Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

luận văn kinh tế PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC: THỜI CƠ VÀ THÁCH THỨC VỚI VIỆT NAM TRONG NỬA ĐẦU THẾ KỶ XXI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (256.02 KB, 36 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 2
I.BẢN CHẤT VÀ ĐẶC TRƯNG CỦA NỀN KINH TẾ TRI THỨC 3
1.Bản chất của nền kinh tế tri thức 3
2.Những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế tri thức 5
3.Tiêu chí phản ánh phát triển nền kinh tế tri thức 10
II. NHỮNG CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC VỚI VIỆT NAM TRONG
PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC 14
1.Những cơ hội 17
2.Những thách thức 18
III.BẢO ĐẢM ĐIỀU KIỆN ĐỂ PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ TRI
THỨC VÀ PHÁT TRIỂN NƯỚC CÔNG NGHIỆP HIỆN ĐẠI 20
1.Bài học kinh nghiệm của một số quốc gia 20
2.Những điều kiện cơ bản cần bảo đảm để phát triển nền kinh tế tri thức gắn với
đưa đất nước trở thành nước công nghiệp hiện đại 22
Tài liệu tham khảo 36
1
PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC: THỜI CƠ VÀ THÁCH THỨC
VỚI VIỆT NAM TRONG NỬA ĐẦU THẾ KỶ XXI
LỜI MỞ ĐẦU
Trong khi đại bộ phận các nước trên thế giới đang trong quá trình
công nghiệp hóa, nghĩa là thực hiện quá trình chuyển tử nền kinh tế nông
nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp, thì các nước công nghiệp phát triển
đang thực hiện quá trình chuyển từ nền kinh tế công nghiệp (hậu công
nghiệp) sang phát triển nền kinh tế tri thức. Với sự phát triển mạnh mẽ của
khoa học công nghệ, phát triển nền kinh tế tri thức đã trở thành một xu
hướng khách quan, xu hướng này chi phối cả quá trình công nghiệp hóa.
Cách thức công nghiệp hóa theo kiểu truyền thống với những bước đi tuần
tự ngày nay đã tỏ ra không thích hợp, nó làm cho khoảng cách chênh lệch
về trình độ phát triển giữa các nước ngày càng mở rộng. Để rút ngắn quá
trình công nghiệp hóa, việc kết hợp giữa bước đi tuần tự với bước đi nhảy


vọt, thực hiện đồng thời hai quá trình: quá trình chuyển từ nền kinh tế nông
nghiệp sang phát triển nền kinh tế công nghiệp và quá trình đi thẳng từ nền
kinh tế nông nghiệp lên nền kinh tế tri thức. Song đó lại là vấn đề hoàn
toàn không đơn giản. Nếu không được bảo đảm các điều kiện tiền đề cần
thiết, tư tưởng này đồng nghĩa với tư duy chủ quan duy ý chí, không những
không đạt được mục tiêu tăng trưởng và phát triển, mà thậm chí có thể dẫn
đến những trì trệ của quá trình này.
Chuyên đề “Phát triển kinh tế tri thức: Thời cơ và thách thức với
Việt Nam trong nửa đầu thế kỷ XXI” trình bày khái quát những nét cơ bản
về nền kinh tế tri thức, những cơ hội và thách thức với Việt Nam, các điều
kiện cơ bản để phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam.

2
I. BẢN CHẤT VÀ ĐẶC TRƯNG CỦA NỀN KINH TẾ TRI
THỨC
1. Bản chất của nền kinh tế tri thức
Trong hơn một thập kỷ trở lại đây, các nhà kinh tế và quản lý tại
nhiều quốc gia trên thế giới đã đề cập đến khái niệm “Nền kinh tế tri
thức”. Cở sở đưa ra khái niệm này dựa trên dự đoán về những bước tiến
nhảy vọt, chưa từng thấy về khoa học công nghệ trong thế kỷ XXI.
Hiện đang tồn tại những cách diễn đạt khác nhau về kinh tế tri thức:
Kinh tế tri thức là biểu hiện hay xu hướng của nền kinh tế hiện đại,
trong đó tri thức, lao động chất xám được phát huy khả năng sinh lợi của
nó và mang lại hiệu quả kinh tế lớn lao trong tất cả các ngành kinh tế: công
nghiệp, nông – lâm – ngư nghiệp và dịch vụ, phục vụ cho phát triển kinh tế.
Từ đó, nền kinh tế tri thức được hiểu là nền kinh tế chủ yếu dựa trên cơ sở
tri thức, khoa học; dựa trên việc tạo ra và sử dụng tri thức, phản ánh sự phát
triển của lực lượng sản xuất ở trình độ cao.
Năm 1995, Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) đưa ra
khái niệm: “Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh, phổ cập

và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế,
tạo ra của cải nâng cao chất lượng cuộc sống”.
Kinh tế tri thức còn được hiểu là một loại môi trường kinh tế - kỹ
thuật, văn hóa - xã hội mới, có những đặc tính phù hợp và tạo thuận lợi
nhất cho việc học hỏi, đổi mới và sáng tạo. Trong môi trường đó, tri thức sẽ
tất yếu trở thành nhân tố sản xuất quan trọng nhất, đóng góp vào sự phát
triển kinh tế - xã hội.
Theo cách hiểu này, cốt lõi của việc phát triển một nền kinh tế tri
thức không phải chỉ đơn thuần là việc phát triển khoa học - công nghệ cao
mà là việc phát triển một nền văn hóa đổi mới, sáng tạo để đem lại những
3
thuận lợi cho việc sản xuất, khai thác và sử dụng mọi loại tri thức, mọi loại
hiểu biết của nhân loại.
Gần ba thập kỷ qua, năng lượng trí tuệ của con người ngày càng có
vai trò hết sức quan trọng trong việc tăng năng suất lao động trong sản
xuất, dịch vụ và kinh doanh, trở thành một lực lượng sản xuất quan trọng
trong nền kinh tế tri thức. Hiện nay, trên thế giới, nhiều quốc gia, dân tộc
đang có những bước đầu tiên trong việc xây dựng và phát triển kinh tế tri
thức. Mỹ đang hoàn tất việc xây dựng những cơ sở ban đầu để phát triển
kinh tế tri thức. Tiếp đến là các nước Anh, Pháp, Đức, Singapore…
Phát triển nền kinh tế tri thức có vai trò to lớn trong phát triển kinh tế
- xã hội của mỗi quốc gia và của toàn thế giới.
- Kinh tế tri thức mang lại những cơ hội và thách thức lớn trong sự
phát triển chưa từng thấy của nhân loại.
Kinh tế tri thức có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển xã hội
ngày nay. Phát triển kinh tế tri thức là cơ hội để rút ngắn khoảng cách lạc
hậu. Từ những tri thức, công nghệ kỹ thuật mới, các tư liệu lao động mới,
hệ thống máy móc thông minh, tự động hóa sẽ được tạo ra. Quá trình đó sẽ
giúp phát hiện và sáng tạo ra nhiều đối tượng lao động mới, những nguyên
liệu mới, năng lượng mới,…có thể trước đây chưa từng xuất hiện, tạo ra

nhiều giá trị sử dụng mới, đáp ứng thỏa mãn nhu cầu xã hội ngày càng tốt
hơn, giảm bớt việc khai thác các ngường tài nguyên hiện hữu.
- Kinh tế tri thức là động lực thúc đẩy tiến trình xã hội hóa quan
hệ sản xuất và lực lượng sản xuất, làm cho phân công lao động
xã hội phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu.
Kinh tế tri thức được hình thành, phát triển trên cơ sở các ngành sản
xuất sử dụng công nghệ cao. Từ đó mà tác động mạnh mẽ đến quá trình
phát triển của toàn bộ nền kinh tế.
4
Nó thúc đẩy nông nghiệp phát triển nhanh thông qua các cuộc cách
mạng, cách mạng xanh, cách mạng sinh học…
Nó thúc đẩy công nghiệp, không ngừng ra tăng hàm lượng khoa học-
kỹ thuật, công nghệ trong sản phẩm công nghiệp qua đó mà gia tăng giá trị
sử dụng, giá trị trao đổi của sản phẩm công nghiệp.
Nó thúc đẩy trí nghiệp phát triển ở các ngành dịch vụ, thông tin,
thương mại, tiền tệ,…với nhiều hình thức phong phú. Nó thúc đẩy việc
nâng cao đời sống xã hội, hướng đến một nền văn minh cao hơn.
2. Những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế tri thức
Ở góc độ kinh tế, nếu xét quá trình lịch sử của lực lượng sản xuất,
chúng ta thấy rằng hàm lượng tri thức (chất xám) biểu hiện ngày càng rõ rệt
và trình độ tri thức ngày càng cao trong việc kiến tạo xã hội loài người, có
thể chia làm 3 thời kỳ lịch sử:
Thời kỳ nền kinh tế nông nghiệp
Nền kinh tế nông nghiệp, xuất hiện cách đây khoảng hơn 10 nghìn
năm, từ lao động thủ công thời trung cổ, đại công trường thủ công thời
phong kiến đến thời phục hưng và hiện nay. Công cụ sản xuất lúc bấy giờ
là công cụ thủ công, năng lượng chủ yếu lànăng lượng cơ bắp con người,
sức kéo của súc vật và các loại năng lượng sơ cấp khác. Tri thức được sử
dụng trong nông nghiệp ở mức độ rất thấp cho nên khoa học – công nghệ
chậm phát triển.

Thời kỳ nền kinh tế công nghiệp
Là thời kỳ diễn ra hai cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất và
lần thứ hai của thế giới (từ cuối thế kỷ 19 đến giữa thế kỷ 20). Sản xuất thủ
công chuyển sang nền sản xuất dùng máy móc cơ khí, máy mọc điện cơ
khí. Khoa học công nghệ và tri thức của con người được phát triển mạnh
mẽ là động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội loài người mở rộng. Nhiều nước
5
công nghiệp ra đời. Chủ nghĩa tư bản thịnh hành. Tuy nhiên, nền sản xuất
đại công nghiệp chủ yếu vẫn dựa vào tài nguyên thiên nhiên, đặt ra cho loài
người nhiều thách thức mới về tài nguyên, môi trường, thị trường, bất bình
đẳng xã hội… Trong đó vấn đề cạn kiệt tài nguyên và biến đổi khí hậu tác
động đến sinh thái trái đất là những vấn đề cấp thiết của hành tinh xanh.Để
giải quyết những vấn đề nêu trên, thì khoa học công nghệ và “chất xám”
của loài người phải phát triển hơn nữa để đáp ứng yêu cầu mới về đời sống
và sản xuất xã hội.
Thời kỳ nền kinh tế tri thức
Nền kinh tế tri thức sinh ra trên cơ sở đồng vốn và tài nguyên thiên
nhiên của nền kinh tế công nghiệp, chủ yếu dựa vào “tri thức” con người và
khoa học công nghệ hiện đại, tạo ra của cải vật chất cho xã hội nhiều hơn,
trình độ dân trí được nâng cao, môi trường sinh thái đi dần vào ổn định.
Khởi đầu là cuộc cách mạng khoa học công nghệ của thế giới và sự cho ra
đời sản phẩm điển hình là máy tính điện tử (điện toán) “computer” vào
giữa thế kỷ 20. Đặc trưng của giai đoạn này là phát triển hệ thống công
nghệ cao (vi điện tử, máy tính xách tay, điện thoại di động nhiều chức
năng, quang điện tử, laze, nanô, gen, tế bào gốc…) cùng với việc xuất hiện
truyền thông vệ tinh, mở rộng xa lộ thông tin toàn cầu, cáp quang, truyền
hình kỹ thuật số, sử dụng người máy thông minh, máy tính siêu tốc để quản
lý và điều hành sản xuất kinh doanh cũng như phục vụ cuộc sống dân sinh.
Nổi bật là tri thức khoa học tự nhiên hòa quyện với tri thức khoa học xã hội
thành một thể thống nhất, bảo đảm cho sự tái tạo cuộc sống loài người

được bền vững. Vì vậy, sự hình thành kinh tế tri thức mang tính tất yếu lịch
sử, cho dù nó có thể phát triển không đồng đều trên trái đất với nhiều sắc
thái đa dạng.
6
Bảng so sánh đặc điểm ba nền kinh tế
Cho tới nay, nhiều nhà chiến lược kinh tế hàng đầu trên thế giới cho
rằng kinh tế tri thức có 10 đặc điểm chính sau đây:
1/ Ý tưởng đổi mới và phát triển công nghệ mới trở thành chìa khóa
cho việc tạo ra việc làm mới và nâng cao chất lượng cuộc sống. Nền kinh tế
tri thức có tốc độ tăng trưởng cao, cơ cấu dịch chuyển nhanh.
2/ Tìm các công nghệ mới trở thành loại hình hoạt động quan trọng
nhất. Doanh nghiệp nào cũng có thể tìm ra công nghệ mới; không còn sự
phân biệt giữa phòng thí nghiệm với công xưởng, đồng thời xuất hiện nhiều
doanh nghiệp chuyên về sản xuất công nghệ.
3/ Công nghệ thông tin được tiến hành rộng rãi trong mọi lĩnh vực,
mạng thông tin phủ khắp nước và trên thế giới, liên kết các tổ chức, gia
đình và các quốc gia. Thông tin trở thành nguồn tài nguyên quan trọng.
Mọi lĩnh vực hoạt động của con người đều có sự tác động của thông tin.
4/ Dân chủ hóa được thúc đẩy vì mọi người đều dễ dàng truy cập
thông tin mà mình cần. Mọi người dân đều có thể biết được các chủ trương,
chính sách một cách chính xác, kịp thời. Các cơ quan chức năng không thể
hoạt động trái luật. Mối liên kết giữa chính quyền và người dân bền vững.
7
5/ Về giáo dục và đào tạo (đầu tư cho con người): được đầu tư cao
hơn hẳn so với các dự án đầu tư về cơ sở vật chất (nhà máy, công xưởng,
khai thác nguyên nhiên liệu ). Mọi người học tập thường xuyên bằng các
loại hình đào tạo đa dạng: học ở trường, học từ xa, học trên mạng thông tin.
6/ Tri thức trở thành vốn quý nhất và là nguồn lực hàng đầu để tăng
trưởng. Vốn tri thức không giống như các loại vốn vật chất khác (máy móc,
tiền, vàng ) dễ hư hao hoặc mất đi khi sử dụng, tri thức và thông tin dễ

chuyển giao và chia sẻ.
7/ Chu kỳ đổi mới của xã hội ngày càng ngắn, càng nhanh, năng lực
sáng tạo của con người mở ra vô tận. Công nghệ đổi mới rất nhanh, có khi
chỉ tính từng ngày, từng tháng. Vì vậy, các doanh nghiệp muốn tồn tại phải
luôn đi tìm công nghệ mới và phải luôn đổi mới công nghệ và sản phẩm.
8/ Các doanh nghiệp vừa phải cạnh tranh, vừa phải hợp tác để phát
triển ở cả trong nước và quốc tế. Triết lý "cả hai cùng có lợi" thấm rộng
trong mọi hoạt động của con người.
9/ Các sản phẩm và thị trường ngày càng có tính toàn cầu. Nhiều
nước cùng tham gia vào sản xuất một sản phẩm. Một sản phẩm được tiêu
thụ ở nhiều thị trường nhiều nước.
10/ Dù xu hướng thông tin, tri thức mang tính toàn cầu hóa nhưng
bản sắc văn hóa dân tộc phải được chú ý giữ gìn để tránh bị hòa tan, để tạo
thêm sức mạnh nội sinh.
Cũng có một số tài liệu khác tiếp cận phân tích đặc trưng của nền
kinh tế tri thức một cách toàn diện hơn.
- Trong nền kinh tế tri thức, các yếu vật chất cũng như hàm lượng
vật chất trong các sản phẩm ngày càng giảm, hàm lượng tri thức, lao động
chất xám, lao động trí óc tăng lên, chiếm tỷ trọng ngày càng cao lớn trong
giá trị sản phẩm.
8
Trong nền kinh tế tri thức, các sản phẩm trí tuệ dựa vào nguồn lực
hàng đầu là tri thức. Đây là nguồn vốn cơ bản của quá trình sản xuất và tái
sản xuất của xã hội, thay vì chỉ là đất đai, tài nguyên và vốn tiền tệ như
trước đây.
Thông tin, kiến thức lao động có trình độ cao được sử dụng nhiều, ít
sử dụng tài nguyên thiên nhiên. Những trung tâm công nghệ cao được hình
thành. Đặc biệt tri thức khoa học và công nghệ cùng với lao động kỹ thuật
cao là thành phần quan trọng của lực lượng sản xuất, là lợi thế phát triền
kinh tế. Nguồn nhân lực nhanh chóng được tri thức hóa. Sự sáng tạo đổi

mới trở thành yêu cầu thường xuyên đối với mọi người.
- Cơ cấu kinh tế kỹ thuật thay đổi một cách sâu sắc, theo hướng tri
thức hóa, làm thay đổi phương thức tổ chức và quản lý không chỉ trong các
ngành đó mà còn tác động đến các ngành kinh tế khác trong nền kinh tế.
Do những thay đổi trong cơ cấu kinh tế - kỹ thuật sẽ làm thay đổi
về chất trong cơ cấu sản phẩm, làm thay đổi cơ cấu giá trị sản phẩm; điều
này tất yếu dẫn đến sự thay đổi trong cơ cấu lao động xã hội. Nếu như
trước đây, lao động nông nghiệp chủ yếu bằng tay chân tay, thì sau đó lao
động sản xuất công nghiệp, lao động “ cổ xanh” hầu hết là bằng máy móc.
Nhưng từ những năm 1970 đến nay, do lao động và công nghệ phát triển,
đã là xuất hiện một đội ngũ “công nhân cổ trắng” và trong cơ cấu giá trị
hàng hóa, lao động trí óc đã chiếm tỷ trọng lớn.
- Qui trình công nghệ trong sản xuất luôn luôn được thay đổi, làm
cho năng xuất lao động ngày càng tăng, cường độ lao động ngày càng
giảm, chủng loại sản phẩm ngày càng đa dạng, phong phú, chất lượng sản
phẩm ngày càng cao, giúp đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của cuộc
sống…sự cạnh tranh được tạo điều kiện đầy đủ, sự tăng trưởng kinh tế theo
chiều sâu, tạo ra lợi thế cho quốc gia, tác động lớn đến đời sống xã hội.
9
- Siêu xa lộ thông tin trong hệ thống mạng toàn cầu được hình thành,
có ảnh hưởng to lớn đến lĩnh vực khoa học, kinh tế và văn hóa, quan hệ
quốc tế, đặc biệt giúp mở rộng thị trường cho các nước… bởi vì nó đảm
bảo sự tham gia đông đảo của tất cả các quốc gia trên thế giới. Siêu xa lộ
thông tin sẽ tạo ra một xã hội tri thức, xã hội thông tin mà không có biên
giới. Trong nền kinh tế tri thức, khoa học và công nghệ, đặc biệt là công
nghệ thông tin, lựu lượng sản xuất và các hoạt động kinh tế của mỗi con
người, của mỗi quốc gia đều mang tính toàn cầu.
- Trong điều kiện của kinh tế tri thức, các thành tựu khoa học – công
nghệ, nhất là công nghệ thông tin được phổ biến và ứng dụng hết sức
nhanh chóng, trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Các ngành kinh tế

được tri thức hóa đều phải dựa vào công nghệ mới để đổi mới và phát triển.
Chỉ khi nào các ngành công nghệ cao, ứng dụng các tiến bộ khoa học
– kỹ thuật hiện đại, có giá trị mới do tri thức đem lại chiếm trên 2/3 tổng
giá trị thì kinh tế tri thức mới được tỏ rõ. Tiêu chí của kinh tế tri thức: hơn
70% GDP phải được tạo ra từ các ngành sản xuất dịch vụ áp dụng công
nghệ cao; hơn 70% giá trị gia tăng là do trí tuệ mang lại; hơn 70% công
nhân tri thức trong cơ cấu lao động; hơn 70% cơ cấu vốn là vốn con người.
3. Tiêu chí phản ánh phát triển nền kinh tế tri thức
Tiêu chí của nền kinh tế tri thức được biểu hiện qua hai nhóm: nhóm
tiêu chí về cấu trúc kinh tế và nhóm tiêu chí xã hội.
∗ Nhóm tiêu chí về cấu trúc kinh tế
Lực lượng sản xuất và tư liệu sản xuất là hai nhóm yếu tố tác động
tới tiến trình phát triển của một quốc gia. Lực lượng sản xuất xã hội bao
gồm người lao động, công cụ lao động và đối tượng lao động. Trong nền
kinh tế tri thức, khoa học kỹ thuật tiến bộ được thể hiện trong cả ba yếu tố
10
của lực lượng sản xuất. Dĩ nhiên, trong các yếu tố của lực lượng sản xuất,
con người là yếu tố “động nhất”, quan trọng nhất.
Tư liệu sản xuất thay đổi, phù hợp với từng xã hội. Trong xã hội
nông nghiệp, đất đai là tư liệu sản xuất quan trọng nhất; trong xã hội công
nghiệp, công xưởng và nguyên liệu thay thế đất đai. Còn trong xã hội thông
tin, cơ sở hạ tầng thông tin và nguồn tài nguyên tin tức sẽ là tư liệu sản xuất
quan trọng nhất. Để xây dựng và phát triển thành nền kinh tế tri thức cần
phải đầu tư và phát triển bốn cột trụ quan trọng của nó: công nghệ cao;
nhân lực chất lượng cao; cơ sở hạ tầng thông tin và nguồn tài nguyên tin
tức; thị trường.
Thông tin thống kê phản ánh cấu trúc kinh tế của nền kinh tế tri thức
nên chia thành hai nhóm: nhóm chỉ tiêu phản ánh ở tầm vĩ mô và nhóm chỉ
tiêu phản ánh tầm vi mô.
Đối với tầm vĩ mô bao gồm các chỉ tiêu: chi cho nghiên cứu và triển

khai các công trình khoa học vào thực tiễn so với tổng chi ngân sách nhà
nước; chi mua và nhận chuyển giao công nghệ so với tổng chi ngân sách
nhà nước; chi cho đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao so với tổng chi
cho giáo dục của toàn xã hội; năng suất nhân tố tổng hợp (TFP),v.v…
Đối với tầm vi mô bao gồm các chỉ tiêu: chi cho nghiên cứu và triển
khai các công trình khoa học vào thực tiễn so với tổng vốn đầu tư của khu
vực doanh nghiệp; tỷ lệ cán bộ làm nghiên cứu và triển khai công nghệ của
khu vực doanh nghiệp so với tổng số lao động của khu vực doanh nghiệp;
số lượng máy tính dùng trong khu vực doanh nghiệp,v.v…
∗ Nhóm tiêu chí về xã hội
Từ định nghĩa của nền kinh tế tri thức, có thể khẳng định tri thức và
thông tin là hai yếu tố then chốt và nó quyết định bản chất xã hội của nền
11
kinh tế này - đó là “xã hội thông tin”. Xã hội thông tin đòi hỏi năm điều
kiện sau đây:
- Cơ cấu sức lao động có sự thay đổi căn bản, những người làm
công tác thông tin chiếm hơn 50% tổng số người đang làm việc;
- Trong tổng giá trị sản xuất của nền kinh tế, kinh tế thông tin chiếm
hơn 50%;
- Công nghiệp thông tin phát triển đầy đủ, xây dựng được mạng
lưới thông tin tiên tiến;
- Thông tin hóa đời sống xã hội;
- Tri thức trở thành nguồn tài nguyên to lớn và động lực thúc đẩy chủ
yếu cho xã hội phát triển.
Năm điều kiện của xã hội thông tin gợi cho các nhà Thống kê đưa ra
hệ thống chỉ tiêu để phản ánh, đo lường nền kinh tế tri thức qua các chỉ tiêu
về lao động như: tỷ lệ lao động làm công tác thông tin so với tổng số lao
động đang làm việc trong nền kinh tế, tỷ lệ lao động trí óc so với lao động
chân tay; các chỉ tiêu về tiếp cận, sử dụng và thụ hưởng thông tin trong đời
sống hằng ngày của dân cư.

Để phát triển đất nước theo hướng nền kinh tế tri thức, việc hoạch
định chính sách của Chính phủ đóng vai trò quan trọng. Kinh nghiệm của
Hàn Quốc trong phát triển năng lực công nghệ của đất nước thực hiện qua
ba giai đoạn: giai đoạn bắt chước sao chép công nghệ; giai đoạn bắt chước
sáng tạo công nghệ (hai giai đoạn này các tri thức cần có có thể sao chép
hoặc mua) và giai đoạn đổi mới công nghệ (giai đoạn phát minh), đáng để
cho chúng ta tham khảo. Đi cùng với chính sách của Chính phủ, ngành
Thống kê nên chủ động nghiên cứu, đưa ra các thông tin thống kê phục vụ
kịp thời cho nhu cầu quản lý và phát triển.
12
Trên góc độ thống kê, các nhà thống kê học đã đưa ra một số chỉ tiêu
thống kê phản ánh nền kinh tế tri thức:
Các chỉ tiêu vĩ mô
1/ Chi nghiên cứu và triển khai các công trình khoa học vào thực tiễn
so với tổng chi ngân sách nhà nước;
2/ Chi cho đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao so với tổng chi
cho giáo dục của toàn xã hội;
3/ Tỷ lệ vốn đầu tư cho lĩnh vực công nghệ thông tin so với tổng vốn
đầu tư;
4/ Giá trị chuyển giao công nghệ so với tổng chi ngân sách nhà nước;
5/ Tỷ lệ doanh thu của ngành công nghệ thông tin so với tổng giá trị
sản xuất của nền kinh tế;
6/ Tỷ lệ doanh thu bán phần mềm so với tổng doanh thu của khu vực
doanh nghiệp trong nền kinh tế;
7/ Tỷ lệ giá trị tăng thêm của các ngành thông tin so với tổng sản
phẩm trong nước;
8/ Tỷ lệ của sản nghiệp tri thức so với tổng giá trị tài sản của nền
kinh tế;
9/ Năng suất nhân tố tổng hợp (TFP);
10/ Hệ số đổi mới tài sản cố định;

11/ Nhân tử đầu ra của ngành văn hóa, du lịch văn hóa, du lịch tri
thức đối với các ngành sản xuất vật chất và tiêu dùng của dân cư;
12/ Hệ số liên hệ xuôi (Fordward linkage), hệ số liên hệ ngược
(Backward linkage) của ngành văn hóa, du lịch văn hóa, du lịch tri thức đối
với các ngành sản xuất vật chất và tiêu dùng của dân cư;
13
13/ Tỷ lệ lao động làm công tác thông tin so với tổng số lao động
đang làm việc trong nền kinh tế;
14/ Tỷ lệ lao động trí óc so với lao động chân tay;
15/ Số lượng các đơn vị khoa học công nghệ trong nền kinh tế.
Các chỉ tiêu vi mô
16/ Chi cho nghiên cứu và triển khai các công trình khoa học vào
thực tiễn so với tổng vốn đầu tư của khu vực doanh nghiệp;
17/ Tỷ lệ cán bộ làm nghiên cứu và triển khai công nghệ của khu
vực doanh nghiệp so với tổng số lao động của khu vực doanh nghiệp;
18/ Số máy tính dùng trong khu vực doanh nghiệp;
19/ Tỷ lệ doanh nghiệp có Website và truy cập internet;
20/ Tỷ lệ dân cư truy cập internet so với tổng dân số;
21/ Tỷ lệ dân cư tham gia hoạt động thương mại điện tử so với tổng
dân số;
22/ Số điện thoại thuê bao tính cho 1000 dân;
23/ Các chỉ tiêu về tiếp cận, sử dụng và thụ hưởng thông tin trong
đời sống hằng ngày của dân cư.
II. NHỮNG CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC VỚI VIỆT NAM
TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC
Khoa học và công nghệ Việt Nam là một bộ phận cấu thành của hệ
thống kinh tế - xã hội Việt Nam, đồng thời vận động và phát triển trong sự
tác động mạnh mẽ của những xu thế lớn trên thế giới và khu vực, đặc biệt
là trong bối cảnh của hội nhập và toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới - nền
kinh tế tri thức. Bài viết dưới đây nêu lên những cơ hội và thách thức đối

với khoa học công nghệ Việt Nam trong quá trình hội nhập, đặc biệt là khi
14
chúng ta đã trở thành thành viên chính thức của Tổ chức thương mại thế
giới (WTO).
Việt Nam hội nhập
Toàn cầu hoá và hội nhập là quá trình vận động mang tính hệ thống
và khách quan trên phạm vi toàn cầu, bao trùm tất cả các mặt đời sống kinh
tế - xã hội của các quốc gia trên toàn thế giới. Hiện tại, Việt Nam đã là
thành viên chính thức của WTO, điều này đánh dấu một bước phát triển
cao hơn trong quá trình hội nhập - đây là kết quả tất yếu khi mà quá trình
toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ trên mọi mặt, tác động tới toàn bộ sự
phát triển của mỗi quốc gia. Trục cốt lõi của xu thế toàn cầu hóa đa diện
này là toàn cầu hóa về kinh tế. Toàn cầu hóa kinh tế đang diễn ra hết sức
mạnh mẽ trên các lĩnh vực sản xuất, thương mại, đầu tư, tài chính Nền
sản xuất thế giới ngày càng mang tính toàn cầu với sự phân công lao động
quốc tế hiện đại, tính tuỳ thuộc lẫn nhau về kinh tế ngày càng tăng lên, tính
độc lập kinh tế của mỗi quốc gia sẽ trở nên tương đối. Không một nước
nào, dù đó là siêu cường kinh tế, có thể phát triển một cách biệt lập. Tự do
hoá thương mại, đầu tư và tài chính là một xu thế khách quan, chứa đựng
những yếu tố thúc đẩy kinh tế thế giới phát triển, đồng thời luôn tiềm ẩn
những yếu tố bất ổn: Khủng hoảng tài chính, khủng hoảng kinh tế, khủng
hoảng môi trường, khủng hoảng văn hóa Trong điều kiện của bất kỳ loại
khủng hoảng nào, thì kẻ thua thiệt nhất vẫn luôn là các nước có cấu trúc
kinh tế kém bền vững (cứng nhắc, cấu trúc yếu) và kém nhạy cảm với
những thay đổi đột biến.
Thế giới hội nhập đang và sẽ chứng kiến những tiến bộ thực sự có ý
nghĩa về công nghệ thông tin và phát triển cơ cấu thông tin quốc gia; về
công nghệ vật liệu mới (trong đó có công nghệ nano); về công nghệ sinh
học (với nền tảng là công nghệ gen). Và kết quả là loài người đang tiến tới
ngưỡng cửa của xã hội thông tin - tri thức.

15
Xã hội thông tin toàn cầu và sự phát triển của nền kinh tế tri thức mở
ra cho các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam những cơ hội tiếp
cận và tiếp nhận những thành quả của tiến bộ khoa học công nghệ để xây
dựng những ngành nghề mới có hàm lượng kỹ thuật và tri thức cao, đồng
thời cũng đặt ra những thách thức về vốn, đào tạo nguồn nhân lực có trình
độ, tay nghề cao để xây dựng hạ tầng cơ sở thông tin. Nhiều thay đổi đang
diễn ra, từ khái niệm đến phương châm hoạt động, từ phương thức tư duy,
ra quyết định đến phương thức học tập. Trong khi đó, thời gian vật chất của
con người lại giới hạn. Mỗi cá nhân muốn tồn tại và phát triển, phải học tập
thường xuyên và phải thích nghi cao độ với những biến động thường
xuyên. Vì vậy, xã hội thông tin mới phải hướng tới học tập thường xuyên,
trong đó nền giáo dục phải là một hệ thống mở, đa dạng, linh hoạt, hiện đại.
Xu thế hướng tới xã hội thông tin và nền kinh tế tri thức sẽ làm đổi
thay sâu sắc diện mạo xã hội: Làm thay đổi phương thức làm việc, học tập
và giải trí của con người; thay đổi mối quan hệ giữa cá nhân và Nhà nước;
thay đổi các phương thức thương mại quốc tế cũng như các phương tiện
sản xuất trong nền kinh tế; và về lâu dài sẽ làm thay đổi các đặc tính văn
hoá - giáo dục đã hình thành qua nhiều thế kỷ.
Xã hội hóa thông tin - tri thức
Đặc điểm nổi bật của xã hội thông tin - tri thức trong điều kiện hội
nhập là sự phát triển không dựa chủ yếu vào các nguồn dự trữ tự nhiên như
trong xã hội công nghiệp, mà chủ yếu dựa vào 2 nhân tố quan trọng nhất:
Một là, các nguồn lực tri thức khoa học công nghệ - nhân tố động lực cho
phát triển, nhân tố này có khả năng tái tạo, tự sản sinh và không bao giờ
cạn kiệt (nếu biết phát huy). Hai là, sức sống của các nền văn hóa trong
cộng đồng dân tộc - nhân tố nền cho sự phát triển của cả dân tộc.
Chỉ có điều, 2 nhân tố trên mới chỉ là điều kiện cần phải có nếu
muốn hội nhập một cách hiệu quả. Để minh chứng cho nhận định này, hãy
16

nhìn một chút về quá khứ của Liên Xô, với các nguồn lực tri thức khoa học
công nghệ to lớn; và với sức sống của các nền văn hóa trong cộng đồng dân
tộc mạnh mẽ. Nhưng, thực tế cho thấy phát triển theo kiểu cũ (mặc dù rất
nhiều sáng kiến được thực hiện trong nhiều chục năm) đã bị sụp đổ.
Điều kiện đủ là một môi trường lành mạnh, minh bạch và tạo điều
kiện cho mọi hình thức lao động sáng tạo có chỗ cạnh tranh và phát triển
(sau đây gọi tắt là “môi trường phát triển lành mạnh”). Thiếu điều kiện đủ
này, thì mọi nỗ lực phát triển khoa học công nghệ sẽ đưa chúng ta mãi mãi
dừng ở tiềm năng, mà ở dạng tiềm năng lâu dài, sẽ rơi vào tình trạng hình
thức và chung quy là: Không hiệu quả.
Môi trường phát triển là tổng hòa các yếu tố văn hóa, chính trị, xã
hội và kinh tế, tạo nên cơ chế vận hành toàn bộ sự phát triển xã hội nói
chung trong giai đoạn lịch sử cụ thể. Các yếu tố đó là: Niềm tin của dân
tộc; Phong cách sống và tư duy; Trình độ dân trí; Kết cấu hạ tầng xã hội;
Mặt bằng giá trị kinh tế. Mỗi một yếu tố đều là một lĩnh vực rộng lớn. Bài
viết này sẽ không đi sâu vào khái niệm của các yếu tố trên.
Một điều rõ ràng, môi trường phát triển phụ thuộc cơ bản là vào tài
năng của các nhà lãnh đạo quốc gia. ở giai đoạn hiện nay, khi Việt Nam
vừa gia nhập WTO, có thể nói rằng, môi trường phát triển của Việt Nam sẽ
đi vào quỹ đạo, sẽ lành mạnh với sự phấn đấu thực hiện các cam kết trước
khi gia nhập WTO.
Trong điều kiện đó, việc phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam có
những cơ hội và những thách thức cơ bản nào?
1. Những cơ hội
Khả năng tiếp cận thông tin nhanh và khách quan.
Trong bối cảnh hội nhập, chúng ta có nhiều khả năng hơn để tiếp
cận nhanh, đầy đủ và khách quan những thành tựu khoa học công nghệ
17
hiện đại của thế giới, tiếp nhận sự chuyển giao những công nghệ thích hợp
mà trong nước chưa đủ năng lực tự làm lấy, nhằm nâng cao trình độ công

nghệ quốc gia, mở mang những ngành nghề mới phục vụ phát triển kinh
tế - xã hội, cho phép tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa bằng con
đường được rút ngắn.
Khả năng hợp tác quốc tế để nâng cao tiềm lực khoa học công nghệ
Trong điều kiện trình độ khoa học công nghệ trong nước còn thấp
kém, mở rộng hợp tác quốc tế trong lĩnh vực đào tạo và nghiên cứu cho
phép chúng ta gửi người đi đào tạo và nghiên cứu ở những nước tiên tiến,
nhằm nâng cao trình độ nhân lực khoa học công nghệ, bổ sung các nguồn
lực (tri thức, tài chính, thông tin ) để nhanh chóng xây dựng tiềm lực khoa
học công nghệ quốc gia.
Khả năng rút ngắn khoảng cách, phát triển nhanh và bền vững
Trong điều kiện của nền kinh tế toàn cầu và hội nhập quốc tế (tức là
chấp nhận điều kiện cạnh tranh gay gắt về kinh tế, về khoa học công nghệ
và những đòi hỏi về sự tương hợp với thông lệ quốc tế), với trình độ dân trí
và truyền thống hiếu học của dân tộc, Việt Nam có khả năng rút ngắn
khoảng cách trong phát triển so với các nước trong khu vực và trên thế
giới. Song đó mới chỉ là điều kiện cần. Điều kiện đủ để khả năng này có thể
trở thành hiện thực là Việt Nam cần có nỗ lực đổi mới mang tính hệ thống,
tương xứng với tầm cao nhất của trí thức dân tộc Việt Nam, có khả tạo môi
trường phát triển lành mạnh và năng động cho tư duy sáng tạo và cho mọi
tầng lớp lao động.
2. Những thách thức
Trình độ quản lý kinh tế vĩ mô còn bất cập
Những gì đã làm được trong thời kỳ đổi mới là đáng khích lệ nhưng
chỉ là những thay đổi mang tính khai phá, còn thiếu chủ thuyết phát triển xã
18
hội cho cả một thời kỳ mới với những điều kiện phát triển mới về cơ bản đã
hoàn toàn khác so với trước đây.
Từ đó, môi trường phát triển xã hội chưa thật năng động, vì còn thiếu
những tiêu thức chuẩn mực để đánh giá cái lợi trước mắt - cái hại lâu dài;

cái lợi cục bộ - cái hại toàn cục Điều này dẫn đến mặt bằng giá trị kinh tế
là chưa thật chuẩn, tâm lý xã hội chưa thích ứng với thời kỳ phát triển mới
như hiện nay.
Đặc điểm của việc đầu tư cho phát triển tiềm lực khoa học công nghệ
của Việt Nam có thể coi là: Về số lượng đầu tư là rất ít so với nhu cầu; về
chất lượng đầu tư là kém hiệu quả do cơ chế và năng lực quản lý còn yếu.
Khoa học công nghệ Việt Nam nằm trong hệ thống quản lý chung,
nên đây sẽ là thách thức lớn nhất.
Thiếu hụt lao động có trình độ và kỹ năng cao
Xu thế hội nhập và sự hình thành nền kinh tế tri thức đang làm mất
đi lợi thế so sánh của các yếu tố như: Lao động giản đơn, nguồn tài nguyên
thiên nhiên dạng thô ở những nước đang phát triển. Nguồn đầu tư trực tiếp
từ nước ngoài ngày càng đổ về những nước có lợi thế về khoa học công
nghệ, trí tuệ và tay nghề cao của nguồn nhân lực. Việt Nam hiện nay đang
thiếu hụt rất lớn nguồn nhân lực có trình độ và kỹ năng cao.
Năng lực cán bộ khoa học công nghệ còn hạn chế
Đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ trong hệ thống các cơ quan
nghiên cứu và triểnkhai còn hạn chế trong việc cập nhật kiến thức hiện đại
và thiếu kiến thức về khoa học luận.
Về cơ bản, cán bộ của Việt Nam có thể thực hiện rất tốt chức năng
nghiên cứu viên, nếu được làm việc trong các tập thể khoa học ở nước
ngoài. Năng lực để tổ chức và hoạt động có hiệu quả trong điều kiện tổ
chức và quản lý hiện nay thì không thể phát huy được.
19
Mạng lưới cơ quan nghiên cứu và triển khai còn bất hợp lý
Mạng lưới cơ quan nghiên cứu và triển khai của nước ta còn nhiều
bất hợp lý về chức năng, hoạt động khép kín, rời rạc, thiếu liên kết và chưa
được đầu tư đủ mạnh để có thể tạo ra thế mạnh và hiệu quả hợp tác.
Hạ tầng cơ sở khoa học công nghệ của nước ta còn rất yếu kém. Chất
lượng các kết quả nghiên cứu nói chung chưa cao. Nhiều đề tài và kết quả

nghiên cứu còn chưa đáp ứng đầy đủ những chuẩn mực khoa học.
Hệ thống dịch vụ khoa học công nghệ chưa đáp ứng nhu cầu
Hệ thống dịch vụ khoa học công nghệ (bao gồm hệ thống thông tin
khoa học công nghệ; hệ thống tư vấn, đánh giá, thẩm định, giám định và
chuyển giao công nghệ; hệ thống sở hữu trí tuệ; tiêu chuẩn, đo lường, chất
lượng) hầu như chỉ mới được để tâm trong vài năm gần đây, nên chưa được
định hình, còn yếu kém cả về cơ sở hạ tầng cũng như khả năng cung cấp
dịch vụ, chưa đáp ứng được yêu cầu hội nhập khu vực và quốc tế
III. BẢO ĐẢM ĐIỀU KIỆN ĐỂ PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ
TRI THỨC VÀ PHÁT TRIỂN NƯỚC CÔNG NGHIỆP HIỆN
ĐẠI
1. Bài học kinh nghiệm của một số quốc gia
Phần Lan trước đây là nước nông - lâm nghiệp thuần túy, kém phát
triển ở Bắc Âu. Năm 1950, dân nông thôn chiếm 90% dân số, đến nay chỉ
còn 6% và tỷ trọng nông - lâm nghiệp đóng góp cho GDP quốc gia là
3%.Diện tích rừng và ao hồ của quốc gia này chiếm 80% lãnh thổ, thế
mạnh trước đây là công nghiệp sản xuất giấy và bột giấy.
Năm 1980 Phần Lan đi thẳng vào công nghệ cao và phát triển mạnh
mẽ các ngành dịch vụ. Đến nay trở thành một trong những quốc gia hàng
đầu của thế giới về CNTT. Tập đoàn NOIKA chiếm ½ thị phần điện thoại
di động trên thế giới, với kim ngạch xuất khẩu khoảng 15% GDP/năm của
20
quốc gia. Những doanh nghiệp của nước này đã đầu tư cho R&D (Research
and Development) hàng năm 10% doanh thu, cao gấp đôi các quốc gia
châu Âu khác. Phần Lan là nước điển hình có tốc độ chuyển nhanh từ nền
sản xuất nông nghiệp sang nền kinh tế tri thức.
Hàn Quốc là quốc gia kém phát triển ở châu Á trước đây, trước và
trong thế chiến thứ hai (1940-1945) bị Nhật Bản chiếm đóng. Sau đó phải
gánh chịu cuộc chiến tranh khốc liệt giữa hai khối Đông - Tây, kết thúc
năm 1953, bị tàn phá nặng nề, coi như phải kiến thiết lại từ đầu.

Năm 1970 dân số nông nghiệp chiếm 70% dân số cả nước, nay chỉ
còn 6%. Với thế mạnh là nhân công rẻ, lao động cần cù có kỹ năng cao,
được Mỹ hỗ trợ tài chính và công nghệ hiện đại lúc ban đầu. Nước này đã
đi thẳng vào phát triển công nghiệp nặng, công nghệ cao và dịch vụ tổng
hợp hoàn chỉnh. Nét nổi bật là tốc độ nội địa hóa các sản phẩm công nghiệp
phụ trợ, nên đã đưa Hàn Quốc từ điểm xuất phát không có gì vào năm
1960, đến năm 1993 trở thành cường quốc hàng đầu thế giới về đóng tàu
biển, với hơn 110.000 công nhân chuyên nghiệp và 58 nhà máy đóng tàu
tầm cỡ thế giới, đóng được tất cả các chủng loại tàu, có qui mô đến
300.000DWT, năm 2008 doanh thu công nghiệp đóng tàu Hàn Quốc đạt
43,1 tỷ USD.
Ngoài ra, từ năm 1990, nước này có chiến lược phát triển kinh tế tri
thức và xã hội thông minh. Siêu xa lộ thông tin của Hàn Quốc đã nối kết
với 14 triệu gia đình và hầu hết các trường học trong nước, cũng như hòa
mạng khắp thế giới.
Đây có thể coi là nước điển hình đã rút ngắn bước phát triển từ kinh
tế nông - công nghiệp sang nền kinh tế tri thức bằng con đường tắt nhờ biết
sử dụng hiệu quả lao động chất xám và thành quả khoa học công nghệ hiện
đại, kết hợp nhuần nhuyễn với việc tận dụng thời cơ và sự chuyển động của
thế giới đa cực.
21
2. Những điều kiện cơ bản cần bảo đảm để phát triển nền kinh tế tri
thức gắn với đưa đất nước trở thành nước công nghiệp hiện đại
Chủ trương của Đảng
Ngay từ Đại Hội lần thứ IX (2001), Đảng Cộng Sản Việt Nam đã
chủ trương từng bước phát triển kinh tế tri thức. Tại Đại hội Đại Biểu toàn
quốc lần thứ X (2006), đã khẳng định: “Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa gắn với việc phát triển kinh tế tri thức” và ở Đại Hội XI (2011) đã
cụ thể hóa chủ trường này bằng nhiệm vụ cấp bách phải đào tạo nguồn
nhân lực có kỹ năng cao cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Như

vậy, chủ trương và đường lối phát triển kinh tế tri thức là nhất quán và
xuyên suốt trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Đến nay, đã xuất hiện những mầm móng cơ bản cho phép thực hiện
từng bước quá trình đưa quốc gia tiến dần đến nền kinh tế tri thức, được
gắn kết với những thành quả quan trọng thời gian qua, như: Tăng trưởng
GDP đều đặn trong hoàn cảnh kinh tế thế giới khủng hoảng; Sử dụng rộng
rãi Internet và điện thoại di động phục vụ dân sinh; Phát triển thông tin và
truyền thông vệ tinh, kỹ thuật số, cáp quang;Áp dụng công nghệ mới trong
sản xuất công nghiệp. Dùng hệ thống CAM (Computer Aided
Manufacture) trong sản xuất cơ khí và hệ thống CAD (Computer Aided
Design) trong thiết kế sản phẩm;Riêng cảng biển quốc gia, logistics phát
triển bùng nổ đã thúc đẩy tiến trình container hóa bắt nhịp được với các
cảng trong khu vực và trên thế giới, bằng ứng dụng hệ thống CMS
(Container Management System - Hệ thống quản lý container), hệ thống
TOPX (Terminal Operation PacKage - Hệ thống điều hành khai thác tại
cầu bến) và hệ thống định vị toàn cầu DGPS để cập nhật container.
Nhìn chung nếu so sánh với các quốc gia Đông Nam Á thì số công
nhân tri thức (Knowledge Worker) tham gia trong lực lượng lao động của
ta còn quá ít, năm 2000 chỉ đạt 5% so với Malaysia và Thái Lan từ 9-20%.
22
Tuy nhiên, theo nhận xét của Ngân hàng thế giới (WB) thì VN là nước có
nhiều tiềm năng đi nhanh đến nền kinh tế tri thức trong những quốc gia
đang phát triển.
Đánh giá này vừa tạo ra cho chúng ta sự tự tin, đồng thời cũng buộc
chúng ta suy nghĩ mối tương quan giữa VN và các quốc gia láng giềng.
Theo thống kê, hiện nay VN có hơn 9.000 GS, PGS và trên 3 vạn TS,
nhưng mỗi năm chỉ có khoảng 900 bài báo khoa học trên các tạp san quốc
tế. Đó là năng suất cực kỳ khiêm tốn nếu nhìn theo chuẩn mực quốc tế mỗi
giáo sư phải có ít nhất 1 bài báo khoa học mỗi năm, chưa kể đến những
công trình khoa học cống hiến cho xã hội.

Tổ chức giáo dục khoa học và văn hóa của Liên Hiệp Quốc
(UNESCO) và WB xếp Việt Nam đứng 106/145 quốc gia về kinh tế tri
thức (Knowledge Economy Index - KEI). Thứ bậc thấp như vậy là do Việt
Nam yếu kém về giáo dục và nghiên cứu khoa học mà ai cũng nhận biết.
Trong thế giới ngày nay “giáo dục đào tạo” là vườn ươm hạt giống
để logistics hình thành và “xã hội học tập” chính là mảnh đất màu mỡ cho
phát triển kinh tế tri thức. Nếu Việt Nam phấn đấu nâng cao ngành giáo
dục đào tạo hiệu quả hơn và tổ chức tốt xã hội học tập thì có thể rút ngắn
con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đại hội XI Đảng Cộng sản Việt Nam, trên cơ sở tổng kết 25 năm đổi
mới, 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội
2001-2010 đã bổ sung và phát triển sáng tạo, toàn diện quan điểm, đường
lối đổi mới và phát triển đất nước. Phát triển kinh tế tri thức là một trong
những quan điểm có nhiều bổ sung và phát triển sáng tạo: “Phát triển kinh
tế là nhiệm vụ trung tâm; thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
gắn với phát triển kinh tế tri thức Phát triển khoa học và công nghệ nhằm
23
mục tiêu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển kinh
tế tri thức, vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới”1
Thực ra, quan điểm, đường lối phát triển kinh tế tri thức đã được
Đảng ta chính thức đề cập tại Đại hội X: “Tranh thủ cơ hội thuận lợi do bối
cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa
gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng
của nền kinh tế và công nghiệp hóa, hiện đại hóa.”
So với Đại hội X, sau 5 năm quán triệt và thực hiện, tới Đại hội XI,
nhận thức về phát triển kinh tế tri thức đã có những đột phá được biểu hiện
trên những điểm sau:
Một là, khẳng định vị thế trọng tâm của phát triển kinh tế tri thức trong

phát triển kinh tế nói chung và công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói riêng.
Nếu như Đại hội X mới dừng ở việc xác định vị trí vai trò trọng tâm
của công nghiệp hóa, hiện đại hóa và xem phát triển kinh tế tri thức trong
quan hệ gắn với đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thì Đại hội XI đã
xem phát triển kinh tế tri thức cùng với công nghiệp hóa và hiện đại hóa là
nội dung trọng tâm của phát triển kinh tế, nhiệm vụ trung tâm của cả thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chính vì vậy, đồng thời với việc thực hiện
nhiệm vụ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chúng ta cần
chủ động, sáng tạo phát triển kinh tế tri thức và phải luôn xem đây là yêu
cầu cấp thiết, nhiệm vụ trọng tâm của phát triển kinh tế, nhiệm vụ trung
tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Hai là, khẳng định vai trò động lực của phát triển khoa học và công
nghệ đối với phát triển kinh tế tri thức, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước.
24
Trong thời đại toàn cầu hóa, khoa học và công nghệ có bước phát
triển nhảy vọt ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, sẽ không
thực hiện được nhiệm vụ phát triển kinh tế tri thức một khi đứng ngoài,
không quan tâm tới phát triển khoa học và công nghệ,
Thực ra, từ những thập niên cuối thế kỷ XX cho tới nay, khoa học và
công nghệ đã có những bước phát triển kỳ diệu, đặc biệt là sự bùng nổ và
sự hội tụ của công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ nanô,
đúng như những tiên đoán của C. Mác và Ph. Ăngghen từ giữa thế kỷ XIX,
“khoa học sẽ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp”; “giá trị của lao động
cơ bắp trong sản phẩm làm ra sẽ giảm còn cực nhỏ”; “lực lượng sản xuất
tinh thần”; “sự xuất hiện công nhân khoa học” thúc đẩy mạnh mẽ quá
trình chuyển đổi từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức.
Ba là, Đại hội XI không chỉ xác định vị trí, vai trò, phương thức thực
hiện kinh tế tri thức ở nước ta, mà còn xác định: Phát triển khoa học và
công nghệ nhằm mục tiêu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất

nước, phát triển kinh tế tri thức, vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới.
Vậy là, phát triển khoa học và công nghệ để đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế tri thức là sự lựa chọn “khôn ngoan”
phù hợp với xu thế phát triển của thời đại toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.
Bốn là, phát triển khoa học và công nghệ, đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển kinh tế tri thức là con đường “rút
ngắn” của quá trình phát triển đất nước.
Thực tế lịch sử đã chứng minh, trong thời đại toàn cầu hóa và hội
nhập quốc tế, tất cả các nước có xuất phát điểm thấp, muốn vươn lên trình
độ tiên tiến của thế giới không có con đường nào khác ngoài việc phát triển
khoa học và công nghệ, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với
phát triển kinh tế tri thức . Đây cũng chính là xu thế khách quan của thời
đại toàn cầu hóa; đồng thời cũng là con đường “rút ngắn” của quá trình
25

×