Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

Vấn đề phân định biên giới trên biển giữa Việt Nam và Campuchia dưới góc độ luật pháp quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (822.63 KB, 107 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐỖ THỊ HẰNG

vÊn ®Ò ph©n ®Þnh biªn giíi trªn biÓn
gi÷a viÖt nam vµ campuchia
díi gãc ®é luËt ph¸p quèc tÕ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


HÀ NỘI - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐỖ THỊ HẰNG

vÊn ®Ò ph©n ®Þnh biªn giíi trªn biÓn
gi÷a viÖt nam vµ campuchia
díi gãc ®é luËt ph¸p quèc tÕ
Chuyên ngành: Luật Quốc tế
Mã số: 60 38 01 08

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN BÁ DIẾN



HÀ NỘI - 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

ĐỖ THỊ HẰNG


MỤC LỤC

Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các hình
Hà nỘi - 2015................................................................................................................................2
Hà nỘi - 2015................................................................................................................................2
LỜI CAM ĐOAN.............................................................................................................................1
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận
văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận

văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã
thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội......1
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn............1
Tôi xin chân thành cảm ơn!..........................................................................................................1
NGƯỜI CAM ĐOAN......................................................................................................................1
ĐỖ THỊ HẰNG...............................................................................................................................1
MỤC LỤC......................................................................................................................................2
MỞ ĐẦU.......................................................................................................................................1
Chương 1......................................................................................................................................7
TỔNG QUAN PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VỀ PHÂN ĐỊNH BIÊN GIỚI BIỂN VÀ THỰC TIỄN PHÂN ĐỊNH
BIỂN GIỮA VIỆT NAM VÀ...................................................................................................................7
CÁC QUỐC GIA TRONG KHU VỰC.................................................................................................7
1.1. Khái niệm “đường biên giới, ranh giới quốc gia trên biển”, “phân định biên giới biển”.......7
1.1.1. Khái niệm pháp lý về “đường biên giới, ranh giới quốc gia trên biển”...............................7


1.1.2. Khái niệm “phân định biên giới biển" và ý nghĩa của “phân định biên giới biển”...............9
1.2. Các căn cứ pháp lý về xác lập đường biên giới quốc gia trên biển........................................9
1.3. Các nguyên tắc để giải quyết vấn đề phân định biên giới trên biển....................................16
1.4. Các phương pháp phân định biên giới quốc gia trên biển...................................................22
1.4.1. Phương pháp đường trung tuyến, cách đều....................................................................24
1.4.2. Phương pháp phân định khác...........................................................................................24
1.5. Tổng quan thực tiễn phân định ranh giới biển giữa Việt Nam và các quốc gia trong khu vực
........................................................................................................................................................32
Chương 2....................................................................................................................................35
THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ BIÊN GIỚI TRÊN BIỂN .............................................................................35
GIỮA VIỆT NAM VÀ CAMPUCHIA...............................................................................................35
2.1. Khái quát chung vùng biển Việt Nam – Campuchia.............................................................35
2.1.1. Vị trí địa lý........................................................................................................................35
2.1.2. Điều kiện tự nhiên – dân cư – xã hội................................................................................35

2.1.3. Các vấn đề trên biển Việt Nam và Campuchia cần giải quyết...........................................38
2.2. Lịch sử vấn đề biên giới biển Việt Nam - Campuchia...........................................................46
2.3. Hiện trạng giải quyết vấn đề phân định biên giới trên biển giữa Việt Nam – Campuchia. . .58
2.3.1. Quan điểm của Việt Nam..................................................................................................58
2.3.2. Quan điểm của Campuchia...............................................................................................62
2.3.3. Những vấn đề pháp lý còn tồn tại cần giải quyết.............................................................68
Chương 3....................................................................................................................................77
PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ PHÂN ĐỊNH BIÊN GIỚI TRÊN BIỂN GIỮA VIỆT
NAM VÀ CAMPUCHIA......................................................................................................................77
3.1. Tầm quan trọng của việc phân định biên giới biển Việt Nam – Campuchia.........................77


3.2. Giải pháp lựa chọn biện pháp hòa bình để giải quyết tranh chấp.......................................81
3.3. Giải pháp giải quyết các vấn đề pháp lý đang tồn tại..........................................................83
3.3.1. Vấn đề quy chế pháp lý của đường Brevie.......................................................................83
3.3.2. Vấn đề vận dụng nguyên tắc Utis Possidentis..................................................................84
3.4. Các giải pháp khác...............................................................................................................87
3.4.1. Sử dụng vai trò của Asean................................................................................................87
3.4.2. Vấn đề hợp tác khác chung..............................................................................................89
KẾt luẬn......................................................................................................................................96


DANH MỤC CÁC HÌNH
Số hình

Tên hình

Tran
g


Hình 2.1: Bản đồ vùng nước lịch sử Việt Nam - Campuchia theo Error:
Hiệp định 7/7/1982 (đường Brévié 1939)

Refer
ence
source
not
found

Hình 2.2: Bản đồ các vùng chồng lấn tại Vịnh Thái Lan

Error:
Refer
ence
source
not
found

Hình 2.3: Phân định ranh giới trên biển giữa Việt Nam – Campuchia

Error:
Refer
ence
source
not
found


MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Vương quốc Campuchia và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là
hai quốc gia láng giềng kế cận nhau. Hai quốc gia đều mong muốn và chú tâm
tới vấn đề xác định rõ chủ quyền hải đảo và vạch đường biên giới lãnh hải,
ranh giới vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa. Mặc dù, vấn đề phân
định biển trong vịnh Thái Lan đã có khá nhiều tác giả đề cập và nghiên cứu từ
trước tới nay nhưng vấn đề chuyên biệt về giải quyết phân định biên giới trên
biển giữa Việt Nam và Campuchia tính đến thời điểm hiện tại vẫn còn khá để
ngỏ, thu hút các nhà nghiên cứu chuyên sâu. Năm 1982, hai bên đã ký Hiệp
định về vùng nước lịch sử, trong đó xác định rõ chủ quyền đảo của mỗi bên
theo một đường mà Toàn quyền Đông Dương Jules Brévié đề xuất năm 1939,
thiết lập một vùng nước lịch sử chung hai bên cùng nhau kiểm soát và quản
lý, hoạt động đánh bắt hải sản được thực hiện theo tập quán như cũ, mọi hoạt
động liên quan đến thăm dò dầu khí phải có ý kiến nhất trí của bên kia.
Hiện nay, giữa hai bên vẫn còn tồn tại vấn đề vạch đường biên giới
biển chung trong vùng nước lịch sử là nội thủy và lãnh hải và ranh giới biển
chung trong vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa. Mong muốn của hai
bên là sẽ tiếp tục giải quyết vấn đề tồn tại trên theo tinh thần bình đẳng, tôn
trọng lẫn nhau, vì lợi ích quan hệ hợp tác hữu nghị giữa hai quốc gia, phù hợp
với pháp luật và thực tiễn quốc tế.
Trong tiến trình tìm đạt các thỏa thuận chung, cả nhà nước đều bày tỏ
cam kết tôn trọng các hiệp ước, hiệp định về biên giới mà hai nước đã ký kết
trong những năm 1980 và trên cơ sở đó, đang tiếp tục đàm phán giải quyết
các vấn đề biên giới lãnh thổ còn tồn tại để sớm xây dựng được biên giới hoà
bình, hữu nghị hợp tác trên đất liền, trên biển giữa hai quốc gia. Một trong

1


những lý do hai bên chưa phân định được biên giới trên biển là do những

khác biệt về lập trường phân định, chính vì vậy, luận văn sẽ là một cơ hội để
có thể tập trung, phân tích, làm rõ những khác biệt này và đề xuất phương án
giải quyết mang tính thực tiễn và tính khả thi cao hơn.
Vấn đề này vẫn chưa phải là nóng hổi nhưng nó vẫn đang để ngỏ cho
tất cả các học giả, chuyên gia nghiên cứu tìm hướng giải quyết trên cơ sở xây
dựng những luận điểm, lập luận để hài hòa được lập trường, nhu cầu, lợi ích
và các yêu sách mà các bên đưa ra. Do lập trường của Campuchia là phân
định biên giới trên bộ xong mới phân định biên giới trên biển, năm 2013, Việt
Nam và Campuchia mới hoàn thành xong phân giới cắm mốc trên bộ nên thời
gian tới, hai nước sẽ tập trung phân định biên giới trên biển. Theo ý kiến chủ
quan, đề tài luận văn này, vấn đề phân định biên giới trên biển giữa Việt Nam
và Campuchia trong thời gian tới sẽ được nổi lên do vấn đề chủ quyền quốc
gia ngày càng được giới khoa học lẫn nhà cầm quyền quan tâm trú trọng cùng
sự thay đổi khá trọng yếu về quan hệ chính trị quốc tế giữa các quốc gia.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề biên giới trên biển giữa Việt Nam và Campuchia hiện nay, hai
bên còn phải tiếp tục đàm phán để xác định ranh giới biển trong vùng nước
lịch sử, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Đề tài “Giải quyết
vấn đề phân định biên giới trên biển giữa Việt Nam và Campuchia dưới góc
độ luật pháp quốc tế” hoàn toàn phù hợp với mã ngành đào tạo Thạc sỹ luật
quốc tế do đề tài thuộc lĩnh vực nghiên cứu của môn khoa học Luật biển quốc
tế. Nội dung đề tài chỉ nghiên cứu trong phạm vi phân định biển giữa Việt
Nam và Campuchia, không trải rộng vấn đề đến vấn đề biên giới hay vấn đề
phân định biển trong cả vịnh Thái Lan. Do xác định được phạm vi nghiên cứu
ngay từ khi đặt vấn đề, đề tài đã được đi sâu nghiên cứu các vấn đề phân định
các vùng biển giữa Việt Nam và Campuchia trong đó có vùng nội thủy, lãnh

2



hải, đặc quyền kinh tế và thềm lục địa và quy chế các đảo trong vùng nước
lịch sử giữa Việt Nam và Campuchia.
Từ trước đến nay, vấn đề biên giới trên biển là phạm vi nghiên cứu đạt
được bề dày của sự khai thác về mặt khoa học pháp lý cũng như các khoa học
chuyên ngành khác. Tuy nhiên, vấn đề chuyên biệt về giải quyết phân định
biên giới trên biển giữa Việt Nam và Campuchia dưới góc độ luật pháp quốc tế
thì chưa thật sự nhiều tài liệu chuyên sâu. Một số tác giả đã có là các bài viết
trên các tạp chí, trong các cuộc hội thảo như: “Những vấn đề về chủ quyền lãnh
thổ giữa Việt Nam và các nước láng giềng” (Lê Minh Nghĩa, Tài liệu hội thảo
về phát triển khu vực Châu Á Thái Bình dương và tranh chấp trên biển Đông);
“Vấn đề phân định biển trong Luật biển quốc tế hiện đại” (PGS.TS. Nguyễn
Bá Diến, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế-Luật, số 1/2007); “Pháp luật
quốc tế và việc vạch biên giới giữa Việt Nam với các quốc gia láng giềng”
(ThS. Huỳnh Minh Chính, Tập san biên giới và lãnh thổ số 14/2003) và các tài
liệu chuyên sâu, luận văn đã được nỗ lực tham khảo và sử dụng các nguồn tài
liệu để làm phong phú nguồn tư liệu tham khảo sau này.
Đề tài luận văn này tiếp tục nghiên cứu những vấn đề nhằm giải quyết
vấn đề phân định biên giới trên biển giữa Việt Nam và Campuchia nhưng
theo một cách tiếp cận và một góc độ khai thác mới. Bởi lẽ, các đề tài, công
trình nghiên cứu khoa học vấn đề phân định biên giới biển Việt Nam và
Campuchia đã được tiếp cận ở góc độ khai thác những quan điểm các bên đưa
ra nói chung. Còn phạm vi đề tài này đi thẳng vào vấn đề áp dụng cơ sở pháp
lý để giải quyết triệt để vấn đề phân định biên giới biển giữa Việt Nam và
Campuchia dưới góc độ luật pháp quốc tế trong đó có sự phân tích, so sánh để
tìm ra được một cách giải quyết đạt hiệu quả nhất và đưa ra đề xuất một cơ
chế riêng dựa trên những ưu điểm và hạn chế của các tình hình hiện có. Bởi
vậy, vẫn là góp phần tiếp tục vào sự nghiệp bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh

3



thổ đất nước, nhưng bài luận văn đi theo một con đường riêng, đảm bảo tính
mới trong nghiên cứu khoa học cũng như giá trị thực tiễn cần đạt được.
3. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Đề tài “Vấn đề phân định biên giới trên biển giữa Việt Nam và
Campuchia dưới góc độ luật pháp quốc tế” được lựa chọn có nhiều điểm mới
so với các đề tài khác/đề tài nghiên cứu đã được hoàn thành. Điển hình như:
Với mong muốn đi sâu nghiên cứu các nguyên tắc để giải quyết vấn đề
phân định biên giới trên biển, luận văn nêu được các đề xuất các phương
hướng giải quyết phân định biên giới trên biển giữa Việt Nam và Campuchia,
lý giải vấn đề Đường Brevie năm 1939 theo nguyên tắc Uti posidetis để vận
dụng vào giải quyết vấn đề phân định biên giới giữa Việt Nam và Campuchia
vào trong thực tiễn.
Do mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn được xây dựng với mong
muốn có những đóng góp của đề tài về mặt khoa học xây dựng cơ sở pháp lý
vững chắc và có nhiều lý luận sắc bén cũng như thực tiễn làm căn cứ để trong
vấn đề giải quyết triệt để phân định biên giới trên biển giữa Việt Nam và
Campuchia trong tương lai.
4. Mục tiêu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn được xây dựng với hai mục tiêu rõ ràng.
Mục tiêu tổng quát: Mục tiêu cuối cùng, chung nhất của vấn đề phân
định biên giới trên biển giữa Việt Nam và Campuchia dưới góc độ luật pháp
quốc tế nhằm xây dựng cơ sở pháp lý đồng thời đề xuất giải pháp nhằm phân
định biên giới trên biển giữa Việt Nam và Campuchia mà thực tiễn cũng như
lĩnh vực nghiên cứu khoa học đang còn nhiều điều ngổn ngang.
Mục tiêu cụ thể: Xây dựng được cơ sở pháp lý về phân định biên giới
trên biển; Đề xuất những phương án, những hướng đi mới để giải quyết triệt
để vấn đề phân định biên giới trên biển giữa Việt Nam và Campuchia vận
dụng pháp luật quốc tế.
4



Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành trên đối tượng là các Công ước luật biển
năm 1982, Hiệp định phân định biển giữa Việt Nam – Thái Lan, Hiệp định về
vùng nước lịch sử chung giữa Việt Nam – Campuchia, các tài liệu văn kiện lý
luận trước đây về vấn đề biển Việt Nam và Campuchia.
Với đề tài có mục đích đóng góp cho lý luận khoa học và quan trọng
hơn là đóng góp vào thực tiễn giải quyết vấn đề biên giới trên biển giữa Việt
Nam và Campuchia một cách triệt để, Luận văn sẽ được giới hạn phạm vi
nghiên cứu trong văn bản pháp lý, bài phân tích, luận điểm đưa ra của các bên
trong vấn đề này.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên các phương pháp duy vật biện
chứng để tiếp cận vấn đề và định hướng về vấn đề cần viết. Đây là các
phương pháp định hướng, phương pháp cơ bản. Ngoài ra, để hoàn thành tốt
luận văn này, Việc sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như đánh giá
tổng hợp, so sánh và phân tích chuyên sâu để phù hợp với phạm vi và nội
dung nghiên cứu đã giới hạn từ đầu, tránh bị xao lãng hay dàn trải mà không
đạt được mục tiêu nghiên cứu.
Việc nghiên cứu tài liệu và xây dựng được nội dung chi tiết luận văn,
Luận văn đã được tận dụng các điều kiện thuận lợi để nghiên cứu. Cụ thể là,
Luận văn được dành khối lượng lớn và phần nhiều thời gian cho việc nghiên
cứu các tài liệu phía Campuchia xây dựng các luận điểm của họ đối với vấn
đề phân định biên giới biển với Việt Nam và các nước láng giềng của
Campuchia dựa trên các nguồn tư liệu từ thư viện, các mối quan hệ ngoại giao
với các cơ quan có liên quan, mạng trực tuyến... Đồng thời, Luận văn cũng
được dành thời gian lớn để nghiên cứu các tài liệu sẵn có của các chuyên gia,
nhà nghiên cứu Việt Nam và các văn kiện chính thức của Nhà nước Việt Nam


5


liên quan tới đề tài. Các nguồn tư liệu sẽ được thu thập từ thư viện, các cơ
quan ngoại giao, Ủy ban Biên giới quốc gia,...
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời mở đầu và kết luận, nội dung dự kiến của luận văn bao gồm
ba phần lớn với những ý tưởng triển khai tập trung vào:
Chương 1. Tổng quan pháp luật quốc tế về phân định biên giới trên biển
Chương 2. Tình hình và thực trạng vấn đề biên giới trên biển giữa
Việt Nam và Campuchia.
Chương 3. Giải quyết vấn đề phân định biên giới trên biển giữa Việt
Nam và Campuchia.

6


Chương 1
TỔNG QUAN PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VỀ PHÂN ĐỊNH BIÊN GIỚI
BIỂN VÀ THỰC TIỄN PHÂN ĐỊNH BIỂN GIỮA VIỆT NAM VÀ
CÁC QUỐC GIA TRONG KHU VỰC

1.1. Khái niệm “đường biên giới, ranh giới quốc gia trên biển”,
“phân định biên giới biển”
1.1.1. Khái niệm pháp lý về “đường biên giới, ranh giới quốc gia trên biển”
Đất, biển, trời và lòng đất là bộ phận cấu thành và không thể tách rời
của lãnh thổ quốc gia. Trong đó, phần đất - bao gồm đất liền, đảo, sông
suối, hồ nội địa, lòng đất bên dưới - từ lâu đã được phân chia hết giữa các
nước và được thể hiện bằng các đường biên giới quốc gia xác định bởi thực
tế quản lý hay điều ước quốc tế. Đường biên giới trên đất liền được coi là

bền vững và bất khả xâm phạm [26]. Tuy vậy, trên thực tế, hiện nay vẫn
diễn ra nhiều tranh chấp biên giới và đường biên giới trên đất liền giữa các
quốc gia trên thế giới cũng không phải luôn luôn ổn định. Có thể khẳng
định rằng, bất kỳ một mỏm đất (đảo) nào mới mà xuất hiện trên mặt biển sẽ
bị người này hay người khác chiếm lĩnh ngay lập tức. Vùng trời của các
quốc gia về cơ bản cũng đã được phân định rõ ràng từ lâu và dựa chủ yếu
vào việc phân chia các vùng đất.
Ngoại trừ vùng biển, trong thời gian gần đây có rất nhiều sự thay đổi
mới lớn lao về phạm vi và chế độ pháp lý của các vùng biển thuộc một
quốc gia ven biển, cũng như vùng biển, đáy và lòng đất dưới đáy vùng biển
không thuộc bất kỳ một quốc gia nào. Nguyên tắc cơ bản của luật biển là
có đất mới có biển. Có thể thấy các thay đổi này diễn ra theo một tiến trình
ba bước cơ bản sau [12]:
Cho đến tận giữa thế kỷ 20, các quốc gia ven biển chỉ có vùng biển hẹp

7


(lãnh hải) thuộc chủ quyền rộng 3 hải lý (với mỗi hải lý bằng 1.852m). Phía
ngoài còn lại tất cả là biển công. Cá nhân, tổ chức, tàu thuyền của mỗi quốc
gia được hưởng quyền tự do biển cả. Hầu như không ai chia biển với ai cả,
đường biên giới biển trong lãnh hải giữa các nước thường được hình thành và
tôn trọng theo tập quán [26].
Kể từ năm 1958 đến năm 1994, các quốc gia ven biển có lãnh hải và
vùng tiếp giáp lãnh hải rộng không quá 12 hải lý, có vùng thềm lục địa trải dài
dưới biển ra không quá độ sâu 200 m nước (theo Công ước của Liên hợp quốc
về Luật biển năm 1958). Các quốc gia láng giềng kế cận hay đối diện nhau,
căn cứ vào luật pháp quốc gia, tự mình quy định các vùng biển dẫn đến có thể
có sự chồng lấn lên nhau. Luật biển quốc tế lúc đó quy định các quốc gia có
vùng chồng lấn phải cùng nhau giải quyết vạch đường biên giới biển (bao

gồm biên giới biển trong lãnh hải, ranh giới biển trong vùng tiếp giáp và thềm
lục địa) trong vùng chồng lấn.
Hiện nay, cùng với sự phát triển như vũ bão về khoa học kỹ thuật và sự
phát triển kinh tế thì khả năng chinh phục khai thác biển của con người không
ngừng được mở rộng. Vấn đề phân định biên giới trên biển của các quốc gia
càng trở thành vấn đề quan trọng và thiết thực. Từ khi công ước Luật Biển
năm 1982 ra đời, có hiệu lực, quyền chủ quyền của các quốc gia ven biển
được xác định và công nhận đáng kể. Đồng thời, với sự ra đời của Công ước
Luật biển năm 1982, vẫn có khoảng 400 đường Biên giới, ranh giới quốc gia
trên biển cần phải được phân định lại. Cho đến nay, mới có khoảng 1/3 trên số
đó là được phân định bằng các thỏa thuận song phương hay bằng phán quyết
của Tòa án [12]. Vì thế, quá trình phân định ranh giới biển nói chung và phân
định biên giới trên biển nói riêng sẽ còn tiếp tục và sẽ chiếm một vị trí trung
tâm trong quan hệ chính trị, pháp lý quốc tế hiện đại.
Vậy, đường biên giới, ranh giới quốc gia trên biển là đường phân định

8


phạm vi các vùng biển thuộc chủ quyền quốc gia, quyền chủ quyền quốc gia
như ranh giới ngoài của vùng tiếp giáp lãnh hải, ranh giới vùng đặc quyền
kinh tế, thềm lục địa…
1.1.2. Khái niệm “phân định biên giới biển" và ý nghĩa của “phân
định biên giới biển”
Phân định biên giới trên biển là việc hoạch định và phân chia các vùng
biển thuộc chủ quyền quốc gia bao gồm nội thủy, lãnh hải trong trường hợp
hai hay nhiều quốc gia có sự chồng lấn.
Phân định biên giới biển luôn là vấn đề trung tâm của Luật Biển và là
một vấn đề quan trọng trong thực tiễn. Vấn đề này không chỉ có ý nghĩa đối
với mỗi quốc gia có biển trong xác định biên giới lãnh thổ quốc gia mà còn

có vai trò đối với việc xác lập trật tự trên biển. Bên cạnh đó, phân định biển
cũng là một vấn đề có tính nhạy cảm vì liên quan trực tiếp đến chủ quyền và
lợi ích quốc gia. Chính vì vậy, để tránh tình trang xung đột, việc phân định
biển phải được tiến hành một cách hợp lý, tôn trọng pháp luật quốc tế và
thực tiễn ở các quốc gia. Một cách tổng quát, phân định biển được hiểu là
quá trình hoạch định đường ranh giới phân chia các vùng biển giữa hai hay
nhiều quốc gia hữu quan. Vấn đề phân định biển được đặt ra cho các quốc
gia có các vùng biển tiếp liền hoặc đối diện nhau. Việc phân định biển nhằm
mục đích xác định rõ đường ranh giới biển phân chia vùng biển thuộc chủ
quyền quốc gia hoặc xác định đường biên giới phân chia vùng biển thuộc
quyền chủ quyền quốc gia.
1.2. Các căn cứ pháp lý về xác lập đường biên giới quốc gia trên biển
Trong vấn đề phân định biển thì vấn đề phân định biên giới quốc gia
trên biển luôn được ưu tiên thực hiện. Do vậy, các quy phạm quốc tế về luật
biển dành chủ yếu để phân định ranh giới các vùng biển giữa các quốc gia, tạo
ra công cụ hiệu quả để các quốc gia có thể thương lượng, thỏa thuận vùng

9


biển chồng lấn có cơ sở. Các căn cứ pháp lý bao gồm các Điều ước quốc tế,
song phương, đa phương như:
Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS 1982) được 107
quốc gia ký kết (trong đó có Việt Nam) vào ngày 30/4/1982 là một văn bản
pháp lý quốc tế quan trọng quy định mọi vấn đề liên quan đến các vùng biển
mà các quốc gia ven biển có quyền được hưởng cũng như việc sử dụng và
khai thác biển và đại dương. Trên cơ sở đó, các quốc gia ven biển, trong đó có
Việt Nam, đã ra các tuyên bố để khẳng định chủ quyền, quyền chủ quyền và
quyền tài phán của mình đối với các vùng biển liên quan.
Các điều ước song phương ký kết giữa các quốc gia.

Các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế nói chung và luật biển quốc tế
nói riêng như nguyên tắc công bằng, nguyên tắc thỏa thuận trong phân định
biển, nguyên tắc đất thống trị biển, nguyên tắc xác lập chủ quyền bằng chiếm
hữu, nguyên tắc Uti possidentis…
Ngoài ra còn có các tập quán quốc tế, án lệ, học thuyết, quan điểm của
các nhà luật học nổi tiếng…
Cơ sở pháp lý về xác lập các đường biên giới trên biển giữa các quốc
gia dựa trên các nguồn của luật quốc tế nêu trên.
Chủ quyền trên biển là quyền tối cao của quốc gia đối với vùng biển
nằm bên trong đường biên giới quốc gia trên biển bao gồm vùng nội thủy và
vùng lãnh hải. Biên giới quốc gia trên biển là ranh giới phía ngoài của lãnh
hải do quốc gia ven biển thiết lập phù hợp với luật pháp và tập quán quốc tế.
Đối với các đảo của một quốc gia nằm ngoài phạm vi lãnh hải của quốc gia
này, Biên giới quốc gia trên biển là đường ranh giới phía ngoài của lãnh hải
bao quanh đảo. Biên giới trên biển giữa các quốc gia kế cận hoặc đối diện
nhau có lãnh hải chồng lấn nhau được thiết lập trên cơ sở thoả thuận giữa các
quốc gia liên quan và được thể hiện bằng điều ước về hoạch định biên giới

10


biển. Đồng thời, biên giới quốc gia trên biển cũng được thể hiện trên các hải
đồ có tỉ lệ thích hợp hoặc bằng bảng kê các tọa độ địa lí các điểm có ghi rõ hệ
thống trắc địa được sử dụng. Ví dụ như tại Điều 5, Luật biên giới quốc gia
Việt Nam xác định:
Biên giới quốc gia trên biển được hoạch định và đánh dấu bằng
các toạ độ trên hải đồ là ranh giới phía ngoài lãnh hải của đất liền,
lãnh hải của đảo, lãnh hải của quần đảo của Việt Nam; các đường ranh
giới phía ngoài vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và
thềm lục địa xác định quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam

theo Công ước của Liên Hợp quốc về Luật biển 1982 và các điều ước
quốc tế giữa Việt Nam và các quốc gia hữu quan [21].
Còn theo quy định của Luật biển quốc tế, tất cả các quốc gia ven biển
đều được quyền hoạch định các vùng biển của mình như nội thuỷ, lãnh hải,
vùng đặc quyền kinh tế. Đây không những là quyền mà ở một khía cạnh nào đó
còn là nghĩa vụ của các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia thành viên của Công
ước Luật biển 1982, nhằm tạo ra sự ổn định và trật tự trong việc sử dụng và
quản lý biển. Trong trường hợp vùng biển của quốc gia độc lập, không có liên
quan đến lợi ích của các quốc gia khác thì ranh giới của các vùng biển do các
quốc gia ven biển xác định phù hợp với luật pháp và thực tiễn quốc tế. Tuy
nhiên, trong trường hợp vùng biển của quốc gia ven biển lại nằm tiếp liền, đối
diện hoặc chồng lấn với vùng biển của các quốc gia khác thì việc hoạch định
ranh giới biển cần phải có sự thoả thuận của các quốc gia liên quan.
Dựa trên quy định của Công ước Luật Biển 1982 thì “Chủ quyền quốc
gia ven biển được mở rộng ra ngoài lãnh thổ và nội thủy của mình, và trong
trường hợp một quốc gia quần đảo, ra ngoài vùng nước quần đảo, đến một
vùng biển tiếp liền gọi là lãnh hải (Merterritoriale)” [17]. Chủ quyền này
được mở rộng đến vùng trời trên lãnh hải, cũng như đến đáy và lòng đất của

11


biển này”. Nếu chiếu theo quy đình này thì hình dạng của đất nước Việt Nam
không còn là hình chữ S như cách hiểu thông thường. Lãnh hải có ranh giới
được xác định bởi chiều rộng của lãnh hải, tất cả các quốc gia đều có quyền tự
ấn định chiều rộng lãnh hải của mình và chiều rộng đó không được vượt quá
12 hải lý kể từ đường cơ sở được vạch theo đúng Công ước Luật Biển 1982.
Cách xác định đường cơ sở của mỗi quốc gia cũng không hoàn toàn giống
nhau mà căn cứ theo hình dạng đường bờ biển của quốc gia ven biển.
Thông thường, đường cơ sở được tính là ngấn nước triều thấp nhất dọc

theo bờ biển. Tuy nhiên trong trường hợp đảo có cấu tạo bằng san hô hoặc
đảo có đá ngầm ven bờ bao quanh thì đường cơ sở được tính là ngấn nước
triều thấp nhất ở bờ phía ngoài cùng của các mỏm đá. Trong trường hợp các
quốc gia có bờ biển cấu tạo đặc biệt như lồi lõm, bị khoét sâu, bờ biển cực kỳ
không ổn định… thì đường cơ sở được xác định bằng phương pháp đường cơ
sở thẳng. Phương pháp xác định đường cơ sở thẳng là nối liền các điểm thích
hợp có thể được sử dụng để kẻ đường cơ sở để tính chiều rộng của lãnh hải.
Khi hai quốc gia có bờ biển kề nhau hoặc đối diện nhau, không quốc
gia nào được quyền mở rộng lãnh hải ra quá đường trung tuyến mà mọi điểm
nằm trên đó cách đều các điểm gần nhất của các đường cơ sở dùng để tính
chiều rộng lãnh hải của mỗi quốc gia, trừ khi có sự thỏa thuận ngược lại. Tuy
nhiên, quy định này không áp dụng trong trường hợp do có những danh nghĩa
lịch sử hoặc có các hoàn cảnh đặc biệt khác cần phải hoạch định ranh giới
lãnh hải của hai quốc gia một cách khác. Như vậy trong trường hợp hai hoặc
nhiều quốc gia có bờ biển kề nhau hoặc đối diện nhau mà việc ấn định chiều
rộng lãnh hải không đủ 12 hải lý thì phải tuân theo nguyên tắc này. Mặc dù
vậy việc cụ thể hóa nguyên tắc này trong thực tế thì vẫn còn nhiều bất cập gây
tranh cãi giữa các quốc gia có chung vùng biển.
Việc ấn định chiều rộng lãnh hải mang lại lợi ích to lớn cho các quốc

12


gia ven biển trong việc giữ gìn an ninh quốc gia và các lợi ích về thương mại.
Để các lợi ích này của các quốc gia được đảm bảo thì Công ước Luật Biển
1982 cũng quy định một vùng Tiếp giáp với lãnh hải, trong trường hợp việc đi
lại của tàu thuyền không đáp ứng được điều kiện đi qua không gây hại trong
vùng lãnh hải thì vùng tiếp giáp lãnh hải sẽ là một giải pháp hợp lý.
Vùng tiếp giáp lãnh hải không được mở rộng quá 24 hải lý kể từ đường
cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải. Trong vùng tiếp giáp các quốc gia ven

biển có thể thi hành sự kiểm soát cần thiết nhằm ngăn ngừa những phạm vi
đối với các luật và quy định hải quan, thuế khóa, y tế hay nhập cư trên lãnh
thổ hay trong lãnh hải của mình; và trừng trị những vi phạm đối với các luật
và quy định nói trên xảy ra trên lãnh thổ hay trong lãnh hải của mình.
Nếu như trong lãnh hải các quốc gia ven biển có quyền định đoạt bằng
việc “đi qua không gây hại” đối với tàu thuyền, phương tiện vận chuyển khác
của các quốc gia khác nhằm bảo vệ chủ quyền quốc gia trên vùng biển của
mình thì tại Vùng đặc quyền kinh tế các quyền và quyền tài phán của quốc gia
ven biển và các quyền tự do của các quốc gia khác đều do các quy định thích
hợp của Công ước Luật Biển 1982 điều chỉnh [19]. Vùng đặc quyền về kinh
tế là một vùng nằm ở phía ngoài lãnh hải và tiếp liền với lãnh hải nhưng
không được mở rộng ra quá 200 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều
rộng lãnh hải. Tại vùng này các quốc gia ven biển có các quyền thuộc chủ
quyền về việc thăm dò khai thác, bảo tồn và quản lý các tài nguyên thiên
nhiên, sinh vật hoặc không sinh vật, của vùng nước bên trên đáy biển, của đáy
biển và lòng đất dưới đáy biển, cũng như về những hoạt động khác nhằm
thăm dò và khai thác vùng này vì mục đích kinh tế, như việc sản xuất năng
lượng từ nước, hải lưu và gió. Và có quyền tài phán theo đúng những quy
định thích hợp của Công ước Luật Biển 1982 về việc: lắp đặt và sử dụng các
đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình; nghiên cứu khoa học về biển; bảo vệ

13


và gìn giữ môi trường biển. Ngoài ra các quốc gia ven biển còn có các quyền
và các nghĩa vụ khác do Công ước Luật Biển 1982 quy định.
Tuy nhiên, trong vùng đặc quyền về kinh tế, khi thực hiện các quyền và
làm các nghĩa vụ của mình theo Công ước Luật Biển 1982, quốc gia ven biển
phải tính đến các quyền và nghĩa vụ của các quốc gia khác dù có biển hay
không có biển và hành động phù hợp với Công ước Luật Biển 1982.

Theo quy định trong Công ước Luật Biển 1982 thì trong vùng đặc
quyền về kinh tế, tất cả các quốc gia, dù có biển hay không có biển, trong
những điều kiện trong những quy định thích hợp của Công ước Luật Biển
1982 trù định, được hưởng các quyền tự do hàng hải và hàng không, quyền tự
do đặt dây cáp ngầm, cũng như quyền tự do sử dụng biển vào những mục đích
khác hợp pháp về mặt quốc tế và gắn liền với việc thực hiện các quyền tự do
này và phù hợp với các quy định khác của Công ước Luật Biển 1982, nhất là
những khuôn khổ việc khai thác các tàu thuyền, phương tiện bay và dây cáp,
ống dẫn ngầm. Ngoài ra, khi khai thác tài nguyên biển trong vùng đặc quyền
kinh tế quốc gia ven biển có quyền ấn định số lượng khai thác tuy nhiên phải
tính đến quyền lợi các quốc gia không có biển hoặc các quốc gia bất lợi về địa
lý nằm trong cùng khu vực. Các quốc gia dù không có biển nhưng vẫn được
phép khai thác tài nguyên biển trong vùng đặc quyền kinh tế ở một mức độ
nhất định và phải đảm bảo quyền lợi cho quốc gia ven biển trong cùng khu
vực theo quy định của Công ước Luật Biển 1982.
Việc hoạch định ranh giới vùng đặc quyền về kinh tế giữa các quốc gia
có bờ biển tiếp liền hay đối diện nhau được thực hiện theo nguyên tắc thỏa
thuận. Trong trường hợp chưa thỏa thuận được các quốc gia phải đi đến các
dàn xếp tạm thời có tính chất thực tiễn và không phương hại hay cản trở việc
ký kết các thỏa thuận dứt khoát trong giai đoán quá độ này [36]. Các dàn xếp
tạm thời không phương hại đến hoạch định cuối cùng.

14


Tại Lãnh hải và Vùng đặc quyền về kinh tế các quyền và quyền tài
phán của quốc gia ven biển mới chỉ được thể hiện ở Vùng nước thì Thềm lục
địa sẽ là bộ phận quan trọng để các quốc gia ven biển thể các quyền và quyền
tài phán ở đáy biển và lòng đất dưới đáy biển. Thềm lục địa của một quốc gia
ven biển bao gồm đáy biển và lòng đất dưới đáy biển bên ngoài lãnh hải của

quốc gia đó, trên toàn bộ phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền của quốc
gia đó cho đến bờ ngoài của rìa lục địa, hoặc đến cách đường cơ sở dùng để
tính chiều rộng lãnh hải 200 hải lý, khi bờ ngoài của rìa lục địa của quốc gia
đó ờ khoảng cách gần hơn.
Quốc gia ven biển thông báo những thông tin về ranh giới các thềm lục
địa của mình, khi thềm này mở rộng quá 200 hải lý kể từ đường cơ sở dùng
để tính chiều rộng lãnh hải, cho ủy ban ranh giới thềm lục địa được thành lập
theo Phụ lục II, trên cơ sở sự đại diện công bằng về địa lý. Ủy ban gửi cho các
quốc gia ven biển những kiến nghị về các vấn đề liên quan đến việc ấn định
ranh giới ngoài thềm lục địa của họ. Các ranh giới do một quốc gia ven biển
ấn định trên cơ sở các kiến nghị đó là dứt khoát và có tính chất bắt buộc.
Quốc gia ven biển thực hiện các quyền thuộc chủ quyền đối với thềm
lục địa về mặt thăm dò và khai thác tài nguyên thiên nhiên của mình. Đây
được coi là đặc quyền của các quốc gia ven biển đối với thềm lục địa, các
quyền của quốc gia ven biển đối với thềm lục địa không phụ thuộc vào sự
chiếm hữu thực sự hay danh nghĩa, cũng như vào bất cứ tuyên bố rõ ràng nào.
Mặc dù vậy các quyền của quốc gia ven biển đối với thềm lục địa không ảnh
hưởng đến chế độ pháp lý của vùng nước ở phía trên hay của vùng trời trên
vùng nước này.
Việc quốc gia ven biển thực hiện các quyền của mình đối với thềm lục
địa không gây thiệt hại đến hàng hải hay các quyền và các tự do khác của các
nước khác đã được Công ước Luật Biển 1982 thừa nhận, cũng không được
cản trở việc thực hiện các quyền này một cách không thể biện bạch được.
15


Việc hoạch định ranh giới thềm lục địa giữa các quốc gia có bờ biển tiếp
liền hay đối diện nhau được thực hiện bằng con đường thỏa thuận theo đúng
luật pháp quốc tế là chủ yếu. Trong trường hợp chưa thỏa thuận được thì đi đến
các giải pháp tạm thời có tính chất thực tiễn và để không phương hại hay cản

trở việc ký kết các thỏa thuận dứt khoát trong giai đoạn quá độ này. Các dàn
xếp tạm thời không phương hại đến việc hoạch định cuối cùng [26]. Quốc gia
ven biển công bố theo đúng thủ tục các bản đồ hay các bản kê các tọa độ địa lý
và gửi đến Tổng thư ký liên hợp quốc một bản để lưu chiểu, và đối với các bản
đồ hay các bản kê các tọa độ địa lý vị trí của ranh giới ngoài của thềm lục địa,
thì gửi đến Tổng thư ký của Cơ quan quyền lực một bản để lưu chiểu.
1.3. Các nguyên tắc để giải quyết vấn đề phân định biên giới trên biển
Việc giải quyết vấn đề phân định biên giới luôn phải tuân thủ những
nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế như nguyên tắc tôn trọng chủ quyền
quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không xâm phạm lẫn nhau, không can
thiệp vào công việc nội bộ của nhau, nguyên tắc bình đẳng, nguyên tắc chung
sống hòa bình, nguyên tắc dân tộc tự quyết, nguyên tắc Pacta Sunt Servanda,
nguyên tắc hòa bình và giải quyết các tranh chấp quốc tế,... Bên cạnh đó,
những nguyên tắc đặc thù của luật biển được áp dụng để giải quyết vấn đề
phân định biên giới trên biển.
Nguyên tắc vạch đường biên giới chung trên biển: Theo Điều 2 của
Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (gọi tắt là Luật Biển năm
1982): "Chủ quyền của quốc gia ven biển được mở rộng ra ngoài lãnh thổ và
các vùng nội thủy tới một vùng biển tiếp giáp với chúng, dưới tên gọi là lãnh
hải và có bề rộng không vượt quá 12 hải lý" [5]. Như vậy, đây là lần đầu tiên
lãnh hải của các quốc gia ven biển được Luật Biển năm 1982 và Luật Biển Việt
Nam, quy định có bề rộng thống nhất 12 hải lý. Ranh giới ngoài của lãnh hải
được coi là đường biên giới quốc gia trên biển [5]. Khác với đường biên giới

16


×