Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Tiểu luận đề tài ĐỘNG đất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (344.34 KB, 16 trang )

Nhóm 15

BỘ CÔNG THƯƠNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP THỰC PHẨM TP HỒ CHÍ MINH
………………

Tiểu luận

Đề tài: ĐỘNG ĐẤT

NHÓM: 15
Các thành viên trong nhóm:
1.
2.
3.

Huỳnh Thị Yến Nhi
Trần thị Mỹ Dung
Nguyễn Thị Ánh Thu
1


Nhóm 15

ĐỘNG ĐẤT
I.

Sơ lược về động đất
a. Định nghĩa
- Động đất những rung động xảy ra trong vỏ hay trên bề mặt Trái Đất
với cường độ khác nhau, lan truyền trên một diện tích rộng lớn.


- Diễn ra đột ngột, nhanh chóng và gây ra những thảm họa lớn cho con
người.
b. Đặc điểm:
Động đất xảy ra hằng ngày trên trái đất, nhưng hầu hết không đáng
chú ý và không gây ra thiệt hại. Động đất lớn có thể gây thiệt hại trầm
trọng và gây tử vong bằng nhiều cách. Động đất có thể gây ra đất lở, đất
nứt, sóng thần, nước triều giả, đê vỡ, và hỏa hoạn. Tuy nhiên, trong hầu
hết các trận động đất, sự chuyển động của mặt đất gây ra nhiều thiệt hại
nhất.
1. Tâm động đất
Trong hầu hết trường hợp, động đất tự nhiên là chuỗi các vụ động đất
có cường độ khác nhau, kéo dài trong thời gian nhất định, cỡ vài ngày đến
vài tháng. Trong chuỗi đó thì trận động đất mạnh nhất gọi là động đất
chính (mainshock), còn những lần yếu hơn thì gọi là dư chấn. Dư
chấn trước động đất chính gọi là tiền chấn (Foreshock), còn sau động đất
chính gọi là "Aftershock" nhưng trong tiếng Việt hiện dùng từ "dư chấn".
Năng lượng của động đất được trải dài trong một diện tích lớn, và
trong các trận động đất lớn có thể trải hết toàn cầu. Các nhà khoa học
thường có thể định được điểm mà các sóng địa chấn được bắt đầu. Điểm
này được gọi là chấn tiêu (hypocentre). Hình chiếu của điểm này lên mặt
đất được gọi là chấn tâm (epicentre).
Nhiều động đất, đặc biệt là những trận xảy ra dưới đáy biển, có thể
gây ra sóng thần, có thể vì đáy biển bị biến thể hay vì đất lở dưới đáy biển
gây ra.
2. Sóng địa chấn
2


Nhóm 15


Các nhà địa chấn phân chia ra bốn loại sóng địa chấn, được xếp thành 2
nhóm: 2 loại gọi là sóng khối (Body waves) và 2 loại gọi là sóng bề mặt
(Surface waves).
Sóng khối phát xuất từ chấn tiêu và lan truyền ra khắp các lớp của
Trái Đất. Tại chấn tâm thì sóng khối lan đến bề mặt sẽ tạo ra sóng mặt.
Bốn sóng này có vận tốc lan truyền khác nhau, và tại trạm quan sát địa
chấn ghi nhận được theo thứ tự đi đến như sau:
• Sóng P: Sóng sơ cấp (Primary wave) hay sóng dọc (Longitudinal
wave).
• Sóng S: Sóng thứ cấp (Secondary wave) hay sóng ngang (Shear
wave).
• Sóng Love: Một dạng sóng mặt ngang phân cực ngang.
• Sóng Rayleigh: còn gọi là rung cuộn mặt đất (Ground roll)

Sóng khối: P, S, và sóng mặt: Love, Rayleigh
3.

Cường độ rung động
Mỗi trận động đất có một độ Richter duy nhất xác định sức tàn
phá của nó trong khi cường độ thì thay đổi tùy theo khoảng cách xa
3


Nhóm 15

-

hay gần đối với chấn tâm. Có thể so sánh với một cây pháo: kích
thước của cây pháo nói lên sức mạnh lúc nổ (tương ứng với độ
Richter) và tiếng nổ nghe được (tương ứng với cường độ của trận

động đất).
Để hình dung cụ thể hơn về độ Richter ta có các ví dụ sau:
Năng lượng của trận động đất mạnh 7,3 độ Richter có năng lượng nổ
của quả bom 50 triệu tấn thuốc nổ TNT.
Trận đọng đất 8,5 độ Richter đã từng xảy ra năm 1950 trong dãy
Hymalaya có năng lượng tương đương với năng lượng của 100.000
quả bom nguyên tử mà Mỹ ném xuống Hiroshima tháng 8 – 1945.

Thanh độ mạnh Richter
Lịch sử
Thang đo Richter được Charles Francis Richter đề xuất vào năm
1935. Đầu tiên nó được sử dụng để sắp xếp các số đo về cơn động đất địa
phương tại California. Những số đo này được đo bằng một địa chấn kế đặt
xa nơi động đất 100 km.
Báo chí không chuyên môn về khoa học thường nói ra độ lớn động
đất "theo thang Richter". Tuy nhiên, phần nhiều độ lớn được tính ngày
nay thực sự là tính toán theo thang độ lớn mô men, tại vì thang Richter cũ
hơn không thích hợp với các độ lớn hơn 6,8. Trung tâm Khảo sát Địa chất
Hoa Kỳ (USGS) không sử dụng thang này đối với các trận động đất có
cường độ nhỏ hơn 3,5.
Nguyên tắc
Thang đo Richter là một thang lôgarit với đơn vị là độ Richter. Độ
Richter tương ứng với lôgarit thập phân của biên độ những sóng địa chấn
đo ở 100 km cách chấn tâm của cơn động đất. Độ Richter được tính như
sau:
Với A là biên độ tối đa đo được bằng địa chấn kế và A0 là một biên
độ chuẩn.
Theo thang Richter, biên độ của một trận động đất có độ Richter 6
mạnh bằng 10 lần biên độ của một trận động đất có độ Richter 5. Năng



4


Nhóm 15

lượng được phát ra bởi trận động đất có độ Richter 6 bằng khoảng 31 lần
năng lượng của trận động đất có độ Richter 5.
Các mức độ
Thang Richter là một thang mở và không có giới hạn tối đa. Trong
thực tế, những trận động đất có độ Richter lớn hơn hoặc bằng 9 là những
trận động đất kinh khủng. Thí dụ trận động đất tại Chile ngày 22 tháng 5
năm 1960 với độ Richter bằng 9,5.
MÔ TẢ

ĐỘ
RICHTER

TÁC HẠI

TẦN SỐ XẢY RA

Không
nhỏ hơn 2,0
đáng kể
Thật nhỏ 2,0-2,9

Động đất thật nhỏ, không cảm nhận được

Nhỏ


3,0-3,9

Cảm nhận được nhưng ít khi gây thiệt hại

Nhẹ

4,0-4,9

Trung
bình

5,0-5,9

Mạnh

6,0-6,9

Rất
mạnh
Cực
mạnh

7,0-7,9

Cực kỳ
mạnh

9,0-9,9


rung chuyển đồ vật trong nhà. Thiệt hại khá
quan trọng.
Có thể gây thiệt hại nặng cho những kiến trúc
không theo tiêu chuẩn phòng ngừa địa chấn.
Thiệt hại nhẹ cho những kiến trúc xây cất đúng
tiêu chuẩn.
Có sức tiêu hủy mạnh trong những vùng đông
dân trong chu vi 180 km bán kính.
Có sức tàn phá nghiêm trọng trên những diện
tích to lớn.
Có sức tàn phá vô cùng nghiêm trọng trên
những diện tích to lớn trong chu vi hàng trăm
km bán kính.
Sức tàn phá vô cùng lớn

Khoảng 8.000
lần mỗi ngày
Khoảng 1.000
lần mỗi ngày
Khoảng 49.000
lần mỗi năm
Khoảng 6.200
lần mỗi năm
Khoảng 800 lần
mỗi năm

Kinh
hoàng

10+


Gây ra hậu quả khủng khiếp nhất cho Trái Đất

8,0-8,9



Thường không cảm nhận nhưng đo được

Các thang đo khác
Thang độ lớn mô men (Mw)
Thang Rossi-Forel (viết tắt là RF)
Thang Medvedev-Sponheuer-Karnik (viết tắt là MSK)
Thang Mercalli (viết tắt là MM)
5

Khoảng 120 lần
mỗi năm
Khoảng 18 lần
mỗi năm
Khoảng 1 mỗi
năm
Khoảng 1 lần
mỗi 20 năm
Có thể không
xảy ra


Nhóm 15


Thang Shindo của cơ quan khí tượng học Nhật Bản
Thang EMS98 tại châu Âu


II.

Quy mô rung động ( cấp chấn động)
Động đất được chia thành 12 cấp chấn động.
- Cấp I – Động đất không cảm thấy, chỉ có máy mới ghi nhận được.
- Cấp II – Động đất ít cảm thấy (rất nhe). Trong những trường hợp riêng
lẻ, chỉ có người nào đang ở trạng thái yên tĩnh mới cảm thấy được.
- Cấp III – Động đất yếu. Ít người nhận biết được động đất. Chấn động y
như tạo ra bởi một ô tô vận tải nhẹ chạy qua.
- Cấp IV – Động đất nhận thấy rõ. Nhiều người nhận biết động đất, cửa
kính có thể kêu lạch cạch.
- Cấp V – Thức tỉnh. Nhiều người ngủ bị tỉnh giấc, đồ vật treo đu đưa.
- Cấp VI – Sợ hãi. Đa số người cảm thấy động đất, nhà cửa bị hư hại
nhẹ, lớp vữa bị rạn.
- Cấp VII – Hư hại nhà cửa. Đa số người sợ hãi, nhiều người khó đứng
vững, nứt lớp vữa, tường bị rạn nứt.
- Cấp VIII – Phá hoại nhà cửa. Sợ hãi và khủng khiếp, ngay người lái ô
tô cũng lo ngại, tường nhà bị nứt lớn, mái hiên và ống khói bị rơi.
- Cấp IX – Hư hại hoàn toàn nhà cửa. Khủng khiếp hoàn toàn, một số
nhà bị sụp đổ, tường, mái, trần bị sập, nền đất có thể bị nứt rộng 10
cm.
- Cấp X – Phá hoại hoàn toàn nhà cửa. Nhiều nhà bị sụp đổ, nền đất có
thể bị nứt rộng đến 1 mét
- Cấp XI – Thảm họa. Nhà xây tốt, cầu, đập nước và đường sắt bị hư hại
nặng, mặt đất bị biến dạng, vết nứt rộng, sụp đổ lớn ỏ núi.
- Cấp XII – Thay đổi địa hình. Phá huỷ mọi công trình ở trên và dưới

mặt đất, thay đổi địa hình trên diện tích lớn, thay đổi cả dòng sông,
nhìn thấy mặt đất nổi sóng.
Nguyên nhân
Gồm 3 nguyên nhân chính:
- Nội sinh: liên quan đến vận động phun trào núi lửa, vận động kiến tạo
ở các đới hút chìm, các hoạt động đứt gãy.
Lớp vỏ Trái đất được tạo thành từ nhiều mảng kiến tạo dày
khoảng 100 km và liên tục di chuyển với tốc độ khoảng 10cm/ năm.
6


Nhóm 15

-

Tốc độ như vậy có vẻ chẳng đáng kể, nhưng trên thực tế, những mảng
kiến tạo khổng lồ này lại di chuyển theo những hướng khác nhau với
vận tốc khác nhau, dẫn đến tình trạng đôi khi chúng sẽ đâm vào nhau,
bị kéo xa khỏi nhau hoặc trượt qua nhau. Và kết quả của những việc
này là động đất
Ngoại sinh: Thiên thạch va chạm vào Trái Đất, các vụ trượt lở đất đá
với khối lượng lớn.
Nhân sinh: Hoạt động của con người gồm cả gây rung động không chủ
ý, hay các kích động có chủ ý trong khảo sát hoặc trong khai thác hay
xây dựng, đặc biệt là các vụ thử hạt nhân dưới lòng đất

Ngoài ra còn phải kể đến hoạt động âm học, đặc biệt là kỹ thuật âm thanh
địa chấn.
Hầu hết mọi sự kiện động đất tự nhiên xảy ra tại các đường ranh giới của
các mảng kiến tạo là các phần của thạch quyển của Trái Đất. Các nhà

khoa học dùng dữ kiện về vị trí các trận động đất để tìm ra những ranh
giới này. Nó dẫn đến phân loại:



III.

Những trận động đất xảy ra tại ranh giới được gọi là động đất xuyên
đĩa.
Những trận động đất xảy ra trong một đĩa (hiếm hơn) được gọi
là động đất trong đĩa.

Ảnh hưởng của động đất
Động đất có thể gây ra đất lở, đất nứt, sóng thần, nước triều giả, đê
vỡ, và hỏa hoạn… Động đất ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của con
người và sinh vật trên Trái Đất. Động đất gây thiệt hại nặng nề về con
người cũng như cơ sở vật chất và kinh tế. Hằng năm, động đất có thể
cướp đi sinh mạng của hàng trăm nghìn người trên Trái Đất. Những trận
động đất phá hủy nhà cửa, ruộng vườn, trang trại, bệnh viện, nơi làm việc
của con người, làm đảo lộn cuộc sống của con người. Những người có thể
thoát chết sau cơn địa chấn thì lại chết vì đói và rét do không còn nơi ăn
chốn ở.
7


Nhóm 15

Động đất cũng ảnh hưởng rất lớn đến môi trường trên Trái Đất. Động
đất làm thay đổi địa hình địa mạo, phá hủy nặng nề môi trường sinh thái
trên Trái Đất. Động đất gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng bao gồm cả

môi trường đất, nước và không khí, qua đó ảnh hưởng gián tiếp đến cuộc
sống của con người và sinh vật trên Trái Đất. Động đất cũng là nguyên
nhân của rất nhiều tai biến gây nguy hiểm cho con người và sinh vật trên
Trái Đất:
• Lở đất: Động đất làm cho đất đá trên các ngọn đồi núi sạt lở, lao
xuống dốc với tốc độ lớn gây ra thiệt hại vô cùng nghiêm trọng. Nó
cuốn phăng mọi thứ trên đường đi , bao gồm nhà cửa, cây cối, xe cộ,
con người và vật nuôi.
Ngày 31/05/1970 một trận động đất mạnh 7,8 độ richter làm chấn
động Peru. Và tai họa ập xuống, hàng triệu tấn đá và băng trên ngọn
núi Huascaran lao ầm ầm xuống với tốc độ hủy diệt, chỉ trong một
khoảng thời gian ngắn, toàn bộ thị trấn Yungay bị san phẳng và hầu hết
cư dân bị chôn sống. Trận động đất ngày 12/05/2008 tại Tứ Xuyên ,
Trung Quốc là khoảng 78.000 người chết hoặc mất tích, 370.000 người
bị thương chỉ trong vòng một huyện thuộc tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc
khi một trận động đất mạnh 7,8 độ richter xảy ra.
Đất nứt: Động đất làm cho bề mặt địa cầu bị nứt nẻ, chỗ thì dâng
cao, chỗ thì thụt lún xuống thấp, làm thay đổi diện mạo quang cảnh;
đường sá, cầu cống bị chia cắt, nhà cửa đổ sập…. Trên bề mặt đất
xuất những khe nứt, những hố tử thần gây ra những hiểm nguy khó
lường cho con người.
Trong một trận động đất ở Alaska năm 1964, một vùng đất diện
tích bằng nước Pháp nghiêng lệch đi. Làng chài Cordova bị đẩy lên cao
tít khiến thủy triều không thể vào tới cầu cảng, những chiếc thuyền bè
đánh cá nằm chơi vơi trên cao, những vùng đất trước đây khô ráo nay
ngập trong nước biển.





Sóng thần: Động đất khiến cho các mảng địa chất dưới đáy biển va
chạm vào nhau tạo ra các cơn sóng thần. Chúng cao hàng chục mét
và di chuyển với tốc độ cực lớn, phá hủy mọi thứ trên đường đi và
tràn vào bờ phá hủy nhà cửa, cây cối, và dân cư bị cuốn trôi, gây
thiệt hại vô cùng nghiêm trọng cho dân cư ven biển.
8


Nhóm 15

Một trận động đất mạnh 7,7 độ richter làm rung chuyển Ấn Độ
Dương ngày 17/07/2006 tại địa điểm cách 200km phía nam
Pangandaran, một bãi biển đẹp nổi tiếng với những đợt sóng thích hợp
cho những người ưa thích môn lướt sóng. Trận động đất này đã gây ra
một cơn sóng thần với nhiều độ cao khác nhau từ 2m tại Cilacap tới 6m
tại bãi biển Cimerak cuốn và phạt bằng những ngôi nhà ở sâu 400m
bên trong bờ biển. Số lượng nạn nhân được thông báo gồm khoảng 600
người chết và 150 người mất tích. Thuyền bị hất lên bờ sau cơn sóng
thần.

IV.



Triều giả: Triều giả là hiện tượng nước trong các hồ chao qua chao
lại một cách dữ dội sau cơn động đất ở một khu vực nào đó. Triều
giả xảy ra do sóng địa chất sau trận động đất lan truyền trong lòng
đất đá làm cho đất đá dưới lòng hồ bị rung chuyển làm nước cũng bị
xáo động theo với cường độ mạnh làm cho thuyền bè bị chim đắm,
nước ập vào khu vực xung quanh bờ phá hủy nhà cửa, cây cối,

phương tiện và gây ra thiệt hại nghiêm trọng về người.



Đê vỡ: Động đất gây ra các chấn động mạnh, làm cho các tuyến đê
điều bị nứt vỡ, gặp triều cường, nước tràn vào các khu dân cư, các
thành phố lớn và đất sản xuất gây ngập úng, ngập mặn, nhà cửa
chìm trong biển nước, giao thông trì trệ, ô nhiễm môi trường…..



Hỏa hoạn: Động đất không chỉ phá hủy nhà cửa, cầu cống, xe cộ…
mà còn là nguyên nhân gây ra hỏa hoạn trên diện rộng. Tàn lửa từ
những chiếc đèn dầu hay những chiếc bếp sau động đất đã nhóm lên
những ngọn lửa lớn thiêu cháy mọi thứ trong hàng mấy ngày liền mà
không thể dập tắt. Đây chính là nguy cơ tồi tệ nhất để lại sau những
trận động đất mà con người còn phải hứng chịu.

Cách phòng chống động đất
Vì động đất xảy ra rất bất ngờ cũng như tính chất nguy hiểm của nó,
trong khi chúng ta không thể làm gì để ngăn chặn nó, nên cách duy nhất
để đối phó là làm sao để giảm đến mức tối đa thiệt hại mà động đất gây
nên. Ở những nước như Nhật Bản, người ta xây dựng nhà cửa bằng các
loại vật liệu nhẹ, bền dẻo, có thể chịu được những rung động mạnh.
9


Nhóm 15

Người ta cũng tiếp tục nghiên cứu những quy luật của động đất để dự báo

chính xác, kịp thời có biện pháp di dân ra khỏi vùng nguy hiểm, tránh
những thiệt hại về người và của.
Động đất là một thiên tai không thể dự báo trước được, cho nên
những người sống ở một nơi gần những nơi thường có động đất không thể
tránh nó được. Tuy nhiên, có một số điều ta có thể làm để trước, trong lúc,
và sau động đất để tránh thương tích và thiệt hại do động đất gây ra.

-

-

-

-

-

Trước động đất
Những vật dụng trong nhà nên được đứng vững chắc. Những thứ như
tivi, gương, máy tính, v.v. nên được dán chặt vào tường để khi lung lay
cũng không rớt xuống đất gây ra thương tích. Tranh, gương, v.v. nên
được đặt xa giường ngủ.
Đặt các đồ đạc nặng trong nhà như kệ sách, tủ chén, v.v. xa khỏi các
cửa và những nơi thường lui tới để khi chúng ngả vẫn không làm
chướng ngại lối ra. Chúng cũng nên được dính chặt vào tường.
Vật dụng nhà bếp nên được dính chặt vào mặt đất, tường, hay mặt bàn.
Những vật nặng hay dễ bể nên để gần mặt đất.
Tại một nơi dễ đến, dự trữ nước uống, đồ ăn đóng hộp, đè pin, pin,
rađiô, băng, thuốc men. Thay đổi chúng thường xuyên khi hết hạn.
Chọn một nơi tụ họp gia đình nếu mọi người không ở cùng nơi khi

động đất xảy ra.
Trong lúc động đất
Nếu động đất xảy ra trong lúc trong nhà, chui xuống một gầm bàn lớn
hay giường nếu nó có thể chịu được nhiều vật rớt. Như thế khi nhà sập
vẫn có khí thở. Nếu bàn chuyển động, đi theo bàn. Nếu không có gầm
bàn thì tìm góc phòng hay cửa mà đứng. Tránh cửa kính.
Tránh xa những vật có thể rơi xuống.
Che mặt và đầu để khỏi bị các mảnh vụn trúng.
Nếu điện cúp, dùng đèn pin. Đừng dùng nến hay diêm vì chúng có thể
gây hỏa hoạn.
Nếu động đất xảy ra trong lúc ở ngoài đường, tránh xa các tòa nhà và
dây điện. Tìm chỗ trống mà đứng.
10


Nhóm 15
-

-

-

V.

Nếu động đất xảy ra trong lúc lái xe, ngừng xe ở lề đường. Tránh các
cột điện, dây điện, và đường cầu.
Sau động đất
Kiểm tra thử có ai bị thương không. Đừng di chuyển người bị thương
trừ khi họ ở gần dây điện hay những nguy hiểm khác. Gọi cấp cứu nếu
có người tắt thở. Nếu bị nhà sập, gây tiếng động để kêu cứu.

Chuẩn bị cho các trận dư chấn, những trận động đất gây ra bởi trận
động đất vừa xảy ra. Tuy chúng nhỏ hơn, chúng vẫn có thể gây ra
thương tích.
Mở rađiô để xem có tin tức khẩn cấp không.
Động đất có thể làm đứt dây điện, gas, hay nước. Nếu ngửi thấy có mùi
hôi, mở cửa sổ và tắt đường gas, đừng tắt mở máy nào hết, và ra ngoài.
Thông báo các nhà chức trách.
Đến nơi đã chọn để tụ họp và tính đầy đủ

Hiện trạng động đất
1. Trên thế giới
a.

Hiện trạng động đất trên thế giới

Theo các kết quả thống kê tỉ mỉ của các nhà địa chấn, hằng năm
trên toàn địa cầu xảy ra hơn 1 triệu trận động đất với các độ mạnh khác
nhau, trong số đó có khoảng 100 ngàn trận động đất con người cảm
nhận được, 100 trận động đất gây tác hại và chỉ 1 trận động đất gây
thảm họa lớn, nghĩa là cứ nửa phút xảy ra một trận động đất. Và trung
bình mỗi năm trên thế giới lại có 10.000 người chết do động đất.
Trong thập niên 90 hoạt động của động đất bộc phát mạnh mẽ
trên toàn cầu. Riêng phía Đông châu Á đã có rất nhiều trận động đất
mạnh, trong đó có 10 trận động đất cường độ lớn hơn 7,5 độ richter.
Thập niên 2000 tuy mới bắt đầu nhưng cũng đầy sôi động với sự
bùng phát của hàng loạt các trận động đất mạnh gây thiệt hại lớn về
nhân mạng và tài sản.
11



Nhóm 15

Ở vùng Thái Bình Dương thường xuất hiện các động đất cường độ
mạnh, đặc biệt là trong những năm gần đây:
- Năm 2002: 10/19 động đất với cường độ 6 richter, tỷ lệ 52,6%.
- Năm 2003: 17/28 động đất với cường độ 6 richter, tỷ lệ 60%.
- Năm 2004: 27/35 động đất với cường độ 6 richter, tỷ lệ 75%.
- Năm 2005: Tính đến 10/8/2005,14/18 động đất với cường độ 6
richter, tỷ lệ 77%.
b. Các vụ động đất xảy ra trên thế giới
Những trận động đất lớn nhất trên thế giới thường xảy ra tại ranh
giới hội tụ của hai mảng, nơi có sự xiết ép mạnh mẽ. Dọc đới hút chìm ở
bờ đông và bờ tây Thái Bình Dương đã từng xảy ra nhiều trận động đất
lớn. Chẳng hạn động đất năm 1960 với chấn cấp 9,4-9,5 ở Chi Lê. Động
đất xảy ra năm 1964 ở Alaska có chấn cấp 9,1-9,2. Một trận động đất
khác cũng xảy ra ở Alaska năm 1957 có chấn cấp 9,0 – 9,1. Trong số 10
trận động đất lớn nhất xảy ra trong thời gian gần đây, 9 trận trước đều gắn
liền với hoạt động xiết ép của đới hút chìm ở rìa Thái Bình Dương. Trận
động đất tại Sumatra cũng không phải ngoại lệ, nó liên quan tới đới hoạt
động xiết ép của đới hút chìm Sunđa giữa mảng Ấn Độ và mảng Burma.
Sóng thần hầu như không được biết đến ở bờ biển Ấn Độ Dương do tần
suất xảy ra rất thấp. Trận sóng thần xảy ra năm 1883 do hoạt động núi lửa
Krakatoa gây ra sóng cao 1 m ở Sri Lanka không gây ra thiệt hại đáng kể.
Tuy nhiên, người dân Inđonesia đã gặp một số trận sóng thần trong quá
khứ. Chẳng hạn các trận sóng thần liên quan tới động đất xảy ra vào các
năm 1833, 1843 và 1861, dịch về phía đông nam so với trận động đất xảy
ra năm 2004.
2. Tại Việt Nam
a. Hiện trạng động đất tại Việt Nam
Thông tin về động đất trên lãnh thổ Việt Nam được thu thập từ các

trạm quan trắc địa chấn. Trên toàn quốc hiện có 26 trạm quan trắc địa
chấn, bao gồm vùng Tây Bắc 10 trạm, Hòa Bình 4 trạm, Hà Nội 9 trạm,
Huế 1 trạm và 2 trạm ở Đà Lạt và Nha Trang. Trạm quan trắc địa chấn
Nha Trang bắt đầu hoạt động từ năm 1957, trạm địa chấn Đà Lạt hoạt
động từ năm 1981. Ngoài ra còn có các trạm địa chấn tạm thời ở Trị An,
12


Nhóm 15

Yali, Thác Bà. Đầu mối trung tâm của các trạm địa chấn là Viện Vật lí địa
cầu. Ngoài ra thông tin về địa chấn ở Việt Nam còn được cung cấp từ
trung tâm địa chấn quốc tế (ISC – International Seismic Center, từ 1917 –
1995).
Qua phân tích đặc điểm kiến tạo khu vực và đặc điểm phát triển địa
chất trên lãnh thổ Việt Nam, các chuyên gia nghiên cứu động đất Việt
Nam đã cùng thống nhất xác định:
- Việt Nam được biết đến như một đất nước có mối hiểm họa động
đất cao. Trong lịch sử đã ghi nhận những trận động đất mạnh 6,7 - 6,8 độ
Richter tại khu vực Tây Bắc, trong khi ở ngoài khơi, trên thềm lục địa
đông nam đất nước cũng đã xuất hiện động đất mạnh 6,1 độ Richter.
Vùng phía Nam cũng không nằm ngoài vùng ảnh hưởng của động đất.
- Động đất trên lãnh thổ Việt Nam thuộc nhóm động đất kiến tạo,
phân bố dọc theo các đứt gãy khu vực và các đứt gãy phân nhánh, do vậy
tập trung thành các đới động đất phân bố dọc theo các đới phá hủy sâu.
Từ năm 114 - 2003 đã có 1654 trận động đất được ghi nhận (có M >=3
richter). Từ năm 1990 - 2005 có 2 trận động đất quy mô rung động cấp 8
(theo thang MSK – 64) là Điện Biên (1935) và Tuần Giáo (1983), 17 trận
động đất nhỏ, quy mô rung động cấp 7 và 115 trận động đất có quy mô
rung động cấp 6 -7 phân bố ở nhiều nơi. Trung bình ở Việt Nam có từ

hàng chục đến hàng trăm vụ động đất mỗi năm (1-2 độ richter), hơn 10
chấn động với cường độ xấp xỉ 3 độ richter.
- Một số đô thị lớn của Việt Nam hiện đang nằm trong khu vực
nhạy cảm cao trước những rung động địa chấn. Hà Nội hiện đang nằm
trong vùng được dự báo là phải chịu chấn động cấp 8. Ở TP.HCM, rủi ro
địa chấn lớn nhất có thể phát sinh từ sự lan truyền chấn động địa chấn từ
các trận động đất mạnh ở phạm vi khu vực và sự khuếch đại rung động
nền do tác động hiệu ứng nền địa phương gây ra dưới tải trọng của động
đất. Nền đất yếu tại khu vực TP.HCM có thể là một yếu tố góp phần
không nhỏ vào sự khuyết đại rung động địa chấn do các trận động đất gây
ra ở cả phạm vi khu vực và địa phương Theo Cao Đình Chiều, trên lãnh
13


Nhóm 15

thổ Việt Nam có 10 đới phát sinh động đất gắn liền với các đới đứt gãy
chính:
Đới Lai Châu – Điện Biên: phát triển dọc theo đứt gãy Lai Châu –
Điện Biên, phương á kinh tuyến, đây là đới hoạt động đất mạnh. Đã có
trên 10 trận động đất có M= 4,6 – 5,0 và 2 trận có M= 5,1 – 5,5.
Đới Cao Bằng – Lạng Sơn: phương TB – ĐN, đã ghi nhận được 3
trận động đất có M= 4,6 – 5,5.
Đới Đông Triều – Cẩm Phả: dạng cánh cung, chạy tứ Tuyên Quang
đến Bắc Giang – Đông Triều – Cẩm Phả. Đã ghi nhận được 9 trận động
đất có M= 4,6 – 5,0 và 3 trận động đất có M= 5,1 – 6,0.
Đới Sông Hồng: phương TB – ĐN, dài khoảng 500km, chủ yếu phát
triển dọc theo đứt gãy sông Hồng va đứt gãy sông Chảy.Động đất mạnh
nhất được ghi nhận trong đới này có M= 5,1 – 5,5.
Đới động đất Sơn La: phương TB – ĐN, phát triển dọc theo hệ

thống đứt gãy Sơn La và đứt gãy sông Đà. Đã ghi nhận được 30 động đất
có M> 4,5, đặc biệt là động đất Yên Định (1635) có M= 6,7 và động đất
Tuần Giáo (1983) có M= 6,7.
Đới động đất Sông Mã: phương TB – ĐN, kéo từ Điện Biên đến
Tĩnh Gia (Thanh Hóa). Đã ghi nhận được một trong những trận động đất
mạnh nhất Việt Nam, động đất Điện Biên – 1935 cường độ 6,35 độ
richter, tâm động đất cách thị xã Điện Biên 50 km về phía ĐN.
Các vụ động đất xảy ra ở Việt Nam
Trận động đất Điện Biên (1935): Trận động đất Điện Biên xảy ra
vào hồi 23 giờ 22 phút ngày 1/11/1935 tại vùng phía ĐN Tp Điện Biên,
chấn cấp Ms = 6,8 độ Richter. Động đất đã gây hư hại nặng về nhà cửa ở
Điện Biên và Sơn La. Đại bộ phận các tường nhà xây bị nứt nẻ. Tại vùng
chấn tâm, người ta quan sát thấy nứt đất rộng tới 20 cm và đoạn dài nhất
có thể đạt 50 m. Tại Lai Châu, chấn động xảy ra ở cấp 7, gây hư hại một ít
nhà cửa.
Trận động đất Lục Yên (1954): Theo kết quả điều tra trong nhân
dân thì trong hai năm liền, 1953 và 1954, tại vùng Lục Yên, Yên Bái đã
xảy ra hai trận động đất có cường độ chấn động cực đại tại vùng chấn tâm
b.

14


Nhóm 15

là cấp 7 (thang MSK). Vùng chấn động cấp 7 này kéo dài tới 30 km theo
hướng TB-ĐN, hẹp và trùng với đứt gãy Sông Hồng. Dựa trên cơ sở
đường đẳng chấn, các nhà địa chấn của Viện VLĐC đã xác định được
thông số của động đất như sau: chấn cấp là 5,4 độ Richter, độ sâu chấn
tiêu là 16 km. Hai trận động đất này không được ghi nhận bởi mạng lưới

trạm địa chấn quốc tế. Nó được phát hiện hoàn toàn bằng công tác điều tra
động đất trong nhân dân. Đây cũng là một trong số những trận động đất
mạnh nhất đã xảy ra dọc đứt gãy Sông Hồng trong phạm vi lãnh thổ nước
ta.
Trận động đất Bắc Giang (1962): Trận động đất Bắc Giang xảy ra
vào hồi 16 giờ 58’ (giờ Hà Nội), ngày 12/6/1961 tại Tân Yên, cách thị xã
Bắc Giang 11 km về phía ĐB. Cường độ chấn động ở vùng chấn tâm đạt
cấp 7, làm hư hại vừa một số nhà cấp 4. Vùng chấn động cấp 7 rất hẹp,
trong khi vùng chấn động cấp 6 và cấp nhỏ hơn lại rất rộng. Điều này có
thể lý giải là do hiệu ứng cục bộ của chấn tiêu nằm gần sát mặt đất. Độ
sâu chấn tiêu của động đất này được xác định là 28 km. Chấn cấp của
động đất theo các nhà địa chấn Việt Nam là 5,3 - 5,9 độ Richter, trong khi
theo tài liệu của Cục Địa chấn Trung Quốc và USGS thì chỉ nằm ở mức
4,3 - 5,0 độ Richter.
Các trận động đất Sông Cầu (Bình Định) (1970, 1972): Hai trận
động đất ở Sông Cầu năm 1970 và 1972 đều có cường độ chấn động cấp 7
tại vùng chấn tâm, được phát hiện bằng quan trắc động đất và cả bằng
điều tra động đất trong nhân dân. Trận thứ nhất xảy ra vào ngày
12/4/1970 và trận thứ hai vào ngày 24/5/1972, tại phía tây thị trấn Sông
Cầu. Hai chấn tâm này cách nhau 20 km theo phương kinh tuyến, vì vậy
khi điều tra khó tách biệt được đường đẳng chấn nên bị gộp lại thành một
đường đại diện chung. Độ sâu chấn tiêu 13 km và chấn cấp M = 5,3 độ
Richter là đặc trưng chung cho cả hai động đất này.
Trận động đất Tuần Giáo (1983): Trận động đất Tuần Giáo xảy ra
vào hồi 14 giờ 18 phút (giờ Hà Nội) ngày 24/6/1983 trong vùng núi cách
thị trấn Tuần Giáo về phía bắc khoảng 11 km. Chấn cấp của động đất
được xác định là Ms = 6,7±0,2 độ Richter. Cường độ chấn động trong
15



Nhóm 15

vùng cực động I0 = 8-9 (thang MSK). Động đất gây chấn động mạnh trên
những vùng rộng lớn ở Tây Bắc Bộ, Đông Bắc Bộ, Lào và Trung Quốc.
Chấn động cấp 8 và mạnh hơn xảy ra trên diện tích 1.500 km2, cấp 7 và
mạnh hơn là 13.000 km2. Sau chấn động chính là hàng loạt dư chấn đã
xảy ra. Dư chấn mạnh nhất xảy ra vào ngày 15/7/1983 ngay trong vùng
cực động và có chấn cấp bằng 5,4 độ Richter, độ sâu chấn tiêu là 8 km và
gây chấn động trên bề mặt tại vùng chấn tâm với I 0 = 7-8. Đá lở trong dư
chấn này cũng làm 2 người thiệt mạng.
Trận động đất Mường Luân (1996): Ngày 23/6/1996 tại xã Mường
Luân thuộc huyện Điện Biên Đông (tỉnh Điện Biên) đã xảy ra động đất
với chấn cấp xấp xỉ 5,0 độ Richter.
Trận động đất Thin Tóc hay còn gọi là trận động đất Điện Biên
(2001): Ngày 19/2/2001, hồi 22 giờ 52 phút (giờ Hà Nội) tại vùng biên
giới Việt-Lào, giáp ranh với Tp Điện Biên đã xảy ra động đất với chấn
cấp bằng 5,3 độ Richter. Mức độ phá hủy của động đất khá lớn, gây thiệt
hại nhiều về nhà ở của nhân dân tại Tp Điện Biên, ước tính hàng trăm tỷ
đồng Việt Nam (có thể là 200 tỷ, theo thông báo của Uỷ ban Nhân dân
tỉnh Lai Châu cũ).

16



×