Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page iii
MỤC LỤC
Lời cam đoan i
Lời cảm ơn ii
Mục lục iii
Danh mục chữ viết tắt vi
Danh mục bảng vii
1 MỞ ĐẦU 1
1.1 Tính cấp thiết của đề tài 1
1.2 Mục tiêu nghiên cứu của đề tài 3
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3
2 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN VỀ CHẤT LƯỢNG
CÁN BỘ CÔNG CHỨC CẤP XÃ 5
2.1 Cơ sở lý luận về chất lượng cán bộ công chức cấp xã 5
2.1.1 Khái quát chung về cán bộ công chức cấp xã 5
2.1.2 Chất lượng cán bộ, công chức cấp xã 13
2.2 Cơ sở thực tiễn 26
2.2.1 Kinh nghiệm nâng cao chất lượng cán bộ, công chức cấp xã ở một số
nước trên thế giới 26
2.2.2 Kinh nghiệm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức ở một số
địa phương ở Việt Nam 31
2.3 Các công trình nghiên cứu có liên quan 33
3 ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 35
3.1 Đặc điểm địa bàn nghiên cứu 35
3.1.1 Lịch sử hình thành 35
3.1.2 Đặc điểm tự nhiên của huyện Thuận Thành 35
3.1.3 Đặc điểm tổ chức hành chính huyện Thuận Thành 38
3.2 Phương pháp nghiên cứu 39
3.2.1 Thu thập số liệu và phương pháp xử lý số liệu 39
3.2.2 Phương pháp phân tích 40
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page iv
3.2.3 Các chỉ tiêu nghiên cứu 41
4 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 42
4.1 Thực trạng chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã của huyện
Thuận Thành 42
4.1.1 Số lượng cán bộ, công chức cấp xã huyện Thuận Thành 42
4.1.2 Chất lượng cán bộ, công chức cấp xã của huyện 44
4.2 Đánh giá thực trạng chất lượng đội ngũ cán bộ công chức cấp xã, thị
trấn của huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh 47
4.2.1 Tự đánh giá của cán bộ công chức xã, thị trấn về chất lượng đội ngũ
cán bộ 47
4.2.2 Đánh giá của người dân về chất lượng đội ngũ cán bộ công chức cấp
xã, thị trấn 52
4.2.3 Đánh giá của cán bộ lãnh đạo huyện về chất lượng đội ngũ cán bộ
công chức cấp xã, thị trấn 55
4.2.3 Khả năng hoàn thành nhiệm vụ 55
4.2.4 Đánh giá chất lượng đội ngũ CBCC cấp xã huyện Thuận Thành 56
4.3 Thực trạng công tác nâng cao chất lượng cán bộ công chức cấp xã ở huyện 58
4.3.1 Thực trạng công tác quy hoạch cán bộ, công chức cấp xã 58
4.3.2 Thực trạng công tác bồi dưỡng, đào tạo cán bộ, công chức cấp xã 60
4.3.3 Thực trạng công tác tổ chức bố trí sử dụng cán bộ, công chức cấp xã 63
4.3.4 Thực trạng chế độ đãi ngộ cán bộ, công chức cấp xã 65
4.3.5 Thực trạng công tác nâng cao chất lượng cán bộ công chức của huyện
trong những năm gần đây 66
4.4 Quan điểm, định hướng và giải pháp nâng cao chất lượng cán bộ công
chức cấp xã ở huyện 67
4.4.1 Quan điểm về nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức cấp xã,
thị trấn 67
4.4.2 Định hướng xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công
chức cấp xã, thị trấn 68
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page v
4.4.3 Những giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công
chức cấp xã, thị trấn của huyện giai đoạn hiện nay 69
5 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 83
5.1 Kết luận 83
5.2 Kiến nghị 84
TÀI LIỆU THAM KHẢO 86
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page vi
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CBCC Cán bộ, công chức
HĐND Hội đồng nhân dân
UBND Ủy ban nhân dân
MTTQ Mặt trận tổ quốc
CNH Công nghiệp hóa
HĐH Hiện đại hóa
HTCT Hệ thống chính trị
CNXH Chủ nghĩa xã hội
QLNN Quản lý nhà nước
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page vii
DANH MỤC BẢNG
STT Tên bảng Trang
4.1 Số lượng CBCC cấp xã của huyện 43
4.2 Phẩm chất đạo đức của đội ngũ CB,CC cấp xã của huyện năm 2013 44
4.3 Chất lượng CBCC cấp xã huyện Thuận Thành 46
4.4 Phẩm chất chính trị của đội ngũ CBCC cấp xã năm 2013 48
4.5 Phẩm chất đạo đức của cán bộ, công chức cấp xã năm 2013 49
4.6 Năng lực của đội ngũ CBCC cấp xã năm 2013 51
4.7 Đánh giá của người dân về khả năng làm việc của đội ngũ CBCC
cấp xã theo độ tuổi người dân năm 2013 52
4.8 Đánh giá của người dân về khả năng làm việc của đội ngũ CBCC
cấp xã theo trình độ người dân năm 2013 53
4.9 Đánh giá khả năng tổ chức, tập hợp, vận động quần chúng của
CBCC cấp xã theo độ tuổi người dân năm 2013 54
4.10 Đánh giá của người dân về khả năng tổ chức, tập hợp, vận động
quần chúng của CBCC cấp xã 54
4.11 Triển khai văn bản chỉ đạo của cơ quan Quản lý Nhà nước 55
4.12 Khả năng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của CBCC cấp xã năm 2013 56
4.13 Số lượng các lớp đã đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ cấp xã 63
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 1
1. MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Gần 80 năm lãnh đạo cách mạng, đặc biệt sau Đại hội đổi mới (Đại hội
VI năm 1986) đến nay; công tác cán bộ, công chức luôn được Đảng và Nhà
nước ta chú trọng và quan tâm. Hội nghị trưng ương 3-khóa VIII, Đảng đã
khẳng định: “Cán bộ là nhân tố quyết định đến sự thành bại của cách mạng,
gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt
trong việc xây dựng Đảng”.
Ở nước ta, cấp xã (xã, phường, thị trấn) là một trong bốn cấp hành
chính. Cấp xã là thấp nhất, gần dân nhất, là cấp trực tiếp tổ chức và vận động
nhân thực hiện đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng, pháp luật của
Nhà nước, tăng cường đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của
nhân dân, huy động mọi khả năng phát triển kinh tế - xã hội, tổ chức cuộc
sống của cộng đồng dân cư. Thực tiễn cho thấy nơi đâu có quan tâm đầy đủ
và làm tốt công tác cán bộ, công chức ở cơ sở, có đội ngũ cơ sở vững mạnh
thì nơi đó tình hình chính trị-xã hội ổn định, kinh tế, văn hóa phát triển, quốc
phòng an ninh được giữ vững. Ngược lại, ở đâu công tác cán bộ không được
quan tâm, đội ngũ cán bộ, công chức không có đủ phẩm chất, năng lực và uy
tín thì sẽ gặp khó khăn, có nhiều nơi còn tạo sơ hở cho kẻ địch lợi dụng, gây
nên điểm nóng về chính trị. Điều đó cho thấy, đội ngũ cán bộ, công chức cấp
xã có vai trò rất quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến việc xây dựng và củng cố
hệ thống chính trị ở cơ sở, tác động trực tiếp đến sự nghiệp cách mạng và đổi
mới của Đảng và Nhà nước ta hiện nay.
Đảng ta quan tâm đối với cán bộ, công chức là sự quan tâm toàn diện,
không chỉ cán bộ, công chức cấp cao, lãnh đạo, quản lý; cán bộ, công chức ở
cấp trung ương, tỉnh, huyện mà cả cán bộ công chức bình thường, đặc biệt là
cán bộ, công chức ở cơ sở, xã, phường, thị trấn; Văn kiện Đại hội IX của
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 2
Đảng đã nhấn mạnh việc nâng cao phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ,
công chức, trong đó xác định: “Đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức với chương trình nội dung sát hợp; chú trọng đội ngũ cán bộ xã,
phường”, Nghị quyết Trung ương 5 - khoá IX khẳng định: “Xây dựng đội ngũ
cán bộ ở cơ sở có năng lực tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối
của Đảng, pháp luật của Nhà nước, công tâm thạo việc, tận tụy với dân, biết
phát huy sức dân, không tham nhũng, không ức hiếp; trẻ hoá đội ngũ, chăm lo
đào tạo, bồi dưỡng, giải quyết hợp lý và đồng bộ chính sách đối với cán bộ cơ
sở”. Tổ chức thực hiện chủ trương trên, công tác xây dựng đội ngũ cán bộ,
công chức cấp xã đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Tuy nhiên, bên cạnh
đó công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã vẫn gặp phải nhiều
khó khăn như: nội dung chương trình đào tạo còn bất cập; quy hoạch còn bị
động, chắp vá; chế độ, chính sách chưa thật sự thoả đáng… Chính điều này
dẫn đến một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức cơ sở phai nhạt lý tưởng,
giảm sút ý chí chiến đấu, suy thoái về đạo đức, lối sống, quan liêu, tham
nhũng, lãng phí… Hơn lúc nào hết, việc xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở vững
mạnh đang là một vấn đề cấp thiết, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo, quản lý.
Thuận Thành là một huyện nằm ở phía Nam tỉnh Bắc Ninh, giáp với
thủ đô Hà Nội, tỉnh Hưng Yên và tỉnh Hải Dương. Ngay từ khi tái lập tỉnh,
tỉnh Bắc Ninh nói chung và huyện Thuận Thành nói riêng có nhiều thuận lợi
và khó khăn, trong đó khó khăn lớn nhất là sự thiếu hụt trầm trọng và sự yếu
kém của đội ngũ CBCC cấp xã nên hiệu quả kinh tế - xã hội của huyện chưa
tương xứng với tiềm năng vốn có của mình.
Trong những năm gần đây, cấp uỷ và chính quyền huyện Thuận Thành
đã quan tâm tới công tác cán bộ, nhưng thực tế năng lực quản lý nhà nước của
đội ngũ CBCC cấp xã đang còn thấp chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển
của huyện nhà, do huyện Thuận Thành còn thiếu hệ thống giải pháp đồng bộ
về nâng cao năng lực quản lý nhà nước của CBCC cấp xã.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 3
Với những lý do trên, tôi chọn đề tài: “Nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ công chức cấp xã ở huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh” làm luận
văn thạc sĩ, nhằm đưa ra một số giải pháp góp phần giải quyết những yêu cầu
nêu trên.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
1.2.1 Mục tiêu chung
Đánh giá thực trạng chất lượng đội ngũ cán bộ công chức cấp xã ở
huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh trong thời gian vừa qua, từ đó đề xuất một
số giải pháp nâng cao chất lượng cán bộ công chức cấp xã ở huyện trong giai
đoạn tới.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về cán bộ công
chức và nâng
cao chất lượng cán bộ cán bộ
công chức
ở cấp xã, thị trấn.
- Đánh giá thực trạng chất lượng đội ngũ cán bộ công chức cấp xã, thị
trấn huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh trong những năm gần đây.
- Đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng cán bộ công chức cấp
xã, thị trấn ở huyện trong thời gian tới.
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu
Chất lượng đội ngũ cán bộ công chức cấp xã, thị trấn của huyện Thuận
Thành, tỉnh Bắc Ninh.
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu
* Nội dung nghiên cứu
- Các vấn đề lý luận và thực tiễn về đội ngũ cán bộ công chức cấp xã
và chất lượng đội ngũ cán bộ công chức cấp xã.
- Thực trạng chất lượng đội ngũ cán bộ công chức cấp xã của huyện
trong những năm gần đây.
- Giải pháp nâng cao chất lượng cán bộ công chức cấp xã, thị trấn ở
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 4
huyện trong thời gian tới.
* Không gian
Đề tài được thực hiện trên phạm vi huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.
* Thời gian
Số liệu thứ cấp thu thập từ năm 2011 đến 2013.
Số liệu sơ cấp thu thập trong năm 2013.
Thời gian thực hiện đề tài từ tháng 2/2014 đến tháng 8/2014.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 5
2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN VỀ CHẤT LƯỢNG CÁN
BỘ CÔNG CHỨC CẤP XÃ
2.1 Cơ sở lý luận về chất lượng cán bộ công chức cấp xã
2.1.1 Khái quát chung về cán bộ công chức cấp xã
2.1.1.1 Khái niệm về chính quyền cấp xã [1]
Theo quy định của Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân
dân, chính quyền cấp xã (xã, phường, thị trấn) là một cấp cuối cùng trong hệ
thống hành chính 4 cấp. Xã, phường, thị trấn được xác định là cấp cơ sở. Vì
vậy, cấp xã chính là nền tảng của hệ thống chính trị, đóng vai trò thiết thực
trong việc xây dựng chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước, là yếu tố quyết định sự thành công của sự nghiệp cách mạng
nước ta. Chính quyền cấp xã bao gồm HĐND và UBND, trong đó HĐND "là
cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương đại diện cho ý chí, nguyện vọng và
quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách
nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên". Còn UBND
do HĐND bầu, là cơ quan chấp hành của HĐND, cơ quan hành chính nhà
nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước HĐND cùng cấp và cơ quan nhà
nước cấp trên.
Xuất phát từ vị trí của chính quyền cấp xã trong hệ thống chính trị nên
nó có vai trò rất quan trọng trong cơ chế thực hiện quyền lực nhà nước của
nhân dân. Có thể khẳng định chính quyền cấp xã là cầu nối quan trọng giữa
Đảng, Nhà nước với nhân dân.
- Chính quyền cấp xã là nơi trực tiếp tổ chức thực hiện đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
- Chính quyền cấp xã là nơi trực tiếp giải quyết các yêu cầu của
nhân dân.
- Chính quyền cấp xã là nơi trực tiếp quyết định các vấn đề kinh tế - xã
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 6
hội ở địa phương.
- Chính quyền cấp xã là nơi trực tiếp nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của
nhân dân địa phương để kịp thời phản ánh với cơ quan nhà nước cấp trên,
giúp Nhà nước đề ra các biện pháp phù hợp với đặc điểm của mỗi địa phương.
- Chính quyền cấp xã là trung tâm của hệ thống chính trị ở cơ sở; là địa
bàn gắn trực tiếp nhất với cuộc sống nhân dân. Sức mạnh của hệ thống chính
trị được chứng minh qua sức mạnh của chính quyền cơ sở. Cơ sở và chính
quyền cơ sở là yếu tố quyết định sự thành bại của sự nghiệp đổi mới của cả
nước nói chung và công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói riêng.
Như vậy, chính quyền cấp xã là trung tâm của hệ thống chính trị cơ sở,
là một trong các cấp chính quyền của nhà nước ta, bao gồm HĐND và UBND
là những cơ quan quyết định và tổ chức thực hiện những chủ trương, biện
pháp liên quan đến phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng và
đời sống của nhân dân ở địa phương theo quy định của Hiến pháp, pháp luật.
2.1.1.2 Đặc điểm của chính quyền cấp xã [10]
Chính quyền cấp xã có những đặc điểm cơ bản như sau:
Thứ nhất, chính quyền cấp xã là cấp thấp nhất trong hệ thống chính
quyền các cấp của Nhà nước ta (Trung ương, tỉnh, huyện, xã); là cấp quản lý
hành chính Nhà nước trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội, an
ninh, quốc phòng ở địa bàn cơ sở.
Thứ hai, chính quyền cấp xã là cấp trực tiếp tổ chức và thực hiện đường
lối chính trị, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước trong cuộc sống, là
cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, là cấp gần gũi dân nhất, là nơi
trực tiếp đáp ứng và giải quyết các yêu cầu chính đáng của nhân dân.
Thứ ba, chính quyền cấp xã gồm HĐND và UBND, mà không có cơ
quan Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân. HĐND là cơ quan quyền lực
Nhà nước và đại diện cho ý chí, nguyện vọng quyền làm chủ của nhân dân ở
cơ sở. UBND là cơ quan chấp hành, cơ quan quản lý hành chính nhà nước
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 7
trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội, an ninh, quốc phòng trên
địa bàn cơ sở.
Thứ tư, chính quyền cấp xã là nơi phát huy tính tự quản của cộng đồng
dân cư, là nơi trực tiếp vận động và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân.
2.1.1.3 Khái niệm cán bộ công chức cấp xã [11]
Nước ta khi bước vào thời kỳ mới vừa đẩy mạnh công nghiệp hóa (CNH),
hiện đại hóa (HĐH), vừa xây dựng và hoàn chỉnh Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa, vừa tiến hành xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Chính vì vậy, ta cần phải xây dựng một đội ngũ CBCC có chất lượng đồng bộ,
phù hợp với những yêu cầu mới đặt ra, đặc biệt là đội ngũ CBCC cấp xã.
Để làm được điều đó trước hết chúng ta cần phải làm rõ khái niệm về
đội ngũ CBCC cấp xã.
Quan niệm về cán bộ
Từ "cán bộ" xuất hiện trong đời sống xã hội nước ta khoảng mấy chục
năm gần đây; được dùng phổ biến trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Từ
đó đến nay từ "cán bộ" được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau: có
nhiều từ điển có khái niệm "cán bộ" nhưng tựu chung lại có thể quan niệm
một cách chung nhất: "Cán bộ là khái niệm chỉ những người có chức vụ, vai
trò và cương vị nòng cốt trong một tổ chức, có tác động, ảnh hưởng đến hoạt
động của tổ chức và các quan hệ trong lãnh đạo, chỉ huy, quản lý, điều hành,
góp phần định hướng sự phát triển của tổ chức"
Theo Luật cán bộ, công chức, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm
2010, tại điểm khoản 3, Điều 4 quy định cán bộ, công chức cấp xã: Cán bộ
cấp xã là công dân Việt Nam được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong
Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng
ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội;
Quan niệm về công chức
Nhiều quốc gia quan niệm công chức là những nhân viên công tác,
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 8
được hưởng lương ngân sách, bị quy định bởi quy chế hoặc luật công chức, là
người làm việc trong hệ thống chính quyền nhà nước.
Công chức là bộ phận rất quan trọng trong nền hành chính quốc gia.
Tuy nhiên, do đặc điểm cấu trúc của hệ thống chính trị nước ta nên quan niệm
về công chức ở Việt Nam cũng có đặc thù.
Trong một số nghị quyết của Đảng cũng như một số văn bản pháp
quy, mặc dù chưa ra định nghĩa rõ ràng nhưng đã có đề cập đến khái niệm
về công chức.
Công dân Việt Nam, trong biên chế do được Nhà nước tuyển dụng,
bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường xuyên, làm việc liên tục trong
các cơ quan nhà nước, trong các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội
hoặc trong lực lượng vũ trang mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan, quân
nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; được xếp vào ngạch bậc và
hưởng lương từ ngân sách nhà nước
Theo Luật cán bộ, công chức, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm
2010, tại điểm khoản 3, Điều 4 quy định cán bộ, công chức cấp xã: Công chức
cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức danh chuyên
môn, nghiệp vụ thuộc UBND cấp xã, trong biên chế và hưởng lương ngân
sách nhà nước.
Qua hơn 20 năm đổi mới, nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn
và quan trọng về kinh tế, xã hội, giữ vững ổn định về chính trị và hiện nay
đang đứng trước yêu cầu đổi mới của sự phát triển của tầm cao hơn trước. Đòi
hỏi phải đổi mới và nâng cao chất lượng của hệ thống chính trị ở cơ sở xã,
phường, thị trấn cũng được đặt ra.
Quan niệm về cán bộ, công chức cấp xã
Căn cứ Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 về nhiệm vụ cụ thể
của HĐND và UBND; Luật Cán bộ, công chức ngày 13 tháng 11 năm 2008;
Nghị định số 92/2009/NĐ- CP ngày 22 tháng 10 năm 2009 của Chính phủ về
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 9
chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở
xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã;
Thông tư liên tịch số 03/2010/TTLT-BNV-BTC-BLĐTB&XH ngày 27 tháng
5 năm 2010 của Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính và Bộ Lao động - Thương binh và
Xã hội hướng dẫn thực hiện Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22 tháng 10
năm 2009 của Chính phủ về chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách
đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và những người hoạt động
không chuyên trách ở cấp xã; Nghị định số 112/2011/NĐ - CP ngày 05 tháng
12 năm 2011 của Chính phủ về công chức xã, phường, thị trấn.
Cán bộ cấp xã là công dân Việt Nam được bầu cử giữ chức vụ theo
nhiệm kỳ trong Thường trực HĐND, UBND, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy,
người đứng đầu tổ chức Chính trị - xã hội.
- Cán bộ cấp xã có các chức vụ sau đây:
+ Bí thư, Phó Bí thư Đảng uỷ;
+ Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân;
+ Chủ tịch, Phú Chủ tịch Uỷ ban nhân dân;
+ Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;
+ Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh;
+ Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam;
+ Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam (áp dụng đối với xã, phường, thị
trấn có hoạt động nông, lâm, ngư, diêm nghiệp và có tổ chức Hội Nông dân
Việt Nam);
+ Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam.
Công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức
danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã, trong biên chế và
hưởng lương ngân sách nhà nước.
- Công chức cấp xã có:
+ Trưởng Công an (nơi chưa bố trí lực lượng công an chính quy);
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 10
+ Chỉ huy trưởng Quân sự;
+ Văn phòng - thống kê;
+ Địa chính - xây dựng - đô thị và môi trường (đối với phường, thị trấn)
hoặc địa chính - nông nghiệp - xây dựng và môi trường (đối với xã);
+ Tài chính - kế toán;
+ Tư pháp - hộ tịch;
+ Văn hóa - xã hội;
Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm như sau: CBCC cấp xã
là công dân Việt Nam, trong biên chế, được hưởng lương từ ngân sách nhà
nước theo quy định của pháp luật, được bầu để giữ chức vụ, hoặc được tuyển
dụng giao giữ chức danh chuyên môn nghiệp vụ thuộc UBND cấp xã.
Để nâng cao hiệu lực hoạt động của chính quyền cấp xã đội ngũ CBCC
cấp xã không những cần phải có nhiệt tình cách mạng, có phẩm chất tốt, đạo đức
tốt mà còn cần phải có tri thức, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, năng lực công
tác để hoàn thành nhiệm vụ.
Số lượng cán bộ chuyên trách, công chức cấp xã
- Số lượng cán bộ chuyên trách, công chức cấp xã quy định tại khoản 1
Điều 4 Nghị định số 92/2009/NĐ- CP ngày 22 tháng 10 năm 2009 của Chính
phủ về chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công
chức ở xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở
cấp xã được quy định như sau:
Đối với cấp xã loại 1: không quá 25 người.
Đối với cấp xã loại 2: không quá 23 người
Đối với cấp xã loại 3: không quá 21 người
2.1.1.4 Vai trò của cán bộ công chức cấp xã, thị trấn [5]
Để xây dựng đất nước Việt Nam độc lập có chủ quyền với mục tiêu
"dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Hồ Chí Minh
cũng đã khẳng định: "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc và công việc thành
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 11
công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém".
Đảng ta luôn coi trọng công tác cán bộ, đặc biệt là thời kỳ đẩy mạnh
CNH - HĐH đất nước, Đảng nhận định: "Cán bộ là nhân tố quyết định sự
thành bại của cách mạng gắn liền với vận mệnh của Đảng, của chế độ, là khâu
then chốt trong công tác xây dựng Đảng".
Như vậy, CBCC là "cầu nối" giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, là
"nhân tố quyết định" đến sự thành bại của cách mạng, "là khâu then chốt
trong công tác xây dựng Đảng". Ngoài những vị trí, vai trò trên CBCC chính
quyền cấp xã còn có vị trí, vai trò thể hiện những phương diện sau đây:
- Một là, cán bộ, công chức cấp xã là người trực tiếp tuyên truyền, phổ
biến các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước
đến nhân dân; làm cho các tầng lớp nhân dân hiểu đúng, hiểu đầy đủ các chủ
trương, chính sách đó:
+ Trong giai đoạn hiện nay, khi chúng ta đang tiến hành xây dựng nhà
nước pháp quyền, mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, tăng cường mối quan hệ
gắn bó giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân; vì vậy, vai trò này của đội ngũ cán bộ,
công chức cấp xã càng có ý nghĩa quan trọng, đảm bảo cho nhân dân biết và nắm
được các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, trên cơ sở đó sẽ tham
gia, đóng góp vào việc thực hiện thắng lợi các chủ trương, chính sách đó.
+ Để làm được điều đó, đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã phải tiến
hành nhiều hình thức, biện pháp khác nhau như thông qua các buổi tuyên
truyền, nói chuyện tại cuộc họp thôn, xóm, khu dân cư, tổ đoàn kết, trung tâm
học tập cộng đồng hoặc thông qua các buổi đối thoại trực tiếp với nhân dân để
giải quyết các vấn đề mới phát sinh như liên quan đến việc bồi thường thiệt
hại, giải phóng mặt bằng, quy hoạch… Đồng thời, nó còn đòi hỏi đội ngũ cán
bộ, công chức cấp xã phải có những hiểu biết nhất định về lý luận và am hiểu
tình hình thực tế của địa phương, cũng như nắm bắt được đặc điểm, tâm lý
của từng lớp dân cư thuộc phạm vi quản lý của mình.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 12
- Hai là, cán bộ, công chức cấp xã là người có vai trò rất quan trọng
trong việc tổ chức và vận động nhân dân thực hiện các chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, huy động mọi
khả năng phát triển kinh tế - xã hội, tổ chức cuộc sống của cộng đồng dân cư:
+ Các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước được nhân dân
nắm bắt, nhận thức mới chỉ là khởi đầu, điểm xuất phát để kiểm nghiệm được
tính đúng đắn của chủ trương, đường lối đó; điều kiện đủ là phải tổ chức thực
hiện trong thực tiễn; muốn làm được điều đó không có ai khác là cán bộ, công
chức cấp xã, bởi cán bộ, công chức cấp xã là người tiếp xúc nhiều nhất, hiểu
rõ nhất, giải quyết nhiều việc nhất của nhân dân.
+ Để thực hiện tốt vị trí, vai trò này; đòi hỏi đội ngũ cán bộ, công chức
cấp xã phải có khả năng tổ chức, bố trí, sử dụng, tập hợp và lôi cuốn mọi
người vào hoạt động; phải có khả năng xử lý các tình huống phát sinh, đó là
các tình huống về tài chính, về thiên tai, địch họa, do va chạm xóm giềng…;
phải có khả năng kiểm tra, đánh giá hoạt động của mình và khả năng tổng kết,
sơ kết việc tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách.
+ Cán bộ, công chức cấp xã có vai trò đảm bảo cho các chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước thực hiện một cách nghiêm túc, thông qua
việc xử lý, đấu tranh ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật kịp thời, hiệu
quả, góp phần ổn định tình hình an ninh - chính trị, trật tự an toàn xã hội tại
từng địa bàn thôn, xóm, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị đề ra.
- Ba là, cán bộ, công chức cấp xã là người nắm bắt kịp thời, phản ánh
đầy đủ các tâm tư, nguyện vọng của nhân dân để Đảng, Nhà nước có cơ sở
khoa học sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các chủ trương, chính sách có tính
khả thi, phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước:
+ Các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước khi ban hành
muốn đảm bảo tính khả thi phải xuất phát từ thực tiễn cuộc sống; muốn vậy,
đòi hỏi đội ngũ cán bộ, công chức nói chung, cán bộ, công chức cấp xã nói
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 13
riêng phải nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, để mọi chủ
trương, chính sách khi ban hành đều vì lợi ích của nhân dân, dựa trên ý kiến
của nhân dân.
+ Thực tiễn cách mạng của đất nước đã khẳng định, chính từ vai trò của
cán bộ, công chức cấp xã trong việc nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của nhân
dân, nên Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách đúng,
được nhân dân đồng tình ủng hộ.
Tóm lại, bất cứ ở đâu và lúc nào, đội ngũ cán bộ, công chức cũng có vị
trí, vai trò hết sức to lớn; với tư cách là một bộ phận quan trọng, chiếm số
lượng tương đối lớn thì đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã có vị trí, vai trò đặc
biệt quan trọng đối với chế độ, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
2.1.2. Chất lượng cán bộ, công chức cấp xã
2.1.2.1. Khái niệm chất lượng cán bộ, công chức cấp xã
Chất lượng là một phạm trù được sử dụng khá phổ biến, là đối tượng
nghiên cứu của nhiều chuyên ngành, nhiều môn khoa học và được xem xét
dưới nhiều góc độ khác nhau, tuỳ thuộc nhu cầu tiếp cận và khai thác. “Chất
lượng” hiểu ở nghĩa chung nhất là “Cái tạo nên phẩm chất, giá trị của một con
người, một sự vật, sự việc” [4]
Khi nói về chất lượng đội ngũ cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng:
Cán bộ phải có cả “Đức” và “Tài”, trong đó “Đức” là gốc. Người chỉ rõ: “Nếu
có đức mà không có tài ví như ông bụt ngồi trong chùa không giúp ích gì
được cho ai”, “người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài
giỏi đến mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” [5]
Phẩm chất và năng lực của người cán bộ luôn gắn bó chặt chẽ với nhau,
tạo điều kiện cho nhau. Phẩm chất của người cán bộ là cơ sở tiền đề cho năng
lực phát triển đúng hướng. Người cán bộ có năng lực thì phẩm chất sẽ được
củng cố và phát huy, phẩm chất và năng lực của người cán bộ được biểu hiện
ra ở kết quả thực hiện chức trách được giao.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 14
Từ các quan điểm trên, bước đầu đưa ra quan niệm về chất lượng đội ngũ
cán bộ là sự tương tác phù hợp giữa số lượng, cơ cấu đội ngũ, cùng với chất
lượng của mỗi cán bộ hợp thành, đảm bảo cho đội ngũ ấy hoàn thành chức năng,
nhiệm vụ của mình.
Mỗi CBCC không tồn tại một cách biệt lập mà phải được đặt trong một
chỉnh thể thống nhất của đội ngũ CBCC. Vì vậy, quan niệm về chất lượng đội
ngũ CBCC phải được đặt trong mối quan hệ biện chứng giữa chất lượng của
từng CBCC với chất lượng của cả đội ngũ. Chất lượng của cả đội ngũ không
phải là sự tập hợp giản đơn số lượng mà là sự tổng hợp sức mạnh của toàn bộ
đội ngũ. Sức mạnh này bắt nguồn từ phẩm chất vốn có bên trong của mỗi
người và nó được tăng lên gấp bội bởi tính thống nhất của tổ chức; của sự
giáo dục, đào tạo, phân công, quản lý, của kỷ luật.
Có thể nói chất lượng đội ngũ CBCC bao gồm:
- Chất lượng của từng CBCC, cụ thể là phẩm chất chính trị, đạo đức;
trình độ năng lực và khả năng hoàn thành nhiệm vụ. Chất lượng của từng
CBCC là yếu tố cơ bản tạo nên chất lượng của cả đội ngũ;
- Chất lượng của cả đội ngũ, với tính cách là một chỉnh thể, thể hiện ở
cơ cấu đội ngũ được tổ chức khoa học, có tỷ lệ cân đối, hợp lý vì số lượng và
độ tuổi bình quân được phân bố trên cơ sở các địa phương, đơn vị và lĩnh vực
hoạt động của đời sống xã hội.
Như vậy, các yếu tố cấu thành chất lượng đội ngũ CBCC không chỉ
bao gồm một mặt, một khía cạnh nào đó, mà nó bao gồm cả một hệ thống,
được kết cấu như một chỉnh thể toàn diện từ chất lượng của từng cán bộ
(đây là yếu tố cơ bản nhất, tiên quyết nhất) cho đến cơ cấu số lượng nam
nữ, độ tuổi, thành phần của đội ngũ cùng với việc bồi dưỡng, giáo dục,
phân công, quản lý kiểm tra giám sát và thực hiện nghiêm các nguyên tắc
tổ chức và hoạt động của bộ máy chính quyền nhân dân.
Để nâng cao chất lượng của đội ngũ CBCC, cần phải giải quyết tốt mối
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 15
quan hệ giữa chất lượng với số lượng CBCC. Chỉ khi nào hai mặt này quan hệ
hài hòa, tác động hữu cơ với nhau thì mới tạo nên sức mạnh đồng bộ của cả
đội ngũ. Trong thực tế chúng ta cần phải chống hai khuynh hướng:
- Khuynh hướng thứ nhất, là chạy theo số lượng, ít chú trọng đến chất
lượng dẫn đến cán bộ nhiều về số lượng nhưng hoạt động không hiệu quả;
- Khuynh hướng thứ hai, cầu toàn về chất lượng nhưng không quan tâm
đến số lượng. Khuynh hướng này là một nguyên nhân quan trọng làm cho
tuổi đời bình quân của đội ngũ CBCC ngày càng cao, hẫng hụt về thế hệ.
Trong giai đoạn hiện nay thì cần hơn hết là phải coi trọng chất lượng
của CBCC trên cơ sở bảo đảm số lượng hợp lý.
Từ những đặc điểm trên có thể khái niệm: “Chất lượng đội ngũ CBCC
cấp xã là một hệ thống những phẩm chất, giá trị được kết cấu như một chỉnh
thể toàn diện được thể hiện qua phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức,
trình độ năng lực, khả năng hoàn thành nhiệm vụ của mỗi CBCC và cơ cấu,
số lượng, độ tuổi, thành phần của cả đội ngũ CBCC cấp xã.”
Để đánh giá đúng thực trạng và xác định các giải pháp nâng cao chất
lượng đội ngũ CBCC cấp xã cần phải xác định rõ những tiêu chí đánh giá chất
lượng đội ngũ cán bộ, cũng như hiểu rõ những yếu tố tác động đến chất lượng
của đội ngũ CBCC cấp xã.
2.1.2.2. Các yếu tố cấu thành chất lượng cán bộ, công chức cấp xã
Xây dựng tiêu chí đánh giá CBCC là công việc hết sức khó khăn, song
lại là vấn đề rất quan trọng. Đây là khâu mở đầu có ý nghĩa quyết định trong
công tác cán bộ, là cơ sở để tiến hành việc bố trí, sử dụng và thực hiện các
chính sách cán bộ. Việc đánh giá CBCC cấp xã phải dựa vào tiêu chuẩn cán
bộ và lấy kết quả hoàn thành nhiệm vụ được giao làm thước đo chủ yếu. Tuy
nhiên, đánh giá cán bộ đang là khâu khó nhất trong công tác cán bộ, vì vậy
phải đổi mới về quan điểm đánh giá cán bộ, có cơ chế đánh giá khoa học,
khách quan, dân chủ, công bằng, thúc đẩy họ vươn lên, phát huy tài năng trí
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 16
tuệ để đội ngũ CBCC hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
Chất lượng của đội ngũ cán bộ công chức được xác định trên cơ sở tiêu
chí về phẩm chất đạo đức, trình độ năng lực phù hợp với vị trí, vai trò, chức năng
nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ nói chung và của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt
cấp xã nói riêng, về khả năng hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Về phẩm chất chính trị: Phẩm chất chính trị là tiêu chuẩn được đặt lên
hàng đầu, có tính chất quyết định đến chất lượng hoạt động của CBCC. Phẩm
chất chính trị là yêu cầu cơ bản của mỗi CBCC trong các giai đoạn khác nhau.
Phẩm chất chính trị của CBCC cấp xã được biểu hiện trước hết là sự tin
tưởng tuyệt đối với lý tưởng cách mạng, chấp hành tốt chủ trương, đường lối
của Đảng, pháp luật của Nhà nước; quyết tâm cụ thể hóa chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước, tổ chức thực hiện sát hợp với tình hình thực tiễn
ở địa phương. Phẩm chất chính trị là lòng nhiệt tình cách mạng, lòng trung
thành tuyệt đối với lý tưởng của Đảng, với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, tinh thần tận tụy với công việc, hết lòng hết sức vì sự nghiệp
của nhân dân. Phẩm chất chính trị là bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định
với mục tiêu độc lập dân tộc và con đường đi lên CNXH.
Người CBCC cấp xã có phẩm chất chính trị tốt là người phải có tinh
thần trách nhiệm cao trong công tác, không thờ ơ, không dửng dưng trước
những vấn đề bức xúc về kinh tế - xã hội, luôn trăn trở trước những yếu kém,
hạn chế của địa phương so với sự phát triển của đất nước; quyết tâm tìm cách
tháo gỡ khó khăn và giải quyết những vấn đề bức xúc của địa phương, đưa địa
phương nơi mình công tác ngày càng phát triển.
Phẩm chất chính trị của CBCC cấp xã còn thể hiện ở ý thức tuân thủ kỷ
luật Đảng, luôn đi đầu trong chấp hành các chính sách, pháp luật của Nhà
nước, kiên quyết chống lại mọi lệch lạc, biểu hiện sai trái trong đời sống xã
hội đi trái ngược với đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 17
Về phẩm chất đạo đức: Người cán bộ muốn xác lập được uy tín của
mình trước nhân dân, trước hết đó phải là người cán bộ có phẩm chất đạo đức
tốt. Xây dựng các tiêu chuẩn đạo đức của người cán bộ và hình thành ở họ các
phẩm chất đạo đức tương ứng với vị trí, vai trò, chức năng nhiệm vụ của đội
ngũ cán bộ là việc làm cần thiết và cấp bách, nhất là trong sự nghiệp CNH,
HĐH đất nước hiện nay. Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường đang có sự
chuyển biến nhanh chóng và xã hội xuất hiện nhiều vấn đề hết sức phức tạp,
trình độ dân trí ngày một nâng cao, và sự đòi hỏi của xã hội đối với đội ngũ
cán bộ cũng ngày càng cao hơn. Thêm vào đó, công tác quản lý xã hội cũng
đòi hỏi người cán bộ phải tạo lập cho mình có được uy tín cao nhất đối với
nhân dân.
Người cán bộ tốt ở đây phải là người có đủ cả năng lực trình độ lẫn
đạo đức cách mạng và muốn có đạo đức cách mạng, mỗi người cán bộ - theo
Chủ tịch Hồ Chí Minh thì phải có được các phẩm chất trí, tín, nhân, dũng,
liêm. Khi nói chuyện với anh, chị em ở Thủ đô, Bác đã nhắc nhở: Chúng ta
phải cố gắng thực hiện cần, kiệm, liêm, chính. Theo Bác:
Trước hết là cần, tức là tăng năng suất trong công tác, bất kỳ là công tác gì.
Kiệm tức là không lãng phí thì giờ, của cải của mình và của nhân dân.
Liêm tức là không tham ô và luôn tôn trọng, giữ gìn của công.
Chính tức là việc phải thì dù nhỏ cũng làm, việc trái thì dù nhỏ cũng tránh.
Về trình độ năng lực: Năng lực là một khái niệm rộng, tùy thuộc vào
môi trường, trách nhiệm, vị thế của mỗi người, mỗi cán bộ trong những điều
kiện cụ thể.
Năng lực của đội ngũ CBCC cấp xã là một trong những điều kiện tiên
quyết bảo đảm cho việc thực hiện nhiệm vụ theo chức trách đạt kết quả tốt.
Đội ngũ CBCC cấp xã là nguồn lực chủ yếu của hệ thống lãnh đạo, quản lý
cấp xã, bảo đảm cho hệ thống có thể vận hành và hoàn thành chức trách,
nhiệm vụ được giao. Do tình hình kinh tế xã hội thường xuyên thay đổi đòi
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 18
hỏi phải liên tục phát triển năng lực của tất cả đội ngũ cán bộ, công chức cấp
xã nói chung và đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã nói riêng. Năng lực
của đội ngũ CBCC cấp xã được tiếp cận trên các khía cạnh:
Thứ nhất, năng lực lãnh đạo, quản lý. Đó là khả năng dự báo, phán
đoán, khả năng xử trí tình huống, khả năng hành động của cán bộ lãnh đạo,
quản lý trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ. Khả năng dự báo,
phán đoán thực chất là tầm nhìn về tương lai của người lãnh đạo, quản lý. Đó
là “ý tưởng” về tương lai mà hệ thống tổ chức đưa ra. Tầm nhìn là một dạng
chiến lược mà hệ thống quản lý cần hướng tới. Nó chỉ ra con đường cần đi;
các giai đoạn cần vượt qua. Tầm nhìn là nơi để huy động sức lực của mỗi cán
bộ, công chức, mỗi tổ chức. Tầm nhìn cho phép mỗi người lãnh đạo, quản lý
biết được các đặc điểm của hệ thống tổ chức theo hình dung của họ; người
lãnh đạo, quản lý cần nguồn nhân lực như thế nào cho tổ chức của mình, cần
ở họ những năng lực gì? Khả năng xử trí tình huống, đó là việc người lãnh
đạo, quản lý tìm hiểu để nắm bắt được những việc đảng diễn ra trong lĩnh vực
công tác, hoạt động của mình, cũng như ngay chính trong hệ thống quản lý
hành chính của mình. Khả năng hành động đó là việc người lãnh đạo, quản lý
lên kế hoạch chiến lược đối với nguồn nhân lực cho phép huy động được
đúng người, đúng việc, đúng lúc. Thách thức này phụ thuộc vào khả năng đọc
và hiểu đúng môi trường cũng như hiểu rõ những năng lực cần thiết để thực
hiện công việc một cách có hiệu quả nhất. Người lãnh đạo, quản lý phải biết
dung hòa nhu cầu của tổ chức với mong đợi của mỗi cán bộ, công chức và
phải nhìn nhận hoạt động lãnh đạo, quản lý như một phần tất yếu và là điều
kiện tiên quyết cho sự phát triển năng lực và quản lý tri thức của hệ thống
quản lý hành chính.
Thứ hai, năng lực thực thi nhiệm vụ của mỗi cán bộ, công chức cấp xã.
Đây là lĩnh vực khó phân tích. Lĩnh vực này liên quan tới cá tính và giá trị,
niềm tin của mỗi CBCC cấp xã và những yếu tố này định hướng cách thức xử
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 19
lý công việc của họ. Lĩnh vực cá nhân của năng lực bao gồm khả năng đưa ra
sáng kiến có giá trị, dám chịu trách nhiệm, sáng tạo, có khả năng phân biệt cái
gì là quan trọng đối với công việc và cái gì thì không quan trọng và có “khát
vọng” đạt được kết quả. Năng lực mỗi CBCC cấp xã được coi là khả năng của
một người để làm được công việc được giao, để xử lý một tình huống (kể cả
tình huống bất ngờ xảy ra) và để thực hiện một nhiệm vụ cụ thể trong một
môi trường xác định. Như vậy tức là phải biết sử dụng tổng hợp các “tài sản”
của một con người (ví dụ như kiến thức, kỹ năng và cá tính) để đạt được các
mục tiêu và mục đích cụ thể. Năng lực gắn với bối cảnh mang tính cá nhân và
năng động. Năng lực của mỗi CBCC cấp xã không phải là tổng số học các
kiến thức, kỹ năng, thái độ mà nó quy tụ đồng thời các nguồn lực, hoạt động
và kết quả cần đạt được. Cán bộ, công chức cấp xã phải biết phối hợp các yếu
tố trên trong mọi điều kiện, hoàn cảnh nhất định để hành động một cách có
năng lực.
Thứ ba, năng lực thực hiện nhiệm vụ của tập thể (năng lực nhóm).
Năng lực không chỉ liên quan đến mỗi CBCC cấp xã mà còn liên quan đến
việc tổng hợp năng lực của CBCC cấp xã để biến chúng thành năng lực tập
thể của tổ chức. Năng lực tập thể giúp kết hợp tất cả các năng lực khác nhau
và sử dụng chúng một cách hiệu quả nhằm đạt được các mục tiêu tổng thể của
cơ quan, tổ chức và góp phần vào việc phát triển tổ chức. Năng lực tập thể
bao gồm các khả năng như biết phân tích và giải quyết vấn đề trong các tình
huống khác nhau; biết giải thích cho người khác và chia sẻ kinh nghiệm học
tập với đồng nghiệp… Thêm vào đó, biết rút kinh nghiệm thực tế, biết điều
chỉnh cho phù hợp với môi trưởng thay đổi và biết hòa nhập những thứ đó với
các điểm mạnh riêng của mình, tức là biết thực hiện nhiệm vụ một cách thực
sự. Mối quan hệ giữa năng lực CBCC cấp xã và năng lực tập thể là mối quan
hệ biện chứng. Năng lực không chỉ tồn tại trong mỗi CBCC cấp xã mà năng
lực của một cơ quan, tổ chức được xây dựng trên cơ sở kết hợp có hiệu quả
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 20
năng lực của tập thể đội ngũ cán bộ, công chức trong cơ quan, tổ chức. Năng
lực chính của tập thể là tạo điều kiện hỗ trợ, phát triển năng lực của mỗi
CBCC cấp xã và sau đó biết cách tổng hợp các năng lực đó một cách có hiệu
quả và hiệu suất sao cho hệ thống quản lý hành chính thực hiện nhiệm vụ để
đạt được các mục tiêu đã đề ra.
Thứ tư, kỹ năng quan hệ, ứng xử trong quá trình hoạt động của cán bộ,
công chức cấp xã. Ngoài các kiến thức về lý luận chính trị, quản lý nhà nước,
chuyên môn, nghiệp vụ và kỹ năng thực nhiệm nhiệm vụ theo chức trách đã
được trang bị, đối với mỗi CBCC cấp xã, năng lực còn bao gồm khả năng
quan hệ giữa cán bộ, công chức với nhau; quan hệ với lãnh đạo cấp trên; quan
hệ với các tổ chức bên ngoài và nhân dân trên cơ sở thái độ và những kỹ năng
giao tiếp cần thiết.
Về khả năng hoàn thành nhiệm vụ được giao: đội ngũ CBCC cấp xã ở
nước ta hiện nay đông nhưng không mạnh. Do những hạn chế về trình độ văn
hóa, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế đã
dẫn tới hạn chế trong năng lực quản lý điều hành công việc, lúng túng trong
việc lập kế hoạch, trong việc xử lý tình huống khi kế hoạch đưa ra không phù
hợp thực tiễn. Xây dựng đội ngũ CBCC cấp xã vừa phù hợp với công cuộc
đổi mới của đất nước, vừa thuận theo ý Đảng, lòng dân, trẻ hóa đội ngũ
CBCC cấp xã là nhu cầu, là đòi hỏi khách quan của sự nghiệp xây dựng đất
nước trong thời kỳ đổi mới, làm cho đội ngũ cán bộ tràn đầy sức sống. Nơi
nào mà các cán bộ cấp trên biết lựa chọn và dìu dắt, có nhiều cán bộ mới, ở
đó công việc sẽ tiến triển tốt hơn. Đội ngũ cán bộ không được tri thức hóa và
chuyên môn hóa thì không thể hoàn thành nhiệm vụ. Cán bộ có tư cách, tác
phong tốt, phải toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân, dám nói thật, dám bảo vệ
cái đúng, đấu tranh chống những tiêu cực, quan liêu, tham nhũng, có mối
quan hệ tốt với các đồng nghiệp và quần chúng nhân dân.
Yêu cầu đặt ra hiện nay là xây dựng đội ngũ CBCC cấp xã đủ phẩm