Tải bản đầy đủ (.docx) (77 trang)

Trọn bài: giải pháp phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng tại pg bank thăng long hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (496 KB, 77 trang )

1

Danh mục bảng biểu

Danh mục sơ đồ, biểu đồ

PG Bank:
NHTM:
NH:
NHNN:
LNTT:
CVTD:
CV:
TSĐB:
QĐ:
CPI:

Danh mục từ viết tắt
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Xăng dầu Petrolimex
Ngân hàng thương mại
Ngân hàng
Ngân hàng Nhà nước
Lợi nhuận trước thuế
Cho vay tiêu dùng
Cho vay
Tài sản đảm bảo
quyết định
chỉ số giá tiêu dùng


2



TS:

Tài sản


LỜI NÓI ĐẦU
Lý do chọn đề tài.
Hoạt động cho vay là một trong những hoạt động truyền thống của các NH, nó
đem lại nguồn thu nhập chính cho bất cứ một NH nào.
Khi mới hoạt động, các NH chủ yếu cho vay các doanh nghiệp và các tổ chức
khác. Tuy nhiên, khi nền kinh tế Việt Nam ngày một tăng trưởng, đời sống người dân
Việt Nam được nâng cao khiến họ phát sinh nhiều nhu cầu khác nhau như: mua ôtô,
mua nhà tại các trung tâm thương mại hay du học…, nhưng không phải ai cũng có thể
tự đáp ứng được những nhu cầu này. Nắm bắt được điều này, các NH đã triển khai và
phát triển sản phẩm cho vay tiêu dùng khách hàng cá nhân, trong đó có NHTM Cổ
phần Xăng Dầu Petrolimex.
Mặc dù PG Bank đã trải qua nhiều năm hoạt động, có tiềm lực tài chính cùng
với đội ngũ nhân viên nhiều kinh nghiệm, nhưng NH vẫn gặp không ít khó khăn khi
phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng do phải cạnh tranh với nhiều NH lớn trong nước
và chi nhánh các NH nước ngoài.
Trong những năm gần lại đây, nền kinh tế thế giới khó khăn đã ảnh hưởng rất
lớn tới thị trường tài chính trong nước, các NH gặp rất nhiều khó khăn trong việc giải
quyết nợ xấu đã ảnh hưởng rất nhiều tới hoạt động cho vay tiêu dùng tại PG Bank.
Nhận thấy tầm quan trọng cũng như những vấn đề mà PG Bank đang gặp phải
trong việc đẩy mạnh hoạt động cho vay tiêu dùng, nên em đã lựa chọn đề tài: “Giải
pháp phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng của Ngân hàng Thương Mại Cổ phần
Xăng dầu Petrolimex chi nhánh Thăng Long –Hà Nội ” là đề tài cho khóa luận tốt
nghiệp của mình. Trong khóa luận, em tập trung tìm hiểu, nghiên cứu thực trạng hoạt
động cho vay tiêu dùng khách hàng cá nhân, từ đó tìm ra những ưu điểm, nhược điểm,

nguyên nhân và hướng giải pháp góp phần phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng của
PG Bank Thăng Long.
2.
Mục đích nghiên cứu.
Hệ thống hóa các vấn đề lý luận cơ bản về cho vay tiêu dùng tại NHTM.
Đánh giá thực trạng hoạt động cho vay tiêu dùng của NHTM Cổ phần Xăng dầu
Petrolimex chi nhánh Thăng Long giai đoạn 2013-2015.
Đề xuất các giải pháp, kiến nghị nhằm phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng của
NHTM Cổ phần Xăng dầu Petrolimex chi nhánh Thăng Long.
3.
Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.
1.

-


-

Đối tượng nghiên cứu: Khóa luận thực hiện nghiên cứu về hoạt động cho vay tiêu dùng
của Cổ phần Xăng dầu Petrolimex chi nhánh Thăng Long.
Phạm vi nghiên cứu: Về không gian: Tại NHTM Cổ phần Xăng dầu Petrolimex chi
nhánh Thăng Long ; Về thời gian: năm 2013, 2014, 2015.
4.
Phương pháp nghiên cứu.
Thực hiện đề tài nghiên cứu này, em đã sử dụng hai phương pháp là định lượng
và định tính nhằm tìm hiểu, phân tích, đánh giá hoạt động cho vay tiêu dùng khách
hàng cá nhân của Cổ phần Xăng dầu Petrolimex một cách toàn diện nhất. Đề tài sử
dụng các công cụ phân tích dữ liệu thống kê, phân loại, so sánh đối chiếu, suy diễn
logic, sử dụng chương trình tính excel.
5.

Kết cấu khóa luận.
Ngoài lời mở đầu và kết luận, khóa luận được kết cấu gồm 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận cơ bản về hoạt động cho vay tiêu dùng của NH Thương Mại.
Chương II: Thực trạng hoạt động cho vay tiêu dùng khách hàng cá nhân của NH
Thương Mại Cổ phần Xăng dầu Petrolimex chi nhánh Thăng Long – Hà Nội giai đoạn
2013-2015.
Chương III: Các giải pháp nhằm phát triển hoạt động cho vay tiêu của NH Thương Mại
Cổ phần Xăng dầu Petrolimex chi nhánh Thăng Long- Hà Nội.



1.1.

CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY TIÊU
DÙNG KHÁCH HÀNG CÁ NHÂN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Tổng quan về Ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm về ngân hàng thương mại
Mỗi quốc gia đều có định nghĩa về ngân hàng thương mại khác nhau. Chẳng hạn
ở Mỹ, ngân hàng thương mại được hiểu là công ty kinh doanh, chuyên cung cấp các
dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành dịch vụ tài chính. Ở pháp, ngân hàng
thương mại là những xí nghiệp hay cơ sở thường xuyên nhận của công chúng dưới
hình thức tiền gửi hay hình thức khác vào nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng và dịch vụ tài
chính. ở Ấn Độ, ngân hàng thương mại là cơ sở nhận các khoản tiền gửi để cho vay
hay tài trợ và đầu tư. Ở Thổ Nhĩ Kỳ, ngân hàng thương mại là hội trách nhiệm hữu hạn
được thiết lập nhằm mục đích nhận tiền gửi và thực hiện các nghiệp vụ hối đoái,
nghiệp vụ chiết khấu và những hình thức vay mượn hay tín dụng khác… Như vậy nhìn
chung, các định nghĩa về ngân hàng ở trên có hai đặc điểm cơ bản là nhận tiền gửi của
công chúng và sử dụng tiền đó để kinh doanh (cho vay và chiết khấu).
Ở Việt Nam, theo Điều 20 Luật Các Tổ chức Tín dụng năm 2010: “Ngân hàng
thương mại là một loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân

hàng và các hoạt động khác có liên quan. Luật này cũng định nghĩa: Tổ chức tín dụng
là loại hình doanh nghiệp được thành lập theo quy định của Luật này và các quy định
khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội
dung nhận tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
Luật Ngân hàng Nhà nước đưa ra định nghĩa: “Hoạt động ngân hàng là hoạt
động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền
gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh toán”.
Hiện nay, ngoài các nghiệp vụ truyền thống là cho vay và làm trung gian thanh
toán, các NHTM ngày càng mở rộng và triển khai thêm nhiều nghiệp vụ kinh doanh
mới như: tư vấn đầu tư chứng khoán, bảo lãnh và đại lý phát hành, quản lý danh mục
đầu tư…
1.1.2. Chức năng của ngân hàng thương mại
1.1.2.1.
Chức năng trung gian tín dụng
Khi thực hiện chức năng trung gian tín dụng, ngân hàng thương mại đóng vai
trò là "cầu nối" giữa người dư thừa vốn và người có nhu cầu về vốn.


Ngân hàng
thương mại
Tổ chức kinh tế
Doanh nghiệp
Hộ gia đình, dân


Tổ chức kinh tế
Huy động vốn

Cấp tín dụng


Doanh nghiệp
Hộ gia đình, dân cư

Thông qua việc huy động các khoản vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh
tế, ngân hàng thương mại hình thành nên quỹ cho vay để cung cấp tín dụng cho nền
kinh tế. Với chức năng này, ngân hàng thương mại vừa đóng vai trò là người đi vay
vừa đóng vai trò là người cho vay.
Với chức năng trung gian tín dụng, ngân hàng thương mại đã góp phần tạo lợi
ích cho tất cả các bên tham gia: người gửi tiền, ngân hàng và người đi vay, đồng thời
thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế.
Đối với người gửi tiền, họ thu được lợi từ khoản vốn tạm thời nhàn rỗi của mình
dưới hình thức lãi tiền gửi mà ngân hàng trả cho họ. Hơn nữa, ngân hàng còn đảm bảo
cho họ sự an toàn về khoản tiền gửi và cung cấp các dịch vụ thanh toán tiện lợi.
Đối với người đi vay, họ sẽ thoả mãn được nhu cầu vốn để kinh doanh, chi tiêu,
thanh toán mà không phải chi phí nhiều về sức lực, thời gian cho việc tìm kiếm nơi
cung ứng vốn tiện lợi, chắc chắn và hợp pháp.
Đối với ngân hàng thương mại, ngân hàng sẽ tìm kiếm được lợi nhuận cho bản
thân mình từ chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi hoặc hoa hồng môi
giới. Lợi nhuận này chính là cơ sở để tồn tại và phát triển của ngân hàng thương mại.
Đối với nền kinh tế, chức năng này có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế vì nó đáp ứng nhu cầu vốn để đảm bảo quá trình tái sản xuất được
thực hiện liên tục và để mở rộng quy mô sản xuất. Với chức năng này, ngân hàng


thương mại đã biến vốn nhàn rỗi không hoạt động thành vốn hoạt động, kích thích quá
trình luân chuyển vốn, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển.
Chức năng trung gian tín dụng được xem là chức năng quan trọng nhất của ngân
hàng thương mại vì nó phản ánh bản chất của ngân hàng thương mại là đi vay để cho
vay, nó quyết định sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Đồng thời nó cũng là cơ sở
để thực hiện các chức năng khác.

1.2.2.2. Chức năng trung gian thanh toán
Ngân hàng thương mại làm trung gian thanh toán khi nó thực hiện thanh toán
theo yêu cầu của khách hàng như trích tiền từ tài khoản tiền gửi của họ để thanh toán
tiền hàng hoá, dịch vụ hoặc nhập vào tài khoản tiền gửi của khách hàng tiền thu bán
hàng và các khoản thu khác theo lệnh của họ. Ngân hàng thương mại đóng vai trò là
người "thủ quỹ" cho các doanh nghiệp và cá nhân bởi ngân hàng là người giữ tài khoản
của họ.
Ngân hàng thương mại thực hiện chức năng trung gian thanh toán trên cơ sở
thực hiện chức năng trung gian tín dụng vì tiền đề để khách hàng thực hiện thanh toán
qua ngân hàng chính là một phần tiền gửi trước đó. Việc các ngân hàng thương mại
thực hiện chức năng trung gian thanh toán có ý nghĩa rất to lớn đối với toàn bộ nền
kinh tế. Với chức năng này, các ngân hàng thương mại cung cấp cho khách hàng nhiều
phương tiện thanh toán thuận lợi. Nhờ đó, các chủ thể kinh tế sẽ tiết kiệm được rất
nhiều chi phí, thời gian đi tới gặp chủ nợ, người phải thanh toán và lại đảm bảo được
việc thanh toán an toàn. Qua đó, chức năng này thúc đẩy lưu thông hàng hoá, đẩy
nhanh tốc độ thanh toán, tốc độ lưu chuyển vốn, từ đó góp phần phát triển kinh tế.
Đồng thời, việc thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng đã giảm được lượng
tiền mặt trong lưu thông, dẫn đến tiết kiệm chi phí lưu thông tiền mặt như chi phí in ấn,
đếm nhận, bảo quản tiền...
Đối với ngân hàng thương mại, chức năng này góp phần tăng thêm lợi nhuận
cho ngân hàng thông qua việc thu lệ phí thanh toán. Thêm nữa, nó lại làm tăng nguồn
vốn cho vay của ngân hàng thể hiện trên số dư có trong tài khoản tiền gửi của khách
hàng. Chức năng này cũng chính là cơ sở hình thành chức năng tạo tiền của ngân hàng
thương mại.


1.1.2.2.

Chức năng “tạo tiền”


Khi có sự phân hoá trong hệ thống ngân hàng, hình thành nên ngân hàng phát
hành và các ngân hàng trung gian thì ngân hàng trung gian không còn thực hiện chức
năng phát hành giấy bạc ngân hàng nữa. Nhưng với chức năng trung gian tín dụng và
trung gian thanh toán, ngân hàng thương mại có khả năng tạo ra tiền tín dụng (hay tiền
ghi sổ) thể hiện trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tại ngân hàng
thương mại. Đây chính là một bộ phận của lượng tiền được sử dụng trong các giao
dịch.
Ban đầu từ những khoản tiền dự trữ tăng lên, ngân hàng thương mại sử dụng để
cho vay bằng chuyển khoản, sau đó những khoản tiền này sẽ được quay lại ngân hàng
thương mại một phần khi những người sử dụng tiền gửi vào dưới dạng tiền gửi không
kỳ hạn. Quá trình này tiễp diễn trong hệ thống ngân hàng và tạo nên một lượng tiền
gửi (tức tiền tín dụng) gấp nhiều lần số dự trữ tăng thêm ban đầu. Mức mở rộng tiền
gửi phụ thuộc vào hệ số mở rộng tiền gửi. Hệ số này, đến lượt nó chịu tác động bởi
các yếu tố: tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tỷ lệ dự trữ vượt mức và tỷ lệ giữ tiền mặt so với tiền
gửi thanh toán của công chúng.
Với chức năng "tạo tiền", hệ thống ngân hàng thương mại đã làm tăng phương
tiện thanh toán trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi trả của xã hội. Rõ
ràng khái niệm về tiền hay tiền giao dịch không chỉ là tiền giấy do ngân hàng trung
ương phát hành ra mà còn bao gồm một bộ phận quan trọng là lượng tiền ghi sổ do
các ngân hàng thương mại tạo ra.
Chức năng này cũng chỉ ra mối quan hệ giữa tín dụng ngân hàng và lưu thông
tiền tệ. Một khối lượng tín dụng mà ngân hàng thương mại cho vay ra làm tăng khả
năng tạo tiền của ngân hàng thương mại, từ đó làm tăng lượng tiền cung ứng.
Các chức năng của ngân hàng thương mại có mối quan hệ chặt chẽ, bổ sung, hỗ
trợ cho nhau, trong đó chức năng trung gian tín dụng là chức năng cơ bản nhất, tạo cơ
sở cho việc thực hiện các chức năng sau. Đồng thời khi ngân hàng thực hiện tốt chức
năng trung gian thanh toán và chức năng tạo tiền lại góp phần làm tăng nguồn vốn tín
dụng, mở rộng hoạt động tín dụng.



Các nghiệp vụ của ngân hàng thương mại
Có thể chia các nghiệp vụ của NHTM ra thành 3 nhóm:
- Nghiệp vụ tạo lập nguồn vốn
- Nghiệp vụ sử dụng vốn
- Nghiệp vụ khác
1.1.3.1. Nghiệp vụ tạo lập nguồn vốn
Căn cứ vào tính chất kinh tế, nguồn vốn kinh doanh của ngân hàng thương mại
được chia thành hai bộ phận cơ bản, bao gồm: nguồn vốn tự có của ngân hàng và
nguồn vốn huy động.
1.1.3.

Nguồn vốn tự có: đây là nguồn vốn ngân hàng có thể sử dụng dài hạn, chiếm tỷ trọng
nhỏ trong tổng nguồn vốn kinh doanh, thường không quá 10% trong tổng nguồn vốn,
nhưng nguồn vốn này có tính ổn định cao, có thể dùng để bù đắp tổn thất trong quá
trình kinh doanh. Căn cứ vào cơ chế tạo lập, nguồn vốn này của ngân hàng gồm vốn
điều lệ (đây là số vốn mà ngân hàng phải có để đi vào hoạt động và được ghi vào điều
lệ, vốn điều lệ thường xuyên được bổ sung) và các quỹ và lợi nhuận chưa phân phối
(các quỹ này được trích từ lợi nhuận ròng hàng năm theo những tỷ lệ quy định).
Nguồn vốn huy động
Nguồn vốn huy động còn được gọi là tài sản nợ ngân hàng, bộ phận nguồn vốn
này chiếm tỷ trọng lớn và chủ yếu nhất trong cơ cấu nguồn vốn kinh doanh. Nguồn vốn
huy động gồm:
- Tiền gửi gồm tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm:
 Tiền gửi không kỳ hạn: là khoản tiền gửi với thời gian không xác định, mục
đích nhằm đảm bảo an toàn tài sản và thực hiện chi trả trong sản xuất kinh
doanh và tiêu dùng. Đây không phải là tiền để dành mà là tiền gửi thanh toán.
Tiền gửi không kỳ hạn có chi phí thấp bởi người gửi tiền sẵn lòng bỏ qua số tiền
lãi để có một tài sản có tính lỏng cao sử dụng trong các hoạt động thanh toán
mua hàng. Để tăng nguồn tiền gửi không kỳ hạn, ngân hàng phải đa dạng hóa và
thực hiện tốt các dịch vụ trung gian, thu hút nhiều khách hàng là cá nhân, doanh

nghiệp lớn.
 Tiền gửi có kỳ hạn: được đặc trưng bằng chứng chỉ tiền gửi ghi rõ thời gian đáo
hạn và số lượng. Khách hàng chỉ được rút ra sau một thời gian nhất định theo kỳ
hạn đã được thỏa thuận khi gửi tiền. Tuy nhiên, ngân hàng có thể giải quyết cho
khách hàng rút trước hạn khi có yêu cầu, nhưng phải bị phạt tiền bằng việc


chuyển từ mức lãi suất tiền gửi có kỳ hạn sang áp dụng mức lãi suất tiền gửi
không kỳ hạn thấp hơn. Thời gian gửi càng dài lãi suất càng cao.
Với những đặc tính ổn định của tiền gửi có kỳ hạn, ngân hàng có thể chủ
động trong việc lên kế hoạch sử dụng nguồn vốn để tìm kiếm những khoản đầu
tư có thời gian hợp lý và thu lợi nhuận cao.
 Tiền gửi tiết kiệm: là loại tiền gửi để dành của các tầng lớp dân cư, được gửi
vào ngân hàng để được hưởng lãi, hình thức phổ biến cảu loại tiền gửi này là tiết
kiệm có sổ. Ngân hàng không cung cấp các dịch vụ trung gian thanh toán cho
khách hàng gửi tiền tiết kiệm.
- Nguồn vốn đi vay
 Phát hành các chứng từ có giá: đây là hình thức huy động vốn của ngân hàng
nhưng không thường xuyên mà chỉ huy động khi có nhu cầu.
 Vay của các ngân hàng và các trung gian tài chính khác: Hoạt động vay mượn
này thường được thực hiện qua thị trường tiền tệ liên ngân hàng, nhằm mục đích
điều hòa nhu cầu vốn khả dụng và đảm bảo nguồn vốn lưu chuyển thông suốt
liên tục trong hệ thống ngân hàng.
 Vay của ngân hàng trung ương: Nghiệp vụ vay vốn này được ngân hàng trung
ương thực hiện dưới hình thức phổ biến là tái cấp vốn, bao gồm tái chiết khấu
các giấy tờ có giá và cho vay cầm cố hay thế chấp.
1.1.3.2. Nghiệp vụ sử dụng vốn
Một phần nguồn vốn của ngân hàng sẽ để lại dưới dạng dự trữ ngân hàng nhằm
đảm bảo chi tiêu cho ngân hàng. Điều này góp phần mang lại sự an toàn cho ngân hàng
trong quá trình hoạt động, song nếu dự trữ nhiều sẽ làm ảnh hưởng đến khả năng sinh

lợi của ngân hàng.
Phần lớn nguồn vốn của ngân hàng được sử đụng để cho vay. Nghiệp vụ cho
vay của ngân hàng được thực hiện thông qua các hình thức phổ biến sau:
Chiết khấu thương phiếu: là nghiệp vụ cho vay ngắn hạn trong đó ngân hàng mua
những thương phiếu chưa đến hạn thanh toán của ngân hàng với giá trị bằng giá trị
thương phiếu trừ đi phần lợi tức chiết khấu và hoa hồng phí.
Cho vay vượt chi: khách hàng có thể sử dụng một số tiền trong một thời hạn nhất định
vượt quá số dư ngay trên tài khoản tiền gửi thanh toán tại ngân ngân hàng, hình thức
này còn được gọi là cho vay thấu chi.


Nghiệp vụ cho vay cầm cố: Ngân hàng có thể cho vay khi người đi vay có tài sản cầm
cố tại ngân hàng dưới các hình thứ như là các chứng từ có giá, tài sản là động sản …
Nghiệp vụ cho vay thế chấp tài sản: Ngân hàng cho vay trên cơ sở người đi vay mang
các giấy tờ sở hữu các tài sản là bất động sản để thế chấp vay vốn. Nghiệp vụ này chỉ
khác nghiệp vụ cho vay cầm cố ở chỗ, trong suốt thời hạn cho vay tài sản thế chấp vẫn
được người đi vay sử dụng, ngân hàng chỉ nắm giữ hồ sơ gốc.
Tín dụng thuê mua: là hình thức tín dụng trung, dài hạn thực hiện thông qua việc cho
thuê tài sản phục vụ cho sản xuất kinh doanh.
Tín dụng tiêu dùng: tài trợ nhu cầu tiêu dùng của các tầng lớp dân cư.
1.1.3.3. Nghiệp vụ khác
Thực chất đây là các dịch vụ tài chính mà ngân hàng cung cấp cho khách hàng
nhưng không phải sử dụng vốn một cách trực tiếp, chẳng hạn như các nghiệp vụ trung
gian thanh toán và ngân quỹ gồm:
- Mở tài khoản giao dịch cho khách hàng trong và ngoài nước.
- Cung ứng các phương tiện thanh toán cho khách hàng nư séc, ủy nhiệm chi,
thẻ rút tiền ATM…
- Thực hiện các nghiệp vụ thu chi hộ.
- Thực hiện các nghiệp vụ thanh toán khác phục vụ cho các hoạt động phát hành
kinh doanh chứng khoản trên thị trường tài chính….

1.2. Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm cho vay của ngân hàng thương mại
Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách
hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và một thời hạn nhất định theo thỏa
thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi (Theo QĐ 1627 và 127/2005/QĐNHNN).
Cho vay là hoạt động thuộc về bản chất của quan hệ tín dụng, được đánh giá là
nghiệp vụ quan trọng nhất của các NHTM. Đây là hoạt động đem lại nguồn thu nhập
chính cho các NH.
1.2.2. Nguyên tắc cho vay của ngân hàng thương mại
 Sử dụng vốn đúng mục đích đã thỏa thuận trọng hợp đồng cho vay
Việc sử dụng vốn vay vào mục đích gì là do hai bên, ngân hang và khách hang,
thỏa thuận ghi vào vào trong hợp đồng cho vay. Đảm bảo sử dụng vốn vay đúng mục


đích thoat thuận nhằm bảo đảm hiệu quả sử dụng vốn vay và khả năng thu hồi nợ vay
sau này. Do vậy, về phía ngân hang trước khi cho vay cần tìm hiểu rõ mục đích vay
vốn của khách hàng, đồng thời phải kiểm tra xem khách hàng có sử dụng vốn đúng như
mục đích đã cam kết hay không. Điều này rất quan trọng vì việc sử dụng vốn vay đúng
như mục đích hay không có ảnh hưởng rất lớn đén khả năng thu hồi nợ vay sau này.
Việc khách hàng sử dụng vốn vay không đúng mục đích dễ dẫn đến thất thoát và lãng
phí khiến vốn vay không tạo ra được ngân lưu để trả nợ cho ngân hàng.
Về phía khách hàng việc sử dụng vốn đúng mục đích góp phần nâng cao hiểu
quả sử dụng vốn vay, đồng thời giúp cá nhân, doanh nghiệp đảm bảo khả năng hoàn trả
nợ cho ngân hàng. Từ đó, nâng cao uy tín của khách hàng đối với ngân hàng và củng
cố quan hệ vay vốn giữa khách hàng và ngân hàng sau này.
 Hoàn trả nợ gốc và lãi vốn vay đúng thời hạn đã thỏa thuận trong hợp
đồng cho vay
Hoàn trả nợ gốc và lãi vốn vay là một nguyên tắc không thể thiếu trong hoạt
động cho vay. Điều này xuất phát từ tính chất tạm thời nhàn rỗi của nguồn vốn mà
ngân hàng sử dụng để cho vay. Đại đa số nguồn vốn mà ngân hàng sử dụng để cho vay

là vốn huy động từ khách hàng gởi tiền,do đó sau khi cho vay trong một thời hạn nhất
định, khách hàng vay tiền phải hoàn trả lại cho vay ngân hàng để ngân hàng hoàn trả
lại cho khách hàng gởi tiền. Hơn nữa bản chất của quan hệ cho vay là quan hệ chuyển
nhượng tạm thời quyền sử dụng vốn vay nên sau một thời gian nhất định vốn vay phải
được hoàn trả cả gốc và lãi.
Cũng như quan hệ tín dụng khác, bản chất của quan hệ cho vay là:
 Có sự chuyển nhượng quyền sử dụng vốn vay từ người sở hữu sang cho
người sử dụng.
 Sự chuyển nhượng này có thời hạn và mang tính tạm thời.
 Sự chuyển nhượng này có kèm theo chi phí.
 Cho vay phải có đảm bảo
Kinh doanh ngân hàng là một loại hình kinh doanh đặc biệt vì đối tượng kinh
doanh là tiền và thu nhập chủ yếu của ngân hàng được tạo ra từ hoạt động tín dụng.
Trong khi đó bất kì một khoản cho vay nào cũng đều chứa đựng những rủi ro nhất
định. Một khi có rủi ro xảy ra thì ngân hàng phải chịu tổn thất. Để hạn chế rủi ro thì
ngay từ đầu tất cả các khoản cho vay phải có ít nhất hai nguồn trả nợ tách biệt. Do đó
bảo đảm tín dụng là một tiêu chuẩn bổ sung những hạn chế của nhà quản trị ngân hàng


cũng như phòng ngừa những diễn biến không thuận lợi. Việc ngân hàng nhận bảo đảm
tín dụng nhằm hai mục đích:
-

Nếu người vay không trả được nợ thì ngân hàng có quyền bán tài sản cầm cố,
thế chấp để thu hồi nợ.

-

Nhận bảo đảm tín dụng tạo cho ngân hàng lợi thế về tâm lý so với người vay
bởi vì một tài sản khi đã là vật đảm bảo thì buộc người đi vay phải có trách

nhiệm nhiều hơn trong việc hoàn trả nợ vay để khỏi phải gán những tài sản giá
trị của mình.

Tài sản đảm bảo tiền vay có thể:
-

Nâng cao trách nhiệm thực hiện cam kết trả nợ của bên vay.

-

Phòng ngừa rủi ro khi phương án trả nợ dự kiến của bên vay không được thực
hiện hoặc xảy ra các rủi ro không lường trước được.

-

Phòng ngừa gian lận.

Chính vì vậy đối với ngân hàng một khoản cho vay có bảo đảm bằng tài sản
luôn chứa đựng ít rủi ro hơn một khoản cho vay có bảo đảm không bằng tài sản cho
nên các ngân hàng thường ưa chuộng cho vay có bảo đảm bằng tài sản hơn. Để đưa ra
quyết định về việc cho vay có bảo đảm không bằng tài sản hay cho vay có bảo đảm
bằng tài sản các ngân hàng thương mại thường dựa vào các tiêu chuẩn như: tính hiệu
quả của dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh, khả năng tài chính của người đi
vay, mục đích sử dụng tiền vay, số tiền vay...nhằm giảm thiểu tới mức thấp nhất rủi ro
xảy ra.
1.2.3. Vài trò của cho vay ngân hàng thương thương mại
Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại:
• Cho vay là hoạt động chính mang lại lợi nhuận cho ngân hàng
• Góp phần đảm bảo quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra thường xuyên, liên tục.
• Góp phần tích tụ, tập trung vốn thúc đẩy sản xuất kinh doanh.

• Góp phần ổn định, điều chỉnh tăng trưởng kinh tế.


Góp phần nâng cao đời sống nhân dân ngay cả khi thu nhập còn hạn chế và thực
hiện chính sách xã hội khác của Nhà nước.
• Góp phần mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế.
1.2.4. Phân loại hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
Hoạt động cho vay của ngân hàng có thể phân chia thành ra nhiều loại khác nhau tùy
theo những tiêu thức phân loại khác nhau.
1.2.4.1. Dựa vào mục đích cho vay
Theo tiêu thức này, cho vay ngân hàng chia thành các loại sau:
 Cho vay kinh doanh: Đây là hình thức cho vay trong đó các bên cam kết số tiền
vay sẽ được bên đi vay sử dụng vào mục đích thực hiện các công việc kinh
doanh như: cho vay phục vụ sản xuất kinh doanh công thương nghiệp, cho vay
sản xuất nông lâm ngư nghiệp, cho vay kinh doanh xuất nhập khẩu…
 Cho vay tiêu dùng: Đây là hình thức cho vay trong đó các bên cam kết số tiền
vay sẽ được bên đi vay sử dụng vào việc thỏa mãn nhu cầu sinh hoạt hay tiêu
dùng như mua sắm đồ gia dụng, mua sắm nhà cửa, phương tiện đi lại thậm chí
sử dụng vào mục đích học tập của học sinh, sinh viên…
1.2.4.2. Dựa theo thời hạn cho vay
Theo tiêu thức này, cho vay ngân hàng chia thành các loại sau:
 Cho vay ngắn hạn: Là loại cho vay có thời hạn đến 1 năm. Mục đích của loại
cho vay này thường là nhằm tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản lưu động trong
hoạt động kinh doanh và nhu cầu tiêu dùng của khách hàng trong thời gian
ngắn.
 Cho vay trung hạn: Là loại cho vay có thời hạn từ 1 năm đến 5 năm. Mục đích
của loại cho vay này là nhằm tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản cố định trong
hoạt động kinh doanh và nhu cầu tiêu dùng, mua sắm của khách hàng.
 Cho vay dài hạn: Là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm. Mục đích của loại cho
vay này là nhằm tài trợ đầu tư vào các dự án đầu tư trong hoạt động kinh doanh

và nhu cầu tiêu dùng, mua sắm nhà cửa, phương tiện đi lại…
1.2.4.3. Dựa vào mức độ tín nhiệm của khách hàng
Theo tiêu thức này, cho vay ngân hàng chia thành các loại sau:
 Cho vay không có đảm bảo bằng tài sản: là loại cho vay không có tài sản thế
chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của người khác mà chỉ dựa vào uy tín của bản thân
khách vay vốn để quyết định cho vay.



 Cho vay có đảm bảo bằng tài sản: là loại cho vay dựa trên cở sở các bảo đảm

cho tiền vay như thế chấp, cầm cố, hoặc bảo lãnh của bên thứ ba nào khác.
1.2.4.4. Dựa vào phương thức cho vay
Theo tiêu thức này, cho vay ngân hàng chia thành các loại sau:
 Cho vay từng lần (đôi khi gọi là cho vay theo món): áp dụng đối với khách hàng
có nhu cầu vay vốn từng lần. Mỗi lần khách hàng món nào thì phải làm hồ sơ
vay món đó. Như vậy với một quý khách hàng có bao nhiêu món vay thì khách
hàng phải làm làm bấy nhiêu hồ sơ vay. Cho vay theo từng đối tượng cụ thể
như: mua hàng, mua nguyên vật liệu, thành phẩm. Thường áp dụng với khách
hàng có nhu cầu vay mượn không thường xuyên. Số tiền cho vay xác định trên
cơ sở các chứng từ mua hàng như: hóa đơn, bảng kê thành phẩm…Định kỳ hạn
nợ cho từng khoản vay cụ thể. Phương thức này áp dụng cho các doanh nghiệp
có trình độ quản lý yếu và có nhiều rủi ro hoặc không có quan hệ tín dụng
thường xuyên.
 Cho vay theo hạn mức tín dụng: để đáp ứng nhu cầu thiếu hụt vốn lưu động theo
hạn mức tín dụng đã cam kết. Khách hàng đi vay chỉ cần lập một bộ hồ sơ vay
vào đầu kỳ kế hoạch có thể sử dụng cho nhiều món vay.
Hạn mức tín dụng là mức dư nợ vay tối đa được duy trì trong một thời hạn
nhất định mà ngân hàng và khách hàng đã thỏa thuận trong hợp đồng tín
dụng. Cho vay theo đối tượng tổng hợp, toàn bộ nhu cầu vốn lưu động thiếu hụt

của doanh nghiệp. Định kỳ hạn nợ cuối cùng cho toàn bộ các khoản vay không
định kỳ cho từng lần giải ngân trừ trường hợp đăc biệt. Phương thức này áp
dụng cho các doanh nghiệp có quan hệ tín dụng thường xuyên, trình độ quản lý
tương đốt và được xếp hạng tín dung cao.
 Cho vay theo hạn mức thấu chi: Đây là nghiệp vụ mà ngân hàng thỏa thuận
bằng văn bản chấp thuận cho khách hàng chi vượt quá số dư Có trên tài khoản
tiền gửi thanh toán với một hạn mức nhất định và trong thời hạn qui định. Đây
là hình thức cho vay ứng trước đặc biệt (tiền vay được rút trực tiếp từ tài khoản
tiền gửi) nhằm tăng thêm ngân quỹ cho khách hàng (sử dụng cho doanh nghiệp
và cá nhân). Nó khác với cho vay theo hạn mức tín dụng, vì các khoản tiền
khách hàng rút trên tài khoản có tính chất như những khoản chi tiêu của họ, chỉ
khi nào trên tài khoản của khách hàng xuất hiện số dư Nợ thì khoản tiền đó mới
là tiền vay. Lãi tiền vay phải trả được tính theo số dư Nợ trên tài khoản khách
hàng và khách hàng có thể hoàn trả số tiền vay bất cứ lúc nào đơn giản là bằng


-

gửi tiền vào tài khoản. Những đặc điểm này làm cho việc giám sát và quản lý
các khoản thấu chi có khó hơn cho vay theo hạn mức, có nhiều rủi ro hơn so với
các hoạt động cho vay thông thường.
 Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng: Cho vay theo hạn mức tín dụng dự
phòng là việc ngân hàng cam kết đảm bảo sẵn sàng cho khách hàng vay vốn
trong một hạn mức nhất định, trong một khoản thời gian nhất định. Khách hàng
phải trả phí cam kết cho ngân hàng trên cơ sở hạn mức tín dụng đang sử dụng.
 Cho vay qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng: Ngân hàng chấp
thuận cho khách hàng được sử dụng số vốn vay trong phạm vi hạn mức tín dụng
của thẻ để thanh toán tiền mua hàng hóa, dịch vụ và rút tiền mặt tại máy rút tiền
tự động.
1.2.4.5. Dựa vào phương thức hoàn trả nợ vay

Theo tiêu thức này, cho vay ngân hàng chia thành các loại sau:
 Cho vay chỉ có 1 kỳ hạn trả nợ hay còn gọi là cho vay trả nợ 1 lần khi đáo hạn
 Cho vay có nhiều kỳ hạn trả nợ, có kỳ hạn nợ cụ thể (cho vay trả góp)
 Cho vay trả nợ nhiều lần nhưng không có kỳ hạn nợ cụ thể mà tùy khả năng tài
chính của người đi vay có thể trả nợ bất cứ lúc nào
1.3 . Hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại
1.3.1. Khái niệm về cho vay tiêu dùng
Cho vay tiêu dùng hiện nay là một trong những nghiệp vụ cơ bản và mang lại
khá nhiều lợi nhuận cho các NHTM. Vậy cho vay tiêu dùng là gì?
Có nhiều quan điểm về cho vay tiêu dùng, tuy nhiên tổng kết lại thì: “Cho vay
tiêu dùng là khoản cho vay nhằm mục đích giúp người tiêu dùng có nguồn tài
chính để trang trải nhu cầu về nhà ở, đồ dùng gia đình, phương tiện đi lại”. (Theo
“Giáo trình Quản trị tác nghiệp ngân hàng thương mại” – PGS.TS.Nguyễn Thị Phương
Liên.
1.3.2. Đặc điểm cho vay tiêu dùng
Quy mô các khoản cho vay thường nhỏ nhưng số lượng lớn: Hầu hết các khoản cho
vay tiêu dùng thường có quy mô nhỏ, trừ các khoản cho vay để mua quyền sử dụng
đất, mua ôtô sang trọng, mua nhà, đi du học, mua sắm những đồ dùng xa xỉ. Hơn nữa,
các NH thường có những quy định chặt chẽ về hạn mức và các điều kiện cho vay bởi
rủi ro của các khoản cho vay tiêu dùng thường khá cao. Tuy nhiên, hiện nay mức sống
của người dân đang ngày được nâng lên nên số lượng những khoản cho vay tiêu dùng
ngày càng tăng.


-

-

-


-

-

Chi phí mỗi khoản cho vay tiêu dùng cao: Đối với mỗi khoản vay, NH đều phải bỏ chi
phí để thẩm định, giải ngân, kiểm tra giám sát khoản vay, thu nợ…Vì quy mô các
khoản cho vay này thường nhỏ hơn rất nhiều so với quy mô các khoản cho vay kinh
doanh nên chi phí quản lý trên một đồng các khoản cho vay tiêu dùng lớn hơn nhiều
các khoản cho vay kinh doanh.
Lợi nhuận cho vay tiêu dùng đem lại cao: Các khoản cho vay tiêu dùng luôn được đánh
giá là đem lại nhiều lợi nhuận cho NH do lãi suất cho vay thường cao hơn so với lãi
suất NH phải huy động từ các nguồn khác nhau để thực hiện cho vay, hơn nữa các
khoản cho vay tiêu dùng có rủi ro cao hơn các khoản cho vay kinh doanh nên lãi suất
cho vay thường cao hơn.
Cho vay tiêu dùng bị ảnh hưởng nhiều bởi chu kỳ kinh tế: Biến động của nền kinh tế
ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động cho vay tiêu dùng. Thứ nhất: Khi nền kinh tế phát
triển, thu nhập của người dân tăng lên nên họ có xu hướng chi tiêu nhiều hơn, khi
không đủ khả năng tài chính đáp ứng nhu cầu chi tiêu của mình thì họ thường tìm đến
các NH để xin vay vốn. Hơn nữa, rủi ro tín dụng đối với các NH trong giai đoạn này
khá thấp, các NH sẽ tích cực cho vay tiêu dùng, do đó hoạt động cho vay tiêu dùng
diễn ra rất sôi động. Thứ hai: Khi nền kinh tế rơi vào trạng thái suy thoái, thu nhập của
người dân bị hạn chế, tình trạng thất nghiệp tăng, các cá nhân sẽ cắt giảm việc chi tiêu,
các NH rè rặt hơn trong việc cho vay vì lo ngại khả năng mất vốn, do đó hoạt động cho
vay tiêu dùng sẽ rất ảm đạm.
Nguồn trả nợ của cho vay tiêu dùng: Nguồn trả nợ của các khoản cho vay tiêu dùng là
từ lương, thưởng, bán cổ phiếu, bán nhà, bán quyền sử dụng đất, thu nhập từ các hoạt
động kinh doanh khác hoặc chính từ tài sản thế chấp chứ không phải từ kết quả sử
dụng những khoản vay đó.
Chất lượng thông tin tài chính của khách hàng vay thường không cao: Các thông tin
làm cơ sở cho việc phân tích trước khi vay hầu hết do khách hàng cung cấp như: Nghề

nghiệp, thu nhập, nơi cư trú, nhân khẩu trong gia đình…, những thông tin này thường
mang tính chủ quan. Hơn nữa, hiện nay việc theo dõi lịch sử tín dụng của các cá nhân
với các tổ chức tín dụng thường gặp nhiều khó khăn vì các khách hàng cá nhân thường
vay những món vay nhỏ, nhiều, cho nên dễ xảy ra hiện tượng khách hàng đã có dư nợ
tại các tổ chức tín dụng khác nhưng không được cập nhật kịp thời trong hệ thống thông
tin tín dụng dẫn tới NH thiếu thông tin khi đưa ra quyết định cho vay hoặc dẫn đến cho
vay chồng chéo trong khi khách hàng không đủ khả năng trả nợ.


-

-

-

-

-

-

Các khoản cho vay tiêu dùng thường có rủi ro cao: Nguyên nhân của điều này là do:
Thứ nhất: Nguồn trả nợ thường là thu nhập của người đi vay, mà những khoản thu
nhập này lại phụ thuộc vào sức khỏe và công việc họ. Do đó khi bị mất việc, ốm đau
hoặc tai nạn… người vay khó có thể trả được nợ. Thứ hai: chất lượng các thông tin tài
chính của khách hàng thường không cao. Thứ ba: rủi ro về lãi suất, thông thường cho
vay tiêu dùng thường có lãi suất không linh hoạt, đối với cho vay ngắn hạn thường có
lãi suất cố định, đối với các khoản cho vay trung và dài hạn thường 1 năm mới điều
chỉnh 1 lần, NH sẽ dễ gặp phải rủi ro lãi suất khi lãi suất cho vay trên thị trường có xu
hướng gia tăng trong tương lai.

1.3.3. Phân loại cho vay tiêu dùng
1.3.3.1. Căn cứ vào mục đích đi vay.
Cho vay tiêu dùng cư trú: Là các khoản cho vay nhằm tài trợ cho các nhu cầu mua sắm,
xây dựng, cải tạo nhà ở của các khách hàng là cá nhân( Cho vay mua nhà)
Cho vay tiêu dùng phi cư trú: Là các khoản cho vay tài trợ cho các khoản chi phí mua
sắm xe cộ, học tập, giải trí, du lịch, … (Cho vay mua ô tô, cho vay du học, cho vay tiêu
dùng khác).
1.3.3.2. Căn cứ vào phương thức cho vay
Cho vay tiêu dùng gián tiếp: Là hình thức NH mua các khoản nợ phát sinh do các công
ty bán lẻ đã bán chịu hàng hóa, dịch vụ cho người tiêu dùng. Hình thức này NH cho
vay thông qua các doanh nghiệp bán hàng hoặc làm các dịch vụ mà không trực tiếp tiếp
xúc với khách hàng.
Cho vay tiêu dùng trực tiếp: Là khoản cho vay tiêu dùng trong đó NH trực tiếp tiếp xúc
và cấp khoản vay cho khách hàng cũng như trực tiếp thu nợ từ khách hàng này.
1.3.3.3. Căn cứ vào hình thức hoàn trả
Cho vay tiêu dùng trả góp: Người đi vay trả nợ gốc và lãi cho NH nhiều lần, theo
những kỳ hạn nhất định trong thời hạn cho vay.
Cho vay tiêu dùng phi trả góp: Tiền vay được khách hàng thanh toán cho NH một lần
khi đáo hạn. Các khoản cho vay tiêu dùng loại này thường được cung cấp với giá trị
nhỏ, thời hạn không dài.
Cho vay tiêu dùng tuần hoàn theo hạn mức tín dụng: Là hình thức NH cho phép khách
hàng sử dụng thẻ tín dụng hoặc phát hành loại séc được phép thấu chi trên tài khoản
vãng lai. Theo phương thức này, trong thời hạn tín dụng thỏa thuận trước, căn cứ vào
nhu cầu chi tiêu và thu nhập kiếm được từng thời kỳ, khách hàng được NH cho phép
thực hiện vay và trả nợ nhiều kỳ một cách tuần hoàn, theo một hạn mức tín dụng.


-

-


1.3.3.4. Căn cứ vào thời hạn cho vay
Cho vay tiêu dùng ngắn hạn: Các khoản vay này có thời hạn dưới 1 năm, thường để
phục vụ cho nhu cầu chi tiêu mang tính tức thì của khách hàng ví dụ họ cần tiền nhưng
chưa kịp bán nhà.
Cho vay tiêu dùng trung hạn: Các khoản vay có thời hạn từ 1 đến 5 năm, phục vụ nhu
cầu vốn trung hạn như mua xe máy, vay để sửa nhà, đồ dùng trong gia đình…
Cho vay tiêu dùng dài hạn: Các khoản vay này có thời hạn dài, trên 5 năm, phục vụ
nhu cầu vốn dài hạn: mua ôtô loại xa xỉ, mua nhà, mua quyền sử dụng đất…
1.3.3.5. Căn cứ vào tính chất đảm bảo
a. Cho vay tiêu dùng có đảm bảo bằng tài sản
 Cho vay tiêu dùng cầm cố
Là hình thức cho vay của ngân hàng mà khách hàng vay tiền phải có tài sản giao
cho ngân hàng để đảm bảo thực hiện các nghĩa vụ của khách hàng trong hợp đồng cầm
cố.
+ Điều kiện của tài sản cầm cố:
Đó là các giấy tờ có giá trị mua bán, trao đổi thuộc sở hữu hợp pháp của bên vay
hoặc phải có giấy ủy quyền hợp pháp của người sở hữu cho khách hàng vay vốn mang
đi cầm cố, ủy quyền cho ngân hàng xử lý tài sản khi bên vay vi phạm hợp đồng cầm
cố.
+ Thời hạn và mức cho vay:
Đối với giấy tờ có giá, thời hạn cầm đồ ngắn hơn thời gian lưu hành còn lại của
giấy tờ có giá và tối đa không quá 12 tháng, mức cho vay tối đa của ngân hàng thường
được tính trên giá trị đáo hạn như sau:
MCV = GĐH x (1 – TLH x LCV)
Trong đó: MCV: Mức cho vay tối đa.
GĐH : Giá trị đến hạn của giấy tờ có giá.
TLH : Thời gian lưu hành của giấy tờ có giá.
LCV : Lãi suất cho vay.
Với các loại tài sản khác, thời hạn cho vay cầm cố được căn cứ vào tính chất,

chủng loại, điều kiện bảo quản của tài sản và thường tương đối ngắn (tối đa không quá
3 tháng). Mức cho vay dựa vào giá trị, khả năng tiêu thụ trên thị trường, khả năng bảo
quản của tài sản, thường không quá 80% giá trị thị trường của tài sản cầm cố
 Cho vay tiêu dùng thế chấp
Cho vay tiêu dùng thế chấp là bên vay vốn dùng tài sản là bất động sản thuộc quyền sở
hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ khi nguồn thu nợ thứ nhất bị mất.




Căn cứ theo tính chất pháp lý:

- Thế chấp pháp lý: là phương thức thế chấp mà khách hàng lập sẵn một giấy sang
nhượng chủ quyền để khi không có tiền trả nợ, ngân hàng có quyền bán hay quản lý tài
sản đó.
- Thế chấp công bằng: ngân hàng chỉ giữ bản chính giấy chứng nhận quyền sở hữu
tài sản bảo đảm cho khoản vay. Do đó ngân hàng muốn phát mãi tài sản phải chờ qua
phán quyết của tòa án.


Căn cứ vào số lần thế chấp:

- Thế chấp thứ nhất: Là tài sản đang thế chấp cho một món vay.
- Thế chấp thứ hai: tài sản đang thế chấp cho món nợ thứ nhất nhưng giá trị thế chấp
còn thừa ra khách hàng đang thế chấp cho ngân hàng khác (hay ngân hàng đó) để vay
thêm một món nợ nữa.
 Cho vay tiêu dùng bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay

Hình thức này áp dụng chủ yếu đối với tài sản có giá trị lớn, thời gian sử dụng
dài như: Cho vay sửa chữa, mua nhà, mua quyền sử dụng đất, mua xe con… Mức cho

vay của ngân hàng dựa vào khả năng tài chính của khách hàng, thường tối đa 50 – 60%
giá trị tài sản mua sắm.
Sau khi phê duyệt cho vay, ngân hàng mở tài khoản giữ hộ và chờ thanh toán
cho khách hàng. Ngân hàng và khách hàng ký hợp đồng tín dụng và khế ước nhận nợ
(thời điểm nhận nợ là thời điểm ngân hàng chuyển tiền cho người bán). Khi khách
hàng nộp tiền vào tài khoản của mình tại ngân hàng, ngân hàng cho vay sẽ thanh toán
cho người bán 100% giá trị tài sản và đề nghị giao cho khách hàng. Trên cơ sở đó,
người bán giao tài sản cho khách hàng và khách hàng chịu trách đăng ký xe, lưu hành,
mua bảo hiểm, người thụ hưởng bảo hiểm là ngân hàng cho vay và chuyển giao toàn
bộ giấy tờ cho ngân hàng. Ngân hàng ký hợp đồng cầm cố và giao bản sao khách hàng,
thực hiện đăng ký hợp đồng cầm cố tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
b.Cho vay tiêu dùng không có đảm bảo bằng tài sản
Cho vay bảo đảm bằng lương hay thu nhập: Ngân hàng cho khách hàng vay tiền
để đáp ứng nhu cầu chi tiêu trên cơ sở thế chấp bằng lương hay thu nhập. Nó áp dụng


-

-

-

-

-

cho các khách hàng có việc làm ổn định, thu nhập ngoài việc trang trải các chi phí còn
đủ tích lũy để trả nợ vay.
Khi xét duyệt cho vay, ngân hàng cần có một bảng kê khai các khoản thu nhập
về lương và thu nhập khác (có xác nhận của đơn vị trả lương) cũng như những khoản

chi tiêu thường xuyên của người đi vay. Số tiền cho vay được quyết định dựa trên nhu
cầu vay (có mục đích sử dụng rõ ràng), thu nhập ròng thường xuyên của khách hàng,
mức cho vay tối đa của ngân hàng. Khi nhận tiền vay, khách hàng phải cam kết nếu
không trả được nợ đến hạn (thường quá 3 kỳ trả nợ) ngân hàng có quyền nhận lương
của khách hàng để thu nợ.
1.3.4. Vai trò của hoạt động cho vay tiêu dùng của NHTM.
 Đối với khách hàng
Giúp khách hàng thỏa mãn được nhu cầu tiêu dùng trong điều kiện bị giới hạn khả
năng thanh toán, đặc biệt là trong trường hợp khách hàng cần vốn ngay. Với lãi suất
khá hợp lý, thời hạn, phương thức trả nợ linh hoạt, thủ tục và điều kiện vay không quá
phức tạp thì việc vay vốn tại các NH hiệu quả, an toàn và tiện lợi hơn so với việc vay “
nóng” từ các cá nhân, tổ chức bên ngoài.
Khách hàng dùng số tiền vay để đáp ứng nhu cầu chi tiêu: mua sắm đồ dùng gia đình,
phương tiện đi lại, sửa chữa nhà ở…góp phần cải thiện đời sống.
 Đối với NHTM
Hoạt động cho vay tiêu dùng mặc dù chứa đựng nhiều rủi ro nhưng lại mang lại lợi
nhuận lớn cho NH, NH có thể đưa ra những điều kiện cho vay chặt chẽ và thường
xuyên giám sát tình hình sử dụng vốn của khách hàng để hạn chế rủi ro.
Khi hoạt động cho vay tiêu dùng diễn ra, khách hàng chi tiêu nhiều hơn, đẩy mạnh hoạt
động sản xuất tại các doanh nghiệp, từ đó gia tăng nhu cầu vay kinh doanh và mở rộng
hoạt động cho vay kinh doanh của NH. Vì thế, NH cung cấp sản phẩm cho vay tiêu
dùng không chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của khách hàng mà còn đáp ứng chính nhu
cầu đa dạng hóa sản phẩm của NH.
Cho vay tiêu dùng giúp NH tăng khả năng cạnh tranh với các NH khác và các tổ chức
tín dụng khác, thu hút được đối tượng khách hàng mới, từ đó mở rộng quan hệ với
khách hàng, giúp NH tăng khả năng huy động các loại tiền gửi.
 Đối với nền kinh tế - xã hội
Cho vay tiêu dùng góp phần khơi thông luồng chuyển dịch hàng hóa. NH cho
người tiêu dùng vay vốn đã tạo ra khả năng thanh toán cho họ trước khi họ tích lũy đủ
số tiền cần thiết. Khách hàng có tiền sẽ tìm đến doanh nghiệp mua hàng và doanh

nghiệp tiêu thụ hàng hóa thì mới đi vay cũng như thanh toán được các khoản nợ với










NH. Như vậy, cho vay tiêu dùng mang lại lợi ích cho cả ba bên: Người tiêu dùng,
doanh nghiệp, NH hay chính là có lợi cho cả nền kinh tế.
1.3.5. Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động cho vay tiêu dùng của NHTM.
1.3.5.1.
Nhân tố chủ quan.
Hoạt động cho vay tiêu dùng chịu tác động của nhiều nhân tố chủ quan, đây là
những nhân tố mang tính chất nội lực của NH:
Chính sách tín dụng của NH: Chính sách tín dụng: Là quy định mà NH áp dụng trong
việc cấp tín dụng cho khách hàng. Nếu NH có chính sách tín dụng mở rộng như: Thời
hạn vay dài, lãi suất cạnh tranh, điều kiện cho vay thoáng hơn các NH khác… chấp
nhận mức rủi ro cao hơn để thu được lợi nhuận cao hơn thì cho vay tiêu dùng được mở
rộng. Tuy nhiên, nếu NH có chính sách tín dụng thắt chặt, đặt mục tiêu an toàn cao hơn
mục tiêu lợi nhuận thì NH chỉ cho vay với các khoản vay tiêu dùng cơ bản dẫn đến
hoạt động cho vay tiêu dùng giảm.
Chất lượng nhân sự và cơ sở vật chất thiết bị của NH: Việc phát triển cho vay tiêu
dùng có thành công hay không phụ thuộc phần lớn vào trình độ của nhân viên và cơ sở
vật chất, trang thiết bị của NH. Nếu trong quá trình giao tiếp với cán bộ NH, khách
hàng cảm thấy an tâm về trình độ nghiệp vụ của họ, hài lòng về cách phục vụ thì chắc
chắn khách hàng sẽ tiến hành vay vốn ở NH đó. Đồng thời, việc NH trang bị đầy đủ

các thiết bị tiên tiến, hiện đại, phù hợp với phạm vi và quy mô hoạt động, phục vụ kịp
thời các yêu cầu của khách hàng sẽ giúp NH tăng khả năng cạnh tranh và thực hiện mở
rộng tín dụng tiêu dùng .
Nguồn lực tài chính của NH: Vốn tự có: Là giá trị tiền tệ, do NH tạo lập được và thuộc
sở hữu của NH. Tuy vốn tự có chiếm 1 tỷ lệ nhỏ trong tổng tài sản có của NH, nhưng
nó lại quyết định đến sự tồn tại và phát triển của NH. Nó còn là cơ sở để NH phát triển
hoạt động cho vay của mình. Nếu NH có vốn tự có lớn sẽ tạo điều kiện gia tăng các
khoản vay, quy mô hoạt động của NH nói chung và hoạt động cho vay tiêu dùng nói
riêng. Vốn huy động: Là những giá trị tiền tệ mà NH huy động được thông qua việc
cung ứng các sản phẩm, dịch vụ cho khách hàng. Nếu quy mô vốn huy động lớn thì
NH có khả năng đáp ứng tốt nhu cầu kinh doanh của mình và nếu chi phí huy động vốn
thấp thì NH có điều kiện cho vay với lãi suất thấp, đem lại lợi thế cạnh tranh và thu hút
được nhiều khách hàng, tạo điều kiện cho NH đẩy mạnh hoạt động kinh doanh của
mình.
Hoạt động Marketing của NH: Đó là chiến lược về giá, sản phẩm, phân phối, xúc tiến,
cải tiến quy trình và nâng cao chất lượng quản trị nhân sự của NH để đáp ứng nhu cầu


khách hàng trong điều kiện cạnh tranh gay gắt như hiện nay. Đồng thời là cơ sở để NH
mở rộng các hoạt động kinh doanh của mình nhằm tìm hiếm thêm khách hàng và thỏa
mãn nhu cầu của khách hàng truyền thống. Nếu hoạt động Marketing của NH tạo được
ấn tượng tốt đối với khách hàng, xây dựng được hình ảnh trong tâm trí khách hàng, thì
khi khách hàng có nhu cầu nhất định sẽ có xu hướng lựa chọn những NH mà họ cảm
giác an toàn và tin cậy, vì vậy hoạt động Marketing diễn ra thuận lợi sẽ trợ giúp cho
hoạt động cho vay tiêu dùng.
1.3.5.2.
Nhân tố khách quan.
Ngoài nhân tố chủ quan, hoạt động cho vay tiêu dùng còn chịu tác động của
nhân tố khách quan, đây là những nhân tố mà NH không thể điều chỉnh, thay đổi mà
chỉ có thể tận dụng điều hành hoạt động sao cho phù hợp.

 Môi trường kinh tế: Môi trường kinh tế là nhân tố thường xuyên biến động, nó bao
gồm tình hình hoạt động của tất cả các thành phần kinh tế, được đánh giá bằng các chỉ
tiêu: trình độ phát triển kinh tế, thu nhập quốc dân, thu nhập bình quân đầu người. Hoạt
động cho vay tiêu dùng của NH rất nhạy cảm với những thay đổi của môi trường kinh
tế. Khi nền kinh tế tăng trưởng, phát triển, đời sống nhân dân được nâng cao thì nhu
cầu tiêu dùng cũng tăng cao, người dân tin tưởng rằng trong tương lai thu nhập và các
điều kiện kinh tế khác sẽ cao và thuận lợi. Hơn nữa, kinh tế vĩ mô ổn định, đặc biệt là
sự ổn định tiền tệ sẽ làm cho các định chế tài chính trong đó có các NH yên tâm trong
việc cho vay vốn, từ đó tạo điều kiện thuận lợi trong việc mở rộng hoạt động cho vay
nói chung và cho vay tiêu dùng nói riêng.
Ngược lại, khi nền kinh tế rơi vào tình trạng suy thoái, mất ổn định thì phần lớn
người tiêu dùng chỉ mong đảm bảo cuộc sống ở mức bình thường, nhu cầu chi tiêu
giảm đi do sự nhận thấy thu nhập của mình sẽ giảm, đồng thời, chính sự suy giảm này
sẽ làm cho các NH không muốn cho vay tiêu dùng vì lo ngại khả năng mất vốn, do đó
hoạt động cho vay tiêu dùng sẽ bị hạn chế.
 Môi trường chính trị và pháp luật: Tình hình chính trị và pháp luật của một quốc gia
luôn có ảnh hưởng lớn tới hoạt động cho vay tiêu dùng của NH cũng như tất cả mọi
hoạt động khác trong nền kinh tế. Hệ thống pháp luật, chính trị ổn định là điều kiện
thuận lợi để các định chế tài chính nâng cao năng lực cung cấp dịch vụ tài chính chất
lượng cao cho dân cư, đồng thời, người dân cũng yên tâm vay vốn vì quyền lợi của họ
luôn được đảm bảo, từ đó góp phần phát triển quan hệ bền vững giữa người cho vay và
người đi vay.


 Môi trường văn hóa, xã hội: Những yếu tố thuộc về văn hóa, xã hội như thói quen sử

dụng các sản phẩm dịch vụ của NH, tỷ lệ tiết kiệm, trình độ dân trí, thị yếu… ảnh
hưởng rất lớn tới việc đưa ra quyết định lựa chọn hình thức cho vay tiêu dùng . Các
quan niệm về NH quen thuộc hay xa lạ, an toàn hay không an toàn, … cũng là những
yếu tố tác động đến dịch vụ mà NH cung cấp trong đó có hoạt động cho vay tiêu dùng .

 Môi trường khoa học, công nghệ: Khoa học – công nghệ phát triển sẽ tạo điều kiện
thuận lợi cho NH cung cấp được các dịch vụ tốt hơn, mở rộng được hoạt động, từ đó
tạo tiền đề đẩy mạnh hoạt động cho vay tiêu dùng. Ngược lại, trình độ khoa học – công
nghệ không phát triển, cung cấp dịch vụ gặp nhiều khó khăn thì hoạt động cho vay
cũng như các hoạt động khác của NH cũng bị hạn chế.
1.3.6. Các chỉ tiêu đánh giá hoạt động cho vay tiêu dùng của NHTM.
1.3.6.1. Nhóm chỉ tiêu về tăng trưởng tín dụng
 Doanh số cho vay: là chỉ tiêu phản ánh tất cả các khoản tín dụng mà ngân hàng đã

phát cho khách hàng vay trong một thời gian nhất định. Không kể đến món vay
đó thu hồi được hay chưa. Doanh số cho vay thường xác định theo tháng, quý,
năm.
 Doanh số thu nợ: là chỉ tiêu phản ánh tất cả các món nợ mà ngân hàng đã thu về

từ các khoản cho vay đã đến hạn của ngân hàng kể cả năm nay và những năm
trước đó.
 Dư nợ cho vay: là chỉ tiêu phản ánh số nợ mà ngân hàng đã cho vay và chưa thu

hồi về được trong một thời gian nhất định.
Để xác định dư nợ cho vay ngân hàng sẽ so sánh giữa hai chỉ tiêu doanh số cho vay
và doanh số thu nợ:
Dư nợ cuối kỳ= Dư nợ đầu kỳ+ Doanh số cho vay trong kỳ- Doanh số
thu nợ trong kỳ

 Tốc độ tăng doanh số cho vay được tính theo công thức:
 Tốc độ tăng dư nợ: Chỉ tiêu này phản ánh quy mô và sự tăng trưởng hoạt động cho

vay tiêu dùng của NH. Tổng dư nợ cho vay cao và tăng trưởng thông qua từng thời
kỳ cho thấy NH đã tạo được uy tín với khách hàng. Tuy nhiên, mức tăng trưởng


Dư nợ cuối kỳ= Dư nợ đầu kỳ+ Doanh số cho vay trong kỳ- Doanh


×