Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Thực hành dân chủ trong tư tưởng hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (234.07 KB, 33 trang )

MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Trong toàn bộ di sản văn hóa và tinh thần của Hồ Chí Minh, tư tưởng
dân chủ là một phần giá trị to lớn. Hồ Chí Minh là nhà văn học mà một trong
những giá trị văn học đáng tự hào, đáng trân trọng là tư trưởng dân chủ của
Người. Hồ Chí Minh là một nhà yêu nước, nhà cách mạng giải phóng dân tộc
ở thế kỉ XX chính là bởi Người đã gớp phần to lớn đưa dân tộc ta từ kiếp nô
lệ trở thành người tự do, đưa nhân dân lên địa vị làm chủ đất nước, làm chủ
xã hội. Có thể gọi Người là nhà dân chủ nổi bật của thế kỉ này ở nước ta
Lịch sử loài người đã chứng minh dân chủ vừa là chế độ xã hội, một
vấn đề chính trị mang bản chất giai cấp, vừa là một trong những giá trị xã hội
mang tính phổ biến, tính nhân loại to lớn. Chính nội hàm đa nghĩa, đa chiều
này đã làm dân chủ trở thành vấn đề thời sự sâu sắc thu hút mối quan tâm to
lớn cả về phương diện lý luận và thực tiễn. Xã hội ngày càng phát triển thì các
nhu cầu về dân chủ là tiêu chuẩn cơ bản để dánh giá sự tiến bộ của mọi thời
đại. Nhìn từ phương diện đó, việc mở rộng và phát huy dân chủ ở nước ta
hiện nay vừa là mục tiêu, nhưng cũng là động lực tiền đề, điều kiện quan
trọng góp phần giải quyết hàng loạt những vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội của
đất nước. Bước vào thế kỷ XXI, Việt Nam đang thực hiện công cuộc đổi mới
đất nước, đẩy mạnh hơn nữa công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phấn đấu thực
hiện thành công mục tiêu chung do Đảng đề ra: dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng , dân chủ văn minh, vững bước đi lên Chủ nghĩa xã hội thì việc
nghiên cứu, học tập và thực hiện theo tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh là
vấn đề hết sức quan trọng như cách nói của Người “Đây

1


là cái cần thiết cho chúng ta”. Trong tư tưởng của Hồ Chí Minh về dân chủ
Người đã bàn về dân chủ trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội
và đặc biệt là vấn đề thực hành dân chủ chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng.


Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa do Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã và
đang xây dựng đang đứng trước những thách thức to lớn của quá trình hội
nhập và xu thế hợp tác hóa quốc tế. Với việc phát triển có kế thừa những tư
tưởng của Hồ Chí Minh về thực hành dân chủ Đảng ta đã và đang thực hiện
và lấy đó làm đòn bẩy để thực hiện dân chủ hóa xã hội nhằm mục tiêu phát
triển đất nước và đặc biệt là nâng cao hơn nữa đời sống của nhân dân. Vì vậy
việc thực hành dân chủ trong toàn Đảng, toàn dân đang là một yêu cầu cấp
thiết và mang tính sống còn đối với đất nước ta hiện nay.
Nhận thức được vấn đề trên, em xin chọn đề tài “Thực hành dân chủ
trong tư tưởng Hồ Chí Minh” để làm tiểu luận kết thúc học phần Các chuyên
đề Tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trong quá trình nghiên cứu em đã cố gắng rất nhiều nhưng không tránh
khỏi những thiếu sót, do kiến thức chưa sâu. Vì vậy, em rất mong nhận được
sự đóng góp ý kiến, chia sẻ của thầy cô để bài tiểu luận hoàn chỉnh hơn. Qua
đây, em xin gửi lời cảm ơn đến Ban chủ nhiệm khoa và các thầy cô trong
khoa đã tận tình giảng dạy, hướng dẫn em trong quá trình nghiên cứu.
2 . Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1 Mục tiêu nghiên cứu
Tiểu luận làm rõ một số vấn đề lý luận về thực hành dân chủ trong tư
tưởng Hồ Chí Minh, làm rõ thực trạng của việc thực hành dân chủ và qua đó
người viết mạnh dạn đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả
thực hành dân chủ ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
- Lược thuật một cách chính xác những tư tưởng của Hồ Chí Minh về
thực hành dân chủ trên các lĩnh vực trong quá trình Người lãnh đạo và tổ chức
xây dựng đất nước Việt Nam.
2


- Chỉ ra thực trạng, phương hướng và đề xuất giải pháp thực hành dân

chủ rộng rãi ở nước ta hiện nay dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của
Nhà nước.
3. Đối tượng và vi phạm nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Thực hành dân chủ trong tư tưởng Hồ Chí Minh và vấn đề đặt ra hiện nay
3.2 Phạm vi nghiên cứu
Tiểu luận nghiên cứu các tư tưởng của Hồ Chí Minh về thực hành dân chủ
trong quá trình tổ chức và xây dựng đất nước.
4. Phương pháp nghiên cứu.

- Phương pháp luận: sử dụng phương pháp Chủ nghĩa duy vật biện
chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử.
- Phương pháp chung: phân tích tổng hợp, logic-lịch sử diễn dịch quy
nạp.
- Phương pháp cụ thể: lược thuật tài liệu, trao đổi thảo luận nhóm.
5. Tình hình nghiên cứu
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một lĩnh vực rộng lớn và phong phú đã được
nhiều tác giả và học giả dày công nghiên cứu. Mảng đề tài khoa học có
chương trình khoa học cấp nhà nước KX02 (1991-1996), trong một số đề tài
nhánh KX02-05 “Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam” và KX02-13 “Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân
và vì dân”.
Nhiều cuốn sách của một số tác giả đã đề cập đến vấn đề dân chủ, vấn
đề thực hành dân chủ trong tư tưởng Hồ Chí Minh như: Phương pháp dân
chủ Hồ Chí Minh, Phạm Văn Bính chủ biên, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia
Hà Nội, 2008. Dân chủ di sản văn hóa Hồ Chí Minh của tác giả Nguyễn Khắc
Mai, Nhà xuất bản Lao động, 1997.
Bên cạnh đó, trên các tạp chí cũng có nhiều bài viết đề cập đến vấn đề
như: Chủ tịch Hồ Chí Minh và vấn đề dân chủ của tác giả PGS Mai Trung
3



Hậu, Tạp chí lý luận chính trị, số 5, năm 2002. Thực hiện dân chủ ở cơ sở trong
quá trình đổi mới: Thành tựu, vấn đề và giải pháp của GS,TS Phạm Ngọc
Quang, tạp chí Lý luận chính trị số 3, năm 2004.
Ngoài ra còn rất nhiều bài viết của các tác giả, của các nhà nghiên cứu
về tư tưởng thực hành dân chủ Hồ Chí Minh đăng trên các báo và tạp chí
khác.
Tác giả nhận thấy, các tác phẩm, bài viết tiêu biểu vừa nêu mới chỉ
dừng lại ở mức khai thác và hệ thống hóa tư liệu các bài nói, bài viết của Hồ
Chí Minh về dân chủ. Khai thác tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh ở những khía
cạnh khác nhau. Song chưa có công trình nào nghiên cứu đề cập đến tư tưởng
thực hành dân chủ của Hồ Chí Minh và những vấn đề đặt ra đối với việc thực
hành dân chủ ở đất nước ta hiện nay. Vì vậy, người viết mong rằng đề tài của
mình sẽ góp phần làm sáng tỏ thêm tư tưởng Hồ Chí Minh về thực hành dân
chủ và những giải pháp để nâng cao hiệu quả thực hành dân chủ ở Việt Nam
hiện nay.
6. Kết cấu:
Ngoài phần mở đầu và kết luận tiểu luận gồm 2 chương:
Chương 1: Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về thực hành dân chủ.
Chương 2: Ý nghĩa của việc nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh về thực
hành dân chủ và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hành dân chủ ở Việt
Nam hiện nay.

4


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
NỘI DUNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ THỰC HÀNH

DÂN CHỦ
1.1 Một số khái niệm
1.1.1 Thực hành là gì?
Theo từ điển, thực hành là làm để áp dụng lý thuyết vào thực tế.
1.1.2

Dân chủ là gì?
Dân chủ theo từ điển là “chính phủ được thành lập bởi nhân dân

trong đó quyền lực tối cao được trao cho nhân dân và được thực hiện bởi nhân
dân hoặc bởi các đại diện được bầu ra từ một hệ thống bầu cử tự do.”
1.1.3

Thực hành dân chủ
Thực hành dân chủ được hiểu là đem những lý thuyết dân chủ

vào thực tiễn và làm cho lý thuyết ấy được thực hiện đúng.
1.2 Quan điểm của Hồ Chí Minh về thực hành dân chủ.
1.2.1 Hồ Chí Minh định nghĩa về dân chủ và thực hành dân chủ
1.2.1

Về dân chủ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh không có những tác phẩm riêng bàn về dân chủ.

Song, trong các tác phẩm của Người, thuật ngữ dân chủ được dùng trên 1600
lần với những ý nghĩ không hoàn toàn giống nhau tùy theo hướng tiếp cận và
sự phát triển tư duy về dân chủ của Người.
Trong các tác phẩm của Hồ Chí Minh, cụm từ “ dân chủ là” được hiểu
như là một cách định nghĩa về dân chủ, đã xuất hiện trên 15 lần. Trong đó có
một cụm từ được coi là định nghĩa của Hồ Chí Minh về dân chủ, nó tường

minh về câu chữ, hàm súc về nội dung, giản dị ngắn gọn dễ nhớ, dễ hiểu. Hồ
Chí Minh đặt câu hỏi trước hàng vạn quần chúng: “Dân chủ là thế nào?” Và
5


Người tự trả lời: “Là dân làm chủ”1 . Như vậy, Người đã định nghĩa dân chủ
là dân là chủ và dân làm chủ. Chỉ khi nào vị trí dân là chủ được xác định thì
vai trò làm chủ của dân mới được xác lập, nội dung dân làm chủ thể hiện sự
dân chủ của một chế độ xã hội. Hồ Chí Minh không chỉ xác định vị trí là chủ
của dân mà Người còn nhấn mạnh vai trò làm chủ của dân. Bởi trên thực tế,
Người đã chỉ ra có trường hợp người dân được quyền là chủ đất nước nhưng
không biết phải làm chủ như thế nào, thậm chí không được làm chủ. Người đã
dẫn chứng ngay ở nước Pháp, nước Mỹ. Những “cái nôi” của cách mạng dân
chủ tư sản, dân là chủ đất nước nhưng vai trò làm chủ thì chưa bao giờ có
được nên vẫn mong làm cách mạng lần nữa để giành quyền làm chủ. Hồ Chí
Minh phát hiện ra: “Tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước
lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa. Cách mệnh đã 4 lần rồi, mà nay
công nông Pháp hẵng còn phải mưu cách mệnh lần nữa mới hòng thoát khỏi
áp bức”2
Chính vì vậy, Hồ Chí Minh quyết tâm đưa “ nước ta đi đến dân chủ thực
sự” nghĩa là “ bao nhiêu quyền hạn đều của dân” ;“ làm sao cho dân biết
hưởng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm”3
Quan niệm dân chủ nghĩa là dân làm chủ thể hiện được tính chủ động
của chủ thể dân chủ. Hồ Chí Minh nói “ Đánh tan thực dân, giải phóng dân
tộc giành lại thống nhất và độc lập, xậy dựng một nước Việt Nam dân chủ
mới” Theo Hồ Chí Minh, dân chủ cũ là dân chủ tư sản. Dân chủ mới khác
dân chủ cũ ở chỗ “ Nước ta là một nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân
làm chủ”4; “quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”

5


và “ chính quyền do

người dân làm chủ” 6 . Một nước có hơn 9 phần 10 dân cư là nông dân, thì tiêu
chí cụ thể phân định dân chủ mới và dân chủ cũ, theo Hồ Chí Minh, là “bao
giở ở nông thôn, người nông dân thực sự nắm chình quyền, người nông dân
1

HCM: toàn tập, Sđd, t.8, tr.375
HCM: toàn tập, Sđd, t.2, tr.274
3
HCM: toàn tập, Sđd, t.12, tr.223
4
HCM: toàn tập, Sđd, t.6, tr.515
5
HCM: toàn tập, Sđd, t.5, tr.698
6
HCM: toàn tập, Sđd, t.6, tr.365
2

6


được giải phóng thì mới là dân chủ thực sự”. Hồ Chí Minh cũng định nghĩa
một cách nôm na dễ hiểu: “Dân chủ là để người dân được mở cái miệng ra”.
Hay có lúc Người quan niệm dân chủ có nghĩa là “Dân là chủ, chính phủ là
đầy tớ”1. Định nghĩa của Hồ Chí Minh về dân chủ là một định nghĩa tiến bộ
hiện đại. Ngày nay, dân chủ cũng được hiểu là mọi quyền lực thuộc về nhân
dân và quyền lực đó bào gồm cả quyền chính trị, quyền lực kinh tế và quyền
lực văn hóa tinh thần … Ở Hồ Chí Minh Người không chỉ khẳng định dân

chủ là dân nắm quyền hành mà còn chỉ rõ dân làm chủ và lý giải nội dung làm
chủ thực sự, từ làm chủ nhà nước, làm chủ ruộng đồng, nhà máy,xí nghiệp…
đến làm chủ nền văn hóa tinh thần và trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội.
1.2.1.2 Về thực hành dân chủ
Hồ Chí Minh quan niệm “thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng
có thể giải quyết mọi khó khăn”. Theo Hồ Chí Minh để giải quyết mọi khó
khăn thì phải thực hành dân chủ. Người thực hành dân chủ trong Đảng, trong
cơ quan Nhà nước, các đoàn thể quần chúng để thực hiện điều quan trọng
nhất là thực hành dân chủ trong xã hội, trong nhân dân. Thực hành dân chủ
cũng chính làm cho dân biết, để cho dân bàn, để cho dân làm và dân kiểm tra.
Như vậy, việc khẳng định “thực hành dân chủ là chìa khóa vạn năng”
cho thấy vị trí, vai trò vô cùng quan trọng của việc thực hành dân chủ để phát
triển dân chủ, xây dựng đất nước dân chủ.
1.2.2 Các quan điểm của Hồ Chí Minh về thực hành dân chủ
1.2.2.1 “Thực hành dân chủ là chìa khóa vạn năng có thế giải quyết
mọi khó khăn”
Đây là một luận điểm rất nổi tiếng của Hồ Chí Minh về dân chủ, Người
lý giải thực hành dân chủ là chìa khóa vạn năng có thế giải quyết được khó
khăn trước hết là bởi vì thực hành dân chủ là sử dụng tối đa quyền hạn lực
lượng dân nhân vào phục vụ lợi ích nhân dân.

1

HCM: toàn tập, Sđd, t.1, tr.18

7


Tuyên ngôn hành động của Hồ Chí Minh là “ làm sao cho nước ta được
hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm

ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Đây cũng là mong muốn duy nhất “ ham
muốn tột bậc” đến tận cuối đời của Người. Chính sự ham muốn này đã thôi
thúc Người hành động để nước nhà được độc lập, dân được tư do. Khi đất
nước chưa được độc lập, dân không có quyền tự do, Hồ Chí Minh quyết tìm
cho được giải pháp hữu hiệu để giành quyền độc lập cho dân tộc, tự do hạnh
phúc cho nhân dân. Hồ Chi Minh đã đoàn kết toàn dân dưới sự lãnh đạo của
Đảng cộng sản Việt Nam, đem sức ta mà tự giải phóng cho ta, làm nên thắng
lợi trong ngày 2-9-1945. Khi đất nước xây dựng nên dân chủ dân nhân, Hồ
Chí Minh trăn trở làm sao cho dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền
dân chủ, dám nói, dám làm. Theo Hồ Chí Minh, dân chỉ biết đến giá trị của
độc lập, tự do khi họ có cơm ăn, áo mặc, được học hành, nghĩa là dân biết đến
quyền dân chủ qua đời sống hiện thực hàng ngày. Từ chỗ biết đến quyền dân
chủ, Hồ Chí Minh mong muốn người dân thực hành dân chủ, sử dụng tối đa
quyền hạn lực lượng của dân nhân, tất cả đều là phục vụ lợi ích của nhân
dân.Trong tác phẩm “Thưởng thức chính trị” viết năm 1953 Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nhắc nhở Đảng và Nhà nước ta phải thực hành dân chủ. Người khẳng
định: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu
quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân.
Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã
đến chính phủ trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ trung ương đến xã do dân
tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở dân”1
Theo Người, trách nhiệm của Đảng và Chính Phủ đối với dân là nếu
dân đói, dân rét, dân ốm, dân dốt là Đảng và chính phủ có lỗi. Người chẳng
những quan tâm đến thực hành dân chủ đại diện mà còn rất chú ý đến việc
thực hành dân chủ trực tiếp. Người tôn trọng và lắng nghe ý kiến của nhân
dân, bỏ cái thô lấy cái tinh đúc kết thành các chủ trương chính sách của Đảng
1

HCM: toàn tập, Sđd, t.5, tr.618


8


rồi đem ra lãnh đạo nhân dân thực hiện. Theo Người có lực lượng nhân dân
việc to tát mấy, khó khăn mấy cũng làm được, không có dân thì việc gì làm
cũng không xong. Nhân dân biết giải quyết nhiều vấn đề giản đơn mau chóng
đầy đủ mà những người tài giỏi nghĩ mãi không ra. Người đã nêu lên một
chân lý: “Dễ mười lần không dân cũng chịu, khó trăm lần dân liệu cũng
xong”. Chính vì vậy cần tăng cường thực hành dân chủ trong nhân dân để
nhân dân tham gia giải quyết mọi công việc thì dù có khó khăn gian khổ đến
mấy nhân dân cùng làm nên. Thực tế thắng lợi của cách mạng tháng Tám và
hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, ngoài vai trò lãnh đạo của
Đảng thì không thể không kể đến vai trò của quần chúng dân nhân, lực lượng
đông đảo nhất của cuộc kháng chiến.
Thực hành dân chủ thúc đẩy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân để
trở thành động lực của sự tiến bộ không ngừng. Khi khẳng định thực hành dân
chủ là chìa khóa vạn năng, Hồ Chí Minh cũng chỉ ra những lực cản của quá
trình đó. Những lực cản trong tâm lý, trong thể chế, trong cán bộ, bộ máy,
công quyền và ở chính ngay trong dân. Những lực cản này nếu giải quyết đơn
thuần bằng công cụ chuyên chính, bằng cưỡng chế sẽ không thành công.
Chẳng hạn như sự bất đồng giữa dân với dân, giữa cán bộ với cán bộ, mâu
thuẫn giữa dân với cán bộ cơ sở thì chỉ có giải quyết bằng con đường dân chủ
bàn bạc, bằng tự phê bình và phê bình để từng bước tháo gỡ khó khăn, mang
lại hiệu quả cao. Và khi giải quyết xong công việc, theo Hồ Chí Minh “ta phải
cùng với dân kiểm thảo lại công việc, rút kinh nghiệm, phê bình, khen
thưởng”, đúng thì khen , sai thì chê, thì phạt.
Nước ta là một nước công nghiệp sản xuất nhỏ, lạc hậu, dân ta đa phần
là nông dân với tâm lý tiểu nông có ước vọng bình quân, tâm lý dễ bị kích
động, dễ rơi vào manh động, quá đà, bất chấp kỷ cương, pháp luật cho nên
phải gần dân, thực hành dân chủ trong nhân dân để giải quyết những “vấn đề

xuất hiện trong dân” và hơn hết là thúc đẩy được tiềm năng sáng tạo của
nhân dân, trở thành động lực của sự tiến bộ không ngừng.Tư tưởng của Hồ
9


Chí Minh về thực hành dân chủ được đề cập không chỉ trong các tác phẩm
mà còn được đề cập trong những ví dụ lấy từ cuộc sống thực tiễn, dễ hiểu,
dễ nhớ.
Trên báo Nhân Dân số 4733 ra ngày 25-3-1967 có đăng bài của Bác ký
tên là Chiến sĩ có nhan đề “Cái chìa khóa vạn năng”. Trong bài báo, Bác nêu
cao nguyên tắc không áp đặt mà phải “Bàn bạc dân chủ với nhân dân” trong
từng công việc, thì người dân sẽ tìm ra được cách giải quyết khó khăn. Bác ví
dụ: “ Hợp tác xã Đ.P( Quảng Bình) cần phải làm độ 700 cái hầm trú ẩn cho
gia đình xã viên, cho trụ sở xã, cho trường học, … Mỗi hầm phải tốn 10 công
đào và nửa mét khối gỗ lót, cộng tất cả là 7.000 công và 350 mét khối gỗ. Đối
với một hợp tác xã nhỏ chỉ có 50 hộ, thì đó quả là một công việc to lớn và khó
giải quyết. Nhưng cán bộ có sáng kiến đưa việc đó ra trình bày rõ ràng trước
toàn bộ xã viên và khuyến khích mọi người bàn bạc một cách dân chủ. Sau
khi tư tưởng đã nhất trí… Họ làm cả ngày cả đêm, nhà đông người giúp
nhà neo đơn. Có những xã viên lấy cả cột nhà và ván nằm để lót hầm và
giúp đỡ những bà con thiếu gỗ. Kết quả chỉ trong 2 ngày, 700 cái hầm đã
được làm xong..” 1.
Bác lấy ví dụ khác ở xã Văn Khê( Hà Tây cũ) cán bộ giết heo liên hoan
lu bù, thiếu gương mẫu trong lao động… Khuyết điểm nặng nhất là thiếu dân
chủ nên làm thủy lợi gây nhiều lãng phí, có vụ cày cấy chậm, làm dối, thu
hoạch kém. Sau đó nhờ “ Bàn bạc dân chủ với với xã viên” bà con đã hiến
kế và phấn khởi ra đồng sản xuất. Cán bộ và xã viên bàn cách tiết kiệm
lương thực để bảo đảm đời sống của mình và đóng góp vào sự nghiệp
chống Mỹ cứu nước…” 2.
Sau khi nêu ra những ví dụ thực tế, Bác đã nâng vấn đề lên ở tầm nhận

thức: “ Vài ví dụ trên đây chứng tỏ rằng thực hành dân chủ là cái chìa khóa
vạn năng có thể giải quyết được mọi khó khăn”. Thực hành dân chủ thì nhân
1
2

Tham khảo từ bài viết “Thực hành dân chủ là chìa khóa vạn năng” của tác giả Ngô Minh Khôi
Tham khảo từ bài viết “Thực hành dân chủ là chìa khóa vạn năng” của tác giả Ngô Minh Khôi

10


dân trở thành chủ thể tự giác trong mỗi hoạt động “ phát huy dân chủ cao độ
thì mới động viên được tất cả lực lượng nhân dân đưa cách mạng tiến lên”.
1.2.2.2 Để thực hành dân chủ cần giáo dục ý thức dân chủ cho người
dân.“Thực hành dân chủ để làm cho dân ai cũng được hưởng quyền dân
chủ tự do”1
Trước hết Hồ Chí Minh chỉ ra rằng cần giáo dục để cho người dân nhận
thức được quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm trong quá trình thực hành dân chủ,
nhận thức được trách nhiệm của người công dân trong xã hội dân chủ. Nhân
dân làm chủ đất nước, địa vị cao nhất trong đất nước dân chủ ấy là dân, dân là
trên hết. Chính vì thế Hồ Chí Minh cho rằng “ mọi lợi ích là vì dân”; “mọi
quyền hạn là của dân”; “ mọi công việc do dân”. Nhưng dân ta không phải ai
cũng ý thức được điều đó. Hơn nữa với hơn 90% dân số mù chữ, đời sống
thiếu thốn khó khăn thì khi cách mạng thắng lợi nhân dân được là chủ đất
nước chứ chưa biết làm thế nào để trở thành người làm chủ đất nước. Do
đó, cần giáo dục cho người dân nhận thức được “ dân là chủ” và “dân làm
chủ” đất nước.
Khi nhân dân đã nhận thức được quyền lợi, trách nhiệm của mình thì
cũng cần giáo dục cho nhân dân để định hướng nhận thức trong thực hành dân
chủ, làm sao để “ dân biết dùng quyền dân chủ, biết giành quyền dân chủ,

dám nói dám làm dân chủ”. Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công,
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời. Chính quyền non trẻ mới thành lập
đã phải chống thù trong, giặc ngoài, đời sống nhân dân đói khổ… dù đang ở
vào thế “nghìn cân treo sợi tóc” nhưng Đảng và Hồ Chí Minh chủ trương kiên
quyết tiến hành Tổng tuyển cử dân chủ bầu ra Quốc hội đầu tiên của nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa vào ngày 6-1-1946. Trước ngày đó, đích thân
Bác Hồ đã viết bài cổ động kêu gọi nhân dân đi bỏ phiếu trong đó có đoạn: “
Ngày mai là một ngày vui sướng của đồng bào ta, vì ngày mai là ngày Tổng
tuyển cử, vì ngày mai là một ngày đầu tiên trong lịch sử Việt Nam mà nhân
1

HCM: toàn tập, Sđd, t.5, tr.30

11


dân ra bắt đầu hưởng dụng quyền dân chủ của mình… Ngày mai dân ta sẽ tự
do lựa chọn và bầu ra những người xứng đáng thay mặt cho mình và gánh vác
việc nước” 1. Đó là một chủ trương dũng cảm, đúng đắn và sáng suốt, đáp ứng
khát vọng dân chủ của nhân dân sau những đêm dài nô lệ, nên được nhân dân
hưởng ứng nhiệt liệt. Lần đầu tiên tất cả công dân Việt Nam, nam cũng như
nữ, từ 18 tuổi trở lên đều thực hiện quyền ứng cử, bầu cử. Cuộc bầu cử được
tiến hành sôi nổi trong cả nước với hơn 90% tổng số cử tri đi bỏ phiếu. Quốc
hội vừa mới được bắt đầu đã bắt tay ngay vào việc lập hiến, xây dựng hiến
pháp. Hiến pháp năm 1946 là hiến pháp dân chủ đầu tiên của nước Việt Nam,
đặt nền móng cho một nhà nước kiểu mới - Nhà nước dân chủ nhân dân. Điều
1- Hiến pháp 1946 đã khẳng định rõ: “ Việt Nam là một nước dân chủ cộng
hòa- Tất cả quyền bình đẳng trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam,
không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”. Để thực
hiện quyền bình đẳng ấy phải thông qua hình thức dân chủ đại diện và dân

chủ trực tiếp. Điều 2- Hiến pháp 1946 cũng quy định: “ Những việc quan hệ
đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra nhân dân phán quyết…” Thực chất đó là chế
độ trưng cầu dân ý, một hình thức dân chủ trực tiếp được đề ra khá sớm ở
nước ta. Như vậy Hiến pháp 1946 đã ghi nhận tất cả quyền hành của nhân
dân, nhà nước này là của dân, thì dân là chủ, người dân được hưởng mọi
quyền dân chủ, nghĩa là có quyền làm bất cứ việc gì mà pháp luật không cấm
và có nghĩa vụ tuân theo pháp luật. Nhà nước ta không chỉ là của dân mà còn
do dân và vì dân. Đó là nhà nước do dân lựa chọn bầu ra những đại biểu của
mình, do dân ủng hộ giúp đỡ, đóng thuế, do dân phê bình, xây dựng. Do đó,
Người nhấn mạnh “ Nếu chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính
phủ” 2 và nhà nước của dân, do dân không phục vụ lợi ích cho ai khác ngoài
nhân dân. Vì vậy Hồ Chí Minh khẳng định rõ ràng:
“ Việc gì lợi cho dân, ta phải làm cho kì được
1
2

HCM: toàn tập, Sđd, t.4, tr.145
HCM: toàn tập, Sđd, t.5, tr.60

12


Việc gì hại cho dân, ta phải hết sức tránh.” 3
Khẳng định nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân , vì dân là vấn đề cơ
bản, quan trọng nhất, nhưng Hồ Chí Minh nhấn mạnh việc thực hành dân chủ
mới là điều cốt yếu của thể chế dân chủ đó. Theo Người, phải làm sao cho
nhân dân biết hưởng và biết dùng quyền dân chủ, dám nói, dám làm dân chủ.
Chỉ có thực hành dân chủ mới có thể biến các quan niệm dân chủ trong các
lời tuyên bố thành dân chủ thực tế.
Theo Hồ Chí Minh giáo dục ý thức dân chủ cho người dân không chỉ

để người dân nhận thức, ý thức về quyền dân chủ mà còn để từ lý luận về dân
chủ, tri thức về dân chủ trở thành hành vi thực hành dân chủ và cao nhất là
thành nét văn hóa dân chủ cho mỗi người.
1.2.2.3 Để thực hành dân chủ theo Hồ Chí Minh phải xây dựng môi
trường dân chủ
Tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh bao quát trên nhiều lĩnh vực, chính
trị, kinh tế, văn hóa- xã hội. Và trên mỗi lĩnh vực để thực sự thực hành được
dân chủ thì phải xây dựng được môi trường dân chủ. Môi trường chính là điều
kiện, là hoàn cảnh để thực hành dân chủ.
Trước hết là dân chủ trên lĩnh vực chính trị.
Dân chủ trên lĩnh vực chính trị trong tư tưởng Hồ Chí Minh được thể hiện cao
nhất ở quyền lực của dân, quyền lực này được thể hiện trong Hiến pháp và
pháp luật của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đảm bảo cho việc tổ
chức ra nhà nước dân chủ mới của dân, do dân, vì dân, đảm bảo lợi ích của
nhân dân trong việc phát huy quyền dân chủ. Khi nhân dân ta chưa giành
được chính quyền, chưa có nhà nước dân chủ thì hai từ “dân chủ” là khát
vọng lớn lao. Cho nên, khi cách mạng tháng Tám 1945 thành công, nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa ra đời thì nhân dân ta từ thân phận người nô lệ bước
lên địa vị người làm chủ đất nước. Đặc biệt Hiến pháp 1946 ra đời thì quyền
lực của nhân dân được khẳng định và đó chính là cơ sở để nhân dân ta thực
3

HCM: toàn tập, Sđd, t.6, tr.88

13


hiện quyền dân chủ của mình. Hồ Chí Minh cũng chỉ ra, xác định rõ quyền
dân chủ cụ thể cho từng giai cấp, giai tầng trong xã hội. Hay nói cách khác là
Người xác định phải xây dựng môi trường dân chủ cho mỗi giai cấp trong xã

hội thực hành quyền dân chủ của giai cấp mình. Đối với giai cấp công nhân
“có quyền thực sự trong xí nghiệp, trong sở hữu tư liệu sản xuất, trong quản
lý và tổ chức quá trình sản xuất, trong phân phối sản phẩm” và “ công đoàn
phải bảo vệ cho công nhân có quyền thực sự trong xí nghiêp…” 1. Đối với
nông dân “ Bao giờ ở nông thôn, nông dân thực sự nắm chính quyền nông dân
được giải phóng thì mới là dân chủ thực sự” 2 .Đối với trí thức: “Lao động trí
óc có nhiệm vụ rất quan trọng trong sự nghiệp kháng chiến kiến quốc, trong
cuộc hoàn thành dân chủ mới để tiến đến CNXH” 3.
Nước ta là nước dân chủ vì dân là chủ nhưng để thực hành dân chủ
trong nhân dân thì phải xây dựng một nhà nước thực sự là nhà nước nhân chủ
mới “của dân, do dân và vì dân”. Nhân dân không thể thực hành dân chủ trên
lĩnh vực chính trị nếu không được đảm bảo những điều kiện cơ bản để thực
hành quyền dân chủ đó. Và hơn hết phải có sự lãnh đạo của Đảng sự quản lý
của Nhà nước để thực hành dân chủ rộng rãi
Hồ Chí Minh cho rằng, Đảng ta là đảng cầm quyền, muốn thực hành
dân chủ trong xã hội thì trước hết phải thực hành dân chủ trong Đảng. Mọi
đảng viên đều bình đẳng trước kỉ luật của Đảng, đều có trách nhiệm quyền
hạn tham gia xây dựng Đảng. Trong Đảng phải thường xuyên tiến hành tự
phê binh và phê bình một cách dân chủ, thẳng thắn, nói rõ ưu khuyết điểm,
không xuê xoa, vị nể, cũng không đả kích vì thành kiến cá nhân. Theo Người,
phê bình cho đúng chẳng những không làm giảm thể diện và uy tín của cán
bộ, của Đảng, trái lại còn làm cho sự lãnh đạo của Đảng mạnh mẽ hơn thiết
thực hơn do đó mà uy tín, thể diện càng tăng thêm. Trước khi đi xa, Người
còn căn dặn: “ Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi Đảng viên và cán bộ
1

HCM: Tuyển tập, NXB Sự thật, Hà Nội, t.2, tr.532
, Sđd, t.7, tr.25
3
Sđd, t.6, tr.203

2

14


phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thực sự cần, kiệm, liêm, chính,
chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là
người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân” 1 . Ý kiến đó
của Người thật vô cùng sâu sắc. Bởi vì, Người lãnh đạo muốn được dân tin,
dân phục, dân yêu thì phải hết lòng, hết sức phục vụ dân, thực hành dân chủ
với dân nhân, thật sự là công bộc của nhân dân. Khi đó vai trò của người lãnh
đạo sẽ không ngừng được củng cố và nâng cao.
Thứ hai, dân chủ trên lĩnh vực kinh tế.
Theo Hồ Chí Minh “dân chủ trên lĩnh vực kinh tế là quyền làm chủ về
kinh tế của nhân dân”. Quyền làm chủ về kinh tế được thể hiên trên ba
phương diện: sở hữu tư liêu sản xuất; tổ chức và quản lý sản xuất và phân
phối sản phẩm lao động. Như vậy có nghĩa là khi dân nhân chưa nắm quyền
lực về kinh tế và chưa được thực hiện lợi ích kinh tế thì chưa là dân chủ trên
lĩnh vực kinh tế. Nội dung dân chủ trong tư tưởng kinh tế Hồ Chi Minh về
quyền sở hữu tư liệu sản xuất của dân: đó là sự tồn tại nhiều thành phần kinh
tế trong xã hội Việt Nam, sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế đã được
luật hóa và thể hiện rõ ở Hiến pháp Việt Nam 1959 để cho mọi công dân “
dám làm” và thực hiện “quyền làm”.
Hồ Chí Minh không chỉ chú ý đến sự bình đẳng trong sản xuất, quyền
làm chủ tư liệu sản xuất của nhân dân và còn quan tâm thực hiện công bằng
trong phân phối sản phẩm lao động và công khai trong tổ chức, quản lý kinh
tế. Ba mặt trên liên quan tới nhau tạo thành chỉnh thể để nhân dân thực hiện
dân chủ trong kinh tế. Hồ Chí Minh từng nói: “Từ làm chủ tư liệu sản xuất, họ
(công nhân) phải được làm chủ việc quản lý kinh tế, làm chủ việc phân phối
sản phẩm lao động… Công nhân có quyền thực sự trong xí nghiệp” 2. Trong

quản lý kinh tế Hồ Chí Minh rất chú ý đến việc đóng góp ý kiến của nhân
dân, đến việc công khai tài chính. Người yêu cầu làm kế hoạch Nhà nước theo
cách “Kế hoạch làm từ trên xuống và làm từ dưới lên”. Hồ Chí Minh cho
1
2

Sđd, t.12, tr.510
HCM: toàn tập, Sđd, t.12, tr.568

15


rằng: “Muốn quản lý tốt hợp tác xã cán bộ quản trị phải dân chủ, tránh quan
liêu mệnh lệnh, làm việc gì cũng phải bàn bạc kỹ với xã viên. Làm theo lối
mệnh lệnh, quan liêu, không dân chủ thì chắc chắn thất bại” 1.
Và đối với phân phôi sản phẩm lao động thì nguyên tắc mà Hồ Chí
Minh đưa ra là: “CNXH là công bằng hợp lý: làm nhiều hưởng nhiều, làm ít
hưởng ít, không làm thì không được hưởng. Những người già yếu hoặc tàn tật
sẽ được nhà nước giúp đỡ chăm nom” 2.
Như vậy, để nhân dân thực hiện quyền dân chủ trong kinh tế thì phải
đảm bảo sự công bằng, bình đẳng trong sở hữu tư liệu sản xuất trong tổ chức
quản lý kinh tế và phân phối sản phẩm lao động. Những nguyên tắc quan
điểm nêu trên của Hồ Chí Minh là nhằm phát huy vai trò làm chủ của người
dân trong kinh tế.
Thứ ba, dân chủ trên lĩnh vực văn hóa-xã hội.
Nội dung bao trùm của dân chủ trên lĩnh vực văn hóa - xã hội theo Hồ
Chí Minh là dân có tri thức và việc nâng cao tri thức là điều kiện kiên quyết
của quá trình dân chủ đất nước. Đi đôi với mở rông dân chủ, thực hiện dân
quyền, bảo đảm dân sinh, vấn đề dân trí cũng không ngừng được nâng cao.
Dân trí của người dân được nâng cao sẽ góp phần bảo đảm dân quyền và thực

hiện dân sinh. Do đó, ngay sau khi đọc Tuyên ngôn độc lập, Hồ Chí Minh xác
định: “Một trong những công việc phải thực hiên cấp tốc trong lúc này, là
nâng cao dân trí” 3.
Người khẳng định: Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu; muốn giữ vững
nền độc lập, muốn làm cho dân mạnh nước giàu thì phải chống cả ba thứ giặc:
giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm. Hồ Chí Minh coi dân trí là điều kiện tiên
quyết cho việc bảo đảm và thực hiện dân chủ. Sự trăn trở “làm sao cho dân
biết hưởng, biết dùng quyền dân chủ” chính là làm cho dân trí được nâng cao
cùng với việc thực hiện dân quyền, bảo đảm dân sinh. Theo Hồ Chí Minh,
1

HCM: toàn tập, Sđd, t.9, tr.538
HCM: toàn tập, Sđd, t.9, tr.175
3
HCM: toàn tập, Sđd, t.4, tr.36
2

16


nâng cao dân trí là việc làm của toàn dân “người biết chữ dạy cho người chưa
biết, người chưa biết gắng mà học cho biết”. Song trách nhiệm quan trọng này
thuộc về Chính phủ. Chính phủ phải có chiến lược, có chính sách và bộ máy
tổ chức thực hiện. Do đó, để nhân dân thực hiện dân chủ trên lĩnh vực văn
hóa- xã hội thì điều tiên quyết là tạo mọi điều kiện để người dân được học
hành và nâng cao dân trí. Trách nhiệm của Đảng và Chính phủ là “Đảng cần
phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng
nâng cao đời sống của nhân dân”1 phải xây dựng nền giáo dục và nền văn hóa
toàn dân tạo cho mọi người có quyền tự do tư tưởng trong vấn đề tìm tòi chân
lý có như vậy dân chủ trên lĩnh vực văn hóa-xã hội của người dân mới được

thực hiện.
1.2.2.4 Thực hành dân chủ là đi liền với chống quan liêu, tham ô,
lãng phí
Hồ Chí Minh luôn khẳng định Nhà nước ta là nhà nước dân chủ, chế độ
ta là chế độ dân chủ. Nhưng một khi Nhà nước trở thành quan liêu độc đoán,
quay lại áp bức dân, dọa nạt, hạch sách dân. Khi đội ngũ cán bộ công chức xa
dân, không hiểu dân, không lắng nghe ý kiến và nguyện vọng của dân thì tính
chất dân chủ của Nhà nước sẽ mất đi. Do vậy, thực hành dân chủ là phải đi
liền với chống quan liêu. Thực hành dân chủ và chống quan liêu là hai mặt
thống nhất của một vấn đề phát huy quyền làm chủ của người dân.
Vì lẽ đó, Hồ Chí Minh lên án mạnh mẽ tệ quan liêu, mệnh lệnh, cửa
quyền, tham ô, lãng phí vì nó trái với bản chất dân chủ của ta. Người coi tham
ô là trộm cắp, còn lãng phí tuy không lấy của dân đút túi, song kết quả cũng
rất tai hại cho dân, cho chính phủ, có khi tai hại hơn cả nạn tham ô. Quan liêu,
tham ô, lãng phí là kẻ thù nguy hiểm vì nó không mang gươm, mang súng mà
nằm ngay trong các tổ chức của ta. Do đó, Người coi chống quan liêu, tham ô,
lãng phí cũng quan trọng và cần kíp như việc đánh giặc trên mặt trận. Theo
Người “Chống tham ô, lãng phí, quan liêu là dân chủ… phải dựa vào lực
1

HCM: toàn tập, Sđd, t.10, tr.835

17


lượng quần chúng thì mới thành công” 2. Trong kháng chiến chống Pháp, dã
có lúc Bác rất đau lòng khi phải phê duyệt bản án cao nhất (tử hình) đối với
cán bộ phạm tội tham ô, hủ hóa, dù đó là người đã từng được Bác yêu quý.
Bởi đối với Bác, luật pháp phải nghiêm minh, ai có công thì được thưởng, ai
có tội thì phạt, không kể thân sơ, thưởng phạt đúng là để giáo dục cán bộ và

nhân dân giữ nghiêm phép nước.
Không chỉ chống tham ô, quan liêu, lãng phí, theo Hồ Chí Minh thực
hành dân chủ là quét sạch chủ nghĩa cá nhân. Đây là hai vấn đề được coi là
then chốt trong những vấn đề quan trọng cần phải giải quyết để thực hành dân
chủ ở nước ta. Bởi vì, dân chủ và dân chủ xã hội chủ nghĩa được thục hiện vì
con người, cho con người và do con người. Quan liêu và cá nhân chủ nghĩa là
sự biểu hiện trình độ thấp kém về văn hóa dân chủ và năng lực thực hiện
những chuẩn mực dân chủ của bản thân đội ngũ cán bộ, công chức, nhân viên.
Sự non kém ấy mâu thuẫn gay gắt với yêu cầu thực hiện dân chủ. Những
người không có năng lực dân chủ thì không thể mang dân chủ đến cho người
khác được. Cho nên Hồ Chí Minh chỉ rõ thực hành dân chủ là đi liền với
chống quan liêu, tham ô, lãng phí và quét sạch chủ nghĩa cá nhân.
1.2.2.5 Xây dựng con người trong thực hành dân chủ
Vấn đề con người theo tư tưởng Hồ Chí Minh là vấn đề cốt tử của cải
cách kinh tế - xã hội, hoàn thiện nhà nước dân chủ nhân dân. Do đó, xây dựng
con người có phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng và năng lực, trình độ là
một nhiệm vụ quan trọng trong thực hành dân chủ.
Đào tạo con người toàn diện, có bản lĩnh chính trị vững vàng và là
người có đạo đức cách mạng. Hồ Chí Minh, trong quan hệ đức – tài, luôn
nhấn mạnh “đức là gốc”. Việc đào tạo cán bộ, bồi dưỡng sử dụng cán bộ phải
hết sức coi trong việc nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống. Nếu
người cán bộ dù có tài năng lớn đến mấy mà không có “đức”, không vì dân,
vì nước, thiếu cần kiệm liêm chính, chí công vô tư thì cũng sẽ là người vô
2

Sđd, t.6, tr.494

18



dụng, có khi còn gây tác hại cho cách mạng, cho dân, cho nước. Nếu “cán
bộ là gốc của mọi công việc” thì sự nêu gương về đạo đức của người lãnh
đạo là nhân tố rất quan trọng, có tác động mạnh mẽ đến nhân dân. Người
lãnh đạo có đức thì cán bộ nhân viên mới có đức và toàn bộ xã hội sẽ có
đức. Cho nên Hồ Chí Minh chú trọng việc giáo dục đội ngũ cán bộ công
chức trước rồi mới đến toàn dân là bởi vì nhân dân luôn lấy cán bộ, lãnh
đạo là tấm gương để noi theo.
Đối với nhân dân cần phải kết hợp giáo dục văn hóa lẫn đạo đức pháp
luật cho nhân dân; đồng thời phát động những phong trào thi đua nêu gương
trong thực hành dân chủ.
Muốn thực hành dân chủ trong nhân dân thì phải giáo dục cho nhân dân
tri thức văn hóa, pháp luật trước thì dân mới biết dùng quyền dân chủ, dám
nói dám làm. Hồ Chí Minh rất chú ý đến việc nêu gương về đạo đức. Bản
thân người luôn là tấm gương sáng cho toàn dân noi theo. Từ nêu gương về
đạo đức sẽ dẫn đến nêu gương trong thực hành dân chủ để thực hành dân chủ
rộng rãi trong toàn Đảng, toàn dân ta.
1.2.2.6 Dân vận – phương pháp thực hành dân chủ trong nhân dân
của Hồ Chí Minh.
Theo Hồ Chí Minh, để phát huy tối đa quyền làm chủ và vai trò làm
chủ của người dân trong mọi hoạt động của đời sống xã hội thì phải làm dân
vận. Người viết: “Dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi một người
dân không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực
hiện những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và Đoàn thể đã
giao cho” 1. Đó là một nội dung cơ bản của thực hành dân chủ. Bởi lẽ, Hồ Chí
Minh chỉ rõ, cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và dân chủ là việc của “cả
dân chúng chứ không phải việc một, hai người”. Cho nên Người lưu ý cán bộ
Đảng rằng: “Dân chúng đồng lòng, việc gì cũng làm được. Dân chúng không
ủng hộ, việc gì làm cũng không nên” 2. Trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
1
2


HCM: toàn tập, Sđd, t.5, tr.698
HCM: toàn tập, Sđd, t.5, tr.293

19


miền Bắc, Hồ Chí Minh khẳng định: “CNXH chỉ có thể xây dựng được với sự
giác ngộ đầy đủ và lao động sáng tạo của hàng chục triệu người” 1. Người kết
luận : “Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công” 2.
Một đảng, một nhà nước dù vĩ đại, tài giỏi và trí tuệ bao nhiêu nhưng
nếu không biết vận động dân, không biết sử dụng nguồn sức mạnh vô tận của
dân thì vẫn có thể thất bại. Muốn thành công, phải khéo dân vận. Đó là tư
tưởng dân chủ Hồ Chí Minh. Người phê phán nghiêm khắc: “Khuyết điểm to
ở nhiều nơi, là xem khinh việc dân vận. Cử ra một ban hoặc vài người mà
thường cử cán bộ kém cỏi rồi bỏ mặc họ. Vận được thì tốt, không vận được
cũng mặc. Những cán bộ khác trông nom, giúp đỡ, tự cho mình không có
trách nhiệm dân vận. Đó là sai lầm rất to, rất có hại” 3.
Như vậy, thực hành dân chủ trong nhân dân (hoặc dân vận) là phải kết
hợp các hình thức, các biện pháp từ trực tiếp đến gián tiếp và theo một quy
trình thống nhất mà ngày nay chúng ta gọi là cơ chế “dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra”, Hồ Chí Minh yêu cầu “dân vận không sót một người dân
nào”, dù tiến bộ hay lạc hậu. Điều này có ý nghĩa phương pháp luận quan
trọng trong điều kiện một Đảng duy nhất cầm quyền. Dân vận không chủ thực
hiện với người tiên tiến mà còn với người chậm tiến, thậm chí cả với người có
quá khứ lầm lạc nay cùng phấn đấu cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ văn minh.
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng dân vận tốt sẽ hạn chế để đi đến thủ tiêu quan
liêu, mệnh lệnh trong cán bộ. Một khi dân vận kém, quyền dân chủ bị của
nhân dân bị vi phạm nghiêm trọng, cán bộ các cấp thì quan liêu, đó sẽ là

nguyên nhân bùng lên những điểm nóng về an ninh chính trị - xã hội. Dân vận
còn bao hàm ý nghĩa phải làm sao cho người dân dám nói, dám góp ý kiến,
phê bình cán bộ, đó là biểu hiện của dân chủ, tức là dân đã được tự do tư
1

HCM: toàn tập, Sđd, t.8, tr.494 - 495
HCM: toàn tập, Sđd, t.5, tr.700
3
HCM toàn tập, Sđd, t8, tr 699
2

20


tưởng. Bởi người dân vẫn có thói quen dè dặt, thận trọng thì việc họ dám nói,
dám phê bình, đề xuất ý kiến là biểu hiện trình độ nhất định của dân chủ hóa
trong đời sống cộng đồng xã hội.
Hồ Chí Minh đã khẳng định “dân vận khéo thì việc gì cũng thành
công” nhưng dân vận khéo không phải là công việc dễ dàng, “không phải chỉ
nói suông” mà mỗi cán bộ, đảng viên, công chức trong thi hành nhiệm vụ cần
phải thực sự thực hành dân chủ rộng rãi đảm bảo kỷ cương pháp luật, mở
rộng công khai với thông tin minh bạch, nhanh nhạy, chính xác; bằng trách
nhiệm cao nhất trước dân. Bởi lẽ, dân vận khéo không phải là vấn đề kỹ xảo
mà là quá trình gắn kết ý Đảng lòng dân.

21


CHƯƠNG 2
Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ

MINH VỀ THỰC HÀNH DÂN CHỦ VÀ GIẢI PHÁP NÂNG
CAO HIỆU QUẢ THỰC HÀNH DÂN CHỦ Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY
2.1 Ý nghĩa của tư tưởng Hồ Chí Minh về thực hành dân chủ.
Tư tưởng Hồ Chí Minh mang ý nghĩa soi đường cho cách mạng Việt
Nam trên con đường xây dựng xã hội vì mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội
công bằng, dân chủ văn minh.Trong nhiều văn kiện của Đảng và Nhà
nước cũng như nhân dân ta đã từng khẳng định tư tưởng Hồ
Chí Minh không chỉ có giá trị đối với nước ta mà còn mang ý
nghĩa và giá trị thời đại.
Việc khẳng định ý nghĩa và giá trị thời đại của tư tưởng
Hồ Chí Minh ngày càng thể hiện rõ tầm cao trí tuệ cũng như
giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh đã vượt qua biên giới Việt Nam
đến với nhiều quốc gia dân tộc có hoàn cảnh như Việt Nam
trong đấu tranh vì hòa bình và tiến bộ của nhân loại.
Đối với Đảng ta những tư tưởng của Bác về thực hành dân chủ vẫn còn
vẹn nguyên giá trị. Những tư tưởng ấy mang tầm thời đại, vạch ra con đường
đi cho Đảng và nhân dân ta trong sự nghiệp xây dựng nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa trong bối cảnh toàn cầu hóa hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay.
2.2 Thực trạng
2.2.1 Thành tựu.
Chế độ ta là chế độ dân chủ, nhưng trong thời kinh tế bao cấp – tập
trung quan liêu, quyền làm chủ của nhân dân còn bị hạn chế nhiều, cơ chế tập
trung lấn át sáng tạo cá nhân, dân chủ vẫn còn trừu tượng hình thức. Khi
chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế
22


nhiều thành phần, tự do kinh doanh, tính tự chủ và dân chủ kinh tế được thiết
lập với cơ chế mới dân chủ mở rộng mơn, thực hành dân chủ rộng rãi hơn.

Theo đó dân chủ hóa xã hội – dân chủ pháp quyền trên các lĩnh vực xã hội,
chính trị hình thành cấu trúc lại các thành tựu dân chủ trước đây và bổ sung
nội dung mới. Như vậy, bước sang thời kì đổi mới dân chủ có bước thay đổi về
chất vừa cao hơn, vừa rộng rãi hơn quyền lực của nhân dân, thực hành dân chủ
trong nhân dân, trong Đảng và các tổ chức, đoàn thể có bước tiến triển mới.
Đảng và Nhà nước ta đang ra sức xây dựng nền dân chủ XHCN phát
huy dân chủ trong nhân dân. Đại hôi X của Đảng đã tổng kết: “Việc thực
hành dân chủ trong Đảng và trong xã hội, phát huy quyền làm chủ của nhân
dân, thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc có tiến bộ”1.
Nhiều nghị quyết Đại hội Đảng và Ban chấp hành TW đã lấy ý kiến
đến từng chi bộ và tổ chức quần chúng. Chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên
được nâng cao và công tác kiểm tra của các cấp ủy cấp trên và giám sát của
quần chúng có hiệu quả, phát hiện được kịp thời những vi phạm dân chủ, vi
phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, vi phạm chủ trương chính sách điều lệ
Đảng để xử lí nghiêm minh.
2.2.2 Hạn chế
Bên cạnh những thành tựu đạt được trong thực hành dân chủ ở nước ta
hiện nay vẫn còn nhiều yếu kém, bất cập.
Nạn tham ô, quan liêu, lãng phí diễn ra khá phổ biến ở một số cơ quan,
tổ chức nhà nước, gây bất bình trong nhân dân. Cơ chế hiện nay vẫn còn
nhiều cơ hội cho những kẻ trì trệ, những người trung bình yên ổn. Nếu họ
không phạm khuyết điểm gì thì hàng tháng vẫn lĩnh lương đều, đến niên hạn
lại lên lương khen thưởng thậm chí có số phiếu tín nhiệm cao. Tình trạng này
làm cho dân không tin vào cán bộ, không tin vào Đảng và Nhà nước.
Quyền dân chủ của nhân dân vẫn bị vi phạm, tình trạng khiếu kiện kéo
dài là biểu hiện rõ rệt nhất của việc dân chưa được thực hành dân chủ. Đơn
1

ĐCSVN: Văn kiện ĐH đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, NXB CTQG HN 2006, tr 261 - 262


23


thư khiếu kiện được di chuyển lại từ cơ quan này sang đơn vị khác, “cấp dưới
đẩy lên, cấp trên đẩy xuống” trở nên rất phổ biến. Khi dân biết dùng quyền
dân chủ “dám nói, dám làm” dân chủ thì không cơ quan đơn vị, tổ chức nào
để cho dân được thực hiện các quyền ấy. Khẩu hiệu “dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra” chưa thực sự phát huy.
Thể chế hành chính còn nhiều cấp trung gian lại nhiều thủ tục bất hợp lí
dẫn đến tình trạng hành dân và hành nhau giữa các cơ quan quyền lực.Nhà
nước thiếu cơ chế giám sát, phản biện một cách phổ biến chưa có luật về
trưng cầu dân ý.
Dân chủ trong Đảng vẫn còn hạn chế, khép kín, tính dân chủ hình thức,
thiếu minh bạch, kém tin dân vẫn tồn tại. Một số cấp ủy chính quyền cơ sở chưa
tin dân, không tạo điều kiện cho dân thực hiện quyền dân chủ, nhất là quyền dân
chủ trực tiếp nên ngại tổ chức để dân bàn bạc, ngại đối thoại với dân.
Một bộ phận dân cư còn thờ ơ trước một số sự kiện chính trị trọng đại
và thiếu ý thức thực hiện nghĩa vụ công dân ( trong những cuộc bầu cử Đại
biểu quốc hội và HĐND các cấp, có người đi bỏ phiếu cho cả nhà; trong Đại
hội công nhân, viên chức ở một số cơ quan thì “ba không”: không thảo luận,
không chất vấn, không đối thoại).
2.2.3 Vấn đề dặt ra hiện nay
Trước thực trạng của việc thực hành dân chủ ở nước ta trong những
năm qua thì vấn đề đặt ra là một mặt phải không ngừng phát huy những thành
tựu đã đạt được và nhanh chóng khắc phục những yếu kém, thiếu sót để thực
hành dân chủ rộng rãi trong nhân dân, trong toàn Đảng. Đồng thời phải tiếp
tục đổi mới, cải cách, thiết lập hoàn thiện và phát triển nền dân chủ XHCN ở
nước ta hiện nay. Để làm được những điều đó thì việc phải thực hiện, phát
triển vận dụng sáng tạo những giá trị tư tưởng về dân chủ nói chung thực
hành dân chủ nói riêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tình hình mới có ý

nghĩa thiết thực. Nước ta đang bước vào giai đoạn đẩy mạnh toàn diện công
cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, do đó không
24


có dân chủ mạnh mẽ, không tiếp tục cải cách dân chủ, nhất là về thể chế thì
không thể phát huy được động lực, các nguồn lực để tiếp tục đổi mới và hội
nhập quốc tế. Sẽ bế tắc nếu không cải cách dân chủ, thật sự thực hành dân chủ
rộng rãi, thật sự phát huy, phát triển dân chủ theo hướng XHCN. Có nhiều
vấn đề đặt ra cần nghiên cứu và thực hành cải cách phát huy dân chủ trong đó
có một số vấn đề cần lưu ý:
Trước hết cần cải cách thể chế dân chủ, thực hành dân chủ rộng rãi
trong Đảng nhất là dân chủ trong công tác cán bộ.
Thực hành dân chủ rộng rãi ở cơ sở, thực sự tin dân, dựa vào dân.
Thực hiện giám sát, kiềm chế quyền lực trong các quan hệ quyền lực giữa
các cơ quan quyền lực Nhà nước để thực hành dân chủ công khai, minh bạch.
Phải chống lại dân chủ hình thức, tập trung quan liêu, nhất là vi phạm
xâm phạm quyền dân chủ của nhân dân, xử lí nghiêm minh công bằng.
2.3 Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hành dân chủ ở Việt Nam hiện nay.
2.3.1 Quan điểm chỉ đạo của Đảng.
Trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng
sản Việt Nam, vấn đề dân chủ được đưa vào với tư cách là mục tiêu phát triển
“dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh”. Dân không chỉ có
quyền mà còn có trách nhiện tham gia hoạch định và thi hành các chủ trương,
chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Đến Đại hội X, quan điểm về dân chủ của Đảng ngày càng được mở
rộng, cụ thể là thực hiện “dân chủ hóa” tất cả các mặt của đời sống xã hội.
Bản chất dân chủ của Nhà nước Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh được
Đại hội X xác định rất rõ: “Nhà nước là đại diện quyền làm chủ của nhân
dân, đồng thời là người tổ chức thực hiện đường lối chính trị của Đảng. Mọi

đường lối chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước đều phản ánh lợi
ích của đại đa số nhân dân”1.
1

ĐCSVN: Văn kiện ĐH đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, NXB CTQG HN 2006, tr 44

25


×