chế này trước thời hạn 31 tháng 12 năm 2000 cũng được vận
động gia nhập Quy chế.
Senegal là quốc gia đầu tiên phê chuẩn Quy chế Roma vào ngày 02 tháng 2
năm 1999, tiếp đó là Trinidat và Tobago. Trong vòng hai năm kể từ khi thông qua,
Quy chế đã có 14 quốc gia phê chuẩn, tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2000 là thời

điểm hết thời hạn ký, Quy chế Rome đã có 27 quốc gia thành viên. Năm 2001, con
số này lên đến 37 [82]. Thời hạn từ lúc ký Quy chế Rome đến lúc phê chuẩn ở mỗi
quốc gia đều khá dài. Lý do chủ yếu liên quan đến thực tế sau khi ký, các quốc gia

9


đều phải sửa đổi hoặc ban hành nội luật để có thể thực hiện các nghĩa vụ được quy
định trong Quy chế Rome. Ngoài ra, do ICC chỉ thực hiện quyền tài phán theo
nguyên tắc bổ sung, nên các quốc gia cần đưa vào pháp luật của mình những quy
định để thực hiện trách nhiệm truy tố những người bị tình nghi phạm tội có mặt trên
lãnh thổ nước mình, ban hành định nghĩa về các tội diệt chủng, tội ác chống nhân
loại, tội ác chiến tranh như được quy đinh trong Quy chế Rome để hướng dẫn các
tòa án quốc gia thực hiện quyền tài phán đối với những tội này [69, tr.157].
Tháng 8 năm 2002 cuộc họp đầu tiên của Hội đồng quốc gia thành viên
thông qua ngân sách 30 triệu Euro cho giai đoạn đầu của ICC và thông qua một loạt
các Văn kiện bao gồm “Luật về thủ tục chứng cứ” và “Yếu tố cấu thành tội phạm”.
Ngoài ra, Giám đốc phụ trách đơn vị Common Servies được chỉ định trở thành quan
chức đầu tiên củ a ICC chịu trách nhiệm về các vấn đề pháp lý cho ICC hoạt động,
đồng thời chính thức tiếp quản nhiệm vụ của nhóm chuyên gia. Ngày 03 - 07 tháng
10 năm 2002 là giai đoạn bỏ phiếu bầu 18 Thẩm phán [79].
Ngày 11 tháng 4 năm 2003 chính thức thành lập ICC tại Hague và các Thẩm
phán tuyên thệ trước sự hiện diện của Chủ tịch Hội đồng quốc gia thành viên. Tham
dự buổi lễ có Nữ Hoàng Beatrix của Vương quốc Hà Lan với vai trò là người đứng
đầu nước chủ nhà và Tổng thư ký LHQ Kofi Annan [79].
Ngày 21 - 23 tháng 4 năm 2003, giai đoạn của Hội đồng quốc gia thành viên.
Ông Luis Moreno - Ocampo người Argentina được bầu làm ủy viên Công tố. Ngày
24 tháng 6 năm 2003, ông Bruno Cathala người Pháp được bầu làm Thư ký đầu tiên
của ICC với đa số phiếu của các Thẩm phán trong phiên họp toàn thể. Ngày 01
tháng 7 năm 2003, ICC kỷ niệm một năm thi hành Đạo luật Rome. Ngày 03 tháng 7

năm 2003, ông Serge Brammertz người Belgium đã tuyên thệ nhậm chức Phó ủy
viên Công tố [79].
Ngày 20 - 22 tháng 4 năm 2004, buổi họp đầu tiên của Hội đồng quản trị quỹ
Trust fund for Victims tại ICC. Ngày 25 tháng 6 năm 2004, thành lập ủy ban tiền
xét xử của ICC. Ngày 01 tháng 11 năm 2004, bà Fatou Bensouda người Gambia
tuyên thệ nhậm chức Phó ủy viên Công tố của ICC [79].

10


Ngày 10 tháng 3 năm 2006, 6 Thẩm phán tuyên thệ nhậm chức trong một
phiên họp mở rộng. Ngày 17 tháng 01 năm 2008, 3 Thẩm phán mới được bầu bởi
Hội đồng quốc gia thành viên vào cuối năm 2007 đã tuyên thệ nhậm chức là Judge
Daniel David Ntanda Nsereko người Uganda, Judge Fumiko Saiga người Nhật Bản
và Judge Bruno Cotte người Pháp. Ngày 29 tháng 02 năm 2008, các Thẩm phán gặp
nhau trong buổi họp toàn thể và bầu bà Silvana Arbia người Italy là Thư ký của ICC
trong nhiệm kỳ 5 năm. Ngày 17 tháng 4 năm 2008, bà Silvana Arbia tuyên thệ
nhậm chức Thư ký ICC. Ngày 09 tháng 9 năm 2008, các Thẩm phán của ICC họp
phiên họp toàn thể đã bầu bà Didier Preira người Senegal làm Phó Reigistrar cho
nhiệm kỳ 5 năm [79].
Ngày 19 tháng 01 năm 2009, diễn ra kỳ họp thứ VII của Hội đồng quốc gia
thành viên, Hội đồng bầu 6 Thẩm phán mới thay thế nhiệm kỳ của người tiền
nhiệm. Ngày 26 tháng 01 năm 2009, ICC mở phiên xét xử đầu tiên, vụ Thomas
Lubanga Dyilo. Ngày 11 tháng 3 năm 2009, Hội đồng quốc gia thành viên bầu 5
trong 6 Thẩm phán của ICC trong tháng 01 năm 2009 cho nhiệm kỳ 9 năm và nhậm
chức trong buổi lễ trọng thể tại ICC, bao gồm Judge Fumiko Saiga người Nhật Bản,
Judge Joyce Aluoch người Kenya, Judge Sanji Mmasenono Monageng người
Botswana, Judge Christine van den Wyngaert người Belgium và Judge Cuno
Tarfusser người Italy. Ông Mohamed Shahabuddeen người Guyana được bầu tháng
01 năm 2009 đã từ chức vào ngày 16 tháng 02 năm 2009. Ngày 16 tháng 3 năm

2009, các Thẩm phán ICC bầu Chủ tịch mới là ông Sang Hyun Song người Hàn
Quốc. Ông Judge Fatoumata Dembele Diarra người Mali và ông Hans Peter Kaul
người Germany lần lượt là Phó Chủ tịch thứ nhất và Phó Chủ tịch thứ hai [79].
Tính đ ến ngày 27 tháng 5 năm 2015, Quy chế Roma đã có 123 quốc gia
thành viên. Trong đó có 34 quố c gia đế n từ Châu Phi , 19 quố c gia đế n từ Châu Á
Thái Bình Dương, 18 quố c gia đế n từ Đông Âu , 27 quố c gia từ Châu Mỹ La tinh và
Caribe, 25 quố c gia đế n từ Tây Âu và các quố c gia khá c [91].

11


1.2. Đặc điểm, vai trò , thẩ m quyề n, cơ cấ u tổ chức của Tòa án Hin
̀ h sư ̣
quố c tế theo quy chế Rome
1.2.1. Đặc điểm của Tòa án hình sự quốc tế theo quy chế Rome
1.2.1.1. Tính chất thường trực của Tòa án hình sự quốc tế
Tòa án hình sự quốc tế (ICC) là thiết chế tư pháp hình sự có tính chất thường
trực, Điều 1 Quy chế Rome khẳng định: Tòa án hình sự quốc tế là một cơ quan
thường trực. Tính thường trực của ICC thể hiện ở những khía cạnh sau:
Thứ nhất: ICC chỉ có thẩm quyền xét xử đối với những tội phạm xảy ra vào
thời điểm sau khi Quy chế Roma có hiệu lực. Thẩm quyền của ICC không có hiệu
lực hồi tố đối với những tội phạm xảy ra trước khi nó được thành lập
Thứ hai: tính chất hoạt động thường xuyên của ICC là đặc điểm nổi bật thể
hiện tính chất thường trực của thiết chế tư pháp hình sự quốc tế này.
Thứ ba: ICC có đội ngũ thẩm phán, công tố viên, nhân viên có năng lực
chuyên môn cao, phẩm chất đạo đức tốt và trách nhiệm làm việc theo chế độ toàn
thời gian, đủ khả năng giải quyết công việc thuộc trách nhiệm của ICC.
Thứ tư: là một cơ quan thường trực nên ngay từ khi được thành lập ICC đã
đặt quan hệ lâu dài với Liên hợp quốc, với các quốc gia thành viên và các tổ chức
quốc tế khác để thực hiện chức năng của mình.

Thứ năm: ICC có trụ sở thường trực đặt tại Lahay – Hà Lan (nước chủ nhà)
theo quy định tại Điều 3 Quy chế Rome. Tòa án sẽ ký kết thỏa thuận về trụ sở chính
thức với nước chủ nhà. Thỏa thuận có sự phê duyệt của Hội đồng các quốc gia
thành viên của Quy chế và sau đó được Chánh án nhân danh Tòa án ký.
Như vậy với những căn cứ này ICC đã có đầy đủ các biểu hiện của một thiết
chế tư pháp hình sự quốc tế mang tính chất thường trực, một điểm khác biệt để phân
biệt nó với các Tòa án hình sự quốc tế khác.
1.2.1.2. Tính chất độc lập của ICC
Lời mở đầu của Quy chế Rome có đoạn viết: Vì mục đích này và hạnh phúc
của các thế hệ hiện tại và tương lai, thành lập một Tòa án hình sự quốc tế thường
trực, độc lập. Định hướng đó là cơ sở cho tất cả các quy phạm của Quy chế Rome

12


và là phương châm hoạt động trong quá trình giải quyết vụ án thuộc thẩm quyền của
Tòa án. Tính chất độc lập của ICC được thể hiện trong các mối quan hệ sau:
Độc lập trong mối quan hệ với Liên hợp quốc: ICC có tư cách pháp nhân
quốc tế, có năng lực pháp lý cần thiết để thực hiện các chức năng và hoàn thành
mục tiêu của mình. ICC không chịu sự chi phối và điều hành của Liên hợp quốc mà
chỉ quan hệ với Liên hợp quốc thông qua thỏa thuận hợp tác.
Độc lập với Tòa án hình sự quốc tế khác: ICC là thiết chế tư pháp hình sự do
các quốc gia thành viên lập ra có vị trí độc lập không những với Liên hợp quốc mà
còn đối với các Tòa án hình sự Ad hoc do Liên hợp quốc lập ra như Tòa án Nam Tư
(cũ), Tòa Ruanđa, Tòa án Campuchia. Những tòa án này có thẩm quyền riêng biệt
được quy định trong quy chế thành lập do Liên hợp quốc ban hành nên độc lập về
tư pháp đối với ICC.
Độc lập với các quốc gia thành viên: Mặc dù đòi hỏi sự hợp tác chặt chẽ của
các quốc gia thành viên trong quá trình thực hiện quyền tài phán của mình nhưng
ICC độc lập với quốc gia thành viên, được thể hiện:

+ ICC tôn trọng chủ quyền của các quốc gia thành viên ;
+ ICC không can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia thành viên ;
+ Những tội phạm thuộc thẩm quyền của ICC thì các quốc gia thành viên
phải tự thực hiện việc truy tố, xét xử. Những phán quyết của các quốc gia thành
viên đối với 04 loại tội phạm được quy định trong Quy chế Rome thì ICC không có
quyền can thiệp. ICC chỉ thực hiện quyền tài phán của mình khi quốc gia thành viên
không muốn hoặc không có khả năng thực hiện quyền tài phán của mình.
1.2.1.3. Tính chất tự nguyên của ICC
ICC được thành lập bởi 1 điều ước quốc tế (Quy chế Roma) dựa trên sự tự
nguyện của các quốc gia sau quá trình bàn thảo tại Hội nghị thành lập. Trên tinh
thần đó, các quy định của Quy chế Roma không trói buộc các quốc gia trừ khi
các quốc gia chấp nhận tham gia quy chế, tự nguyện gánh vác trách nhiệm quốc
tế. Đây cũng là một đặc điểm quan trọng để phân biệt ICC với các Tòa án hình
sự quốc tế khác.

13


1.2.1.4. Tính chất hợp tác chặt chẽ với các quốc gia, các tổ chức trong hoạt
động của ICC
Để thực sự hiệu quả, ICC cần đến sự hợp tác chặt chẽ với các bên có liên
quan, bao gồm các quốc gia, các tổ chức quốc tế, khu vực liên chính phủ và phi
chính phủ. Tòa án không có lực lượng cảnh sát riêng để thực thi các quyết định và
phán quyết của mình như các quốc gia hoặc có lực lượng riêng để tiến hành như các
Tòa án Adhoc do Liên hợp quốc thành lập. Do vậy, Tòa án yêu cầu sự hợp tác của
các quốc gia trong nhiều lĩnh vực, bao gồm thu thập chứng cứ, bắt giữ, giao nộp các
tội phạm và thực thi các bản án của mình. Quy chế cũng định ra những nghĩa vụ cụ
thể đối với các quốc gia thành viên trong việc hợp tác với Tòa án.
1.2.1.5. Thẩm quyền bổ sung của ICC
ICC không phải là cấp trên của Tòa án quốc gia và cũng không phải là Tòa

phúc thẩm. ICC không có thẩm quyền bác bỏ hay xem xét lại của bất kỳ Tòa án quốc
gia nào và cũng không có thẩm quyền vượt trội hơn Tòa án quốc gia. Quy chế đã quy
định rằng các quốc gia có trách nhiệm hàng đầu trong việc điều tra, truy tố, xét xử và
thi hành án đối với các tội phạm thuộc thẩm quyền của ICC mà họ tự nguyện tham
gia trừ khi họ không muốn hoặc không có khả năng thực hiện quyền tài phán đối với
các tội phạm đó. Nhiều quốc gia đã cho rằng, sự quy định về thẩm quyền bổ sung là
sự bảo đảm đầy đủ nhất về việc Tòa án hình sự quốc tế không xâm phạm đến chủ
quyền quốc gia. Đây là điểm khác biệt quan trọng so với các Tòa án hình sự khác.
1.2.2. Vai trò, ý nghĩa của Tòa án Hình sự quốc tế
Tòa án Hình sự quốc tế

theo Quy chế Rome ra đời không những đáp ứng

đươ ̣c yêu cầ u cấ p thi ết của việc ngăn chặn xung đột , bảo vệ hòa bình , an ninh quố c
tế mà còn thực thi trách nhiê ̣m đó mô ̣t cách có hiê ̣u quả với mô ̣t nề n tư pháp công
bằ ng, khách quan mang lại niềm tin cho nhân loại . Tính ưu việt này đã khẳng đị nh
vai trò, ý nghĩa của Tòa án hình sự quốc tế trong đời sống chính trị quốc tế.
1.2.2.1. Tòa án Hình sự quốc tế góp phần trừng trị và ngăn ngừa tội phạm
quố c tế
Quy chế Rome về Tòa án Hình sự quố c tế ra đời và hiǹ h thành trong bố i cảnh:

14


“hàng triê ̣u trẻ em, phụ nữ và nam giới đã trở thành nạn nhân của những hành động
tàn ác chưa từng thấy, gây chấ n động lương tri nhân loại… các tội ác đó đe dọa hòa
bình và an ninh thế giới…” [13] và Quy chế cũng đặt ra trách nhiệm cho Tòa án Hình
sự quố c tế: “các tội ác đó phải bi ̣ trừng tri ̣ và cầ n bảo đảm truy tố hiệu quả bằng việc
thực thi các biê ̣n pháp ở cấ p độ quố c gia và tăng cường hợp tác quố c tế ” [13]. Như
vâ ̣y, với mu ̣c tiêu ngăn chă ̣n, giải quyết các xung đột vũ trang thông qua việc trừng trị

những cá nhân thực hiê ̣n tô ̣i pha ̣m mô ̣t cách có hiê ̣u quả đã khẳ ng đinh
̣ vai trò củaTòa
án Hình sự quốc tế đố i với “Quyế t tâm chấm dứt tình trạng lọt lưới pháp luật của
những kẻ gây tội ác nói trên và do vậy góp phầ n ngăn ngừa những tội ác đo[13].
́”
Tòa án Hình sự quốc tế còn có vai trò phòng ngừa đối với các tội phạm thuộc
thẩ m quyề n của Tòa án Hình sự quốc tế trên toàn thế giới.
Sự ra đời của Tòa án Hin
̀ h sự quố c tế (ICC) là một sự kiê ̣n có vai trò quan
trọng trong quan hê ̣ qu ốc tế. Lần đầu tiên trong lịch sử có một Tòa án hình sự quốc
tế thường trực, hoạt động độc lập theo nguyên tắc bổ sung cho pháp luật quốc gia,
nhằm xét xử những cá nhân phạm tội ác nghiêm trọng trên bình diện quốc tế. Từ
nay, những kẻ thực hiện tội ác dã man nhất, vi phạm nghiêm trọng pháp luật quốc tế
sẽ bị đem ra trước công lý “… sẽ bị trừng phạt , các tội ác sẽ không bị lãng quên
hoặc thậm chí bi ̣ che đậy , mà sự thật đó phải được đưa ra ánh sáng một cách rõ
ràng và không thể tranh cãi” [41].
1.2.2.2. Quy chế Rome về Tòa án Hình sự quố c tế đóng góp cho sự phát tri ển
của luật hình sự quốc tế
Có thể khẳng định rằng, Quy chế Rome là một văn bản pháp lý có tính tổng
hợp trong lĩnh vực Tư pháp hình sự quốc tế vì nó chứa đựng các quy phạm không
chỉ về luật nội dung (Luật hình sự) mà còn cả về luật hình thức (Luật Tố tụng hình
sự). Quy chế Rome ra đời là mô ̣t bước hoàn thiê ̣n , phát triển “Luật Quốc tế” hướng
tới mu ̣c đích bảo vê ̣ hòa bình, an ninh quố c tế . Vai trò của Quy chế Rome thông qua
hoạt động của Tòa án Hình sự quốc tế đ ối với sự phát triển của Khoa học Luật hình
sự tương ứng với các chế định truyền thống của Luật hình sự được thể hiện:
Thứ nhất, về các nguyên tắc chung của Luật hình sự, Quy chế Rome dành

15



hẳn Phần 3 (từ Điều 22 đến Điều 33) để quy định về vấn đề này. Quy chế như một
sự tổng hợp của các nguyên tắc được ghi nhận trong các văn bản pháp luật liên quan
trước đó, và trở thành "sợi chỉ đỏ xuyên suốt các quy định của Pháp luật hình sự”.
Thứ hai, về tội phạm, Quy chế Rome được đánh giá là văn bản pháp lý quy
đinh
̣ khá rõ ràng, cụ thể những khái niệm và hành vi cấu thành tội phạm thuộc
quyền tài phán của Tòa án (tội phạm chiến tranh, tội diệt chủng, tội ác chống nhân
loại). Quy chế không chỉ là sự pháp điển hoá từ các công ước trước đó mà còn có sự
mở rộng với nhiều luận điểm mới, tiến bộ (điều này sẽ được làm rõ hơn ở phần
thẩ m quyề n tài phán của ICC).
Thứ ba, về các căn cứ loại trừ trách nhiệm hình sự, Quy chế Rome quy định
thành hai nhóm căn cứ chính
Nhóm 1: Loại trừ tính chất tội phạm của hành vi bao gồm các quy định tại
khoản 1, Điều 31, có thể được gọi một cách ngắn gọn là tình trạng mất năng lực hành
vi hình sự (do bị bệnh hoặc đang trong tình trạng say), phòng vệ chính đáng và tình thế
cấp thiết. Như vậy khi hành vi tội phạm được thực hiện mà chủ thể đang trong tình
trạng mất năng lực hành vi hình sự hoặc hành vi đó không bị luật hình sự cấm, thì hành
vi đó không cấu thành tội phạm và do đó không thể chịu trách nhiệm hình sự.
Nhóm 2: Loại trừ lỗi của chủ thể khi thực hiện hành vi. Nhóm này bao gồm
những trường hợp do sai lầm về sự việc hoặc sai lầm về pháp luật (Điều 32), tội
phạm được thực hiện theo mệnh lệnh (Điều 33). Điều này có nghĩa là khi chủ thể
thực hiện hành vi không có lỗi thì không phải chịu trách nhiệm hình sự.
Thứ tư, về hình phạt và quyết định hình phạt, Quy chế Rome không quy định
hình phạt tử hình mà hình phạt cao nhất là tù chung thân. Đây có thể nói là một
quan điểm nhân đạo, tiến bộ phù hợp với xu thế hiện nay đó là các nước dần bãi bỏ
hình phạt tử hình. Bên cạnh hình phạt tù, Tòa án có thể áp dụng hình phạt bổ sung
như phạt tiền hoặc tịch thu tài sản.
Như vậy, Quy chế Rome với sự ra đời của Tòa án Hin
̀ h sự quố c tế đã góp
phầ n xây dựng và phát triển những lý luâ ̣n trong Khoa học Luật hình sự quốc tế. Từ

đây, có thể khẳng định một lần nữa rằng Luật hình sự quốc tế là một ngành luật độc

16


lập trong hệ thống pháp luật quốc tế, có đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều
chỉnh riêng. Quy chế Rome cũng sẽ góp phần bổ sung và làm phong phú kho tàng lí
luận của Khoa học Luật hình sự quốc gia.
1.2.2.3. ICC góp phầ n bảo vê ̣ quyề n con người một cách có hiê ̣u quả
Quyền con người là một chế định của pháp luật quốc tế và pháp luật mỗi
quốc gia ngày nay, nó phản ánh mức độ văn minh của từng hệ thống pháp luật. Xã
hội càng văn minh thì quyền con người càng có điều kiện được tôn trọng và bảo vệ.
Quy chế Rome về Tòa án Hình sự quốc tế là sự tiếp tục của các công cụ hữu hiệu
bảo vệ quyền con người mà các quốc gia và cộng đồng quốc tế đã xây dựng lên. Vai
trò bảo vệ quyền con người của ICC được biểu hiện trên các khía cạnh sau:
Thứ nhất, Quy chế Rome khẳng định việc trừng trị các tội ác xâm phạm đến
quyền cơ bản của con người.
Quy chế Rome về Tòa án Hình sự quốc tế là một trong những văn bản pháp
luật quốc tế về quyền con người, là sự kế thừa, tái khẳng định và cụ thể hóa các
quyền cơ bản quan trọng nhất của con người trong các Công ước có trước đó, đó là
quyền được sống trong hòa bình, an ninh và hạnh phúc. Với mục tiêu bảo vệ quyền
con người, Tòa án Hình sự quốc tế được quy định là cơ quan tư pháp quốc tế
thường trực, độc lập do cộng đồng các quốc gia trên thế giới đồng thuận thành lập
nhằm xét xử Tội ác diệt chủng; Tội chống loài người; Tội ác chiến tranh và Tội xâm
lược. Đây là những tội ác nghiêm trọng nhất xâm phạm đến quyền cơ bản của con
người đã và đang diễn ra trên thế giới.
Thứ hai, Quy chế Rome về Tòa án Hình sự quốc tế xây dựng cơ chế trừng
phạt cá nhân thực hiện các tội phạm nghiêm trọng nhất xâm phạm quyền con người.
So với các Tòa án Hình sự quốc tế khác và Tòa án quốc gia thì Tòa án Hình
sự quốc tế có những khác biệt ở tính thường trực, độc lập của nó và do vậy có cơ

cấu hợp lý, hiệu quả để xử lý những tội phạm nghiêm trọng nhất theo quy định của
pháp luật quốc tế. Quy chế Rome đã thiết kế một cơ cấu hợp lý trong việc thực hiện
quyền tài phán nhằ m mang lại hiệu quả cao. Cơ chế này trước hết thể hiện bằ ng
việc nỗ lực hợp tác của các quốc gia thành viên, các tổ chức quốc tế và cả đối với
những quốc gia không phải thành viên trong những trường hợp nhất định.

17


Quyền tài phán của ICC do các quốc gia thành viên và cộng đồng quốc tế
trao quyền, các cơ quan của Tòa án Hình sự quốc tế chỉ thực hiện quyền tài phán
khi quốc gia thành viên không có khả năng hoặc không muốn truy cứu trách nhiệm
hình sự đố i với người thực hiện tội phạm. Cơ cấu tổ chức của Tòa án Hình sự quốc
tế, theo Điều 34 Quy chế Rome , thì Tòa án Hình sự quốc tế bao gồm các cơ quan
sau: Ban Chánh án, Các bộ phận; Văn phòng Công tố; Văn phòng thư ký và Hội
đồng các quốc gia thành viên. Các cơ quan này hoạt động thường xuyên giải quyết
các vụ việc phát sinh nên bảo đảm tính thường trực trong việc ngăn chặn, giải quyết
và phòng ngừa tội phạm bảo vệ quyền con người một cách có hiệu quả.
Thứ ba, Quy chế Rome về Tòa án Hình sự quốc tế quy định thủ tục chặt chẽ
bảo đảm trừng phạt cá nhân thực hiện tội ác nghiêm trọng xâm phạm quyền cơ bản
của con người đồng thời tránh làm oan người vô tô ̣i.
Quy chế Rome về Tòa án Hình sự quốc tế đã giải quyết tốt yêu cầu này thể
hiện bằng những quy định về thủ tục giải quyết vụ án như: Thông báo và phát hiện
tội phạm; điều tra, truy tố; thủ tục tố tụng sơ bộ tại Tòa án (tiền xét xử); xét xử và
thi hành án hướng tới việc giải quyết vụ án khách quan, công bằng, tôn trọng công
lý. Điề u 85 Quy chế Rome quy định phạm vi, mức độ và cách thức bồi thường thiệt
hại cho người bị oan nhằm khắc phục sai lầm của các cơ quan tiến hành tố tụng gây
ra trong quá trình giải quyết vụ án, đồng thời, khôi phục những thiệt hại về vật chất,
tinh thần cho người bị oan. Thông qua việc bồi thường này, khẳng định công lý mà
ICC theo đuổi và đề cao quyền con người trong quá trình giải quyết vụ án.

1.2.3. Thẩ m quyền của ICC
1.2.3.1. Một số nguyên tắc chi phối thẩm quyền xét xử của ICC
Nguyên tắc thẩm quyền xét xử tự động của Tòa án (Exofficio)
Theo quy đinh
̣ ta ̣i khoản 1, Điều 12, Quy chế Rome: "A State which becomes
a Party to this Statute thereby accepts the jurisdiction of the Court with respect to
the crimes referred to in article 5” [13].
Tất cả những quốc gia nào đã là thành viên của Quy chế sẽ chấ p nh ận một
cách mặc nhiên thẩ m quy ền xét xử của ICC đ ối với những tội phạm mà ICC có
thẩ m quyền xét xử. Tuy nhiên, có một trường hợp đặc biệt được chấp thuận trên cơ

18


sở đề nghị của Pháp gọi là điều khoản chuyển tiếp (Transitional Provision ). Nô ̣i
dung của điề u khoản này là các quốc gia thành viên của Quy chế có quyền lựa chọn
không chấ p nhận thẩ m quyền của ICC khi xét xử những kẻ phạm tội là công dân
hoặc hành vi phạm tội được thực hiện trên lãnh thổ của quốc gia mình trong một
khoảng thời gian là 7 năm kể từ ngày Quy chế bắ t đầ u có hiệu lực đối với mình
(Điều 124- Quy chế Rome).
Nguyên tắ c không hồi tố (Jurisdiction ratione temporis)
Theo điều 126 quy chế Rome thì ICC chỉ có quyền xét xử đối với những tội
phạm được thực hiện sau khi Quy chế đã bắt đầu có hiệu lực.
Trong trường hợp một quốc gia trở thành thành viên của Quy chế sau ngày
Quy chế có hiệu lực thì ICC chỉ có quyền xét xử đối với những tội phạm được thực
hiện sau ngày Quy chế bắt đầu có hiệu lực với những quốc gia đó, trừ khi quốc gia
này có những tuyên bố khác chấp nhận thẩm quyền xét xử của Toà như những quốc
gia không phải là thành viên của Quy chế (Điều 11- Quy chế Rome).
Nguyên tắ c không xét xử hai lần (Ne bis in idem)
Căn cứ theo khoản 1, Điều 20 Quy chế Rome , một người chỉ bị kết án hoặc

được tha bổng vì những hành vi cấu thành tội phạm căn cứ vào những quy định
trong Quy chế. Không ai có thể bị xét xử tại một tòa án khác vì những hành vi phạm
tội thuộc thẩm quyền xét xử của ICC nếu người đó đã bị ICC kết án hoặc tha bổng.
Ngược lại, nếu một người đã bị xét xử về một tội phạm thuộc thẩm quyền xét
xử của ICC tại một tòa án khác thì sẽ không bị xét xử trước ICC, trừ trường hợp
những trình tự tố tụng tại một tòa án khác nhằm mục đích bảo vệ cho người này
khỏi trách nhiệm hình sự về những tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của ICC,
hoặc việc xét xử của một Tòa án khác được tiến hành không độc lập và khách quan
theo những thủ tục quy định được luật quốc tế thừa nhận và được thực hiện theo
những cách thức và trong những hoàn cảnh cụ thể là mâu thuẫn với ý định đưa
người này ra xét xử.
Nguyên tắc bổ sung (Principle of Complementarity)
Nguyên tắc này được khẳng định ngay trong lời nói đầu “các quốc gia thành

19


×