Tải bản đầy đủ (.doc) (96 trang)

Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tuyên giáo cấp huyện ở tỉnh bến tre hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (419.59 KB, 96 trang )

1

MỞ ĐẦU
1-Tính cấp thiết của đề tài
Công tác tư tưởng là một bộ phận cấu thành đặc biệt quan trọng trong
toàn bộ hoạt động của Đảng; là lĩnh vực trọng yếu để xây dựng, bồi đắp nền
tảng chính trị của chế độ; tuyên truyền, giáo dục, động viên và tổ chức nhân
dân thực hiện các nhiệm vụ cách mạng; khẳng định và nâng cao vị trí, vai trò
tiên phong của Đảng về lý luận chính trị, về văn hóa và đạo đức; thể hiện vai
trò đi trước, mở đường trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Từ khi ra đời đến nay, Đảng ta luôn coi trọng công tác tư tưởng.
Trong hơn 20 năm đổi mới, công tác tư tưởng đã góp phần bảo đảm sự thống
nhất trong Đảng, xây dựng và củng cố niềm tin của toàn dân vào thắng lợi của
sự nghiệp đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc; tạo cơ sở để
tập hợp lực lượng, đoàn kết dân tộc, hình thành sức mạnh to lớn giữ vững ổn
định chính trị, phát triển kinh tế-xã hội; tạo tiền đề cho sự phát triển công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế của đất nước.
Trong những năm tới, trước yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, đòi hỏi phải nâng cao hơn nữa chất lượng và hiệu
quả công tác tư tưởng.
Công tác tư tưởng là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân,
của cả hệ thống chính trị, trong đó, có trách nhiệm của đội ngũ cán bộ tuyên
giáo.
Để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng chúng ta phải giải
quyết nhiều vấn đề, nhưng trước hết, trên hết là nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ tuyên giáo- những chiến sỹ xung kích trên mặt trận tư tưởng.
Sau hơn 20 năm góp phần cùng cả nước thực hiện đường lối đổi mới,
đội ngũ cán bộ tuyên giáo nước ta từng bước được kiện toàn, năng lực chuyên


2



môn, nghiệp vụ được nâng lên, đại đa số được rèn luyện và trưởng thành qua
thực tiễn công tác, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo đức tốt,
giản dị, gắn bó với nhân dân. Bên cạnh đó, đội ngũ này hiện nay vẫn còn một
số mặt hạn chế cần phải khắc phục như: thiếu về số lượng, đa phần chưa được
đào tạo chuyên nghiệp, một số cán bộ nắm lý luận không sâu, thiếu tính nhạy
bén nên năng lực tham mưu còn yếu, khả năng xử lý tình huống còn hạn chế...
Đội ngũ cán bộ tuyên giáo của tỉnh Bến Tre nói chung, cấp huyện nói
riêng thời gian qua đã thực hiện khá tốt chức năng, nhiệm vụ của mình tại địa
phương: tham mưu giúp cấp uỷ lãnh chỉ đạo kịp thời trong từng thời điểm,
giữ vững trận địa chính trị, tư tưởng; tăng cường sự thống nhất trong Đảng, sự
đồng thuận trong nhân dân, giữ vững niềm tin vào sự nghiệp cách mạng, sự
lãnh đạo của Đảng, góp phần xây dựng quê hương, đất nước ngày càng giàu
đẹp.
Cụ thể là, Bến Tre sau hơn 20 năm đổi mới đã đạt được những thành
tựu đáng kể. Những năm gần đây, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Bến Tre tiếp
tục phát triển. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, kết cấu hạ tầng được
tập trung đầu tư, nâng cấp, nhiều công trình trọng điểm hoàn thành đưa vào sử
dụng. Bước đầu hình thành được một số khu, cụm công nghiệp tạo điều kiện
thuận lợi thu hút đầu tư phát triển. Văn hóa – xã hội có nhiều tiến bộ. Phong
trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa tiếp tục được củng cố, phát
triển. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm. Hệ thống chính
trị tiếp tục được củng cố, kiện toàn; năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ
chức cơ sở đảng và đảng viên được nâng lên; dân chủ ở cơ sở được phát huy.
Tỉ lệ hộ nghèo giảm khá nhanh. Đời sống nhân dân không ngừng được cải
thiện.
Tuy nhiên, đội ngũ cán bộ này cũng còn một số mặt cần phải quan
tâm giải quyết như: trình độ, năng lực chưa đồng bộ, khả năng phát hiện, nắm



3

bắt, đề xuất, xử lý những vấn đề đột xuất, nổi cộm diễn ra trên địa bàn còn
yếu, đa số chưa được đào tạo đúng chuyên ngành, phần lớn cán bộ tuyên giáo
được tuyển từ các lĩnh vực khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu trước mắt, và
giải quyết sự thiếu hụt về biên chế đã được phân bổ,... Từ đó, đã ảnh hưởng
rất lớn đến hiệu quả công tác tư tưởng trên địa bàn.
Chính từ những lý do trên, tác giả đã lựa chọn đề tài “Nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ tuyên giáo cấp huyện của tỉnh Bến Tre hiện nay” nhằm
nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác tư tưởng của tỉnh nhà góp phần
cùng toàn Đảng, toàn quân và nhân dân Bến Tre vươn lên trong sự nghiệp đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
2- Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Về công tác tư tưởng nói chung và xây dựng đội ngũ cán bộ tuyên
giáo nói riêng đã được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Đến nay có
nhiều bài viết của nhiều tác giả ở các góc độ khác nhau được đăng tải trên
sách, báo, tạp chí. Một số công trình có liên quan trực tiếp đến vấn đề này
như:
- Trần Xuân Sầm (1998): Xác định cơ cấu và tiêu chuẩn cán bộ
lãnh đạo chủ chốt trong hệ thống chính trị đổi mới , Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
- Lương Khắc Hiếu (2008), Nguyên lý công tác tư tưởng tập 2, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Ban Tuyên giáo Trung ương (2009), Tập bài giảng lớp bồi dưỡng
cán bộ tuyên giáo cấp tỉnh, cấp huyện năm 2009.
- Đào Duy Quát (2001), Một số vấn đề về công tác tư tưởng của
Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
- Viện Xây dựng Đảng Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh,
Giáo trình công tác tư tưởng của Đảng, Nxb Lý luận chính trị, 2004, Hà Nội.



4

- “Năng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ tuyên giáo
cấp huyện ở tĩnh Hà Tĩnh hiện nay”, Luận văn thạc sĩ Khoa học chính trị của
tác giả Trần Đình Tuấn, bảo vệ tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền, năm
2007.
- ‘Nâng cao năng lực sáng tạo của cán bộ tuyên giáo ở tỉnh Thanh
Hóa hiện nay’, Luận văn thạc sĩ …. của tác giả Trần Quang Huy, bảo vệ tại
Học viện Báo chí và Tuyên truyền, năm….
Các công trình trên cho thấy, các tác giả đi sâu phân tích ở góc độ lý
luận công tác tư tưởng, vấn đề nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ nói chung,
vấn đề đào tạo cán bộ làm công tác tư tưởng nói riêng, khái quát về tình hình
cán bộ tuyên giáo của cả nước, hoặc đề cập ở một khía cạnh nào đó về năng
lực của đội ngũ cán bộ tuyên giáo tại một địa phương.
Có thể nói rằng đề tài luận văn “Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
tuyên giáo cấp huyện ở tỉnh Bến Tre hiện nay” là một đề tài mới, không bị
trùng lặp với các đề tài nghiên cứu trước đó.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về chất lượng đội
ngũ cán bộ tuyên giáo cấp huyện của tỉnh Bến Tre, luận văn đề xuất các
phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tuyên
giáo cấp huyện của tỉnh Bến Tre hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận của việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
tuyên giáo cấp huyện.
- Đánh giá thực trạng chất lượng đội ngũ cán bộ tuyên giáo cấp huyện
của tỉnh Bến Tre hiện nay.



5

- Đề xuất các phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ tuyên giáo cấp huyện của tỉnh Bến Tre hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Chất lượng đội ngũ cán bộ tuyên giáo cấp huyện của tỉnh Bến Tre
hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu, khảo sát đội ngũ cán bộ công tác tại
Ban Tuyên giáo các huyện, thành phố của tỉnh Bến Tre hiện nay.
Thời gian khảo sát: từ tháng 1 năm 2010 đến tháng 6 năm 2010.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Trong quá trình thực hiện luận văn, tác giả dựa trên cơ sở lý luận,
phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch
sử và tư tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm, đường lối và các chính sách của
Đảng, Nhà nước về xây dựng đội ngũ cán bộ và đội ngũ cán bộ tuyên giáo
của Đảng.
Đồng thời, tác giả kế thừa và tiếp thu có chọn lọc những kết quả
nghiên cứu của các công trình khoa học có liên quan.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng các phương pháp như:
phân tích và tổng hợp, logic và lịch sử, phương pháp hệ thống, phương pháp
so sánh và các phương pháp xã hội học như: quan sát, phân tích tài liệu và các
phương pháp điều tra.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
6.1.Ý nghĩa khoa học



6

Kết quả luận văn là cái nhìn toàn cảnh về thực trạng chất lượng đội
ngũ cán bộ tuyên giáo cấp huyện ở tỉnh Bến Tre hiện nay.
Trên cơ sở phác họa diện mạo chung của đội ngũ cán bộ tuyên giáo
cấp huyện ở tỉnh Bến Tre, luận văn cho thấy vai trò, tầm quan trọng của việc
nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ này trong việc thực hiện nhiệm vụ
của công tác tư tưởng trên địa bàn tỉnh Bến Tre.
6.2.Ý nghĩa thực tiễn
Với kết quả nghiên cứu đạt được, Luận văn có thể dùng làm tài liệu
tham khảo cho các cấp lãnh đạo địa phương, những người trực tiếp làm nhiệm
vụ công tác tuyên giáo ở các huyện, thành phố của tỉnh Bến Tre và những ai
quan tâm đến vấn đề này.
Những giải pháp của đề tài có thể tham khảo và ứng dụng vào thực
tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ tuyên giáo cấp huyện, thành phố góp phần nâng
cao hiệu quả hoạt động của đội ngũ này trên lĩnh vực công tác tư tưởng.
7. Kết cấu luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
gồm 3 chương, tiết, trang.

Chương 1


7

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ
CÁN BỘ TUYÊN GIÁO CẤP HUYỆN HIỆN NAY
1.1. Cán bộ tuyên giáo và cán bộ tuyên giáo cấp huyện
1.1.1. Khái niệm cán bộ, cán bộ tuyên giáo, cán bộ tuyên giáo cấp

huyện
- Khái niệm “cán bộ”
Cán bộ được hiểu theo nhiều nghĩa và rất phong phú. Nó xuất hiện
trong đời sống xã hội nước ta khoảng mấy chục năm gần đây, để chỉ một lớp
người là những chiến sĩ cách mạng,lớp người mới, sẵn sang chịu đựng gian
khổ, hy sinh, gắn bó với nhân dân, phục vụ cho sự nghiệp cao cả giành độc
lập, tự do cho dân tộc.
Từ cán bộ được du nhập vào nước ta từ Trung Quốc và được dung
phổ biến trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Ban đầu, từ này được dung
nhiều trong quân đội để phân biệt chiến sĩ và cán bộ. Từ cán bộ được dùng để
chỉ những người làm nhiệm vụ chỉ huy từ tiểu đội phó trở lên. Dần dần từ cán
bộ được dùng để chỉ tất cả những người hoạt động kháng chiến thoát ly, để
phân biệt với nhân dân.
Trong từ điển Nhật-Việt, từ cán bộ được dùng với nghĩa là người ở
hạng cao (trong một đoàn thể), là yếu nhân (nhân vật quan trọng).
Trong Từ điển Tiếng Việt, từ “cán bộ” được định nghĩa là:
- Người làm công tác nghiệp vụ chuyên môn trong cơ quan Nhà nước,
Đảng và đoàn thể.
- Người làm công tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức,
phân biệt với người không có chức vụ.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Cán bộ là người đem chính sách của
Đảng, Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem


8

tình hình dân chúng báo cáo cho Đảng, Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách
cho đúng”[45,tr.269].
Cho đến nay, từ cán bộ đã được dùng với rất nhiều nghĩa khác nhau:
- Trong tổ chức đảng và đoàn thể, từ cán bộ được dùng với hai nghĩa:

một là, để chỉ những người được bầu vào các cấp lãnh đạo, chỉ huy từ cơ sở
đến Trung ương (cán bộ lãnh đạo) để phân biệt với đảng viên thường, đoàn
viên, hội viên; hai là, những người làm công tác chuyên trách có hưởng lương
trong các tổ chức đảng và đoàn thể.
- Trong quân đội là những chỉ huy từ tiểu đội trở lên (cán bộ tiểu đội,
cán bộ trung đoàn, v.v.) và là sĩ quan từ cấp úy trở lên.
- Trong hệ thống nhà nước, từ cán bộ được hiểu cơ bản là trùng với từ
công chức, chỉ những người làm việc trong cơ quan nhà nước thuộc ngành
hành chính, tư pháp, kinh tế, văn hóa và xã hội. Đồng thời, cán bộ cũng được
hiểu là những người có chức vụ chỉ huy, phụ trách, lãnh đạo (trưởng, phó
phòng, vụ, cục,v.v.).
Tóm lại, có thể hiểu Cán bộ là người có trình độ chuyên môn, nghiệp
vụ nhất định, làm việc trong các tổ chức, cơ quan, đơn vị của hệ thống chính
trị; là người giữ chức vụ trong các tổ chức, cơ quan của hệ thống chính trị.
- Cán bộ tuyên giáo
Cán bộ tư tưởng của Đảng và Nhà nước ta là người hoạt động chuyên
nghiệp trong lĩnh vực tư tưởng – văn hóa, bao gồm: cán bộ nghiên cứu và
giảng dạy lý luận, cán bộ tuyên giáo, cán bộ báo chí, xuất bản, cán bộ văn
hóa-thông tin, cán bộ hoạt động trong lĩnh vực văn hóa-nghệ thuật, cán bộ
chính trị trong lực lượng vũ trang, trong các trường đại học, cao đẳng…Ở
đây chỉ đề cập đến đội ngũ cán bộ tuyên giáo- những cán bộ có chức năng
tham mưu, giúp cấp ủy chỉ đạo, quản lý, kiểm tra các mặt hoạt động của công
tác tư tưởng và khoa giáo.


9

Trong lịch sử Đảng ta, cán bộ tư tưởng xuất hiện đồng thời và trưởng
thành cùng với quá trình phát triển của Đảng. Trước khi Đảng ta ra đời, một
bộ phận tiên tiến đại diện cho dân tộc và giai cấp công nhân nước ta đã tiếp

thu và tiến hành truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào công nhân và
phong trào yêu nước Việt Nam, chuẩn bị về tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời
của Đảng vào ngày 3/2/1930. Họ chính là những cán bộ tư tưởng mà người
đầu tiên là Nguyễn Ái Quốc. Những cán bộ tư tưởng này đã trưởng thành, lớn
mạnh cùng với quá trình phát triển của Đảng. Sau khi Đảng ta giành được
chính quyền, lực lượng làm công tác tư tưởng chuyên nghiệp được tập hợp lại
trong Ban Tuyên giáo, trong cơ quan tư tưởng-văn hóa các cấp, ngành, các
đoàn thể và trở thành bộ phận hữu cơ trong đội ngũ cán bộ chính trị, cán bộ
tham mưu của Đảng và Nhà nước.
Trải qua lịch sử 80 năm xây dựng và phát triển, cơ quan chuyên trách
làm công tác tuyên giáo của Đảng đã có những tên gọi khác nhau và có những
lần chia tách, hợp nhất cho phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ của mỗi giai đoạn
cách mạng.
Từ năm 1930 đến tháng 8 năm 1945, cơ quan tham mưu của Trung
ương Đảng về công tác tư tưởng-văn hóa gọi là Ban Cổ động và Tuyên truyền
của Đảng.
Sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, ngày 7/9/1945, Bộ
Tuyên truyền được thành lập.
Tháng 3/1949, Ban Thường vụ Trung ương ra quyết nghị về việc
thành lập Ban Văn hóa Trung ương.
Ngày 14/9/1950, Trung ương ban hành Quyết định số 55-QĐ/TW về
tổ chức Ban tuyên truyền và Ban giáo dục Trung ương Đảng.
Ngày 16/4/1951, Trung ương ban hành Quyết định số 09-QĐ/TW
thành lập Ban Tuyên huấn.


10

Ngày 22/5/1957, Ban Bí thư ban hành Quyết định số 13-QĐ/TW về
việc thành lập Tiểu ban văn nghệ Trung ương và đảng đoàn các ngành văn

học nghệ thuật.
Ngày 24/5/1957, Ban Bí thư ban hành Quyết định số 14-QĐ/TW về
việc thành lập Tiểu ban Khoa học giáo dục Trung ương và chấn chỉnh sự lãnh
đạo của các cấp ủy Đảng đối với công tác giáo dục.
Ngày 23/8/1958, Ban Bí thư có Nghị quyết số 50-NQ/TW về việc
thành lập Ban Văn hóa giáo dục Trung ương, gọi tắt là Ban Văn giáo Trung
ương.
Ngày 01/12/1959, Ban Bí thư có Quyết định số 91-QĐ/TW về việc
hợp nhất hai Ban Tuyên huấn và Ban Văn giáo thànhBan Tuyên huấn văn
giáo, gọi tắt Ban Tuyên giáo Trung ương.
Ngày 30/01/1968, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 1584-NQ/TW về
tách Ban Tuyên giáo Trung ương thành hai Ban là Ban Tuyên huấn Trung
ương và Ban Khoa học giáo dục Trung ương (gọi tắt là Ban Khoa giáo Trung
ương).
Tháng 8/1980, Bộ Chính trị thông báo thành lập Ban Văn hóa-Văn
nghệ.
Ngày 11/4/1989, Bộ Chính trị có Quyết định số 85-QĐ/TW thống
nhất Ban Văn hóa – Văn nghệ Trung ương với Ban Tuyên huấn Trung ương
thành Ban Tư tưởng – Văn hóa Trung ương.
Ngày 28/8/2007, Bộ Chính trị có Quyết định số 80-QĐ/TW nhập Ban
Tư tưởng – Văn hóa Trung ương và Ban Khoa giáo Trung ương thành lập
Ban Tuyên giáo Trung ương.
Ban Tuyên giáo Trung ương là cơ quan tham mưu chỉ đạo và
kiểm tra của Ban chấp hành Trung ương mà trực tiếp là Bộ Chính trị và


11

Ban Bí thư Trung ương về công tác tư tưởng – văn hóa, công tác khoa
giáo trong Đảng và trong xã hội. [ 50,tr.488]

Từ những phân tích nêu trên, chúng tôi xin nêu ra một cách hiểu về
cán bộ tuyên giáo như sau:
Cán bộ tuyên giáo là những người hoạt động trong cơ quan tham
mưu các cấp của Đảng về công tác tuyên giáo, có chức năng tham mưu, giúp
cấp ủy chỉ đạo, quản lý, kiểm tra các mặt hoạt động của công tác tư tưởng
-văn hóa và khoa giáo.
- Cán bộ tuyên giáo cấp huyện
Hệ thống tổ chức của Đảng ta theo bốn cấp: đảng bộ cơ sở (xã,
phường, thị trấn …), đảng bộ huyện (quận, thị xã…), đảng bộ tỉnh, thành phố
và Trung ương. Do đó, Ban Tuyên giáo được thành lập theo bốn cấp trên:
Trung ương, tỉnh (thành phố trực thuộc Trung ương), huyện (quận, thị xã) và
xã (phường, thị trấn…). Song, với tư cách làmột tổ chức có bộ máy chuyên
trách thì có ở ba cấp: Trung ương, tỉnh và huyện.
Về cơ bản, chức năng, nhiệm vụ của ban tuyên giáo huyện ủy cũng
như của ban tuyên giáo cấp trên; khác nhau là ở cấp độ, ở việc xác định
những nhiệm vụ cụ thể để thực hiện trong phạm vi và hoàn cảnh cụ thể của
cấp huyện.
Ban tuyên giáo huyện ủy là cơ quan tham mưu của huyện ủy về
công tác tư tưởng-văn hóa và khoa giáo. Ban tuyên giáo huyện ủy có
chức năng tham mưu, chỉ đạo và kiểm tra năm mặt công tác: tuyên
truyền, giáo dục lý luận chính trị, văn hóa-văn nghệ, khoa giáo và
nghiên cứu, biên soạn lịch sử đảng bộ địa phương. [50,tr.493]
Theo đó, có thể hiểu cán bộ tuyên giáo cấp huyện là những người
công tác tại ban tuyên giáo huyện ủy. Đó là những cán bộ có chức năng tham
mưu, giúp cấp ủy huyện chỉ đạo, quản lý, kiểm tra năm mặt công tác tuyên


12

truyền, giáo dục lý luận chính trị, văn hóa văn nghệ, khoa giáo và nghiên

cứu, biên soạn lịch sử đảng bộ địa phương,
1.1.2. Chức năng, nhiệm vụ của cán bộ tuyên giáo cấp huyện
- Nghiên cứu, đề xuất
+ Nghiên cứu, tổng hợp, phân tích tình hình tư tưởng trong cán bộ,
đảng viên và nhân dân; những âm mưu, thủ đoạn chống phá Đảng, Nhà nước
và chế độ ta trên lĩnh vực tư tưởng - văn hoá của các thế lực thù địch; dự báo
những diễn biến và xu hướng tư tưởng có thể xảy ra, kịp thời báo cáo, kiến
nghị với Ban Thường vụ, Thường trực cấp uỷ phương hướng, nhiệm vụ, nội
dung, biện pháp giải quyết.
+ Chủ trì và tham gia chuẩn bị các đề án, các chương trình, các nghị
quyết, chỉ thị, quyết định… của cấp ủy, Ban Thường vụ cấp ủy về công tác tư
tưởng - văn hóa, khoa giáo và biên soạn lịch sử Đảng bộ huyện.
+ Giúp cấp uỷ, Ban Thường vụ cấp uỷ trong việc đánh giá các hoạt
động và nghiên cứu đề xuất phương hướng, chính sách, cơ chế và các giải
pháp trên lĩnh vực công tác tư tưởng - văn hoá, khoa giáo và biên soạn lịch sử
Đảng bộ cơ sở.
+ Tham gia ý kiến với các cơ quan Đảng, chính quyền, đoàn thể
huyện và cơ sở trong việc tổ chức nghiên cứu quán triệt, vận dụng thể chế hoá
các chỉ thị, nghị quyết, quyết định của Trung ương và Tỉnh uỷ về các lĩnh vực
tư tưởng - văn hoá, khoa giáo và biên soạn lịch sử Đảng bộ cơ sở.
- Thẩm định
Chủ trì hoặc tham gia thẩm định các chương trình, kế hoạch, đề án
của các cơ quan Đảng, chính quyền, các đoàn thể huyện và cơ sở có liên quan
đến lĩnh vực tư tưởng - văn hoá, khoa giáo và lịch sử Đảng.
- Hướng dẫn, kiểm tra


13

+ Giúp cấp uỷ, Ban Thường vụ cấp uỷ tổ chức nghiên cứu quán triệt,

hướng dẫn triển khai thực hiện các nghị quyết của Đảng; kiểm tra các tổ chức
Đảng, các ban, ngành, đoàn thể huyện và cơ sở trong việc thực hiện các nghị
quyết, chỉ thị của Trung ương và Tỉnh uỷ về công tác tư tưởng - văn hoá, khoa
giáo và lịch sử Đảng.
+ Tổ chức phổ biến thông tin thời sự, chính sách theo hướng dẫn của
Trung ương, tỉnh và thực hiện sự chỉ đạo của cấp uỷ Ban Thường vụ cấp uỷ
cho cán bộ, đảng viên trong toàn Đảng bộ.
+ Tổ chức mạng lưới báo cáo viên, tuyên truyền viên từ huyện đến cơ
sở; hướng dẫn và kiểm tra nội dung thông tin của các phương tiện thông tin
Đài Truyền thanh, hoạt động thông tin cổ động, văn hóa - thông tin, khoa giáo
trên địa bàn huyện.
+ Hướng dẫn và chỉ đạo tuyên truyền các ngày lễ lớn, các phong trào
thi đua yêu nước trong nội bộ Đảng và nhân dân.
+ Tổ chức bồi dưỡng, hướng dẫn nghiệp vụ công tác khoa giáo,
nghiệp vụ công tác nghiên cứu dư luận xã hội, nghiệp vụ công tác sưu tầm và
biên soạn lịch sử Đảng bộ cơ sở, ngành… cho đội ngũ cán bộ tuyên giáo cơ
sở.
+ Sưu tầm, biên soạn, bổ sung lịch sử Đảng bộ huyện, địa chí huyện;
hướng dẫn sưu tầm, biên soạn lịch sử Đảng bộ xã, lịch sử ngành; đưa lịch sử
địa phương vào giảng dạy ở các trường phổ thông, nhằm phát huy truyền
thống cách mạng của quê hương Bến Tre Đồng Khởi anh hùng; giáo dục
truyền thống cách mạng của địa phương.
+ Chỉ đạo và tham gia tổng kết thực tiễn, phát hiện và nhân rộng
những mô hình mới, nhân tố mới trên địa bàn huyện. Tổng kết kinh nghiệm
công tác tuyên giáo cơ sở và định kỳ có báo cáo Ban Thường vụ cấp uỷ, Ban
Tuyên giáo Tỉnh uỷ.


14


- Tham gia công tác xây dựng Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ tuyên
giáo cơ sở, cán bộ khoa học kỹ thuật trong địa bàn huyện.
+ Đề xuất với cấp uỷ, Ban Thường vụ cấp uỷ về cơ chế chính sách
đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng, quản lý và đãi ngộ đối với đội ngũ cán bộ
tuyên giáo, đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật trong huyện.
+ Tham gia ý kiến trong việc bố trí, sử dụng, khen thưởng, kỷ luật cán
bộ trong khối tuyên giáo và Ban Tuyên giáo cơ sở.
+ Phối hợp với các Ban Đảng của cấp uỷ, tham gia công tác xây dựng
Đảng đối với các cơ sở, đơn vị và các ngành trong khối tuyên giáo; xây dựng
đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật trong lĩnh vực khoa giáo.
- Thực hiện các nhiệm vụ do Ban Thường vụ cấp uỷ uỷ nhiệm
+ Chủ trì, chỉ đạo định hướng chính trị, tư tưởng trong hoạt động của
các cơ quan: Đài Phát thanh, Phòng Văn hoá - Thông tin thể thao, giúp đỡ và
tạo điều kiện cho các ngành này hoạt động theo đúng định hướng chính trị của
Trung ương, tỉnh và cấp uỷ địa phương.
+ Chủ trì, chỉ đạo nội dung giáo dục lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh; chủ trương, đường lối của Đảng, Pháp luật của Nhà
nước; các chương trình bồi dưỡng, đào tạo ở Trung tâm bồi dưỡng chính trị
và hệ thống giáo dục phổ thông trên địa bàn.
+ Lãnh đạo, chỉ đạo công tác chính trị, tư tưởng, lãnh đạo công tác
chuyên môn của khối khoa giáo thực hiện theo chủ trương, nghị quyết của
Đảng và cấp uỷ (Giáo dục, Uỷ ban dân số, gia đình và trẻ em, Y tế, thể dục
thể thao, khoa học công nghệ và môi trường, Hội Đông y), định hướng chính
trị cho hoạt động của khối.
1.1.3. Vị trí, vai trò của cán bộ tuyên giáo cấp huyện
“Những tư tưởng thống trị của một thời đại bao giờ cũng chỉ là những
tư tưởng của giai cấp thống trị”.[,tr.625] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập,


15


Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.4. Để biến hệ tư tưởng của mình
thành hệ tư tưởng thống trị trong một chế độ xã hội, giai cấp thống trị nào
cũng phải tổ chức việc truyền bá hệ tư tưởng trong quảng đại quần chúng.
Việc truyền bá này, một mặt xuất phát từ yêu cầu xác lập địa vị thống trị của
hệ tư tưởng của giai cấp thống trị xã hội, mặt khác xuất phát từ yêu cầu động
viên, cổ vũ quần chúng tham gia hoạt động thực tiễn nhằm xây dựng và bảo
vệ chế độ đương thời.
Hệ tư tưởng tự nó không xâm nhập vào ý thức quần chúng nếu không
thông qua các công tác tuyên truyền, giáo dục. Kể từ khi xã hội loài người
phân chia thành giai cấp đối kháng, hệ tư tưởng xuất hiện thì đồng thời cũng
hình thành tầng lớp những nhà tư tưởng những cán bộ tuyên truyền. Đội ngũ
này lấy việc truyền bá hệ tư tưởng cho một giai cấp làm nghề nghiệp của
mình. Xã hội càng phát triển, đấu tranh giai cấp trên lĩnh vực tư tưởng càng
phức tạp thì yêu cầu về số lượng và chất lượng đối với đội ngũ này càng cao,
tính chuyên nghiệp của nghề này càng sâu.
Từ kinh nghiệm lịch sử của xã hội loài người và từ quá trình truyền bá
lý luận khoa học vào phong trào công nhân, C.Mác đã khẳng định: “Muốn
thực hiện tư tưởng thì cần có những con người sử dụng lực lượng thực
tiễn”[31,tr.181].Trong điều kiện lịch sử cụ thể của cách mạng đang ở thời kỳ
Đảng chưa nắm chính quyền, C.Mác và Ph.Ăngghen rất quan tâm đến việc
xây dựng một đội ngũ những nhà tuyên truyền, cổ động, truyền bá tư tưởng
cộng sản; lãnh đạo, tổ chức các phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản, trên
cơ sở đó, kết hợp với phong trào công nhân để lập ra những chính đảng của
giai cấp công nhân. Những nhà tuyên truyền, cổ động đó chính là những cán
bộ cách mạng chuyên nghiệp của Đảng trong thời kỳ hoạt động bí mật.
Đội ngũ cán bộ tuyên giáo nói chung, đội ngũ cán bộ tuyên giáo cấp
huyện nói riêng giữ vai trò hết sức quan trọng đối với quá trình phát triển và



16

truyền bá hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Thông qua hoạt động của đội ngũ này
mà hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa ngày càng phát triển và được truyền bá rộng
rãi trong quần chúng, trở thành yếu tố chi phối, thống trị trong đời sống tinh
thần xã hội.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa là hoạt động tự giác và sáng tạo của
hàng chục triệu quần chúng. Đảng Cộng sản, thông qua đội ngũ đảng viên
trong toàn Đảng và đội ngũ cán bộ tuyên giáo đưa tinh thần tự giác vào giai
cấp công nhân, vào quảng đại quần chúng nhân dân lao động. Nhờ có trình độ
tự giác trong hành động của quần chúng ngày càng cao, ý thức xã hội chủ
nghĩa ngày càng ăn sâu bám rễ vào quần chúng và trở thành lực lượng vật
chất thúc đẩy tiến trình phát triển và đổi mới xã hội.
Cán bộ tuyên giáo đóng vai trò quan trọng trong công tác xây dựng
Đảng. Thông qua việc phát triển lý luận cách mạng, truyền bá chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, chính sách của Đảng cho quần
chúng và đảng viên, cán bộ tuyên giáo góp phần vào việc nâng cao trình độ
giác ngộ của quần chúng về Đảng, giúp họ hiểu rõ vai trò, sứ mệnh của Đảng
trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội; góp phần giáo dục bản lĩnh chính
trị, phẩm chất đạo đức cách mạng cho đảng viên. Nhờ đó đội ngũ của Đảng
được phát triển, số lượng, chất lượng đảng viên được nâng cao, sự vững mạnh
về chính trị, tư tưởng và tổ chức của Đảng được tăng cường.
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh thường căn dặn: “Cán bộ là cái gốc
của mọi công việc”[47,tr.269], “Công việc thành công hoặc thất bại đều do
cán bộ tốt hay kém”[47,tr.269]. Hiệu quả công tác tư tưởng phụ thuộc vào
chất lượng, trình độ am hiểu sâu sắc về chuyên môn, tinh thông về nghiệp vụ,
vững vàng về bản lĩnh chính trị, giàu nhiệt tình cách mạng của đội ngũ cán bộ
công tác tuyên giáo.


17


Đội ngũ cán bộ tuyên giáo các thế hệ của Đảng đã góp phần bồi
dưỡng các thế hệ con người Việt Nam, những chiến sĩ cộng sản thành lớp
người “gan vàng dạ sắt”, dũng cảm, kiên cường trong đấu tranh cách mạng.
Hiện nay, họ đang góp phần tích cực xây dựng những thế hệ con người Việt
Nam mới, đủ sức gánh vác sứ mệnh lịch sử mà đất nước giao phó.
1.2. Chất lượng đội ngũ cán bộ tuyên giáo cấp huyện của tỉnh Bến
Tre và tiêu chí đánh giá
1.2.1. Quan niệm về chất lượng đội ngũ cán bộ tuyên giáo cấp
huyện
- Chất lượng
Theo Đại từ điển tiếng Việt: Chất lượng: Cái làm nên phẩm chất, giá
trị của con người, sự vật... Cái tạo nên bản chất sự vật, làm cho sự vật này
khác sự vật kia [60, tr.331].
Từ điển Bách Khoa Việt Nam cho rằng: Chất lượng là phạm trù triết
học biểu hiện những thuộc tính, bản chất của sự vật, chỉ rõ nó là cái gì, tính ổn
định tương đối của sự vật phân biệt nó với sự vật khác [57,tr.419].
Từ điển Triết học chỉ rõ: Chất lượng (chất) là tính qui định bản chất
của sự vật, tính qui định những đặc điểm và tính cách vốn có của sự vật; do
tính qui định đó, sự vật là sự vật như nó đang tồn tại, chứ không phải là sự vật
khác; tính qui định đó phân biệt sự vật ấy với sự vật khác [58,tr.150].
- Đội ngũ: Trong Đại từ điển Tiếng Việt đưa ra khái niệm như sau:
1.Tổ chức gồm nhiều người tập hợp lại thành một lực lượng. 2. Tập hợp số
đông người cùng chức năng, nghề nghiệp. [60 ,tr.659]
Từ sự phân tích ở trên có thể hiểu: Chất lượng đội ngũ cán bộ tuyên
giáo cấp huyện là tổng hợp các thuộc tính, đặc trưng của tập hợp những
người cán bộ tuyên giáo cấp huyện, đảm bảo cho đội ngũ cán bộ đó hoàn
thành nhiệm vụ được giao.



18

Chất lượng đội ngũ cán bộ tuyên giáo được tạo nên bởi nhiều yếu tố,
bao gồm số lượng cán bộ, cơ cấu cán bộ, cấu trúc bộ máy, cơ chế tổ chức,
điều hành,…Chất lượng của đội ngũ cán bộ tuyên giáo được cấu thành từ chất
lượng của mỗi cán bộ tuyên giáo. Đó là trình độ lý luận chính trị và tri thức
khoa học, trình độ về chuyên môn nghiệp vụ, về phẩm chất chính trị và đạo
đức.
Chất lượng của đội ngũ cán bộ tuyên giáo đòi hỏi trước hết phải có
một số lượng hợp lý. Tính hợp lý được biểu hiện ở sự tinh giản tới mức tối
ưu, đảm bảo gọn nhẹ, hoạt động có hiệu quả, trong đó mỗi cá nhân phát huy
hết năng lực của mình, có thể đảm đương tốt nhất công việc được giao, đảm
bảo cho bộ máy vận hành thông suốt và đạt hiệu quả cao. Một đội ngũ cán bộ
quá đông sẽ gây ra sự trì trệ trong công việc, trong điều hành bộ máy, gây ra
sự dư thừa và lãng phí nhân lực, và do đó thiếu sự thúc đẩy tính tích sự của
mỗi cá nhân.
Tính hợp lý về số lượng còn biểu hiện ở sự cân đối và phù hợp với
điều kiện, hoàn cảnh kinh tế- xã hội của đất nước, phù hợp với yêu cầu công
việc của từng cấp, từng lĩnh vực. Trong điều kiện nền kinh tế nước ta còn
nghèo, thu nhập quốc dân còn thấp, một đội ngũ cán bộ quá đông sẽ là gánh
nặng cho nền kinh tế đất nước, đời sống của cán bộ khó có điểu kiện được cải
thiện, được nâng cao. Chính vì vậy, tinh giản bộ máy, giảm biên chế đang là
vấn đề bức xúc hiện nay.
Chất lượng cán bộ tuyên giáo phải có cơ cấu hợp lý. Đó là sự cân đối,
phù hợp giữa cán bộ lãnh đạo và chuyên viên, sự cân đối về giới tính, độ tuổi
của các thế hệ cán bộ,…
Sự hợp lý trong cơ cấu cán bộ sẽ tạo ra sức mạnh tổng hợp, bảo đảm
sự chuyển tiếp, hỗ trợ nhau, tạo ra sự phong phú, hài hòa và đa dạng trong đội
ngũ cán bộ tuyên giáo. Một cơ cấu hợp lý sẽ tạo ra tính năng động của bộ



19

máy, tạo ra sự phối hợp nhịp nhàng trong hoạt động. Cơ cấu hợp lý là yếu tố
quan trọng tạo nên chất lượng cán bộ tuyên giáo.
Trong điều kiện hiện nay, xây dựng cơ cấu cán bộ tuyên giáo cần kết
hợp chặt chẽ việc trẻ hóa đội ngũ cán bộ với việc sử dụng tốt số cán bộ hiện
có, số cán bộ có kinh nghiệm, số cán bộ trẻ được đào tạo cơ bản, có trình độ
chuyên môn. Việc xây dựng cơ cấu cán bộ tuyên giáo phải trên cơ sở khoa
học, gắn với yêu cầu, nhiệm vụ của cơ quan ban tuyên giáo.
Chất lượng của đội ngũ cán bộ tuyên giáo là sự tổng hợp chất lượng
của từng người cán bộ tuyên giáo. Mỗi một cán bộ mạnh, có đủ đức, đủ tài sẽ
tạo nên chất lượng và sức mạnh tổng hợp của toàn đội ngũ cán bộ tuyên giáo.
Chất lượng của mỗi cán bộ tuyên giáo được biểu hiện ở bản lĩnh
chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, ở trình độ được đào tạo về chuyên môn,
trình độ về lý luận chính trị và tri thức khoa học.
Người cán bộ tuyên giáo phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên
định với mục tiêu và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, là người tiêu biểu
cho lý tưởng cách mạng, có lòng trung thành tuyệt đối với Tổ quốc và nhân
dân, trung thành với lý tưởng của giai cấp và dân tộc. Bất luận trong hoàn
cảnh nào họ cũng phải là người cầm lái giữ vững định hướng xã hội chủ
nghĩa. Trong điều kiện hiện nay, phẩm chất chính trị của người cán bộ tuyên
giáo phải được đặt lên hàng đầu, là tiêu chuẩn quan trọng quyết định chất
lượng của mỗi người cán bộ.
Người cán bộ tuyên giáo phải thực sự là người có đạo đức cách mạng,
đạo đức Hồ Chí Minh. Đạo đức cách mạng của người cán bộ tuyên giáo đó là
lòng trung thành với lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân, kiên định mục tiêu
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phấn đấu hết mình vì sự nghiệp cách
mạng của Đảng và dân tộc. Nó được thể hiện ở tinh thần trách nhiệm và gắn
liền với hiệu quả hoạt động, nói đi đôi với làm, mang lại lợi ích thiết thực cho



20

nước, cho dân, gắn liền với trách nhiệm của mỗi cá nhân, phải thật sự tận tâm,
tận lực phụng sự Tổ quốc, là “công bộc”, là “đầy tớ” của dân, trung thành,
dám đấu tranh cho lẽ phải, công bằng. Người cán bộ có đạo đức cách mạng là
người luôn nghiêm khắc với bản than, không tham nhũng, kiên quyết đấu
tranh chống tham nhũng, có lối sống mẫu mực, phù hợp với chuẩn mực của
xã hội, luôn biết hy sinh lợi ích cá nhân, đặt lợi ích của dân tộc, của tập thể
lên trên lợi ích cá nhân. Tóm lại, yêu cầu đạo đức cách mạng của người cán
bộ tuyên giáo trong giai đoạn hiện nay là phải thật sự cần, kiệm, liêm, chính,
chí công, vô tư. Đây là tiêu chuẩn quan trọng để lựa chọn, cất nhắc, đề bạt cán
bộ. Chất lượng đội ngũ cán bộ tuyên giáo được thể hiện, được tạo thành từ
phẩm chất đạo đức của mỗi người cán bộ tuyên giáo.
Về trình độ, năng lực, trong bất cứ thời kỳ nào, đây cũng là nhân tố
quan trọng, quyết định chất lượng và hiệu quả công việc, là tiêu chí quan
trọng đánh giá chất lượng cán bộ tuyên giáo. Yêu cầu về trình độ kiến thức và
năng lực của người cán bộ tuyên giáo trong giai đoạn hiện nay phải toàn diện,
vừa rộng, vừa sâu. Phải giỏi về chuyên môn, am hiểu về lĩnh vực phụ trách.
Đó là đòi hỏi của cuộc sống hiện nay, của sự nghiệp công nghiệp hóa và của
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
1.2.2. Tiêu chí đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ tuyên giáo cấp
huyện ở tỉnh Bến Tre
1.2.2.1. Về số lượng cán bộ tuyên giáo cấp huyện của tỉnh Bến Tre
Căn cứ Nghị quyết số 16-NQ/TW ngày 18/3/2002 của Ban chấp hành
Trung ương Đảng (khóa IX) về nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý
luận trong tình hình mới; Kết luận Hội nghị Trung ương lần thứ 12 về tăng
cường công tác tư tưởng trong tình hình hiện nay; Căn cứ Hướng dẫn liên ban
số 2631-HDLB/TTVH-KH-TC ngày 24/01/2003 của Ban Tư tưởng – Văn

hóa Trung ương, Ban Khoa giáo Trung ương, ban Tổ chức Trung ương về


21

chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy Ban Tuyên giáo tỉnh ủy, thành ủy;
Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy và Ban Tổ chức Tỉnh ủy Bến Tre đã ban hành
hướng dẫn liên ban số 10-HDLB/BTGTU-BTCTU, ngày 11/5/2006 về chức
năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của Ban tuyên giáo Huyện ủy, Thị xã ủy
cho phép biên chế của ban tuyên giáo cấp huyện từ 7 đến 8 đồng chí, theo các
phương án sau:
* Phương án 1:
- Trưởng ban (là Uỷ viên Thường vụ);
- Phó Trưởng ban Thường trực (là cấp uỷ viên);
- Phó Trưởng ban phụ trách khoa giáo;
- Cán bộ văn phòng và huấn học;
- Cán bộ tuyên truyền;
- Cán bộ khoa giáo;
- Cán bộ lịch sử Đảng.
* Phương án 2:
- Trưởng ban (là Uỷ viên Thường vụ);
- Phó Trưởng ban Thường trực (là cấp uỷ viên);
- Phó Trưởng ban phụ trách khoa giáo;
- Cán bộ văn phòng;
- Cán bộ tuyên truyền; Cán bộ huấn học;
- Cán bộ khoa giáo;
- Cán bộ lịch sử Đảng.
1.2.2.2. Về cơ cấu đội ngũ
Được xây dựng theo phương hướng đồng bộ, chuyên sâu và chuyên
môn hóa. Số lượng chuyên viên phải chiếm tỷ trọng lớn. Số cán bộ lãnh đạo ở

cấp huyện phải ít hơn số chuyên viên. Trong số cán bộ phải có sự bổ sung
cho nhau về ngành nghề, về độ tuổi, về tỷ lệ cán bộ nữ. Ban tuyên giáo huyện


22

có 5 lĩnh vực công tác: tuyên truyền, huấn học, khoa giáo, văn hóa-văn nghệ,
lịch sử Đảng thì cơ cấu cần phải đủ số lượng cần thiết, phù hợp với yêu cầu
công tác của từng lĩnh vực.
1.2.2.3. Về chất lượng đội ngũ cán bộ tuyên giáo cấp huyện ở tỉnh
Bến Tre
- Về trình độ lý luận chính trị và tri thức khoa học
Cần xác định mặt bằng về trình độ lý luận chính trị của đội ngũ cán
bộ tuyên giáo cấp huyện hiện nay là phải từ trung cấp lý luận chính trị trở lên.
Đây là cơ sở để họ có sự hiểu biết cơ bản về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước; những đặc điểm về tình hình kinh tế trong nước và quốc tế. Từ đó hình
thành cho bản thân thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cách mạng,
phương pháp luận đúng đắn, củng cố niềm tin vững chắc vào mục tiêu, lý
tưởng, vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vào sự nghiệp
đổi mới của Đảng, nâng cao năng lực tư duy, năng lực lực hoạt động thực
tiễn, có ý thức tự giác và hoạt động tích cực trong quá trình thực hiện nhiệm
vụ được phân công.
Có những hiểu biết cần thiết về những quan điểm tư tưởng khác nhau
và đấu tranh không khoan nhượng với quan điểm tư tưởng đi ngược lợi ích
giai cấp, lợi ích dân tộc và trái với hệ tư tưởng Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, có dũng khí đấu tranh bảo vệ quan điểm, đường lối của Đảng, không
dao động trước sự tấn công của kẻ thù tư tưởng, trước âm mưu “diễn biến hòa
bình” của các thế lực thù địch.
Nền tảng kiến thức văn hóa phải đủ rộng, tổng hợp, trước hết là kiến

thức tổng hợp về lĩnh vực chính trị - xã hội, kiến thức về giáo dục con người.
Hiểu biết về thế giới hiện đại, về đất nước, xã hội và con người Việt Nam trên
phương diện truyền thống, tâm lý, văn hóa…Hiểu biết sâu sắc nền tảng khoa


23

học giáo dục, lý luận nhận thức, hiểu biết các quá trình tư tưởng diễn ra trong
xã hội, những quy luật của hoạt động tư tưởng, quy luật và cơ chế tác động để
hình thành ý thức xã hội.
- Về phẩm chất chính trị và đạo đức lối sống
Trước hết là bản lĩnh chính trị và sự kiên định chính trị. Trong bối
cảnh xã hội phức tạp, rất nhiều luồng tư tưởng khác nhau, nhiều ý kiến khác
nhau thì người cán bộ tuyên giáo, bằng trí tuệ của mình, bằng tấm lòng của
mình, phải biết tìm ra trong bộn bề cái phức tạp ấy, cái đúng về bản chất để tự
thuyết phục mình, rồi mới thuyết phục người khác. Việc kịp thời cung cấp
thông tin là rất cần thiết, nhưng vấn đề là trong những thông tin đó, cán bộ
cung cấp thông tin cần phân tích thế nào là đúng và định hướng công tác như
thế nào, định hướng dư luận ra sao. Điều đó đòi hỏi bản lĩnh, sự kiên định.
Nếu chỉ nghe dư luận rồi vội vàng nghe theo, tin vào cái đó và dao động thì
thuyết phục ai? Định hướng cho ai? Cho nên bản lĩnh và sự kiên định là cực
kỳ quan trọng, là phẩm chất số một, đòi hỏi ở người làm công tác tuyên giáo.
Thứ hai, sự nhạy bén và sắc bén. Trong bối cảnh bùng nổ thông tin và
đang có sự phân hóa về mặt tư tưởng thì sự nhạy bén, phát hiện sớm vấn đề,
dự báo vấn đề là rất quan trọng. Nhưng nhạy bén thôi thì còn chưa đủ, mà cần
phải sắc bén. Đây là thời đại đấu tranh tư tưởng quyết liệt, đấu tranh nội bội,
đấu tranh với kẻ thù, muốn đấu tranh được thì phải rất sắc bén, lập luận sắc
bén thì mới thắng được.
Thứ ba, sự say mê. Phải coi tuyên giáo là một nghề, mà đã là nghề
muốn giỏi thì phải say mê. Nghề này đòi hỏi phải tích lũy từng bước một.

Phải đọc, phải suy ngẫm, phải rút kinh nghiệm, phải rèn luyện để nâng cao
trình độ. Nghề này không thể ăn sổi ở thì được, không thể vội vàng được, mà
phải kiên trì, phải say mê, mà đã say mê, kiên trì thì nhất định thành công.


24

Phải coi tuyên giáo như một nghề, thật sự là một nghề, một nghề cao
quý, một nghề với những đòi hỏi rất cao và quyết tâm phấn đấu là rất quan
trọng.
Thứ tư, có đạo đức và lối sống lành mạnh, giàu lòng nhân ái, gần gũi
nhân dân, tôn trọng tập thể, trung thực, thẳng thắn, khiêm tốn, quyết đoán, có
sức quy tụ và đoàn kết mọi người. Có trách nhiệm cao trong công tác, nói đi
đôi với làm. Biết phát hiện cái mới, cổ vũ cái mới phát triển và kiên quyết đấu
tranh chống các tệ nạn xã hội, các hiện tượng tiêu cực, lạc hậu cản trở quá
trình phát triển của xã hội, của con người.
- Về năng lực chuyên môn nghiệp vụ
Thứ nhất, có năng lực tổng hợp trên cơ sở phân tích những vấn đề của
thực tiễn làm cơ sở cho hoạt động tham mưu, đề xuất và tham gia xử lý những
vấn đề được phân công phụ trách.
Thứ hai, phải nắm rất vững đường lối, chính sách của Đảng, Nhà
nước và địa phương. Đó là yêu cầu bắt buộc. Tất nhiên, không thể nắm toàn
bộ chi tiết, song với những chủ trương, đường lối, quan điểm lớn thì phải nắm
sâu, nhất là các quan điểm, đường lối thuộc lĩnh vực được phân công phụ
trách. Muốn đề xuất đường lối, chủ trương, quan điểm thì phải biết đã có
đường lối, chủ trương, quan điểm nào-từ tổng kết, đánh giá tình hình, đi đến
đề xuất cần đưa ra những cái mới, bỏ đi cái đã lỗi thời.
Thứ ba, có khả năng nói và viết tốt. Ai cũng phải viết, lãnh đạo giao
cho chuyên viên viết báo cáo (tuần, tháng, quý, nửa năm, một năm, báo cáo
chuyên đề…). Người làm công tác tuyên truyền, vận động, thuyết phục cũng

giống như người đi truyền đạo. Việc thuyết phục quần chúng, vận động quần
chúng quan trọng vô cùng. Thuyết phục phải bằng trí tuệ, lòng chân thành,
phải nói những điều chính mình rung động, chính mình trăn trở thì mới có sức
thuyết phục.


25

Thứ tư, có năng lực sử dụng các phương tiện thông tin tuyên truyền
đại chúng, nhất là sử dụng các phương tiện hiện đại, để tác động đến ý thức
quần chúng. Có khả năng giúp cấp ủy chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, phối hợp
hoạt động của các cơ quan thông tin tuyên truyền đại chúng.
Thứ năm, có năng lực tham mưu, giúp cấp ủy ướng dẫn, triển khai,
chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện các chương trình học tập lý luận chính trị cho
các đối tượng.
Thứ sáu, có năng lực tham mưu, giúp cấp ủy hướng dẫn, triển khai
việc thực hiện đường lối, chủ trương và những định hướng tư tưởng của Đảng
trong lĩnh vực văn hóa-văn nghệ, khoa giáo, nghiên cứu lịch sử Đảng ở địa
phương.
Thứ bảy, có năng lực độc lập nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn,
nhất là năng lực nghiên cứu phân tích, phê phán, tổng kết các vấn đề chính trị
và tư tưởng – chính trị, khả năng nắm bắt, hướng dẫn dư luận xã hội, phát
hiện, lý giải những khuynh hướng tư tưởng phát sinh trong đời sống xã hội và
trong các tầng lớp dân cư khác nhau.
1.3. Sự cần thiết của việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
tuyên giáo cấp huyện ở tỉnh Bến Tre
1.3.1. Bối cảnh quốc tế và trong nước
1.3.1.1. Bối cảnh quốc tế
Hòa bình, hợp tác vẫn là xu hướng lớn của sự phát triển. Toàn cầu
hóa và hội nhập quốc tế chi phối tất cả các quốc gia, tạo nên các thời cơ và

thách thức cho mỗi nước, đặc biệt là các nước đang phát triển. Tình hình thế
giới có nhiều diễn biến phức tạp, tiểm ẩn nhiều rủi ro, bất trắc khó lưởng.
Chiến tranh giữa các nước lớn ít có khả năng xảy ra, nhưng căng thẳng tôn
giáo, dân tộc, ly khai, chiến tranh cục bộ, bạo loạn chính trị, can thiệp lật đổ,
khủng bố quốc tế vẫn diễn ra nhiều nơi. Tranh chấp lãnh thồ, biển đảo tiếp tục


×