Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Điều Tra Đánh Giá Các Mô Hình Rừng Trồng Cung Cấp Gỗ Lớn Làm Cơ Sở Lựa Chọn Loài Cây Trồng Rừng Gỗ Lớn, Mọc Nhanh Ở Các Tỉnh Trung Du Miền Núi Phía Bắc (Tây Bắc Và Trung Tâm)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (668.21 KB, 95 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
---------

DƯƠNG THỊ DUNG

ĐIỀU TRA ĐÁNH GIÁ CÁC MÔ HÌNH RỪNG TRỒNG CUNG CẤP
GỖ LỚN LÀM CƠ SỞ LỰA CHỌN LOÀI CÂY TRỒNG RỪNG GỖ
LỚN, MỌC NHANH Ở CÁC TỈNH TRUNG DU MIỀN NÚI PHÍA BẮC
(TÂY BẮC VÀ TRUNG TÂM)

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP

Thái Nguyên, năm 2010


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
---------

DƯƠNG THỊ DUNG

ĐIỀU TRA ĐÁNH GIÁ CÁC MÔ HÌNH RỪNG TRỒNG CUNG CẤP
GỖ LỚN LÀM CƠ SỞ LỰA CHỌN LOÀI CÂY TRỒNG RỪNG GỖ
LỚN, MỌC NHANH Ở CÁC TỈNH TRUNG DU MIỀN NÚI PHÍA BẮC
(TÂY BẮC VÀ TRUNG TÂM)

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP

Chuyên ngành: Lâm học
Mã số: 60.62.60



Người hướng dẫn: PGS.TS. Trần Văn Con

Thái nguyên, năm 2010


LỜI CẢM ƠN
Luận văn này được hoàn thành tại trường Đại học Nông Lâm Thái
Nguyên theo chương trình đào tạo Cao học khóa 16, từ năm 2007 - 2010.
Trong quá trình học tập và thực hiện đề tài luận văn, tác giả đã nhận
được sự quan tâm, giúp đỡ của tập thể cán bộ Khoa Đào tạo sau đại học, các
thầy giáo, cô giáo thuộc khoa Lâm Nghiệp trường Đại học Thái Nguyên,
Trung tâm khuyến nông tỉnh Thái Nguyên,… nhân dịp này, tác giả xin chân
thành cảm ơn về sự giúp đỡ quý báu đó.
Trước hết, tác giả xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Trần Văn Con người hướng dẫn khoa học, đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tác giả hoàn
thành luận văn này.
Xin gửi lời cảm ơn tới UBND các tỉnh , UBND các huyện, các Công ty
lâm nghiệp, các hộ gia đình,… đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ tác giả trong quá
trình thu thập số liệu ngoại nghiệp phục vụ đề tài luận văn.
Xin gửi lời cảm ơn tới Trung tâm Khuyến Nông tỉnh Thái Nguyên đã tạo
mọi điều kiện về thời gian, công việc để tác giả có thể theo học và hoàn thành
luận văn này.
Cuối cùng, tác giả xin chân thành cảm ơn sự quan tâm, động viên, giúp
đỡ của người thân trong gia đình và các bạn bè, đồng nghiệp trong suốt thời
gian học tập và thực hiện đề tài luận văn.

Thái Nguyên, năm 2010
Tác giả

Dương Thị Dung



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
D1..3

Đường kính ngang ngực

D0

Đường kính gốc

FAO

Food and Agriculture Organization (Tổ chức lương
thực, nông nghiệp của Liên hiệp quốc)

Hvn

Chiều cao vút ngọn

KHCN

Khoa học công nghệ

KTLS

Kỹ thuật lâm sinh

LN


Lâm nghiệp

M/ha

Trữ lượng bình quân/ha

NN & PTNT

Nông nghiệp và phát triển nông thôn

OTC

Ô tiêu chuẩn

RT

Rừng trồng

TBKT

Tiến bộ kỹ thuật

TCN

Tiểu chuẩn ngành

V/cây

Thể tích bình quân cây đơn lẻ


VKHLNVN

Viện Khoa học lâm nghiệp Việt Nam

∆H

Tăng trưởng bình quân chung về chiều cao

∆D

Tăng trưởng bình quân chung về đường kính

Hbq

Chiều cao trung bình

Dbq

Đường kính trung bình

MĐHT

Mức độ hoàn thành



Mật độ

ĐDTĐ


Độ dày tầng đất

TPCG

Thành phần cơ giới


ĐẶT VẤN ĐỀ
Nghiên cứu trồng rừng gỗ lớn, mặc dù đã có nhiều kết quả được công
bố, nhiều kinh nghiệm và bài học đã được đúc kết, người trồng rừng vẫn tiếp
tục đối mặt với các vấn đề sau đây: (i) Bối rối khi lựa chọn tập đoàn cây
trồng, (ii) Không chắc chắn về sự thích nghi của một loài đối với lập địa cụ
thể, (iii) Có thể trồng gỗ lớn thuần loài không? Hay phải hỗn giao và tổ hợp
hỗn giao như thế nào là tốt nhất, và (iv) Kỹ thuật lâm sinh thích hợp để thiết
lập rừng trồng gỗ lớn như thế nào?
Trong những năm gần đây, rất nhiều loài cây bản địa được khuyến nghị
bên cạnh các loài cây nhập nội mọc nhanh. Ở vùng Tây Nguyên có các loài
như: Xoan ta, Dầu rái, Sao đen Giổi xanh, Dó trầm, … Ở vùng Đông nam Bộ
có các loài như: Xoan ta, Bông gòn, Dầu rái, Sao đen, Gáo, Gió trầm, Xoan
mộc. Ở vùng duyên hải miền trung có các loài như: Huỷnh, Lát hoa, Sồi
phảng, Dó trầm, Gạo và ở vùng Trung du miền núi phía bắc có các loài như:
Xoan ta, Gạo, Trám trắng, Sa mộc, Mỡ, Bồ đề, Tống dù … Tuy nhiên, danh
mục các loài cây này vẫn chưa thuyết phục được các nhà trồng rừng, có nhiều
loài cần phải loại bỏ ra khỏi danh sách và cũng có nhiều loài cần được bổ
sung. Do đó, các chương trình khảo nghiệm vẫn cần thiết được tiếp tục để có
các lựa chọn đúng đắn. Tuy nhiên, việc chọn loài cây trồng rừng không chỉ
dựa vào: tốc độ sinh trưởng, sự thuận lợi, chất lượng gỗ và các yêu cầu lập địa
không thôi; mà còn phải được lọc bỏ, loại trừ và khảo nghiệm. Tức là phải có
sự đánh giá nhiều loài, phân tích các bài học thất bại, rút ra các yếu tố đưa đến
thành công.

Các nhà khoa học đã tiến hành nhiều nghiên cứu nhừm mục đích phát
triển các giải pháp kỹ thuật và kinh tế-xã hội để thiết lập rừng trồng gỗ lớn
cho nguyên liệu đồ mộc. Trong các mô hình nghiên cứu đó, các loài cây đã
được khảo nghiệm cùng với các biện pháp kỹ thuật lâm sinh thích hợp. Mục

1


tiêu cụ thể của các hoạt động nghiên cứu là xác định được những loài và tổ
thành loài hỗn giao thích hợp nhất cho việc thiết lập rừng trồng gỗ lớn, mọc
nhanh cho các dạng lập địa ở vùng sinh thái. Các khảo nghiệm được đánh giá
dựa trên các tiêu chí cụ thể sau đây đối với mỗi loài và biện pháp thiết lập: (i)
tốc độ sinh trưởng (H, D, V); (ii) Hình thân (dáng cây); (iii) Khả năng tự tỉa
cành, (iv) Kiểu sinh trưởng (biểu hiện đỉnh sinh trưởng, phản ứng với ánh
sáng, với thổ nhưỡng); (v) sinh lực cây, tính chống chịu, (vi) Cấu trúc tán,
(vii) Phản ứng trong hỗn giao, (viii) Khả năng tái sinh, (ix) Tính chất cơ lý
hoá gỗ, (x) Tính chất công nghệ của gỗ.
Các mục tiêu và nội dung nghiên cứu đều được xuất phát từ các yêu
cầu thực tế sau đây:
- Ngành công nghiệp chế biến gỗ (đặc biệt là đồ mộc) Việt Nam đang
phát triển với tốc độ rất nhanh và đóng góp đáng kể vào kim ngạch xuất khẩu
khoảng 2,5 tỷ US$, nhưng đáng tiếc lại phải nhập 80 gỗ nguyên liệu.
- Khả năng cung cấp gỗ từ rừng tự nhiên ngày càng giảm, trong những
năm trước 2000, sản lượng gỗ khai thác từ rừng tự nhiên của Việt Nam trung
bình khoảng 2 triệu m3 gỗ tròn mỗi năm, giảm xuống 0,7 triệu m3 vào năm
2000 và 0,3 triệu vào năm 2003; hiện nay con số này chỉ còn khoảng 0,2 triệu
m3/năm.
- Việt Nam có trên 5 triệu ha rừng nghèo kiệt với sản lượng bình quân
chỉ 30-90 m3/ha, trong đó ít nhất có 2-3 triệu ha rừng sản xuất có khả năng cải
tạo thành rừng sản xuất thâm canh gỗ lớn. Cải tạo rừng tự nhiên nghèo kiệt

thành rừng sản xuất thâm canh gỗ lớn đang trở thành một chủ trương lớn vừa
đáp ứng được nguyện vọng của những người làm nghề rừng ở các điạ phương
vừa là giải pháp cần thiết để thực hiện chiến lược phát triển ngành vừa mới
được Thủ tướng chính phủ phê duyệt với mục tiêu đáp ứng nhu cầu hàng năm
20 triệu m3 gỗ tròn (trong đó gỗ lớn là 10 triệu m3).

2


- Diện tích rừng trồng cung cấp gỗ lớn còn rất hạn chế, các kỹ thuật
trồng rừng gỗ lớn còn rất tản mạn, chưa đồng bộ, liên hoàn cho mỗi
loài/nhóm loài hỗn giao thích hợp. Các chính sách và giải pháp kinh tế xã hội
vẫn còn nhiều bất cập, chưa tạo động lực thúc đẩy phát triển trồng rừng gỗ
lớn cung cấp nguyên liệu chế biến đồ mộc.
Rừng trồng cây mọc nhanh chu kỳ ngắn đang có hiện nay chủ yếu là
nhằm mục đích sản xuất gỗ nguyên liệu giấy, tuy nhiên nhu cầu về gỗ lớn
đang gia tăng cũng đã thúc đẩy các nhà lâm nghiệp quan tâm nghiên cứu
trồng rừng gỗ lớn mọc nhanh.
Gần đây, Nhà nước đã quan tâm đầu tư cho các đề tài nghiên cứu các
giải pháp kỹ thuật và kinh tế xã hội để phát triển trồng rừng gỗ lớn mọc
nhanh. Một trong số các đề tài đã và đang được thực hiện là đề tài cấp nhà
nước: “Nghiên cứu các giải pháp khoa học công nghệ và kinh tế-xã hội trồng
rừng gỗ lớn, mọc nhanh trên đất trống còn tính chất đất rừng và đất rừng
nghèo kiệt” do TS. Trần Văn Con, Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam chủ
trì. Rừng trồng có thể được thiết lập với nhiều mục đích khác nhau và chúng
có thành phần loài, cấu trúc cũng như cường độ kinh doanh khác nhau. Trong
đề tài nói trên, nhóm nghiên cứu của Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam
quan niệm: “rừng trồng “gỗ lớn mọc nhanh” là các rừng rồng “thương mại”
với cường độ kinh doanh cao, được thiết lập tương đối tập trung, chủ yếu là
thuần loài (cây bản địa hoặc nhập nội) mọc nhanh (có năng suất trên 15

m3/ha/năm) để sản xuất gỗ lớn (có đường kính trên 25 cm ) với luân kỳ kinh
doanh tối đa là 30 năm. Rừng trồng thương mại gỗ lớn mọc nhanh có thể
được thiết lập ở quy mô lớn do các công ty đầu tư hoặc một liên kết nhiều khu
rừng quy mô nhỏ đến vừa của các chủ rừng nhỏ”.
Vì các lý do này, tôi chọn đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc sỹ của
mình là: “Điều tra, đánh giá các mô hình rừng trồng cung cấp gỗ lớn làm cơ
sở lựa chọn loài cây trồng rừng gỗ lớn, mọc nhanh ở các tỉnh trung du miền
núi phía bắc (Tây bắc và trung tâm)”

3


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Ngoài nước
Trồng rừng là một nhiệm vụ quan trọng ở các nước nhiệt đới vì hai lý
do: để tái lập lại các hệ sinh thái rừng (HSTR) đã bị thoái hoá và để đáp ứng
các nhu cầu về gỗ ngày càng tăng trong khi gỗ rừng tự nhiên ngày càng cạn
kiệt. Tuy nhiên, không phải ai cũng nhận thức được sự cấp thiết này. Các số
liệu tổng kết của FAO đã cho thấy, ngày nay trên toàn thế giới có khoảng 135
triệu ha rừng trồng công nghiệp bằng các loài cây mọc nhanh đã được thiết
lập, khoảng 75% diện tích rừng trồng tập trung tại các vùng ôn đới, 25% diện
tích tập trung ở các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, khoảng 5% diện tích ở
vùng Châu Phi và gần 10% diện tích rừng trồng tập trung ở vùng Châu Mỹ –
La tinh, 20% diện tích tập trung ở các nước thuộc Liên bang Xô Viết (cũ), còn
lại khoảng 25% diện tích tập trung ở các nước vùng Châu á - Thái Bình
Dương và Châu Âu ( Gautier, 1991; Kanowski & Savill, 1992). Hàng năm có
khoảng từ 0,8 – 1, 2 triệu ha được trồng mới (FAO, 1993).
Tuy nhiên trồng rừng nhằm mục đích gì, thiết lập rừng trồng như thế
nào và rừng trồng sẽ phát triển ra sao thì lại rất ít được quan tâm. Nhiều diện

tích rừng trồng bị thất bại đã cho chúng ta thấy sự lãng phí lớn lao về sức
người, sức của. Chính vì vậy, trước khi quyết định đầu tư cho một dự án trồng
rừng cần phải trả lời hai câu hỏi sau đây (Lamprecht, 1986):
- Mục đích của trồng rừng là gì, cụ thể hơn các mục tiêu cần đạt được
của rừng trồng là gì?
- Tại sao diện tích dự kiến trồng rừng lại không có rừng?
Câu hỏi 1: Một dự án trồng rừng chỉ có thể được chấp nhận khi các lợi
ích trực tiếp hoặc gián tiếp mà nó mang lại ít nhất cũng có thể bù đắp được

4


các chi phí cho việc thiết lập và quản lý nó. ở vùng nhiệt đới, đặc biệt là ở
những nơi thưa dân cư điều này rất khó trở thành hiện thực.
Lơi ích trực tiếp có thể mong đợi từ một dự án trồng rừng khi có một
thị trường thực tế hoặc tiềm năng cho các sản phẩm mà nó sản xuất ra, và khi
điều kiện lập địa cho phép trồng được các loài mọc nhanh hoặc các loài gỗ
quí có giá trị.
Dự án trồng rừng có thể luận chứng được lợi ích gián tiếp của nó khi
rừng trồng có khả năng cung cấp các dịch vụ về môi trường (ví dụ bảo vệ
nguồn nước và đất) bằng cách tốt nhất và hiệu quả nhất. Nhiều diện tích có
thể đáp ứng được yêu cầu này. Tuy nhiên, do hạn chế về tài chính và lao
động cần thiết phải ưu tiên cho các vùng phòng hộ bức thiết trước, đó là các
vùng đông dân cư, các vùng xung yếu, các vùng có nhu cầu cao về nghỉ ngơi,
giải trí. Với ý nghĩa này, các rừng đáp ứng được nhiều chức năng (đa mục
đích) luôn luôn được ưu tiên.
Câu hỏi 2: Một diện tích không có rừng có thể có nguyên nhân tự nhiên
và nguyên nhân nhân tác. Rừng tự nhiên sẽ không xuất hiện ở các điều kiện
lập địa cực đoan, không thích hợp đối với tất cả các loài (bản địa), ví dụ vùng
khô hạn, trên núi cao, những nơi đất quá cằn cỗi, hoặc những nơi mà điều

kiện nước ngầm quá cực đoan. Trồng rừng ở các lập địa này chỉ có thể thành
công nếu loại bỏ được các yếu tố không thuận lợi cho quá trình sinh trưởng
của cây rừng, ví dụ phải có hệ thống tưới nước hoặc thoát nước, phải bón
phân hoặc cải tạo đất, hoặc có thể tìm được loài cây nhập nội thích nghi được
với các điều kiện lập địa cực đoan. Các biện pháp này thường rất tốn kém và
ít khi được sử dụng trong lâm nghiệp. Do đó ở những lập địa mà tự nhiên đã
không có rừng thì không nên chọn để trồng rừng.
Để một dự án trồng rừng thành công, trước hết phải loại bỏ được các
yếu tố cản trở sinh trưởng của cây trồng. Rất nhiều dự án trồng rừng đã bị thất
bại chỉ vì không chú ý đến luận điểm hiển nhiên này. Tuy nhiên, xác định

5


được các yếu tố quyết định để bảo đảm cho cây rừng phát triển dễ dàng hơn
nhiều so với loại trừ chúng. Các lợi ích hợp pháp của những người sử dụng
đất truyền thống phải được tính đến một cách hợp lý. Khi yêu cầu cơ bản này
đã thoả mãn, chúng ta có thể bắt đầu một kế hoạch trồng rừng. Các biện pháp
kỹ thuật quan trọng đầu tiên cho trồng rừng là: chọn loài cây thích hợp, sản
xuất cây giống, chuẩn bị đất, xác định các kỹ thuật trồng rừng và các biện
pháp nuôi dưỡng và quản lý rừng trồng.
Để phục vụ kinh doanh, sản xuất rừng hiệu quả cả về môi trường sinh
thái và kinh tế một cách bền vững. Điều này đòi hỏi phải có biện pháp điều
chế rừng một cách hợp lý. Vì vậy, việc nghiên cứu sinh trưởng, sản lượng
rừng nhằm đánh giá được năng suất rừng và hiệu quả kinh tế cũng như sinh
thái của việc trồng rừng là việc làm quan trọng nhất trong việc điều chế rừng.
Appanah, S. và Weiland, G (1993) đã xuất bản quyển sách “Planting
quality timber trees in Peninsular Malaysia-a review đã tổng quan những kinh
nghiêm trồng rừng gỗ lớn ở bán đảo Malaysia, tiến trình lịch sử và cuộc tranh
luận lớn về quản lý rừng tự nhiên và rừng trồng, bao gồm cả những sai lầm về

cơn sốt cây nhập nội mọc nhanh; các tác giả đã thảo luận về các nguyên tắc sử
dụng các loài cây tiềm năng cho trồng rừng; trong cuốn sách này, hơn 40 loài
cây đã được hướng dẫn kỹ thuật trồng rừng lấy gỗ. Mayhew, J.E. và Newton,
AQ.C. (1998) đã xuất bản quyển sách “The silviculture of Mahogany” trình
bày các tiến bộ kỹ thuật lâm sinh trong kinh doanh cây gỗ thương mại nỗi
tiếng được gọi là Mahogany (Swietenia macrophylla).
Những khó khăn trong việc trồng rừng gỗ lớn mọc nhanh, đặc biệt đối
với cây bản địa đã được các tác giả nêu lên từ rất sớm. Trong đó những khó
khăn chủ yếu thường là: việc lựa chọn loài cây thích hợp cho vùng lập địa,
vấn đề cung cấp và bảo quản hạt giống, vấn đề cây con đem trồng (đa số cây
trồng nhiệt đới không sống được bằng stump (trong khi đó một trong những

6


nguyên nhân thành công của việc trồng Teak chính là khả năng trồng stump
của loài này); kỹ thuật lâm sinh đặc biệt là kỹ thuật tạo môi trường và điều
khiển ánh sáng. Sau đây là một số thành tựu và trình độ khoa học kỹ thuật đã
đạt được trong một số lĩnh vực liên quan đến trồng rừng gỗ lớn.
1.1.1. Các nghiên cứu về mối quan hệ giữa sinh trưởng và năng suất
rừng với điều kiện lập địa
Khái niệm lập địa được hiểu là tổng thể các nhân tố và quá trình của
môi trường tạo điều kiện cho sự tồn tại và thường xuyên ảnh hưởng đến sinh
trưởng của cây rừng (Vater, 1925). Khoa học lập địa nghiên cứu môi trường
của cây rừng, các mối quan hệ giữa các nhân tố lập địa với nhau và tổng quan
hệ giữa lập địa với quần xã thực vật rừng. Tổng quan hệ này được
Sukatschow (1951) gọi là sinh địa quần lạc (Biogeozoenose) và Ellenberg
(1973) gọi là hệ sinh thái (ecosystem). Sinh trưởng của cây rừng một phần
phụ thuộc vào cơ cấu di truyền và phần khác phụ thuộc vào tác động của môi
trường- các nhân tố sinh thái (gọi chung là lập địa). Mỗi loài cây cần một sự

tác động tổng hợp nhất định của lập địa để thỏa mãn các điều kiện sống của
nó. Các nhân tố lập địa có thể tác động đến sinh trưởng của cây rừng với
nhiều mức độ khác nhau từ tối thiểu đến tối đa; ở cả hai cực tối đa và tối
thiểu, cây rừng đều sinh trưởng không tốt do nó bị tác động quá nhiều hoặc
quá ít. Trong điều kiện không có sự tác động của con người, thảm thực vật
rừng tự nhiên phản ánh chính xác nhất tác động tổng hợp của các lập địa tự
nhiên.
Mỗi lập địa cụ thể được xác định bởi rất nhiều nhân tố sinh thái; có thể
phân thành 3 nhóm các nhân tố cơ bản như hình 1.1. Việc đánh giá tiềm năng
các lập địa lâm nghiệp có thể thực hiện bằng nhiều phương pháp khác nhau
như đã đề cập ở chương tổng quan, sau đây sẽ tóm tắt và hệ thống lại những
luận điểm chính được áp dụng trong đề tài:

7


1. Phương pháp gián tiếp thông qua thảm thực vật:
Thảm thực vật tự nhiên là tấm gương phản ánh trung thực tiềm năng
sản xuất của các lập địa tự nhiên. Chúng ta hiểu tiềm năng sản xuất tự nhiên
là năng suất sinh khối bậc một trên một đơn vị diện tích lập địa cụ thể, trong
một đơn vị thời gian dưới sự tác động tối ưu của các nhân tố sinh thái. Khối
lượng sinh khối sản xuất trong một HSTR là chỉ tiêu tổng hợp để định lượng
năng suất lập địa.
Vị trí
Nhóm nhân tố vô sinh

Lập địa

Khí hậu
Thổ nhưỡng


Hệ sinh thái

tự nhiên
Sinhvật

Hệ sinh thái

Nhóm nhân tố sinh vật

nhân văn
Quần xã sinh vật
Con người

Nhóm nhân tố con người
Xã hội

Himh 1.1. Các nhóm nhân tố cơ bản của HSTR
Lượng tăng trưởng sinh khối (Z) hàng năm của một HSTR có thể tính
bằng công thức:
Z=A-R-V-S
Trong đó: A=tổng quang hợp (Bruttoasimilation); R=hô hấp
(Respiration); V=rơi rụng từ lá, cành, rễ; và S=khối lượng quả và hạt. Hai đại
lượng ảnh hưởng chính là quang hợp và hô hấp.
Các nghiên cứu trên qui mô lớn cho thấy, các HSTR nhiệt đới với các
điều kiện thuận lợi như mưa nhiều, nắng lắm và thời gian sinh trưởng dài,
nhìn chung là đạt được sản xuất sinh khối lớn hơn so với các kiểu rừng ở các
đai khí hậu khác; điều đó được minh hoa qua bảng 1.11 sau đây:

8



Bảng 1.1. Sản xuất sinh khối trên mặt đất trong các kiểu rừng khác
nhau của trái đất (Nguồn: Bruenig (1974) và Lieth (1974)
Năng
Sinh khối
Sinh khối
lượng
khô
khô
chứa trong
(tấn/ha/năm)
(tấn/ha/năm) sinh khối
theo
theo Lieth
khô
Bruenig
(kcal/g)

Kiểu rừng

Kiểu khí
hậu Theo
Walter

Rừng mưa ẩm nhiệt
đới

I,II


21

10-35

4,1

Rừng ẩm thường xanh
nhiệt đới

II

17

6-35

4,2

Rừng khô nhiệt đới

IV

3

2,5-15

4,9

Rừng hỗn giao ôn đới,
ấm


V

13,8

6-25

4,8

Rừng hỗn giao ôn đới
lạnh

VI

9,5

-

4,7

VIII

3,7

2-15

4,8

6,0

2-20


?

-

1-40

2,7

Rừng lá kim hàn đới
Đồng cỏ
Đất canh tác khác

Tuy nhiên, các nghiên cứu của Mueller và Nielsen (1965) lại cho thấy
sự tiêu thụ do hô hấp trong rừng nhiệt đới chiếm khoảng 75%, trong khi đó ở
rừng ôn đới chỉ chiếm 45% tổng quang hợp. Chỉ có khoảng 16% sinh khối
của rừng mưa nhiệt đới là có giá trị sử dụng. Thomasius (1979) đã ước lượng
năng suất sản xuất bậc một của một số kiểu rừng ở Việt Nam có so sánh với
các dạng thảm rừng được hình thành sau khi rừng nguyên sinh bị tác động
như bảng sau.

9


Bảng 1.2. So sánh sản xuất bậc một với các thảm thực vật thứ sinh hình
thành sau tác động ở Việt Nam (Nguồn: Thomasius, 1979):
Ước lượng sản xuất bậc một
của thảm thực vật tự nhiên
(tấn/ha/năm)


Ước lượng sản xuất bậc một của thảm thực
vật thứ sinh hình thành sau tác động
(tấn/ha/năm)
Đồng cỏ

Thảm cây
bụi
(Savane)

Cây bụi
kín

Rừng thứ
sinh

Rừng lá rộng
thường xanh

20-30

5-6

5-8

3-15

15-25

Rừng lá rộng nửa
rụng lá


20-25

5-6

4-7

6-12

10-20

Rừng mưa lá rộng

10-20

4-5

4-5

5-10

-

Rừng lá kim

5-10

3-4

3-5


4-8

-

Rừng cây bụi

3-6

3-4

3-5

-

-

Đồng cỏ

2-5

2-5

-

-

-

Như vậy, tiềm năng sản xuất sinh khối ở các lập địa khác nhau có thể

rất khác nhau, nó có giá trị cao nhất ở kiểu rừng mưa nhiệt đới và giảm dần
qua rừng kín thường xanh và nửa rụng lá đến các kiểu rừng thưa, cây bụi,…
với khí hậu nửa hoặc hoàn toàn khô hạn, Để xác định tiềm năng lập địa, người
ta thường sử dụng các bảng phân loại rừng. Đối với mục đích sử dụng của con
người, rừng tự nhiên nguyên sinh và rừng thứ sinh thường ít hiệu quả. Vì vậy
nó đã dần dần được thay thế bằng rừng kinh tế, qua trình này đã xẩy ra hàng
trăm năm nay ở các nước ôn đới và gần trăm năm nay ở một số nước nhiệt
đới. Một trong những biện pháp đã được áp dụng rộng rải để chuyển hóa rừng
tự nhiên thành rừng kinh tế ở các nước nhiệt đới là hệ canh tác nông lâm kết
hợp dựa trên hệ canh tác truyền thống của văn hóa du canh (Hesmer,
1966,1970). Vài thập niên gần đây, việc phát triển rừng trồng cây mọc nhanh
cũng được gia tăng ở các nước nhiệt đới, trong đó có Việt Nam.

10


2. Đánh giá lập địa trực tiếp qua các nhân tố sinh thái
Việc định lượng tác động trực tiếp của các nhóm nhân tố lập địa như
khí hậu, thổ nhưỡng cũng như của mỗi nhân tố sinh thái riêng đến sinh trưởng
cây rừng là rất khó thực hiện. Trong điều tra, đánh giá lập địa, người ta
thường dùng phương phaqps phân cấp lập địa, hay cấp năng suất để định
lượng năng suất lập địa; trong đó người ta thường chọn các đại lượng sinh
trưởng làm chỉ tiêu tổng hợp để đánh giá lập địa. Về mặt phương pháp luận,
chúng ta có thể biểu diễn phương trình sinh trưởng (hay tăng trưởng) của cây
rừng bằng một hàm toán học, dưới dạng:
Y = f(x1,x2,…, xi,…,xn)
Trong đó: Y là đại lượng sinh trưởng (gọi là biến phụ thuộc) và xi là
các nhân tố lập địa (gọi là biến độc lập).
Phương trình này có thể có hai dạng: (1) dạng tuyến tính rất đơn giản
về thuật toán nhưng về mặt bản chất sinh thái thì chỉ đúng trong một giới hạn

quan sát nhất định. (2) dạng phi tuyến tính tương đối khó về thuật toán nhưng
lại có thể biểu diễn chính xác hơn các tương quan sinh thái. Về cơ bản, đường
sinh trưởng của cây rừng xét trong tương quan với một nhân tố sinh thái nhất
định y=f(x) thường được xác định bởi 3 điểm đặc trưng cho nhu cầu của từng
loài cây đối với nhân tố sinh thái đó theo dạng như ở hình 1.2. sau đây:
Y

Ymax

Xmin

Xopt

Xmax

X

Hình 1.2. Sự phụ thuộc sinh trưởng cây vào nhân tố sinh thái

11


Điểm tối thiểu Xmin giới hạn dưới của nhu cầu, ở đó cây chỉ có thể tồn
tại mà không phát triển được (tức là Y=0); Điểm tối đa Xmax giới hạn trên của
nhu cầu ở đây cây còn có thể tồn tại nhưng cũng không sinh trưởng được
(Y=0), vượt qua giới hạn này là cây bị chết. Trong khoảng Xmin và Xmax cây
tồn tại và sinh trưởng (Y>0) và có một điểm mà tại đó sinh trưởng đạt giá trị
tối đa, điểm đó gọi là điểm tối ưu Xopt của nhân tố x đối với cây cụ thể. Để
xác định được mô hình toán mô phỏng mối quan hệ này, người ta phải xác
định được dãy số liệu quan sát bằng điều tra thực nghiệm hoặc tiến hành các

thí nghiệm. Mối quan hệ tổng quát này được gọi là “Qui luật tác động của các
nhân tố sinh thái”.
3. Đánh giá lập địa bằng phương pháp phối hợp:
Nhằm phát huy thế mạnh và hạn chế các nhược điểm của hai phương
pháp vừa trình bày trên, trong khoa học đánh giá lập địa hiện đại, người ta
thường phối hợp hai phương pháp với nhau, để đánh giá chính xác hơn tiềm
năng của từng lập địa.
Theo tổng hợp các kết quả nghiên cứu ở các nước vùng nhiệt đới, tổ
chức Nông lương thế giới (FAO, 2004) đã chỉ ra rằng khả năng sinh trưởng
của rừng trồng, đặc biệt là rừng trồng nguyên liệu công nghiệp phụ thuộc rất
rõ vào 4 nhân tố chủ yếu liên quan tới điều kiện lập địa là: Khí hậu, địa hình,
loại đất và hiện trạng thực bì, điển hình là các công trình nghiên cứu của
Laurie (1974), Julian Evans (1974, 1992) [32, 33], Pandey (1983) [37],
Golcalves J.L.M và cộng sự (2004) [36].
FAO (1979), đã xuất bản cẩm nang hướng dẫn “Đánh giá đất đai cho
nông nghiệp nhờ nước trời” và “Đánh giá đất đai cho Lâm Nghiệp” năm
1984 trên cơ sở một số nội dung:
- Đánh giá tiềm năng đất đai (Land capability): Xác định mức độ thích
hợp cao hay thấp của các kiểu sử dụng đất cho một đơn vị đất đai và tổng hợp
cho toàn khu vực dựa trên so sánh yêu cầu kiểu sử dụng đất với đặc điểm của

12


các đơn vị đất đai. Phương pháp đánh giá này đã và đang được sử dụng rất
nhiều trên thế giới trong các nghiên cứu và đánh giá đất đai. Ngoài ra, còn có
một số phương pháp đánh giá khác nhau được nhiều nơi áp dụng. Việc nghiên
cứu này có rất nhiều quan điểm và phương pháp khác nhau, do vậy tạm chia
ra một số phương pháp sau:
* Các phương pháp phân chia và đánh giá rừng và đất trồng rừng:

Theo Jones (1960) có ba trường phái phân chia, đánh giá rừng và đất
rừng (Evaluation of site):
- Trường phái phân chia cấp đất (Site index approaches):
Theo Cajender (1962), việc phân loại đánh giá rừng bằng chỉ tiêu cấp
đất (Site Index) do Huber thực hiện lần đầu tiên ở nước Đức năm 1824. Đến
đầu thế kỷ 20, phương pháp này được phổ biến rộng rãi ở Châu Âu, lan
truyền sang Bắc Mỹ. Phương pháp được đánh giá đơn giản và hiệu quả.
Từ khi Eichhorn (1904) theo Assman [30] phát hiện ra quy luật “Trữ
lượng rừng là một hàm số của chiều cao bình quân lâm phần” thì phương
pháp phân chia cấp đất được củng cố cơ sở lý luận bền vững chắc chắn. Nội
dung chính của phương pháp này là xây dựng một hàm sinh trưởng theo tuổi
của một nhân tố điều tra lựa chọn nào đó, thông thường là chiều cao bình
quân, chiều cao tầng trội (dominant height),… Nhân tố lựa chọn này phải là
một chỉ tiêu có quan hệ chặt chẽ với trữ lượng rừng (site). Trên cơ sở đường
cong trung bình này, chia thành một số cấp khác nhau theo thứ tự từ tốt đến
xấu gọi là các cấp đất. Theo các phương trình của từng cấp đất cho ngay một
khái niệm trực quan về sinh trưởng chiều cao, từ đó suy ra trữ lượng. Theo
Erteld 1966 [34], Prodan (1951) và Mitscherlich đã sử dụng chỉ tiêu tăng
trưởng trung bình về đường kính để chia cấp đất cho rừng chặt chọn tại Đức.
- Trường phái phân chia thực bì (Vegetal approaches):
Theo Manstroem (1949), việc phân loại thực bì rừng đã áp dụng từ cuối
thế kỷ 19 cho vùng Bắc Âu (theo báo Post 1862 và Norlin 1861). Từ đầu thế

13


kỷ 20, với các công trình nghiên cứu của Cajander (1909, 1926), trường phái
này phát triển mạnh ở Phần Lan. Sau này được phát triển rộng rãi sang Bắc
Mỹ và Lục địa châu Âu. Một số tác giả như Krajian (1960, 1963, 1964, 1965)
cho rằng phân chia thực bì chính là phân chia hệ sinh thái. Vì thực bì là nhân

tố chỉ thị cho hệ sinh thái và loại đất.
Phân loại rừng thực chất là phân loại thực bì và là một vấn đề lớn, nên
đã phát triển như một nội dung khoa học riêng biệt với lý thuyết khác nhau
như: học thuyết kiểu rừng của Morodov (1912), lý thuyết về hệ sinh thái
(Ecosytem) của Tansley (1935), học thuyết sinh địa quần lạc thực vật
(Biogeocenose) của Sukasov (1944), học thuyết lâm hình của Sukasov,…
Trường phái sinh học Thuỵ Điển đã phân hạng thực bì miền Bắc nước
này theo hai trrục độ phì (4 cấp), độ ẩm (5 cấp) và định nghĩa 16 hạng thực bì
theo các tổ hợp độ phì - độ ẩm khác nhau (công trình của Armberg 1953).
Một số nhà khoa học Mỹ như: Behusis (1962), Wering và Major (1964),…
(theo Jones 1969) nghiên cứu quan hệ giữa chỉ số cấp đất của lâm phần (ứng
với một loại rừng nào đó) với các chỉ số môi trường như: độ phì, độ ẩm,…
Bảng phân hạng kiểu lập địa của Progrepnhick theo độ phì (4 cấp) độ ẩm (6
cấp) cũng là một bảng phân hạng thực bì. Đặc biệt trong thực hành để đánh
giá độ phì và độ ẩm, đã sử dụng đến yếu tố thực vật chỉ thị: cây rừng chỉ thị
độ phì, thảm tươi chỉ thị độ ẩm.
- Trường phái phân chia môi trường (Environmental approaches):
Các nhân tố môi trường (nhân tố sinh thái) được sử dụng để phân chia,
đánh giá sức sản xuất hay đặc trưng hoàn cảnh rừng. Có hai hướng nghiên
cứu môi trường: nghiên cứu nhân tố (Factorial approaches) và nghiên cứu tiểu
hoàn cảnh (Holistic approaches).
Nghiên cứu nhân tố: Lần đầu tiên do Haig áp dụng để nghiên cứu quan
hệ giữa chỉ số cấp đất với chỉ số hàm lượng limonset (silt plus clay) trong đất
trồng rừng Thông đỏ (Red pine) trên nền đất rừng mầu nâu ở Conecticut (theo

14


Jones 1969 [35]. Ngày nay trường phái này được phát triển với nhiều nghiên
cứu đa dạng khác, đặc biệt với các chỉ số lý hoá tính của đất với công cụ toán

học là phép phân tích hồi quy nhiều biến số.
Máy tính điện tử và kỹ thuật tính toán trên máy tính đã đóng góp rất
nhiều cho sự phát triển của trường phái nghiên cứu này. Những phương trình
tương quan hồi quy xác định được chính là những định lượng đáng tin cậy về
mặt quan hệ giữa chúng.
Nghiên cứu toàn cảnh (Holistic approaches): Môi trường được phân
chia dưới một cách nhìn tổng hợp. Có 4 trường phái nhỏ theo hướng này:
+ Phân loại đất: phân chia đất thành những loại đất hay hạng đất.
+ Phân hạng lập địa theo kiểu Đức (German site mapping): phương
pháp phân hạng này đã phát triển một hệ thống phân chia bao gồm các vùng
sinh trưởng (growth distrist) đến dạng lập địa cấp I, cấp II, cấp III…
+ Phân loại địa văn theo Hills (Hills physiographic site type): Nhà lâm hình
Canada Hills đề xuất hệ thống phân loại kiểu lập địa tổng hợp (total site),
được đinh nghĩa như phức hợp của kiểu lập địa và kiểu rừng, bao gồm các
yếu tố khí hậu thuỷ văn, địa chất, địa hình, quá trình hình thành đất, nước
ngầm, quần thể động thực vật và tác động của con người,… (Hills 1955, 1961
- theo Jones 1969).
+ Phân hạng môi trường: Trong phân hạng môi trường, một hay nhiều
nhân tố môi trường được định nghĩa, phân cấp trở thành gradient phân hạng
(theo những mục tiêu lựa chọn).
Peler.R.Stevens (1986) đã viết “Sổ tay để phân hạng lập địa và đánh
giá mức độ thích hợp của lập địa áp dụng ở Bangladet” trong đó áp dụng lập
địa để đề xuất cây trồng và đánh giá độ thích hợp của cây trồng với các dạng
lập địa thông qua chỉ tiêu năng suất,… Trung tâm lâm nghiệp Quốc tế
(CIFOR) đã tiến hành nghiên cứu về quản lý lập địa và sản lượng rừng cho
rừng trồng ở các nước nhiệt đới trên các đối tượng là: Bạch đàn, Thông, Keo

15



trồng thuần loài trên các lập địa ở các nước Brazil, Công gô, Nam Phi, Trung
Quốc, Indonesia,… và nay bắt đầu nghiên cứu ở Việt Nam. Kết quả nghiên
cứu cho thấy các biện pháp xử lý lập địa khác nhau và các loài cây trồng khác
nhau đã có ảnh hưởng rất không giống nhau đến độ phì, cân bằng nước, sự
phân huỷ thảm mục và chu trình dinh dưỡng khoáng.
Khi nghiên cứu về sản lượng rừng trồng Bạch đàn ở Brazil, Golcaves
J.L.M et al (2004) [36] cho rằng năng suất trồng là sự “kết hôn” thích hợp
giữa kiểu gen với điều kiện lập địa và kỹ thuật canh tác. Ngoài ra, tác giả còn
chỉ ra giới hạn của sản lượng rừng có liên quan tới các yếu tố môi trường theo
thứ tự mức độ quan trọng sau: nước > dinh dưỡng > độ sau tầng đất.
Những nghiên cứu về quan hệ sinh trưởng hay đồng hoá cây rừng với
hoàn cảnh sinh thái, đã được một số tác giả nghiên cứu theo Assman 1961
[30]. Bildmenn (1943), Walter (1951), Peleter (1953, 1955), Hoch (1957)…
nghiên cứu ảnh hưởng của chế độ nước trong đất đến đồng hoá cây trồng.
Mitscherlich (1910) phát hiện quy luật phụ thuộc vật lý (law of
phisiological dependence): “Sản lượng không tăng theo tỉ lệ đơn giản với sự
tăng lên của nhân tố môi trường”. Baule (1971, 1924) đã toán học hoá định
luật này. Quy luật này gọi là quy luật hiệu quả.
Qua các nghiên cứu trên cho thấy việc xác định các điều kiện lập địa
phù hợp với cây trồng có ý nghĩa rất quan trọng. Điều kiện lập địa có ý nghĩa
quyết định tới năng suất, sản lượng rừng trồng. Vì vậy, việc lựa chọn dạng lập
địa phù hợp với cây trồng giúp cây trồng sinh trưởng và phát triển tốt nhằm
nâng cao năng suất, sản lượng rừng.
1.1.2. Các nghiên cứu về ảnh hưởng của các biện pháp kỹ thuật lâm
sinh đến sinh trưởng, năng suất rừng trồng
Kỹ thuật lâm sinh tạo lập hệ thống các loài cây hỗ trợ ban đầu cho các
loài cây trồng chính trong trồng rừng hỗn loài là rất cần thiết. Thiết lập các

16



biện pháp kỹ thuật này rất nhiều tác giả nghiên cứu như: Matthew (1995) đã
nghiên cứu tạo lập mô hình trồng rừng hỗn loài giữa cây trồng chính với cây
họ đậu. Kết quả nghiên cứu cho thấy cây họ đậu tác dụng rất tốt cho cây trồng
chính [23]. Nghiên cứu về các biện pháp kỹ thuật trồng, làm đất, phối trí cây
trồng rừng khác nhau cũng cho sinh trưởng và năng suất trồng rừng khác
nhau. Nghiên cứu về mật độ Evans.J (1992) [33], đã bố trí 4 công thức mật độ
trồng rừng khác nhau (2985, 1680, 1075, 750cây/ha) cho Bạch đàn
(E.deglupta) ở Papua New Guinea sau 5 năm trồng cho thấy đường kính bình
quân của các công thức thí nghiệm tăng theo chiều giảm của mật độ, nhưng
tổng trữ lượng cây gỗ đứng của rừng vẫn nhỏ hơn các công thức mật độ cao.
Khi nghiên cứu về Thông (P. caribeae) ở Qeensland (Australia) thí nghiệm
với 5 công thức mật độ khác nhau (2200, 1680, 1330, 750 cây/ha), sau 9 năm
trồng cũng đã thu được kết quả tương tự.
Nghiên cứu về biện pháp kỹ thuật bón phân cho cây trồng nhằm nâng
cao năng suất rừng trồng. Tác giả Mello (1976) ở Brazil cho thấy khi bón
phân NPK Bạch đàn sinh trưởng nhanh hơn 50% khi không bón phân. Nghiên
cứu về công thức bón phân cho Bạch đàn (E. grandis) theo công thức 150g
NPK /gốc theo tỷ lệ N:P:K = 3:2:1 ở Nam Phi năm 1985 Schonau kết luận có
thể nâng cao chiều cao trung bình của rừng trồng lên 2 lần sau năm thứ nhất.
Bón phân Phosphate cho Thông caribe ở Cu Ba, Herrero và cộng sự (1988)
thu được kết quả là nâng cao sản lượng rừng sau 13 năm trồng từ 56 m3/ha lên
69 m3/ha,… Những kết quả nghiên cứu trên cho thấy biện pháp bón phân, thời
gian bón phân, loại phân bón ảnh hưởng rất rõ rệt đến năng suất trồng rừng.
Biện pháp kỹ thuật tỉa cành, tỉa thưa cho lâm phần rừng cũng ảnh
hưởng rất lớn đến năng suất sinh khối cũng như kinh tế cho rừng trồng. Bên
cạnh đó việc phòng trừ sâu bệnh hại cho cây rừng cũng phát huy rất hiệu quả
nhằm nâng cao năng suất rừng trồng. Nghiên cứu về bệnh phấn hồng trên cây
Bạch đàn ở Ấn Độ của Seth, K.S (1978) [28] hay công trình nghiên cứu bệnh


17


mất màu và rỗng ruột ở cây Keo tai tượng (A. mangium) của Lee S.S
(1988),… đã giúp cây sinh trưởng tốt hơn và năng suất cây rừng tăng lên.
Bên cạnh rừng trồng thuần loài, các nghiên cứu trồng rừng hỗn loài
cũng đã được chú ý nghiên cứu. Trong việc thiết lập rừng hỗn giao, nguyên
tắc cảm nhiễm tương hỗ, hay là nhóm sinh thái giữa các loài đặc biệt được các
nhà nghiên cứu chú ý. Kolesnitsenko (1977) khi nghiên cứu về vấn đề này đã
đề nghị mật độ cây trồng chính trong mô hình rừng hỗn loài không nên ít hơn
50%, các loài cây hoạt hoá không quá 30-40% và các loài cây ức chế không ít
hơn 10-20% trong tổng các loài cây của mô hình. Nghiên cứu về đặc điểm
sinh thái của các loài cũng là vấn đến rất quan trọng khi xây dựng các mô
hình trồng rừng gỗ lớn. Các kết quả nghiên cứu đã chia các loài cây theo nhu
cầu ánh sáng của chúng. Kiến thức này rất quan trọng trong việc xác định các
giải pháp lâm sinh để điều chỉnh môi trường trồng rừng thích hợp cho từng
nhóm loài.
Chuẩn bị đất trồng rừng là khâu công việc tốn nhiều công sức nhưng có
ảnh hưởng lớn đến năng suất và chất lượng rừng trồng. ở các nước tiên tiến
như Mỹ, Liên Xô cũ, Đức, Canada, Brazil,… công việc làm đất trồng rừng
chủ yếu được thực hiện bằng các loại máy có công suất lớn và hiện đại như
Fiat, Komatsu, Bofort, TZ-171, T-130 với thiết bị chuyên dụng như ben ủi,
răng rà rễ, cày ngầm, cày rạch. Những năm gần đây, ở Brazil, Công Gô,
Inđônêxia đã sử dụng cày ngầm với máy kéo xích Komatsu công suất trên
200 ml để làm đất trồng rừng bạch đàn với độ sâu cày 80 - 90cm, cho năng
suất rừng đạt trên 50 m3/ha/năm.
Tỉa thưa là một trong những biện pháp kỹ thuật quan trọng có tác động
rõ rệt đến cấu trúc, sinh trưởng, phát triển, sản lượng, chất lượng và cơ cấu
sản phẩm rừng trồng. Tổng kết 9 mô hình tỉa thưa với 4 loài cây, E. Assmann
(1961) chỉ ra rằng tỉa thưa không thể làm tăng tổng sản lượng gỗ một cách

đáng kể, thậm chí tỉa với cường độ lớn còn làm giảm tổng sản lượng gỗ lâm

18


phần. Tuy nhiên, với lâm phần Vân sam (Picea abies) tỉa thưa mạnh sẽ làm
cho tăng trưởng thể tích của cây cá thể tăng lên 15-20% so với lâm phần
không tỉa. So sánh sinh trưởng của đường kính cây thuộc lâm phần Tếch 26
tuổi được tỉa thưa với cường độ lớn ở tuổi 14, Iyppu và Chandrasekharan
(1961) nhận thấy ở lâm phần tỉa thưa mạnh đường kính cây là 39,9cm trong
khi ở lâm phần không tỉa thưa chỉ đạt 29,5cm.
Tỉa thưa có thể làm tăng chất lượng gỗ của một số loài cây lá rộng như
Quercus sp, Esche,… nhưng lại có tác động ngược lại đối với loài Pinus
silvetris, Larix sp,… Tỉa thưa có tác dụng thúc đẩy tăng trưởng đường kính
cây, làm lượng gỗ giác tăng lên, lượng gỗ lõi giảm đi nên chất lượng gỗ xẻ giảm.
Ảnh hưởng của mật độ đến sự phát triển của tán lá khá rõ nét. Nghiên
cứu rừng trồng Pinus patula, Julians Evan (1982) cho thấy ở rừng 19 tuổi
chưa qua tỉa thưa chiều dài tán lá bằng 29% tổng chiều dài thân, trong khi
cũng ở tuổi này rừng đã tỉa thưa một lần vào tuổi 9, chiều dài tán lá lên tới
40% chiều dài thân cây. Đối với diện tích tán, Hunt (1969) đã so sánh ảnh
hưởng của tỉa thưa đến lâm phần Pinus strobus 22 tuổi và kết luận sau 5 năm
tính từ thời điểm tỉa thưa, tổng trọng lượng lá cây của lâm phần qua tỉa thưa
gấp 3 lần trọng lượng lá cây của lâm phần chưa tỉa thưa.
1.2. Trong nước
Cùng với việc chọn lập địa thích hợp, chọn loài cây trồng là một vấn đề
cực kỳ quan trọng có tính chất quyết định đến năng suất, chất lượng và độ bền
vững của rừng trồng trong tương lai. Do đó, nghiên cứu, lựa chọn tập đoàn và
cơ cấu cây trồng phù hợp cho một vùng lâm nghiệp và cho từng lập địa cụ thể
đã, đang và sẽ là đề tài luôn được quan tâm trong lỉnh vực xây dựng rừng.
Chọn loài cây trồng tức là nghiên cứu mối quan hệ giữa đặc tính sinh học của

cây với các yếu tố sinh thái môi trường của lập địa trên quan điểm kinh tế, xã

19


hội và môi trường với mục đích tạo ra những rừng trồng đáp ứng được các
yêu cầu khác nhau của xã hội.
Các khảo nghiệm thăm dò về trồng cây lá rộng bản địa ở Việt Nam đã
được người Pháp tiến hành từ những năm đầu của thế kỹ 20 ở miền nam Việt
Nam. Các trạm thực nghiệm Trảng Bom, Lang Hanh, Ekmat, Măng Linh, Tân
tạo... được lần lượt ra đời từ 105-1959 để tiến hành trồng khảo nghiệm các
loài cây khác nhau. Từ 1905, Maurand P. đã thử nghiệm trồng sao dầu (cây
mục đích) với cây muồng đen (cây bạn) có sử dụng cây đậu tràm làm cây phù
trợ để khôi phục rừng lá rộng hỗn loài bị khai thác kiệt tại Trảng Bom (Đồng
Nai). Đây là mô hình trồng cây lá rộng hoàn chỉnh và thành công đầu tiên đã
được đưa vào giáo trình lâm học của trường đại học Lâm Nghiệp.
Ở miền bắc, các Trạm nghiên cứu Lâm nghiệp Cầu Hai (Phú Thọ),
Hữu Lũng (Lạng Sơn) thuộc Viện nghiên cứu Lâm nghiệp cũng đã lần lượt ra
đời và tiến hành một số nghiên cứu khảo nghiệm cải tạo rừng nghèo kiệt bằng
các cây lá rộng bản địa như: Lim xanh (Erythphroloeum fordii), Ràng ràng
(Ormosia sumata), vạng (Endospermum chinense), Giẻ đỏ (Lithocarpus
ducampii), Trám (Canarium sp.), Lát hoa (Chukrasia tabularis)...v.v. của
Nguyễn Sơn Tùng, Lê Cảnh Nhuệ, Phạm Hoàng Hoành, Nguyễn Bá Chất,
Nguyễn Vỹ, Phạm Đình Tam... (Kết quả nghiên cứu khoa học về kỹ thuật lâm
sinh của Viện KHLN Việt Nam, Nhà xuất bản Hà Nội, 1998).
Trong những năm 1980-1990, một số đề tài trong các chương trình Nhà
nước đã thực hiện các nội dung cải tạo, làm giàu và khôi phục rừng tự nhiên
nghèo theo băng hoặc theo rạch do các đơn vị của Viện Khoa học Lâm nghiệp
Việt nam như: phân viên Lâm nghiệp Nam bộ, Trung tâm lâm nghiệp Đông
nam bộ, Trung tâm Lâm nghiệp nhiệt đới, Trung tâm thực nghiệm lâm nghiệp

Kon Hà Nừng...bằng các loài cây Dầu rái (Dipterocarpus alatus), Sao đen
(Hopea odorata), Xoan mộc (Toonna surenii), Giổi nhung (Michelia medicris)

20


ở Hiếu Liêm, Mã Đà (Đồng Nai); ở Sơ Pay, Kbang (Gia Lai). Cũng trong thời
gian này, Sở Lâm nghiệp Đồng Nai đã cho trồng các loài bản địa như Dầu rái,
sao đen dưới tán các rừng keo lá tràm ở Trị An, Long Khánh và Xuyên Mộc.
Trần Nguyên Giảng / Đặng Văn Đàm (1995-1997) đã tiến hành đề tài
trồng hỗn loài cây bản địa dưới tán che cây keo lá tràm trên đất nương rẫy tại
vườn quốc gia Cát Bà với kết quả rất tốt và đã được xây dựng thành hướng
dẫn kỹ thuật do Vụ Khoa học, Công nghệ và Chất lượng sản phẩm ban hành
năm 1998. Trên cơ sở hướng dẫn kỹ thuật này, JIFRO đã hỗ trợ kinh phí để
xây dựng mô hình trồng rừng hỗn loài cây lá rộng bản địa dưới tán keo lá
tràm với qui mô lớn hơn ở Cát Bà, Xuân Mai và Hoà Bình (Nguyễn Quang
Việt, Nguyễn Văn Ngung).
Các dự án trồng rừng Việt - Đức KfW1 ở Lang Sơn và Bắc Giang;
KfW2 ở Hà Tỉnh, Quảng Bình và Quảng Trị cũng đã đưa cây bản địa vào
trồng dưới rừng keo lá tràm theo hướng đa dạng hoá cây trồng.
Thảm thực bì và nền đất là hai đặc tính có tính chỉ thị đặc trưng nhất
trong việc đánh giá tiềm năng lập địa để gây trồng cây bản địa lá rộng. Đặc
biệt lưu ý là các chủng loại, tổ thành, mối quan hệ tương tác hỗ trợ, cạnh tranh
của thảm cây còn lại ở tầng dưới và các biến động của các yếu tố tạo thành
các vi lập địa loang lổ đan xen của nền đất để có các biện pháp lợi dụng và
khắc phục cụ thể.
Giá trị kinh tế và môi sinh của rừng tạo ra ở một nơi nhất định theo qui
luật sinh thái học, chủ yếu là do hiệu ứng hữu cơ của ba nhân tố cơ bản "đặc
điểm khí hậu + tính chất đất đai + đặc tính loài cây" (Lâm Công Định, 1999).
Vì vậy, đối với việc chọn loài cây trồng, các yếu tố tự nhiên như: chế độ ánh

sáng, chế độ nhiệt, chế độ nước, hàm lượng dinh dưỡng trong đất... là tiên
quyết; trong tác động tổng hợp của nó, các nhân tố này tạo thành khái niệm
mà chúng ta gọi là lập địa.

21


×