Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

VỀ MỐI LIÊN HỆ GIỮA NHỮNG HÌNH TƯỢNG NỮ THẦN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (83.97 KB, 4 trang )

VỀ MỐI LIÊN HỆ GIỮA NHỮNG HÌNH
TƯỢNG NỮ THẦN
Hình tượng hay biểu tượng dùng thờ tự trong tôn giáo, tín ngưỡng của
người Việt là một vấn đề rất rộng cả về tính lý luận và thực tiễn. Liệu, từ diễn
biến hình thức tạo hình của một số tượng nữ thần ở Thanh Hóa, có thể tìm thấy
những liên hệ nào đó ở các hình tượng nữ thần qua các thời kỳ khác nhau?
Đó là hình tượng nữ thần thuộc phong cách văn hóa Đông Sơn muộn
(hình người chiến binh là phụ nữ trên cán dao găm tìm thấy ở núi Nưa đầu công
nguyên, mà dân gian cho là hình Bà Triệu), hình tượng các Phật Bà trong các
chùa thời Lý- Trần ở Thanh Hóa, tượng thờ các liệt nữ, nhân thần hiển linh như
Bà Phạm Trần Hoàng hậu, bà Ngô Thị Ngọc Dao (Quang Thục Thánh Mẫu),
TK XV ở Thọ Xuân, hai tượng Đức Bà ở Phủ Voi, TK XIX, năm tượng Hoàng
Hậu các vua Lê ở đền Lê - Bố Vệ, TK XIX, đặc biệt các tượng Thánh Mẫu ở
đền Sòng Sơn (Bỉm Sơn) và đền Mẫu Liễu ở Phố Cát, Thạch Thành.
Dễ dàng nhận thấy yếu tố nữ có tính trội hơn trong bất kỳ hình tượng, biểu
tượng tôn giáo tín ngưỡng nào trên đất Việt. Đức mẹ Maria trong Kitô giáo
được người Việt rất xem trọng. Tượng Phật Bà Quan Âm là một biểu tượng mà
người Việt sáng tạo không ngừng trong diễn trình văn hóa Phật giáo của dân
tộc.
Trong điêu khắc đình làng xứ Thanh ít thấy biểu tượng nam thần được
chạm khắc trên các cấu kiện kiến trúc, phần lớn là tượng các hộ pháp canh gác
bên ngoài. Tại một số đền, đình, chùa ở Thanh Hóa như: đình Phú Điền, Chùa
Hoa Long Tự, đền Trần Khát Chân, Bảng Môn Đình có nhiều hình tiên nữ
trong hoạt cảnh Rồng- Tiên được chạm khắc trên các câu đầu, xà ngang, diềm y
môn…
Vì sao số lượng hình tượng nữ thần ở Thanh Hóa không nhiều so với các
vùng châu thổ sông Hồng, nhưng lại mang tính điển hình ở mỗi thời kỳ?
Bức tượng người đàn bà sớm nhất của người Việt có lẽ là hình người trên
cán dao găm bằng đồng ở núi Nưa (dài 25cm), có niên đại đầu công nguyên,
khắc chạm hình người phụ nữ Việt, tóc vấn cao trên đỉnh, tai đeo khuyên tròn
to gần bằng chiều dài của tai, mặt trái xoan, mắt to, môi dày, ngực nở, áo, váy


gợi hoa văn hình sóng, cổ tay đeo nhiều vòng lớn, dây thắt lưng vấn nhiều lớp,
gợi về y phục người Mường ngày nay. Hình tượng ngưòi phụ nữ này dân gian
truyền tụng cho là hình tượng Bà Triệu.
Bức tượng có tư cách là ngươì phụ nữ bình dân đầu tiên bằng đá của
người Việt được linh hóa, là hai tượng ở lăng Ngô Thị Ngọc Dao niên đại TK
XV (có chiều cao 1,2 m). Gồm hai tượng đăng đối chầu hai bên thần đạo. Dáng


tượng mập mạp, y phục thụng, chùng phủ kín gót chân, khăn vấn đầu hình chóp
trụ, hai tay cung kính dấu kín trong khăn. Thái Hậu Ngô Thị Ngọc Dao là
người Động Bàng, huyện Yên Định, Thanh Hóa, là con gái tướng công họ Ngô,
mẹ bà là con gái quan thượng thư họ Phan. Tương truyền bà là người thông tuệ,
nết na, xinh đẹp được vua Lê Thái Tông yêu quý. Do công đức lớn của Hoàng
Thái hậu trong việc nuôi dạy Hoàng tử Tư Thành (sau là vua Lê Thánh Tông),
nhiều tham vấn mưu lược cho vua trong nội vụ và trong chiến trận bình Chiêm
mà dân chúng khắp trong nước xem Bà là Mẫu nghi thiên hạ. Nhiều làng trong
nước xem bà là Thần hoàng làng của họ, ví như ở xã Cẩm Xuyên (Hà Tĩnh) có
đền thờ bà gọi là đền Hoàng Vân hay đền Bà Chúa (cách biển Thiên Cầm
khoảng 6km)… Lăng mộ Thái Hậu Ngô Thị Ngọc Dao có thể là lăng mộ duy
nhất được phép không phải phân biệt với lăng vua theo điển lệ của nhà Lê,
đựơc bày đặt các linh thần làm tượng chầu trong đó có hai tượng hầu nữ.
Hai pho tượng nữ thần đã gây nhiều ấn tượng cho giới sử nghệ thuật học
là các tượng Đức Bà bằng đá, ngồi tọa thiền trong kiệu ở Phủ Voi, có niên đại ở
TK XVIII (tương truyền là hai bà cô Tướng công Hoàng Bùi Hoàn?). Hai
tượng có kỹ thuật diễn tả, đặc điểm tính cách khá giống nhau, phong cách tả
thực cao. Vấn đề đáng chú ý ở hai tượng này là tính phản ánh các khía cạnh văn
hóa tâm linh của Việt ở TK XVIII, XIX. Các tượng đều có dáng ngồi chân xếp
lên nhau kiểu tọa thiền của tượng Phật, nhưng các thế tay lại khác nhau, tượng
ở kiệu thờ bên tả có tay cầm túi têm trầu, tượng bên kiệu hữu tay phải cầm
quạt, tay trái lần tràng hạt. Y phục nhiều lớp, bên ngoài là bộ thụng phủ kín

thân, đường nét mềm mại, bó sát người, khăn chít đầu mỏ quạ, mặt tròn, phúc
hậu, tuổi chừng 40. Về tổng thể, tượng Đức Bà ở Phủ Voi gợi liên tưởng về
dáng của các bà lên đồng trong các đền Thánh Mẫu ngày nay.
Năm pho tượng gỗ sơn thon thếp vàng có niên đại TK XIX ở đền Lê là
những tượng thờ có phong cách tả thực cao, mỗi tượng với một vẻ cá tính thể
hiện rõ trên mỗi chân dung Hoàng hậu các vua nhà Lê đương thời.
Các tượng Thánh Mẫu ở đền Đức Bà Liễu Hạnh và đền Sòng Sơn không
xác định được niên đại, nhưng dòng tượng Thánh Mẫu hiện biết ở Thanh Hóa ít
còn bản nguyên gốc trước TK XIX.
Vấn đề là những bức tượng trên ngoài vấn đề nghệ thuật học thì có nói lên
điều gì khác nữa, đặc biệt trong biểu tượng về tín ngưỡng thờ Mẫu? Liệu có
một liên hệ gì từ những hình nữ thần xa xưa đến tượng Thánh Mẫu và giữa các
biểu tượng tín ngưỡng đó với con người đương đại?
Các biểu tượng tín ngưỡng, tôn giáo của người Việt đều gắn liền với tính
phồn thực và yếu tố trọng nữ. Trong Tứ bất tử Thánh Tản Viên, Phù Đổng
Thiên Vương, Chử Đồng Tử, Mẫu Liễu, duy nhất chỉ có Mẫu Liễu Hạnh là nữ,
nhưng biểu tượng lại rất đa dạng và phong phú cả về hình tượng và ý nghĩa tâm
linh.


Trong sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo, biểu tượng Thánh Mẫu Liễu Hạnh là
một sáng tạo độc đáo của ngươì Việt. Việc tôn thờ các thần thánh nữ không chỉ
phổ biến ở Việt Nam, nhưng vấn đề là ở tính biểu tượng và hình thức lý giải
vừa siêu hình vừa trần thế của Mẫu Liễu Hạnh ở người Việt.
Thanh Hóa là đất trọng các yếu tố Nho giáo, tự cho mình là trung tâm của
dòng tư tưởng chính thống suốt từ năm 1428 - 1802. Do vậy, ở các cơ sở thờ tự
tín ngưỡng, tôn giáo, yếu tố nữ khó có thể đa dạng và phong phú so với các
vùng văn hóa châu thổ sông Hồng. Thế nhưng, nếu không bàn về số lượng, thì
yếu tố mang tính khởi đầu và trọng tâm trong các tượng thờ nữ thần ở Thanh
Hóa có nhiều điều độc đáo. Ví như phong cách tạo hình tượng Mẫu Liễu Hạnh

ở đền Sòng Sơn không thể hiện tính nối tiếp các phong cách tượng phật, tượng
lăng mộ, hay tượng thờ nhân thần trước đó bao nhiêu ở Thanh Hóa, ngoại trừ
cách tạo khối chân dung nhưng được tô son cho gần với người thực. Các tượng
Mẫu thường được mặc y phục quý phái, rất chú trọng màu sắc và thần thái chân
dung. Các tượng trong tam tòa thường có vị trí và y phục như sau: Thánh Mẫu
Liễu Hạnh có vị thế cao nhất trong ban thờ sắc phục màu đỏ (có nơi màu vàng);
thấp hơn bên hữu là Mẫu đệ nhị, tức Mẫu Thoải, y phục màu trắng; tương ứng
về phía tả là Mẫu đệ tam, tức Mẫu Thượng Ngàn, y phục màu xanh.
Xuất xứ Thánh Mẫu có nhiều dị bản huyền thoại, nhưng việc sinh thác thì
gần như đồng nhất cho là ở Vụ Bản, Nam Hà. Nhưng người ta cũng cho rằng
bà có gốc gác ở Thanh Hóa vì căn cứ vào việc giáng trần lần thứ hai là ở Phố
Cát (Thạch Thành, Thanh Hóa) và lúc hiển thánh là ở đền Sòng Sơn (Bỉm Sơn,
Thanh Hóa).
Thực ra Mẫu Liễu Hạnh là biểu tượng của Đạo Mẫu ở Việt Nam, có
nguồn gốc từ lâu đời. Liễu Hạnh Công Chúa chỉ là hình tượng sáng tạo cuối
cùng kết tinh cao nhất của ngươì Việt vào TK XV về việc thờ thần nữ. Xét về
khởi thủy những sự tương đồng trong tín ngưỡng tâm linh thờ thần nữ đã có
tiền đề cho hình tượng Mẫu Liễu rồi. Chúng ta thử xét từ những hình tượng
nhân thần liệt nữ và linh thần huyền thoại trong lịch sử như Tiên Dung, Man
Nương, Mỵ Châu đến những Thánh nữ là nhân vật lịch sử bước vào thần thoại
như Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Ngọc Trần Thánh Mẫu (Phạm Hoàng hậu),
Quang Thục Thánh Mẫu… thì việc ra đời một hình tượng thần nữ có tính Mẫu
nghi thiên hạ như Thánh Mẫu Liễu Hạnh là một tất yếu.
Vấn đề biểu tượng Thánh Mẫu là một hình tượng dân gian đã ngầm định,
không chú trọng về hình khối điêu khắc, chuyển từ phong cách tạo khối truyền
thống trước đó sang cảm quan màu sắc và thần thái. Có thể xem tượng thờ Mẫu
là sản phẩm văn hóa có tính sáng tạo độc đáo của dân tộc cần được nghiên cứu
và bảo lưu, đặc biệt, khi các bức tượng này được thức dậy trong không gian
thiêng liêng với những nghi lễ của các giá đồng kéo dài gần như liên miên
trong những ngôi đền nhỏ bé. Trong đó, đáng quan tâm nhất là việc sáng tạo ra

các nghệ thuật liên ngành như: hát, múa, tạo hình và tâm thức tín ngưỡng dân


gian đa chiều, với hình ảnh bà đồng được thay đổi y phục qua các giá gần như
các y phục của Thánh Mẫu trên tam tòa.
Những pho tượng nữ thần mà cổ nhân để lại qua những thời đại khác
nhau, đều có sự liên kết nhất định trong một dòng chảy văn hóa tâm linh truyền
thống. Thực ra đó là những biểu đạt sáng tạo về chính mình của con người.



×