Tải bản đầy đủ (.pdf) (46 trang)

Đảng cộng sản việt nam lãnh đạo công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn liền với phát triển kinh tế tri thức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1015.73 KB, 46 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC s ư PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ

NGUYỄN THỦY NGÂN

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
LÃNH ĐẠO CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
GẮN LIỀN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC

KHÓA LUẬN TÓT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lịch sử Đăng Cộng sản Việt Nam

Ngưòi hướng dẫn khoa học:
ThS. Ngô Thị Lan Hưong

HÀ NỘI 2014


LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình thực hiện đề tài này em nhận được sự hướng dẫn chỉ bảo
tận tình của cô giáo -ThS. Ngô Thị Lan Hương.
Với tấm lòng biết ơn sâu sắc em xin chân thành cảm ơn cô.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo trong khoa Giáo dục chính
trị, các cô, chú cán bộ quản lý thư viện, phòng đọc tạp chí, luận văn Trường
Đại học sư phạm Hà Nội 2 đã tạo điều kiện cho em trong quá trình thực hiện
đề tài.
Em xin chân thành cảm ơn các bạn sinh viên K36 GDCD - GDQP, Khoa
giáo dục chính trị đã giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện đề tài.

Hà Nội, tháng 5 năm 2014


Sinh viên

Nguyễn Thủy Ngân


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Trong khi
nghiên cứu tôi đã kế thừa thành quả của các nhà khoa học của đồng nghiệp
vói sự chân trọng và biết ơn. Các kết quả nêu trong khóa luận là hoàn toàn
trung thực

Hà Nội, tháng 5 năm 2014
Sinh viên

Nguyễn Thủy Ngân


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU............................................................................................................1
NỘI DUNG........................................................................................................5
Chương 1. MỘT s ố VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG CÔNG NGHIỆP, HIỆN
ĐẠI HÓA GẮN VỚI KINH TẾ TRI THỨC................................................... 5
1.1. Một số khái niệm cơ bản........................................................................5
1.2. Tính tất yếu của công nghiêp hóa, hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức 10
Tiểu kết chương 1 .........................................................................................21
Chương 2. CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA GẮN VỚI PHÁT
TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC ở VIỆT NAM DƯỚI s ự LÃNH ĐẠO CỦA
ĐẢNG..............................................................................................................22

2.1. Chủ trương và định hướng của Đảng về Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
gắn với phát triển kinh tế tri thức..................................................................22
2.2. Qúa trình lãnh đạo công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn liền với phát triển
kinh tế tri thức của Đảng.............................................................................. 33
2.3. Một số nhận xét và kinh nghiệm.........................................................48
Tiểu kết chương 2 ........................................................................................ 67
KẾT LUẬN......................................................................................................68
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................ 70


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong xu thế toàn cầu hóa, quốc tế hóa nền kinh tế thế giới hiện nay,
phát triển kinh tế tri thức đang trở thành mục tiêu, hướng đi của tất cả các
quốc gia, đặc biệt là những nước đi sau như Việt Nam chúng ta, để có thể đưa
nền kinh tế nước ta theo kịp với kinh tế các nước phát triển không phải là nền
kinh tế suy thoái, tụt hậu so với các nước, từ thực tế đó, tại Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần thứ X của Đảng (tháng 4 năm 2006) đã khẳng định “Đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn vói phát triển kinh tế tri thức”.
Chính sự phát triển mạnh mẽ của khoa học trong mấy chục năm trở lại
đây đã đưa loài người sang một thời kỳ phát triển mới.Khoa học công nghệ
phát triển như vũ bão, toàn cầu hóa phát triển mạnh.Hình thành nền kinh tế tri
thức. Trong nền kinh tế tri thức thì tri thức, khoa học công nghệ, đã trở thành
lực lượng sản xuất chính, quyết định đến sự phát triến kinh tế -xã hội. Nước ta
từ một nước có nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội, trong
bối cảnh toàn cầu hóa chúng ta hải tiến hành đồng thời 2 quá trình:Chuyển từ
nền kinh tế nông nghiệp lên kinh tế công nghiệp, chuyển từ kinh tế nông công nghiệp lên kinh tế tri thức. Trong khi ở các nước đi trước, đó là hai quá
trình kế tiếp nhau, thì ở nước ta tận dụng cơ hội là nước đi sau, hai quá trình
này được lồng ghép với nhau kết hợp các bước tuần tự với các bước phát triển
nhảy vọt, gắn liền công nghiệp hóa hiện đại hóa với phát triển kinh tế tri thức.

Chính điều này đã tạo ra những thách thức đồng thời cũng tạo ra những cơ hội
thuận lọi đối với các nước đã và đang phát triển đặc biệt là nước ta. Việc rút
ngắn khoảng cách của nước ta so với các nước phát triển hơn trong khu vực
và trên thế giói, một mặt đòi hỏi chúng ta phải chủ động hội nhập một cách có
hiệu quả để khai thác nhữngcơ hội toàn cầu hóa và cuộc cách mạng khoa học
công nghệ mang lại; mặt khác nhanh chóng tạo ra nhưng điều kiện tiền đề như

1


đổi mới quản lý xã hội, xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển giáo dục và đào
tạo, bảo vệ và cải tạo tài nguyên môi trường xanh sạch đẹp, phát triển khoa
học công nghệ.
Với ý nghĩa như vậy thì việc xây dựng một nền kinh tế tri thức ở nước ta
là một nhiệm vụ quan trọng. Từ thực tiễn phải đổi mới như vậy nên tôi đã
chọn đề tài "Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo cồng nghiệp hóa, hiện đại
hóa gẳn liền với phát triển kinh tể trithức ”.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nước ta đang trong thòi kỳ mở cửa hội nhập, khái niệm kinh tế tri thức
là khái niệm mới, nhưng đã có rất nhiều tác giả, các giáo sư, tiến sĩ nghiên
cứu về vấn đề này. Đã có nhiều cuộc hội thảo mang vấn đề kinh tế tri thức
mang ra làm đề tài thảo luận để nhằm tiếp cận và xây dựng phát triển một nền
kinh tế tri thức ở Việt Nam như: “Nền kinh tế tri thức và mục tiêu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam” của tiến sĩ Đặng Ngọc Dinh, “Công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và nền kinh tế tri thức” của tiến sĩ Nguyễn Quang
Thái, “Kinh tế tri thức với chiến lược phát triển của Việt Nam” của Giáo sư,
Viện sĩ Đặng Hữu - Trưởng ban khoa giáo trung ương. Nước ta đã tiến hành
công nghiệp hóa, hiện đại hóa được một thời gian và việc xây dựng nền kinh
tế tri thức không còn là khái niệm và việc làm mới mẻ nhưng khi chúng ta vẫn
chưa đạt hết mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đề ra thì nó vẫn là vấn đề cấp

thiết, cần nghiên cứu và đưa ra những sáng kiến có ích. Vì vậy khóa luận
nghiên cứu về “Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa gẳn liền ván phát triển kinh tế tri thức.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Khóa luận bước đầu làm rõ quan điểm, chủ trương của Đảng trong việc
lãnh đạo sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế,

2


đưa ra được phương hướng và quá trình thực hiện những nhiệm vụ mà Đảng
giao phó tới các cấp, ban ngành. Và cuối cùng thì kết luận đưa ra và đánh giá
những mặt tích cực và hạn chế.
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện được mục đích đó, khóa luận cần tập trung giải quyết các
nhiệm vụ sau:
- Một là nêu ra vai trò quan trọng của kinh tế tri thức và trình bày được
tính tất yếu phải thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn liền với phát
triển kinh tế tri thức.
- Đưa ra được quá trình thực hiện của các ban ngành từ cấp cơ sở để thấy
rõ được sự lãnh đạo của Đảng quyết tâm thực hiện được mục tiêu đã đề ra.
- Quá trình thực hiện ấy chúng ta đã đạt được những gì và điểm nào cần
bổ xung và sửa đổi. Rút ra bài học kinh nghiệm.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Khóa luận nghiên cứu về vấn đề Đảng lãnh đạo sự nghiệp Công nghiệp
hóa, hiện đại hóa gắn liền vói phát triển kinh tế tri thức. Đối tượng nghiên cứu
chủ yếu là nghiên cứu các chủ chương, định hướng mà Đảng đưa ra và quá
trình thực hiện, kết quả mà chúng ta đạt được dưới sự chỉ đạo của Đảng.

4.2. Pham vi nghiên cứu
Khóa luận nghiên cứu giai đoạn từ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII (1996) là giai đoạn bắt đầu của sự nghiệp Công nghiệp hóa, đến Đại hội
Đại biểu toàn quốc lần thứ XI (2011) là Đảng đã hoàn thành chủ chương xây
dựng đất nước theo con đường Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn liền với
phát triển kinh tế tri thức và nghiên cứu đến giai đoạn hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở phương pháp luận

3


Để có thể thực hiện được đề tài này thì tác giả đã dựa vào các tài liệu về
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, và nghiên cứu về kinh tế tri thức. Và dựa vào
các văn kiện Đại hội Đảng toàn Quốc lần VII, VIII, IX, X, XI, và dựa vào
đường lối, chủ chương và quá trình thực hiện của Đảng và Nhà Nước.
5.2. Các phương pháp chuyên ngành khác
Tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học như sau: phương
pháp phân tích, phương pháp tổng họp, phương pháp logic và lịch sử, phương
pháp thống kê, phương pháp quy nạp và diễn dịch...
6. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, khóa luận, danh mục tài liệu tham khảo, kết kuaanj
thì khóa luận được chia làm 2 chương 5 tiết.

4


NỘI DUNG
Chương l.MỘT SỐ VẨN ĐÈ LÝ LUẬN CHUNG CÔNG NGHIỆP
HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA GẮN VỚI KINH TẾ TRI THỨC

1.1. Môt
• số khái niêm
• cơ bản
1.1.1. Khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa
ở thế kỷ XVII,XVIII,khi cuộc cách mạng công nghiệp được tiến hành ở
Tây Âu, công nghiệp hóa được hiểu là quá hình thay thế lao động thủ công
bằng lao động sử dụng máy móc. Khái niệm công nghiệp hóa mang tính lịch
sử, tức là luôn có sự thay đổi cùng với sự phát hiển của nền sản xuất xã hội,
của khoa học, công nghệ. Do đó, việc nhận thức đúng đắn khái niệm này
trong từng giai đoạn phát hiển của nền sản xuất xã hội có ý nghĩa to lớn về cả
lý luận và thực tiễn.
ở Việt Nam, đường lối công nghiệp hóa được Đảng đề ra từ những năm
60 của thế kỷ XX.Qua quá trình phát triển của lịch sử quan điểm đó ngày
càng được hoàn thiện. Tại Hội nghị ban chấp hành Trung ương lần thứ
bảy,khóa VII,của Đảng ta đã xác định: Công nghiệp hóa phải đi đôi với hiện
đại hóa và là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta.
Ke thừa có chọn lọc những tri thức văn minh của nhân loại, rút kinh
nghiệm trong lịch sử tiến hành công nghiệp hóa và từ thực tễn công nghiệp
hóa ở Việt Nam, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (năm 1996 )của
Đảng cộng sản Việt Nam đã xác định: “Công nghiệp hóa,hiện đại hóa là quá
trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch
vụ,và quản lý kinh tế- xã hội, từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử
dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và
phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và

5


tiến bộ khoa học, công nghệ nhằm tạo ra năng suất lao động xã hội cao” [1 ,

tr. 282].
Cụ thể hóa hơn nữa bước đi của thời kỳ đẩy mạnh công nghiêp hóa, hiện
đại hóa. Đại hội Đảng lần thứ VIII chỉ rõ: “Tập trung mọi lực lượng, tranh thủ
thời cơ, vượt qua thử thách, đẩy mạnh công cuộc đổi mới một cách toàn diện
và đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”
[2, ừ. 38].
Khái niệm công nghiệp hóa trên đây được Đảng ta xác định rộng hơn
những quan điểm trước đó, bao hàm cả về hoạt động sản xuất kinh doanh, cả
về dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội, được sử dụng bằng các phương tiện và
phương pháp tiên tiến, hiện đại cùng với kỹ thuật và công nghệ cao. Như vậy,
công nghiệp hóa theo tư tưởng mới là không bó hẹp phạm vi, trình độ các lực
lượng sản xuất đơn thuần, kỹ thuật đơn thuần để chuyển lao động thủ công
thành lao động cơ khí như quan niệm trước đây.
1.1.2. Khái niêm kỉnh tế tri thức
Kinh tế tri thức là giai đoạn phát triển mới của lực lượng sản xuất xã hội
loài người. Báo cáo Chính trị tại Đại hội lần thứ IX của Đảng đã nêu: “thế kỷ
thứ XXI sẽ tiếp tục có nhiều biến đổi. Khoa học - công nghệ sẽ có bước tiến
nhảy vọt, kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát
triển của lực lượng sản xuất” [7, ứ. 167],
Cuộc cách mạng thông tin và cách mạng tri thức đang làm biến đổi sâu
sắc lực lượng sản xuất xã hội, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển lên một
thang bậc mới: “kinh tế tri thức toàn cầu hoá”. Sự nhảy vọt của lực lượng sản
xuất chắc chắn sẽ gây ra những biến động to lớn, sâu sắc đến quan hệ sản xuất
và mọi mặt của đời sống xã hội trên hành tinh. Một cuộc cách mạng xã hội
rộng lớn quyết liệt sẽ xảy ra những quan hệ sản xuất đã lỗi thời sẽ được thay

6



thế bằng quan hệ sản xuấn tiên tiến phù họp. Sự chuyển từ kinh tế nông
nghiệp sang kinh tế công nghiệp là sự chuyển từ lao động thủ công sang lao
động máy móc, từ kinh tế lao động sang kinh tế tài nguyên. Sự chuyển từ kinh
tế công nghiệp sang kinh tế tri thức là sự chuyển từ kinh tế dựa vào tài nguyên
và kinh tế chủ yếu dựa vào trí tuệ con người.
Tri thức luôn luôn là động lực thúc đẩy sự phát triển nhưng cho đến gần
đây cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại phát triển nhảy vọt tri thức
bùng nổ, tri thức mới trở thành “yểu tổ quan trọng nhất của sản xuất” quan
trọng hơn cả tài nguyên và vốn. Tri thức đóng góp phần quan trọng nhất trong
giá trị sản phẩm làm ra. Ngày nay trong các nền kinh tế phát triển nhất, hàm
lượng do tri thức tạo ra được kết tinh trong sản phẩm đạt trên 50% giá trị tổng
sản lượng, khác với các yếu tố khác của sản xuất tri thức khi chuyển giao cho
người khác, người sở hữu tri thức không mất tri thức càng chuyển giao cho
nhiều người thì càng được nâng lên, sử dụng vốn đó cho sản xuất thì giá trị
tạo ra sẽ tăng lên nhanh chóng nền kinh tế có thể từ khan hiếm trở nên dư dật.
Xu thế phát triển này không nằm ngoài dự đoán của

c. Mác. Tuy ông

không nói kinh tế tri thức nhưng ông cho rằng. “Tri thức sẽ trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp

“Biển quả trình sản xuất từ chỗ là một quả trình

lao động giản đơn thành quá trình khoa học

“Thay vì làm tác nhân chủ yếu

của quá trình sản xuất, người nông dân lại đứng bên cạnh quá trình ấy - là
người kiểm soát và điều tiết bản thân quá trình ấy

bắp trong sản xuất sản phẩm sẽ giảm còn cực nhỏ

“Hàm lượng lao động cơ
“Phát minh trở thành

một nghề đặc biệt” [5, tr. 168].
Kinh tế tri thức bắt đầu xuất hiện từ hai thập kỷ qua. Trong các nền kinh
tế phát triển trên thế giới đang diễn ra nhiều chuyển biến mới. Các hoạt động
kinh doanh thương mại, cách tổ chức sản xuất, cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao
động, vị trí của con người trong sản xuất đều có những thay đổi lớn. Nhiều

7


khái niệm đã thay đổi, nhiều quy tắc hoạt động kinh tế truớc đây không còn
phù họp nữa đã hình thành những luật chơi đòi hỏi tốc độ sự linh hoạt đổi mới
sức sáng tạo kinh tế tri thức tạo ra nhiều cơ hội mới, nhưng đồng thời cũng
đặt ra nhiều thách thức đối với các nước đang phát triển. Đó là nền kinh tế
dựa trên khoa học công nghệ tiến tiến và mang xa lộ thông tin hiện đại, có
năng suất, chất lượng, hiệu quả cao tốc độ tăng trưởng cao, cơ cấu dịch vụ
chuyển nhanh không những đổi mới. Song đây cũng là nền kinh tế mang
nhiều tính rủi ro, luôn đặt ra nhiều thách thức mới. Cơ cấu lao động thay đổi
rất lớn, người lao động trực tiếp làm ra sản phẩm giảm đi, người làm công
việc xử lí thông tin, điều khiển kiểm soát là công nhân tri thức chiếm đa số
trong lực lượng lao động. Sản xuất công nghệ trở thành loại hình sản xuất
quan trọng nhất. Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh công nghệ doanh
nghiệp sáng tạo phát triển mạnh.
Kinh tế tri thức thúc đẩy sự dân chủ hóa, tổ chức quản lí nhiều đổi mới,
mô hình chỉ huy tập chung có đẳng cấp. Trong kinh tế tri thức mọi người đều
học tập, học thường xuyên không ngừng trao dồi kĩ năng, thường xuyên bổ

túc, cập nhật kiến thức chủ động theo kịp sự đổi mới. Phát triển con người trở
thành nhiệm vụ trung tâm [5, tr. 169].
Nen kinh tế tri thức chỉ mới xuất hiện ở một vài nước phát triển nhất
như. Mĩ, Đức và Nhật Bản. Vì vậy, chưa thể đưa ra một định nghĩa chính xác,
cụ thể nào về kinh tế tri thức. Nhưng vấn đề này được rất đề học giả quan tâm
họ đưa ra một số thuật ngữ liên quan đến nền kinh tế tri thức như: Nen kinh
tế tri thức là nền kinh tế dựa trên tri thức, nền kinh tế được dẫn dắt bởi tri
thức, nền kinh tế thông tin, nền kinh tế mạng... và còn rất nhiều thuật ngữ
khác. Nhìn chung các tài liệu quốc tế liên quan đến vần đề này đều mô tả kinh
tế tri thức, dựa trên các định nghĩa của Tổ chức Hợp pháp và Phát triển kinh
tế “OECD” đưa ra năm 1995 như sau:

8


“Kinh tể trí thức là nền kinh tể trong đỏ có sự sản sinh ra, phổ cập và sử
dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đổi với sự phát triển kỉnh tể, tạo ra
của cải, nâng cao chất lượng cuộc sổng’’ [1, tr. 290].
Tuy chấp nhận chung một định nghĩa nhưng khái niệm kinh tế tri thức
trên thực tế lại được hiểu rất khác nhau. Có thể phân loại tưong đối những
cách hiểu khác nhau đó bằng ba cách tiếp cận sau.
Một là, cách tiếp cận /ỉẹ/?.Những người theo cách tiếp cận này hiểu tri
thức với nghĩa hẹp, tức là đồng nghĩa tri thức với khoa học và công nghệ hoặc
đôi khi còn coi tri thức chủ yếu là cuộc cách mạng công nghệ hiện đại. Trong
đó, có bốn công nghệ trụ cột là: công nghệ thông tin, công nghệ sinh học,
công nghệ vật liệu mới, công nghệ không gian vũ trụ. Nền kinh tế tri thức
phát triển tới một trình độ càng cao nếu các ngành dựa trên tri thức chiếm tỉ lệ
càng lớn trong nền kinh tế. Có hai cột mốc cho thấy một nền kinh tế quốc gia
đã chuyển sang giai đoạn kinh tế tri thức, đó là:
-Tỉ trọng của khu công nghiệp, nông nghiệp lên tới điểm cực đại và ngày

càng giảm đi. Điểm mốc này đã xuất hiện ở những nước tiên tiến nhất cách
đây khoảng 30 năm.
-Tỉ trọng của các ngành dựa trên tri thức theo phân loại của OECD
chiếm trên 70% GDP quốc gia.
Hai là, cách tiếp cận rộng. Cách tiếp cận này dựa trên cách hiểu rộng về
tri thức, đó là: tri thức bao gồm mọi hiểu biết của con người đối với bản thân
và thế giới. OECD cho rằng, kinh tế tri thức không chỉ có nguồn gốc từ sự
tiến bộ vượt bậc của công nghệ mới mà là kết quả của một tập hợp ba nhóm
nguyên nhân trực tiếp tác động tương tác và tự tăng cường lẫn nhau, bao gồm:
tiến bộ của khoa học công nghệ, nền kinh tế toàn cầu hóa cạnh tranh quyết
liệt, các biến đổi về văn hóa, chính trị, tư tưởng của chủ nghĩa tư bản hiện đại.
Ba là, cách tiếp cận bao trùm. Theo cách tiếp cận này, kinh tế tri thức
thực chất là một môi trường kinh tế - văn hóa - xã hội mới. Trong môi trường

9


đó, tri thức tất yếu sẽ trở thành nhân tố sản xuất quan trọng nhất đóng góp vào
sự phát triển kinh tế. Do vậy, việc phát triển một nền kinh tế tri thức không
phải đơn thuần là phát triển khoa học, công nghệ mà phát triển một nền văn
hóa đổi mới, sáng tạo để thuận lợi nhất cho việc sản xuất, khai thác và sử
dụng mọi loại tri thức, hiểu biết của con người. Xét theo nghĩa này, kinh tế tri
thức có thể hiểu như một giai đoạn phát triển mới của toàn bộ nền kinh tế,
một giai đoạn mới của xã hội nói chung. Cách tiếp cận này dành được rất
nhiều sự ủng hộ.
Như vậy, tùy theo quan điểm và mục đích nghiên cứu riêng có thể lựa
chọn một trong ba cách hiểu trên về khái niệm kinh tế tri thức. Nói tóm lại,
kinh tế tri thức có rất nhiều cách hiểu khác nhau tùy thuộc vào mục đích nghiên
cứu của từng người. Tuy nhiên, hiện nay đang nổi lên xu hướng chấp nhận
cách tiếp cận bao trùm đối với khái niệm kinh tế tri thức. Tức là nhấn mạnh

đến việc tạo dựng một môi trường kinh tế - xã hội, tạo điều kiện thuận lợi nhất
cho việc sử dụng tri thức, việc chuyển biến tri thức thành sức mạnh sản xuất
đạt tới trình độ cao và tri thức trở thành yếu tố sản xuất quan trọng nhất.
1.2.Tính tất yếu của công nghiệp hóa,hiện đại hóa gắn vối kỉnh tế tri thức
1.2.1

Tính tất yếu và tác dạng cửa công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở

nước ta
* Tính tất yếu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Mỗi phương thức sản xuất xã hội chỉ có thể được xác lập trên cơ sở vật
chất - kỹ thuật tương ứng. Cơ sở vật chất - kỹ thuật của một xã hội là toàn bộ
hệ thống các yếu tố vật chất của lực lượng sản xuất xã hội phù hợp với trình
độ kỹ thuật tương ứng mà lực lượng lao động xã hội sử dụng để sản xuất ra
của cải vật chất nhằm thoả mãn nhu cầu của xã hội. Nhiệm vụ quan trọng nhất
của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội không qua chế độ tư
bản chủ nghĩa là phải xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội,

10


trong đó có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hóa và khoa học tiên
tiến. Muốn thực hiện thành công nhiệm vụ quan trọng đó, nhất thiết chúng ta
phải tiến hành công nghiệp hóa, tức là chuyển nền kinh tế lạc hậu thành nền
kinh tế công nghiệp phát triển
Chủ nghĩa xã hội muốn tồn tại và phát triển, cũng cần phải có một nền
kinh tế tăng truởng và phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và
chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Cơ sở vật chất - kỹ
thuật của chủ nghĩa xã hội cần phải xây đựng trên cơ sở những thành tựu mới
nhất, tiên tiến nhất của khoa học công nghệ. Cơ sở vật chất kỹ thuật này phải

tạo ra được một năng xuất lao động xã hội cao. Công nghiệp hóa chính là quá
trình tạo nền tảng cơ sở vật chất kỹ thuật đó cho nền kinh tế quốc dân xã hôi
chủ nghĩa.
Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, cơ
sở vật chất kỹ thuật thấp kém, trình độ của lực lượng sản xuất chưa phát triển,
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa mới được thiết lập, chưa đựơc hoàn thiện.
Vì vậy, quá trình Công nghiệp hóa, hiện đại hóa chính là quá trình xây dựng
cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế quốc dân. Mỗi bước tiến của quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa là một bước tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật
cho chủ nghĩa xã hội, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất góp phần hoàn
thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
Trong xu thế khu vực hóa và toàn cầu hóa về kinh tế đang phát triển
mạnh mẽ trong điều kiện cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại
phát triển nhanh chóng, những thuận lợi và khó khăn về khách quan và chủ
quan, có nhiều thời cơ và cũng có nhiều nguy cơ, vừa tạo ra những vận hội
mới, vừa cản trở thách thức nền kinh tế của chúng ta, đan xen với nhau, tác
động lẫn nhau. Vì vậy chúng ta phải chủ động sáng tạo nắm lấy thời cơ, phát
huy những thuận lợi để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, tạo ra thế và lực

11


mới để vượt qua những khó khăn, đẩy lùi nguy cơ đưa nền kinh tế tăng trưởng
và phát triển bền vững.
* Tác dụng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đối với nước ta
Từ thập niên 60 của thế kỷ XX, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra
đường lối công nghiệp hóa và coi công nghiệp hóa là nhiệm vụ trung tâm
trong suốt thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Thực tiễn đã chứng minh
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa sẽ có tác dụng to lớn về nhiều mặt
trong sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước, đó là:

Một là, Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta trước hết là một quá
trình thực hiện mục tiêu xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Đó là quá
trình thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nhằm cái biến một xã hội
nông nghiệp thành một xã hội công nghiệp, gắn với việc hình thành từng
bước quan hệ sản xuất tiến bộ, ngày càng thể hiện đầy đủ hơn bản chất ưu việt
của chế dộ xã hội mới - xã hội chủ nghĩa.
Hai là, Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình tạo ra những điều kiện
vật chất - kĩ thuật cần thiết về con người và khoa học, công nghệ, thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn
lực để không ngừng tăng năng suất lao động làm cho nền kinh tế tăng trưởng
nhanh, nâng cao đời sống vật chất vãn hóa tinh thần cho nhân dân, thực hiện
công bằng và tiến bộ xã hội, bảo vệ và cải thiện tài nguyên môi trường sinh thái.
Ba là, Công nghiệp hóa, hiện đại hóa tạo ra cơ sở vật chất để làm biến
đổi về chất lực lượng sản xuất, nhờ đó mà nâng cao vai trò của người lao
động - nhân tố trung tâm của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, tạo điều kiện vật
chất cho việc xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản
sắc dân tộc.
Bốn là, Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là cơ sở kinh tế để củng cố và
phát triển khối liên minh vững chắc giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông

12


dân và đội ngũ trí thức trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt
là góp phần tăng cường quyền lực, sức mạnh và hiệu quả của bộ máy quản lí
kinh tế nhà nước.
Năm là, Công nghiệp hóa, hiện đại hóa tạo điều kiện vật chất để xây
dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ vững mạnh, trên cơ sở đó mà thực hiện tốt
việc phân công và họp tác quốc tế công nghiệp hóa hiện đại hóa thúc đẩy sự
phân công lao động xã hội phát triển, thúc đẩy quá trình quy hoạch vùng lãnh

thổ họp lí theo hướng chuyên canh tập chung làm cho quan hệ kinh tế giữa
các vùng, các miền trở nên thống nhất cao hơn.
Sáu là, Công nghiệp hóa, hiện đại hóa không những có tác dụng thúc đẩy
nền kinh tế tăng trưởng phát triển cao mà còn tạo tiền đề vật chất để xây
dựng, phát triển và hiện đại hóa nền quốc phòng - an ninh. Sự nghiệp quốc
phòng và an ninh gắn liền với sự nghiệp phát triển văn hóa, kinh tế, xã hội.
Bảy là, Công nghiệp hóa, hiện đại hóa tạo ra những tiền đề cho sự phát
triển đồng bộ kinh tế - chính trị, văn hóa - xã hội, quốc phòng và an ninh.
Thành công của sự nghiệp công nghiệp hóa nền kinh tế quốc dân là nhân tố
quyết định sự thắng lợi của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng và
nhân dân ta đã lựa chọn. Chính vì vậy mà công nghiệp hóa nền kinh tế được
coi là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kí quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta.
Như vậy, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa là bước đi đúng đắn,
hợp quy luật tạo điều kiện xây dựng cơ sở vật chất - kĩ thuật để chúng ta tiến
nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội. Đảng ta xác định “Mục
tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là xây dựng nước ta thành một nước
công nghiệp, có cơ sở vật chất kĩ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lí, quan hệ
sản xuất tiến bộ, phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, quốc phòng,
an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng văn minh xây dựng

13


thành công chủ nghĩa xã hội. Từ nay đến năm 2020, gia sức phẩn đẩu đưa
nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp ” [6, tr. 18 -19].
1.2.2

Cơ hội và thách thức đối với nước ta khi áp dạng nền kinh tế


tri thức
Muốn xây dựng một Việt Nam giàu đẹp văn minh thì chúng ta không
còn con đường nào khác ngoài tiến hành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa gắn liền vói phát triển kinh tế tri thức. Vậy khi chúng ta áp dụng nền kinh
tế tri thức thì sẽ mang lại những lọi ích gì và sẽ có nguy cơ và thách thức như
thế nào đối với nền kinh tế nước ta. Trong khi nước ta đang được đánh giá và
xếp vào diện đang phát triển.
Các nước đang phát triển đối mặt với những thách thức rất gay gắt do
thiếu tri thức và thông tin, tụt hậu ngày càng xa, nguy cơ mất bản sắc văn hóa,
mất độc lập chủ quyền. Thế nhưng nếu có chiến lược đúng đắn, có đủ năng
lực nội sinh, biết nắm bắt lấy thời cơ, nắm bắt những thành tựu Khoa học
Công nghệ tiên tiến nhất, từng bước phát triển kinh tế tri thức có thể rút ngắn
khoảng cách với các nước phát triển. Rút ngắn khoảng cách về tri thức thì sẽ
rút ngắn khoảng cách của sự phát triển. Hiện nay hầu hết các nước đang phát
triển đều có chiến lược: “Hướng tới kinh tể tri thức ”, “sử dụng trì thức cho
phát triển”, để rút ngắn khoảng cách với các nước khác. Nhân tố quan trọng
hàng đầu để thực hiện chiến lược ấy là phát triển vốn con người, phát triển
mạnh giáo dục và đào tạo, nâng cao năng lực khoa học công nghệ, hội nhập
quốc tế để tranh thủ vốn công nghệ nước ngoài, đặc biệt là phát triển và ứng
dụng công nghệ thông tin coi đó là động lực quan trọng nhất cho đổi mới và
phát triển.
Nước ta sau hơn 15 năm đổi mới, đã đạt được những thành tựu vĩ đại
nền kinh tế phát triển khá nhanh, nhưng trong cuộc chạy đua kinh tế mới của
thế giới ngày nay nước ta đang ở điểm xuất phát rất thấp. Thu nhập bình quân

14


đầu người nước ta chỉ bằng 1/12 bình quân thế giới, đại đa số dân cư thu nhập
dưới lđôla 1 người thuộc nhóm nghèo nhất trên thế giới. Nền kinh tế kém

hiệu quả tỉ lệ dịch vụ trong GDP chiếm 39,1%( bình quân toàn thế giới là
61%, các nước phát triển là 51% ). Tỉ lệ nông nghiệp còn chiếm 24,3%( bình
quân toàn thế giới là 5%, các nước phát triển là 12%). Giá trị xuất khẩu đạt
hơn 50% GDP, nhưng sản phẩm xuất khẩu chủ yếu là nguyên liệu thô, mức
độ chế biến thấp, với cơ cấu kinh tế ấy nước ta bị chèn ép, bóc lột nặng nề.
Giá nông sản và nguyên liệu thô sơ xuất khẩu rất rẻ, giá trang thiết bị, công
nghệ phẩm, là công nghệ cao nhập khẩu lại rất đắt, gia công hàng nước ngoài
thì không được bao nhiêu, lợi nhuận hầu như nước ngoài “hưởng hết”, năng
lực cạnh tranh của nền kinh tế xếp 54 trong 57 nước trong diễn đàn kinh tế thế
giới [5, tr.171-172].
Nước ta về cơ bản vẫn còn là nước nông nghiệp, kết cấu hạ tầng còn rất
kém, lạc hậu, không thể trong thời gian ngắn hiện đại hóa được, nguồn nhân
lực cho công nghiệp hóa hiện đại hóa chưa được đào tạo tốt, còn yếu về trình
độ, thiếu về số lượng, không họp lí về cơ cấu. Trình độ công nghệ sản xuất
lạc hậu so với các nước nhiều thập kỷ qua năng suất, chất lượng, hiệu quả của
nền kinh tế chưa có chuyển biến đáng kể trong khi đó các nước tư bản phát
triển đang gia sức sử dụng tri thức, thông tin, công nghệ mới để tiếp tục củng
cố vị thế của mình lũng loạn nền kinh tế tri thức toàn cầu, áp đặt trật tự cho
kinh tế thế giới, gia tăng chèn ép, bóc lột các nước đang phát triển. Nước ta
nếu không phát huy mạnh mẽ năng lực nội sinh, không chủ động hội nhập
quốc tế, không đổi mới mạnh mẽ cơ chế chính sách nhằm giải phóng triệt để
mọi khả năng sáng tạo thì chắc chắn sẽ tụt hậu rất xa, sẽ tiếp tục bị chèn ép,
bóc lột kinh tế, các thế lực thù địch chống phá nước ta, nguy cơ diễn biến hòa
bình vẫn còn tồn tại, nếu tụt hậu xa về kinh tế thì độc lấp chủ quyền cũng sẽ
bị đe dọa đó là thách thức hết sức gay gắt đặt ra.

15


Nhưng kinh tế tri thức đây là cơ hội để chúng ta rút ngắn khoảng cách

khiến cho chúng ta có những khả năng mới, những triển vọng, đi tắt đón đầu
không nhất thiết phải tuần tự qua từng giai đoạn. Các nước đi sau có lợi thế là
không lệ thuộc vào cơ sở vật chất kĩ thuật đã có, mà có thể xây dựng ngay
những cơ sở vật chất kĩ thuật mới để phát triển công nghệ mới. vấn đề cốt lõi
là ở chỗ phải phát triển và kích thích được năng lực phát triển của nhân dân,
dân tộc ta thông minh không kém nước nào. Từ một nước nông nghiệp nghèo
nàn lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa
cái thiếu nhất của nước ta là cơ sở vật chất kĩ thuật của nền sản xuất tiên tiến,
hiện đại của chủ nghĩa xã hội. Do đó Đảng xác định: “Nhiệm vụ trung tâm
trong suốt thời M quả độ là phát triển lực lượng sản xuất là công nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Công nghiệp hóa trong bổi cảnh quốc tể ngày nay không thể
dập khuôn mô hình công nghiệp hóa các nước đi trước ”[5, ừ. 173]. Kinh tế
tri thức là giai đoạn phát triển mới của lực lượng sản xuất xã hội cho chúng ta
cơ hội nắm bắt những khả năng mới để rút ngắn quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Kết họp với sức mạnh thời đại và sức mạnh của dân tộc, phát
huy ý trí, tiềm năng trí tuệ của Việt Nam. Sức mạnh đại đoàn kết dân tộc,
chúng ta có thế nắm bắt được thành tựu mới của khoa học công nghệ hiện đại,
phát triển kinh tế tri thức để nhanh chóng thực hiện mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh.
Báo cáo Chính trị tại Đại hội IX chỉ rõ: “Co« đường công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước ta cần và có thể rút ngẳn thời gian, vừa có những bước
tuần tự, vừa có những bước nhảy vọt. Phát huy lợi thế của đất nước, tận dụng
mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là cộng nghệ thông
tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều ở mức độ cao
hơn những thành tựu mói về khoa học công nghệ từng bước phát triển kinh tế
tri thức”[9, tr. 13].

16



Báo cáo Chính trị tại Đại hội Đại biểu toàn Quốc lần X (2006)của Đảng
cũng nhấn mạnh: “Tranh thủ cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra tiềm
năng và lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát triến kinh tế tri thức là yếu
tố quan trọng của nền kinh tế và công nghiệp hóa, hiện đại hóa” [8, tr. 87].
1.2.3.

Tính tất yếu cửa công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với kinh tế

tri thức
Sau sự tàn phá của hai cộc chiến tranh thì nước Việt Nam kiệt quệ cả sức
người lẫn sức của, nếu chỉ duy trì nền nông nghiệp lạc hậu thì không biết tới
bao giờ mới đứng, xếp hạng vào các nước phát triển. Tuy nước ta bỏ qua thời
kỳ tư bản chủ nghĩa nên kết cấu hạ tầng và hệ thống xã hội vẫn còn lạc hậu,
nhưng biết nắm bắt từng bước đi của các nước đi trước, và nhìn thấy những
khó khăn thuận lợi trước mắt. Và ở vào thời buổi công nghệ thông tin, và mở
của hội nhập chúng ta cần tranh thủ những cơ hội thuận lợi, nhưng không phải
là chúng ta chỉ nhận thành tựu của nước khác để sao chép thành của bản thân
mà ứng dụng nhưng khoa học công nghệ đó vào đúng ngành, đúng vùng, và
cần phải nâng cao thúc đẩy năng lực sáng tạo và sức chiến đấu của nhân dân,
phát huy sự tinh anh và thông minh của con người Việt Nam.
Đất nước đang trong thời kỳ phát triển gắn liền với công nghiệp hóa,
hiện đại hóa mà hai khái niệm này chúng ta đã tìm hiểu ở phần trên và biết
được rằng nó có vai trò rất quan trọng. Luôn nói đất nước phát triển theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa mà tất cả các ngành, các lĩnh vực và cả
con người vẫn trì trệ dập khuôn theo phương thức cũ thì làm sao mà có thể
phát triển được. Muốn làm được điều ấy thì nhân tố con người là quan trọng
nhất. Ví như có sáng kiến, có những ứng dụng mà con người lại không biết sử
dụng máy móc nhập về không biết vận hành thì nguyên nhân là ở đâu: Vì
trình độ không có mà máy móc nhập từ các nước phát triển quá hiện đại. Con


17


người Việt Nam lại theo kiểu làm ăn manh mún, mệnh ai người nấy làm, trình
độ không có, phát triển cốt cách mang tính nông nghiệp. Đấy là chúng ta lấy
ví dụ rằng đất nước ta cần phải đổi mới, cần phải đưa khoa học công nghệ vào
và để làm được điều ấy trước hết chúng ta phải cải tạo con người. Thế hệ trẻ
mầm non tương lai của đất nước, thế hệ học sinh, sinh viên vẫn có năng lực
tiếp thu kiến thức mới điều này đặt trọng trách nặng nề lên ngành giáo dục.
Cần phải đào tạo ra những con người mới phù họp với đất nước theo chủ
chương công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức.
Từ tình hình thực tế của đất nước và những mặt yếu kém cần khắc phục
Đảng và Nhà nước đề ra mục tiêu đưa Việt Nam lên thành nước phát triển thì
cần phải cải tạo nông thôn, giải quyết những việc khó khăn ở nông thôn tạo
cho người lao động có điều kiện tiếp xúc công nghệ mới, giải quyết nâng cao
trình độ tri thức cho thế hệ mới để bắt kịp với các nước và cùng lúc đó phải
giải quyết đồng bộ các vấn đề có liên quan phát triển đất nước. Để đất nước
phát triển tất yếu chúng ta phải thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn
liền với kinh tế tri thức.
Vai trò của nền kinh tế tri thức đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nước ta, trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước thì yếu tố thông tin có vai trò là nhân tố quan trọng hàng đầu thúc đẩy sự
tăng trưởng kinh tế cao, tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển dịch cơ cấu
kinh tế công nghiệp, nông nghiệp sang hướng kinh tế hiện đại, công nghệ
mới, thông tin, viễn thông, sinh học của nước ta hiện nay được tạo ra chủ yếu
vào nền kinh tế tri thức. Đó là một mạng lưới điện tử viễn thông đã bao trùm
lên mọi thành phố, mọi nẻo đường. Từ thành thị đến nông thôn, vùng núi, tạo
điều kiện thuận lợi tốt nhất để con người bắt kịp những thông tin, những vấn
đề tình hình thời sự nóng bỏng trong khu vực và trên thế giới. Việc phát triển

nền kinh tế tri thức tạo ra một tiềm năng, nguồn lực to lớn trong việc thúc đẩy

18


sự nghiệp giáo dục, đào tạo đã góp phần tạo ra một nguồn nhân lực có chất
lượng ngày càng cao, đặc biệt là đội ngũ cán bộ khoa học kĩ thuật, kĩ sư, nhà
quản lí giỏi. Vì thế kinh tế tri thức tạo ra nguồn nhân lực tiềm tàng tạo ra sự
vững mạnh của một quốc gia dân tộc, tạo ra một hệ thống trường lóp phong
phú, đa dạng với nhiều loại hình đào tạo.
Hơn thế nữa, kinh tế tri thức tạo ra những cơ hội tốt nhất để đẩy mạnh
việc xã hội hóa giáo dục, tạo điều kiện tốt nhất để cho mọi người học tập,
nghiên cứu. Cùng với việc thúc đẩy sự nghiệp giáo dục đào tạo kinh tế tri
thức còn góp phần tạo ra những tiền đề mới thúc đẩy sự phát triển của khoa
học, công nghệ. Đó là quá trình chuyển giao công nghệ mới thông qua quá
trình hình thành, mở rộng và phát triển số lượng chất lượng các trung tâm mới
về khoa học công nghệ từ đội ngũ cán bộ nghiên cứu, kĩ sư, những nhà khoa
học trẻ trên cơ sở đó thúc đẩy việc mở rộng quy mô của nhiều ngành sản xuất,
công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải, dịch vụ làm năng suất lao động
ngày càng tăng, cơ sở vật chất ngày càng hiện đại, sản phẩm làm ra ngày càng
nhiều. Việc phát triển một nền kinh tế tri thức còn tạo đà cho sự phát triển của
những nước chậm phát triển. Đặc biệt là đối với nước ta, nền kinh tế tri thức
định hướng cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Quá trình sử dụng
tri thức, công nghệ mới và sản xuất, để rút ngắn khoảng cách so với các nước
khác trên thế giới. Xu thế toàn cầu hóa, hiện đại hóa của nền công nghệ thông
tin mới tạo ra nhiều cơ hội mới để chúng ta có điều kiện để hội nhập, chung
cùng bước đi với sự phát triển kinh tế, xã hội của thế giới, tạo nền tảng vững
chắc cho sự phát triển bền vững của đất nước. Quá trình này đòi hỏi sự phấn
đấu nỗ lực rất lớn trong thời gian tới, năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một
nước công nghiệp theo hướng hiện đại để chúng ta có thế tiến nhanh, tiến

mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội.

19


Vì thế từ đặc điểm và vai trò trên cho ta thấy: Nền kinh tế tri thức là
nguồn lực to lớn và luôn có ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển mọi mặt
của đời sống xã hội,đặc biệt là công cuộc đổi mới đất nước ta hiện nay,một
mặt phải đẩy nhanh tốc độ của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mặt
khác phải phát triển các yếu tố của nền kinh tế tri thức để có thể chủ động hội
nhập được với thế giới, vận động và phát triển phù họp với sự phát triển đi lên
của lịch sử. Việc phát triển kinh tế - xã hội phải đảm bảo sự khoa học sự hài
hòa giữa tăng trưởng kinh tế với những ứng dụng của thành tựu khoa học kĩ
thuật vào sản xuất sao cho phù họp với quy luật vận động của nền kinh tế
nước ta và kinh tế toàn thế giới nói chung.

20


Tiểu kết chương 1
ở chương 1 khóa luận đề cập đến một số vấn đề lý luận chung của Công
nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn liền với phát triển kinh tế tri thức. Đưa ra và làm
rõ được hai khái niệm Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và khái niệm kinh tế tri
thức. Đối với nước ta hiện nay đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, vì chúng ta bỏ qua giai đoạn Tư bản chủ nghĩanên nền kinh tế của nước ta
tụt hậu so với các nước khác trên Thế giới, muốn xây dựng được một đất
nước theo hướng công nghiệp hiện đại, tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp, giảm
dần tỷ trọng nông nghiệp đến mức phù họp, buộc chúng ta phải thực hiện
đường lối Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn liền với phát triển kinh tế tri
thức. Mà đường lối này đã được Đảng đề ra từ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần

thứ VIII (tháng 6-1996) và hoàn thành chủ trương, đường lối Công nghiệp
hóa, hiện đại hóa gắn liền vói phát triển kinh tế tri thức vào Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần thứ XI (tháng 1-2011).
Khóa luận nêu rõ tính tất yếu của quá trình Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
gắn liền với phát triển kinh tế tri thức, mà trước hết để áp dụng tri thức vào tất
cả các mặt kinh tế - chính trị - văn hóa - xã hội thì chúng ta phải xây dựng đất
nước theo hướng Công nghiệp hóa, hiện đại hóa trước, theo tinh thần Đại hội
Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, và phải thấy rõ được vai trò quan trọng của
tri thức nó đang tạo ra sự bùng nổ mạnh mẽ trên toàn Thế giới. Đe bắt kịp vói
kinh tế trên Thế giới thì Việt Nam nhất định phải thực hiện Công nghiệp hóa,
hiện đại hóa gắn liền với phát triển kinh tế tri thức, đặt ra cho Việt Nam
những cơ hội và thách thức cơ bản. “Đe sánh vai với các cường quốc Năm
Châu” như lời Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã từng nói, thì chúng ta cần sự lãnh
đạo sáng suốt của Đảng cộng sản Việt Nam.

21


×